Chính sách tiền tệ của ngân hàng nhà nước Việt Nam
Một số kiến nghị và môt số biện pháp
Nền kinh tế Việt Nam đang có dấu hiệu dần ổn định và tăng trưởng trở
lại. Tuy nhiên, vẫn còn tiềm ẩn nhiều nguy cơ. Tốc độ tăng trưởng GDP còn
thấp; tình trạng nhập siêu và thâm hụt cán cân thanh toán chậm được cải thiện;
mức thâm hụt ngân sách cao; lạm phát có nguy cơ tăng do giá cả một số mặt
hàng nhất là nguyên nhiên liệu đầu vào đang tăng và sẽ tiếp tục tăng khi kinh tế
hồi phục.
Về lĩnh vực tài chính tiền tệ, cuộc đua lãi suất của các NHTM đang có xu hướng
nóng dần lên, một số NHTM bắt đầu gặp khó khăn về thanh khoản; Tăng trưởng
tín dụng có dấu hiệu “nóng”; Tình trang khan hiếm ngoại tệ chưa được giải
quyết triệt để, tỷ giá ngoại tệ còn diễn biến phức tạp. Như vậy, có thể thấy nền
kinh tế Việt Nam đã tạm qua giai đoạn suy giảm và đang bắt đầu hồi phục với
không ít khó khăn và nhiều nguy cơ đòi hỏi phải những nhà hoạch định chính
sách tiền tệ phải đối mặt để ngăn chặn.
Điều tiết mức cung tiền là nội dung cơ bản và cũng là quan trọng nhất của chính
sách tiền tệ. Thông qua các công cự khác nhau như lãi suất, tỷ giá, dự trữ bắt
buộc, nghiệp vụ thị trường mở, … NHNN tác động điều tiết mức cung tiền
nhằm ổn định tiền tệ, tác động vào nên kinh tế hướng đến các mục tiêu kinh tế vĩ
mô. Vai trò to lớn và ngày càng rõ rệt của các công cụ thực thi chính sách tiền tệ
là thực tế hoàn toàn không thể phủ nhận. Từ giác độ NHTM, xin nêu ra một số
đề xuất.
Thứ nhất, ngoại trừ điều kiện bất khả kháng, nên tiếp tục duy trì lãi suất cơ bản
như thời gian qua.
Trong thời gian qua, lãi suất cơ bản đã thực sự trở thành công cụ quan trọng
trong điều hành chính sách tiền tệ, chỉ báo nhạy bén của thị trường tiền tệ. Mỗi
thay đổi của công cụ này đã gần như ngay lập tức có tác động điều tiết rõ rệt đối
với thị trường.
Tính đến thời điểm hiện nay đã là hơn 6 tháng NHNN giữ lãi suất cơ bản ở mức
7%. Điều này một mặt cho thấy sự ổn định của thị trường tiện tệ. Mặt khác, mức
Giáo viên hướng dẫn : Trịnh Thị Trinh Trang 1 / 8
Sinh viên thực hiện : Hà Thị Bích Ngọc Lớp : 34k7.2
11
Chính sách tiền tệ của ngân hàng nhà nước Việt Nam
lãi suất thấp có tác dụng tích cực trong kích thích đầu tư, giảm khó khăn cho các
doanh nghiệp, thúc đẩy tăng trưởng kinh tế vĩ mô – yếu tố rất cần thiết trong giai
đoạn “hậu suy thoái”. Vì vậy, lãi suất cơ bản nên tiếp tục giữ ổn định ở mức như
hiện nay.
Thứ hai, nên xem xét thu hẹp phạm vi hỗ trợ lãi suất, tiến tời dừng thực hiện hỗ
trợ lãi suất.
Gần đây NHNN đang có hướng hạn chế dần mức cung tiền với các biện pháp:
khống chế tăng trưởng dư nợ tín dụng của các NHTM Nhà nước, giảm lãi suất
DTBB (xuống còn 1,2% từ 17/07/09), giảm tỷ lệ cho vay trung dài hạn trên tổng
nguồn vốn ngắn hạn từ 40% xuống còn 30% (Thông tư 15/2009/TT-NHNN
ngày 10/08/2009).
Trước hết phải nói rằng, hạn chế mức cung tiền trong thời điểm hiện nay là một
động thái đúng đắn khi tín dụng có xu hướng tăng nóng và cần thiết để ngăn
chặn nguy cơ lạm phát. Áp lực tăng giá trong năm 2009 có thể còn thấp nhưng
chắc chắn sang năm 2010 sẽ lớn hơn do các nền kinh tế bắt đầu phục hồi, nhu
cầu đầu vào lớn đẩy giá cả của nguyên nhiên liệu tăng cao.
NHNN nên xem xét đề xuất với Chính Phủ giảm dần, tiến tới ngừng hỗ trợ lãi
suất. Tiếp tục duy trì hỗ trợ lãi suất một mặt sẽ tạo sức ép gia tăng lạm phát, mặt
khác có thể dẫn đến việc sử dụng vốn thiếu hiệu quả gây tác động không tốt cho
nền kinh tế và hệ lụy xấu cho các NHTM. Dừng hỗ trợ lãi suất cũng sẽ trực tiếp
giảm áp lực bội chi ngân sách, giảm áp lực lạm phát.
Tính đến hết tháng 7 năm 2009, tổng dư nợ tín dụng của toàn hệ thống đã tăng
22,76% so với cuối năm 2008. Thời gian qua, dư nợ tín dụng tăng mạnh không
thể nói là không có lý do từ hiệu ứng của chính sách “hỗ trợ lãi suất”. Từ nay
đến hết năm, nếu dừng hỗ trợ lãi suất, dư nợ tín dụng vẫn có thể tăng 28-30%.
Trong cơn bão khủng hoảng tài chính thời gian qua, các NHTM Việt Nam vẫn
trụ vững nhờ đảm bảo tính an toàn trong hoạt động. An toàn hoạt động của các
NHTM là nhân tố hết sức quan trọng đảm bảo tính an toàn của hệ thống, đảm
bảo an toàn tiền tệ và ổn định kinh tế vĩ mô. Vì vậy, thời gian tới các NHTM cần
Giáo viên hướng dẫn : Trịnh Thị Trinh Trang 2 / 8
Sinh viên thực hiện : Hà Thị Bích Ngọc Lớp : 34k7.2
22
Chính sách tiền tệ của ngân hàng nhà nước Việt Nam
đặc biệt chú trọng để duy trì an toàn hoạt động mà một trong các biện pháp là
phải đảm bảo sự cân đối cần thiết theo kỳ hạn còn lại của các khoản mục tài sản
và công nợ, đảm bảo tỷ lệ sử dụng vốn huy động ngắn hạn cho vay trung dài hạn
theo quy định của NHNN.
Thứ ba, các NHTM cần phối hợp chặt chẽ và tăng cường đồng thuận.
Mỗi NHTM có một mục tiêu, chiến lược hoạt động riêng. Các NHTM là đối thủ
cạnh tranh của nhau nhưng cũng đồng thời là đồng minh của nhau trong những
“trận tuyến chung”: chống lạm phát, chống suy giảm kinh tế, … Và sự tương hỗ,
phối hợp hành động giữa các NHTM với nhau trong những giai đoạn khó khăn
chung là hết sức cần thiết và quan trọng. Vai trò của Hiệp Hội Ngân hàng trong
việc tăng cường sự phối hợp và đồng thuận của các NHTM cần được đẩy mạnh
hơn nữa.
Việc đồng thuận trong huy động vốn đặc biệt là ngoại tệ sẽ tạo thuận lợi cho cả
nền kinh tế và phù hợp với mặt bằng thế giới. Đồng thuận trong áp dụng tỷ giá
mua bán ngoại tệ sẽ làm giảm áp lực căng thẳng về ngoại tệ.
Thứ tư, nên tăng cường cơ chế thông tin đại chúng về các vấn đề liên quan đến
chính sách tiền tệ.
Thực tế cho thấy, những biến động của thị trường tiền tệ, đặc biệt là diễn biến tỷ
giá ngoại tệ chịu sự tác động khá lớn của yếu tố tâm lý. Vì vậy, thời gian tới
NHNN cần tăng cường hơn nữa công tác thông tin đại chúng, định hướng dư
luận, … Nên xem xét chủ động và định kỳ công bố thông tin về dự trữ ngoại hối
như các quốc gia khác vẫn làm.
Thứ năm, cần tăng cường kiểm tra giám sát và xử lý nghiêm các sai phạm trong
việc thực hiện các quy định liên quan đến chính sách tiền tệ: vi phạm về biên độ
tỷ giá, về trần lãi suất, trong cho vay hỗ trợ lãi suất, vi phạm của các đại lý thu
đổi ngoại tệ, …
Thời gian qua công tác này đã được NHNN hết sức chú trọng. Tuy nhiên để đảm
bảo tính nghiêm minh của pháp luật, tạo ra sự cạnh tranh bình đẳng giữa các
NHTM và đặc biệt là để các công cụ của chính sách tiền tệ thực sự phát huy tác
Giáo viên hướng dẫn : Trịnh Thị Trinh Trang 3 / 8
Sinh viên thực hiện : Hà Thị Bích Ngọc Lớp : 34k7.2
33
Chính sách tiền tệ của ngân hàng nhà nước Việt Nam
dụng tích cực, cần phải xiết chặt hơn các chế tài đi đôi với tăng cường công tác
kiểm tra của các cơ quan chức năng cũng như phát huy cơ chế giám sát chéo, cơ
chế giám sát của cộng đồng, công luận, …
Nền kinh tế thế giới đang vượt qua suy thoái và dần hồi phục. Kinh tế Việt Nam
cũng đang bước vào thời kỳ “hậu suy giảm”. Với những công cụ hữu hiệu và sự
điều hành linh hoạt của NHNN, chắc chắn chính sách tiền tệ sẽ là động lực tạo
đà thúc đẩy nền kinh tế Việt Nam nhanh chóng phục hồi và tiếp tục phát triển
bền vững.
Nhóm giải pháp về việc hoàn thiện các công cụ của chính sách tiền tệ .
Để nâng cao hiệu quả của qúa trình thực thi CSTT đòi hỏi phải nhanh
nhanh chóng hoàn thiện và tiếp tục phát triển hệ thống các công cụ bám sát thực
tiễn VN -phục vụ đắc lực cho quá trình đổi mới CSTT.Hệ thống các công cụ
phải được xây dựng và hoàn thiện theo hướng hỗ trợ ,phối hợp thúc đẩy lẫn
nhau tránh tình trạng triệt tiêu hiệu quả của nhau .Cụ thể:
*Đối với công cụ hạn mức tín dụng:
NHTN tuy không coi đây là một công cụ thường xuyên nhưng cũng cần
phải theo dõi tổng số dư nợ của các NHTM ở các giai đoạn cụ thể và NHNN sẽ
can thiệp vào hoạt động này trong điều kiện cụ thể.
*Đối với công cụ lãi suất :
Việc điều chỉnh lãi suât cần linh hoạt gắn với thị trường trên nguyên tắc
đảm bảo lợi ích của cả người gửi tiền,tổ chức tín dụng và người vay tiền, tạo
điều kiện tập trung tối đa các nguồn vốn để tài trợ cho phát triển kinh tế .
Do vậy để điều chỉnh lãi suất tiền gửi và lãi suất tiền vay một cách phù hợp
các tổ chức tín dụng phải căn cứ vào các nhân tố:Lợi nhuận bình quân của các
doanh nghiệp;sự biến động của quan hệ cung cầu;vốn đầu tư; mức độ lạm phát
và diễn biến lãi suất trên thị trường .
NHNN cần tiếp tục duy trì việc điều chỉnh mức lãi suất tiền gửi và tiền vay
dài hạn cao hơn lãi suất tiền gửi và tiền vay ngắn hạn nhằm huy động vốn dài
Giáo viên hướng dẫn : Trịnh Thị Trinh Trang 4 / 8
Sinh viên thực hiện : Hà Thị Bích Ngọc Lớp : 34k7.2
44
Chính sách tiền tệ của ngân hàng nhà nước Việt Nam
hạn đầu tư cho nền kinh tế .Việc xác định lãi suất cho vay dài hạn có tính đến xu
hướng tăng hay giảm lãi suất ngắn hạn trong từng thời kỳ .
Việc duy trì các mức lãI suất ưu đãi cho các đối tượng dân cư gặp điều khó
khăn là phù hợp ; tuy vậy chính phủ cần tìm các nguồn ngân sách và các kênh
tài trợ hoạt động này đặt ngoài hoạt động kinh doanh của các NHTM quốc
doanh.
Duy trì mức chênh lệch giữa lãi suất nội tệ và lãi suất ngoạt tệ một cách
hợp lý ,từng bước giảm dần và đi đến chấm dứt hiện tượng “đô la hoá” trên đất
Việt Nam .
Trước mắt, trong những tháng đầu năm 2001 nền kinh tế đang có những
biểu hiện thiếu vốn, trong khi đó việc huy động và cung ứng vốn của các TCTD
đang gặp phải một số khó khăn; có ý kiến cho rằng việc NHNN điều chỉnh lãi
suất cơ bản với biên độ như hiện nay là còn rộng, từ đó làm nảy sinh những hiện
tượng thiếu tích cực trong cạnh tranh giữa các NHTM. Do vậy, NHNN có thể
nên điều chỉnh giảm biên độ dao động của mức lãi suất cơ bản. Về phía Nhà
nước nên có chính sách tài chính phù hợp với các tổ chức tín dụng, các NHTM ở
Việt Nam đang phải chịu một tỷ lệ thuế vốn khá cao, do vậy thuế đánh vào các
tổ chức tín dụng cần được điều chỉnh lại cho phù hợp theo hướng giảm tỷ lệ thuế
hoặc tính thuế trên lợi nhuận trước thuế
Hiện nay chúng ta chưa thể tiến hành tự do hoá lãi suất tuy vậy cần phải
hướng theo mục tiêu đó và thực hiện từng bước bởi một lẽ đó là xu hướng tất
yếu và khi đó vai trò quản lý vĩ mô của Nhà nước bằng công cụ lãi suất vẫn
được thể hiện qua sự định hướng theo tín hiệu thị trường .
* Đối với công cụ dự trữ bắt buộc :
-Vì dự trữ bắt buộc có ảnh hưởng trực tiếp tới khả năng huy động và cung
ứng tín dụng cho nền kinh tế của các tổ chức tín dụng ,do vậy trong cơ chế thị
trường thì NHNN cần phải có cơ chế quản lý dự trữ bắt buộc thích hợp để tạo ra
một môi trường cạnh tranh lành mạnh,bình đẳng giữa các tổ chức tín dụng: nên
mở rộng đối tượng áp dụng qui chế dự trữ bắt buộc,tỷ lệ dự trữ bắt buộc đưa ra
Giáo viên hướng dẫn : Trịnh Thị Trinh Trang 5 / 8
Sinh viên thực hiện : Hà Thị Bích Ngọc Lớp : 34k7.2
55