BÀI LÀM
Pháp luật là phương tiện để quản lí nhà nước, do đó hoạt động ban hành văn
bản pháp luật là thực sự cần thiết và có những yêu cầu cao. Tuy nhiên không
phải lúc nào những văn bản đó cũng hoàn toàn chính xác, đúng đắn, đảm bảo
có một chất lượng tốt. Trái với văn bản pháp luật có chất lượng là văn bản
pháp luật khiếm khuyết.
1. Văn bản pháp luật khiếm khuyết
1.1 Khái niệm: Văn bản pháp luật khiếm khuyết là văn bản không đáp ứng
những yêu cầu về chất lượng mà Nhà nước yêu cầu.
Một văn bản pháp luật có chất lượng thì phải đáp ứng được các yêu cầu
về(nội dung, hình thức, thẩm quyền ban hành, trình tự thủ tục ban hành, ngôn
ngữ) hay nói cách khác là văn bản đó phải đảm bảo tính chính trị, tính hợp
pháp, tính khoa học. Như vậy khái niệm văn bản pháp luật khiếm khuyết rộng
hơn văn bản pháp luật sai trái.
1.2 Dấu hiệu của văn bản pháp luật khiếm khuyết
* Văn bản pháp luật không đáp ứng yêu cầu về chính trị
Biểu hiện:
+ Nội dung của văn bản pháp luật không phù hợp với đường lối, chủ trương
của Đảng.
Như vậy khi soạn thảo một văn bản quản lí về một lĩnh vực nào đó các chủ
thể có thẩm quyền cần nghiên cứu đường lối, chủ trương của Đảng và văn bản
luật có liên quan đến lĩnh vực đó.
+ Nội dung của văn bản pháp luật không phù hợp với lợi ích chính đáng của
người thi hành, như vậy là văn bản đó không khả thi. Ví dụ Thông tư số
2/2002/TT-BCA quy định mỗi người dân chỉ được đăng kí 1 xe máy – hạn
chế quyền sở hữu của người dân.
* Văn bản pháp luật không đáp ứng yêu cầu về pháp lí(văn bản pháp luật bất
hợp pháp hoặc văn bản pháp luật sai trái)
1
Biểu hiện:
+ Văn bản đó được ban hành trái thẩm quyền( thẩm quyền nội dung và thẩm
quyền hình thức). Như lựa chọn hình thức văn bản của chủ thể khác, sử dụn
văn bản hành chính thay thế văn bản quy phạm pháp luật...Ví dụ công văn
5997/BGDĐT-KHTC sai cả về thẩm quyền nội dung và hình thức.
+ Nội dung của văn bản pháp luật bất hợp pháp
- Phần cơ sở ban hành của văn bản pháp luật không viện dẫn(trừ một số văn
bản không cần viện dẫn) hoặc viễn dẫn sai những văn bản làm cơ sở pháp lí
của văn bản đó. Ví dụ Nghị định 49/2010/NĐ-CP quy định về miễn, giảm học
phí, hỗ trợ chi phí học tập và cơ chế thu, sử dụng học phí đối với cơ sở giáo
dục thuộc hệ thống giáo dục quốc dân từ năm học 2010 - 2011 đến năm học
2014 – 2015 là căn cứ để ban hành của công văn 5997/BGDĐT-KHTC thì
không đề cập đến trong công văn này.
- Nội dung văn bản quy phạm pháp luật cấp dưới trái với nội dung văn bản
quy phạm pháp luật của cấp trên.
- Nội dung văn bản áp dụng pháp luật và văn bản hành chính trái với nội dung
của văn bản quy phạm pháp luật là đối tượng mà chủ thể có thẩm quyền áp
dụng và triển khai thực hiện.
- Văn bản pháp luật trong nước trái với điều ước quốc tế mà Việt Nam là
thành viên.
- Văn bản pháp luật ban hành sai về thể thức; về trình tự, thủ tục ban hành và
quản lí văn bản.
* Văn bản pháp luật không đáp ứng yêu cầu về khoa học
+ Nội dung của văn bản pháp luật không phù hợp với thực tiễn
+ Nội dung của văn bản pháp luật không phù hợp các quy phạm xã hội
khác( đạo dức, truyền thống, tập quán, tôn giáo...)
+ Văn bản pháp luật không đảm bảo về kĩ thuật pháp lí( sử dụng ngôn ngữ
không đúng quy tắc; phân chia, sắp xếp văn bản không đảm bảo tính logic
chặt chẽ...)
2
2. Thực trạng ban hành văn bản pháp luật khiếm khuyết
2.1 Số lượng
Theo kết quả kiểm tra của Bộ Tư Pháp trong năm 2007 đã hiện tới 2985 văn
bản do các bộ, ngành, địa phương ban hành có sai sót, 320 văn bản có dấu
hiệu trái pháp luật cả về nội dung và hình thức.(http://www tin247.com)
.
Theo thống kê của Bộ Tư pháp tại Hội nghị tổng kết công tác năm 2008,
trong năm 2008 toàn ngành Tư pháp đã kiểm tra được 38.083 văn bản, trong
đó phát hiện 8.752 văn bản có sai sót; đã kiến nghị xử lý 4.565 văn bản. Riêng
Cục Kiểm tra văn bản QPPL – Bộ Tư pháp đã tiến hành kiểm tra 1.968 văn
bản theo thẩm quyền (gồm 865 văn bản của cấp Bộ và 1.283 văn bản của địa
phương), bước đầu phát hiện 490 văn bản có sai sót về nội dung và hình
thức(http://www tin247.com)
Năm 2010, toàn Ngành đã tiến hành kiểm tra và phát hiện số văn bản có dấu
hiệu vi phạm pháp luật là 6.888/90.826 văn bản đã kiểm tra (7,6%), tỷ lệ cao
nhất trong giai đoạn 2007 – 2010. Riêng Cục Kiểm tra VBQPPL đã phát hiện
410 VB có dấu hiệu trái pháp luật, chiếm 19,24% số VB đã được kiểm tra.(
http://www Vnpress.vn)
Như vậy so với các năm trước, số lượng văn bản tiếp nhận để kiểm tra qua
các năm là tương đối đồng đều, nhưng tỷ lệ văn bản phát hiện sai qua các năm
(năm 2007: 21%, năm 2008: 25%, năm 2009: 34%) tương đối cao, thì tỷ lệ
này là một “tín hiệu vui” cho thấy, công tác xây dựng và ban hành văn bản
của các Bộ, ngành, địa phương đã ngày càng có hiệu quả, chất lượng hơn. Đó
cũng thể hiện kết quả tích cực trong việc triển khai nhiệm vụ kiểm tra theo
thẩm quyền của Cục Kiểm tra VBQPPL.
2.2 Chủ thể ban hành và nơi có văn bản
Chính phủ cũng có những văn bản pháp luật khiếm khuyết tiêu biểu như:
Nghị định 07/2007/NĐ-CP quy định chi tiết và hướng dẫn thi hành một số
điều của Luật trợ giúp pháp lý, theo báo cáo kết quả giám sát của UBPL cho
3
thấy có tới 9 vấn đề trái hoặc không phù hợp với Luật trợ giúp pháp lý. Và
nghị định 50/2005/NĐ-CP về cơ quan quản lí thi hành án dân sự có những
quy định trái với pháp lệnh thi hành án dân sự. Nghị định 34/2010 về xử phạt
vi phạm hành chính trong lĩnh vực giao thông đường bộ cũng có những quy
định chưa phù hợp, ví dụ về lỗi vi phạm xe mô-tô, xe gắn máy từ tỉnh nọ mua
bán, chuyển vùng về tỉnh kia; từ người này bán cho người kia mà không làm
thủ tục chuyển vùng, sang tên đổi chủ ở Điều 33 chỉ quy định phạt tiền từ
100.000 – 200.000 đồng là chưa thỏa đáng, làm khó cho CSGT khi xử lý
TNGT...
Việc ban hành văn bản khiếm khuyết diễn ra ở nhiều bộ, cơ quan ngang bộ và
địa phương( và phổ biến trong lĩnh vực xây dựng; phí, lệ phí......)
Bộ Nông Nghiệp và Phát triển nông thôn trong 5 năm (2003-2008) có tới 200
văn bản trái luật trong tổng số 800 văn bản được kiểm tra, ví dụ quyết định số
99/2008 của Bộ NN&PTNT ban hành qui định quản lý sản xuất, kinh doanh
rau, quả và chè an toàn...
Bộ xây dựng: Ví dụ. Công văn số 03/BXD-PTĐT ngày 26/3/2010 và Thông
tư số 04/2010/TT-BXD ngày 18/8/2006 của Bộ Xây dựng hướng dẫn thực
hiện Quy chế khu đô thị mới....
Bộ Tài chính: Quyết định số 98/2007/QĐ-BTC (ngày 3/12/2007), Quyết định
số 15/2008/QĐ-BTC (ngày 27/3/2008).....
Bộ lao động thương binh-xã hội: Thông tư số 19/2008 của Bộ LĐTB&XH về
bảo hiểm xã hội bắt buộc.....
Văn bản liên tịch: Thông tư liên tịch số 09/2009 của Bộ y tế-Bộ tài chính về
hướng dẫn thực hiện bảo hiểm y tế......
Ngân hàng nhà nước: Thông tư số 12/2010/TT-NHNN của Ngân hàng Nhà
nước quy định về cho vay bằng đồng Việt Nam theo lãi suất thỏa thuận của tổ
chức tín dụng đối với khách hàng...
Hà Nội: Ví dụ Quyết định 58/2009/QĐ-UBND về hạn mức giao đất ở mới,
hạn mức công nhận đất ở đối với thửa đất có vườn, ao trong khu dân cư, kích
4
thước diện tích, diện tích đất ở tối thiểu được tách thửa cho hộ gia đình, cá
nhân trên địa bàn TP Hà Nội chưa phù hợp với quy định của pháp luật hiện
hành.
Hưng Yên: Quyết định số 02/2007/QĐ-UBND (ngày 12/2/2007) của UBND
tỉnh Hưng Yên…
Đà Nẵng: quyết định số 79/2003/QĐ-UB của UBND TP về việc xử phạt vi
phạm hành chính của Lực lượng thanh niên xung kích trên địa bàn; quyết
định số 155/2002/QĐ-UB của UBND TP ban hành qui định về xử phạt vi
phạm hành chính và cưỡng chế hành chính đối với hành vi không chấp hành
quyết định thu hồi đất trên địa bàn; quyết định số 1026/QĐ-UB của UBND
TP về xử phạt hành vi điều khiển xe gắn máy, môtô, ôtô chạy quá tốc độ quy
định trên địa bàn; quyết định số 88/2005/QĐ-UBND của UBND TP ban hành
quy định một số biện pháp xử lý đối với người đánh giày, bán sách, báo dạo
và bán hàng rong không đúng quy định trên địa bàn...
Nghệ An: Quyết định số 641/2008/QĐ-UBND.. (ngày 5/3/2008) của UBND
tỉnh Nghệ An
Thành phố Hồ Chí Minh: ví dụ Quyết định số 54/2007/QĐ-UBND ngày
30-3-2007 của UBND TPHCM. Đối chiếu quy định tại điều 50, Luật Đất đai
năm 2003, điều 43 Nghị định 90/2006 và Nghị định 88/2009 về cấp giấy
chứng nhận quyền sử dụng đất, quyền sử dụng nhà ở và tài sản khác gắn liền
với đất, Cục Kiểm tra văn bản quy phạm pháp luật thấy rằng quyết định trên
không phù hợp với quy định của pháp luật.
Chỉ tính từ đầu năm 2009 đến ngày 22/9/2010, có tới 7 bộ và 13 tỉnh, thành
phố chưa có phản hồi tích cực, cụ thể trước thông báo về 23 văn bản có dấu
hiệu trái pháp luật (trong đó 9 văn bản của các Bộ Nông nghiệp và Phát triển
nông thôn, Công thương, Giáo dục và Đào tạo, Xây dựng, Lao động, Thương
binh và Xã hội; Tài chính; Y tế và 14 văn bản của UBND tỉnh Nghệ An,
Hưng Yên, Hải Dương, Hà Giang, Kon Tum, Quảng Nam, Đăk Nông, Bình
5