Tải bản đầy đủ (.docx) (18 trang)

Bài tiểu luận Tác động của dịch covid19 đến các nền kinh tế thế giới và giải pháp phục hồi

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (156.89 KB, 18 trang )

Mục Lục

A. MỞ ĐẦU
1. Lý do chọn đề tài:
Đại dịch Covid-19 là một đại dịch toàn cầu xuất hiện từ tháng 12 năm 2019 và
đến này đã qua gần 6 tháng dịch bệnh vẫn diễn biến phức tạp. Mới đầu chỉ ở các nước
Châu Á, nhưng nay Châu Âu đã trở thành tâm dịch toàn cầu. Theo thống kê chính thức
hiện nay, trên thế giới có 4.840.754 ca mắc, có 1.874.917 ca khỏi bệnh và có tận
317.363 ca tử vong. Dịch bệnh đã ảnh hưởng rất lớn đến tính mạng con người cũng
như nền kinh tế thế giới. Hiện tại, Mỹ đang là nước có số ca nhiễm cao nhất trên thế
giới và kinh tế mỹ cũng bị ảnh hưởng nghiêm trọng: ”hơn 33 triệu người thất nghiệp,
GDP trong quý I của mỹ giảm 4,8%, thị trường chứng khoán Mỹ chìm trong sắc đỏ và
có nhiều ngày phải đóng cửa, nhiều doanh nghiệp, người dân đổ xô đi tích trữ vật
phẩm”. Trung Quốc-nước có nền kinh tế lớn thứ hai trên thế giới cũng bị suy giảm
6,8%. Nhiều quốc gia Châu Á đã dự đoán tăng trưởng kinh tế năm 2020 là 0%. Việt
Nam ta tuy không bị bùng phát dịch bệnh trên quy mô rộng nhưng nền kinh tế cũng bị
ảnh hưởng do giãn cách xã hôi, GDP chỉ tăng 3% (giảm 50% so với cùng kỳ năm
ngoái), nhiều doanh nghiệp bị phá sản, các starup cũng bị điêu đứng, nhiều người dân
bị mất việc làm. Vì thế nghiên cứu đề tài này là một hành động cấp thiết giúp chúng ta
có thể có góc nhìn tổng quan về kinh tế thế giới trong mùa dịch này nhằm kịp thời
phán đoán các tác động của nó có ảnh hưởng như thế nào
Ý nghĩa lý luận: Giúp dự đoán được tình hình kinh tế thế giới trong thời kỳ dịch
bệnh nhằm đưa ra được trước các khả năng có thể xảy ra
Ý nghĩa thực tế: giúp hồi phục nền kinh tế trong và sau đại dịch

2. Mục đích nghiên cứu:
Nghiên cứu đề tài trên để tìm hiểu các tác động của đại dịch đến các nền kinh tế
thế giới. Dịch Covid-19 ảnh hưởng đến nhiều mặt của các nền kinh tế từ ảnh hưởng
trực tiếp đên ảnh hưởng gián tiếp vì thế cần phải phân tích rõ hơn ảnh hướng như thế
nào và ảnh hưởng mức độ nào đến các nghành, sau khi phân tích ta có được cái nhìn
tổng quát nhất để có thể đưa ra các giải pháp để phục hồi lại thị trường trong và sau


khi dịch bệnh qua đi.
1


3. Nhiệm vụ nghiên cứu:
Tìm hiểu sự tác động của đại dịch Covid-19 đến các nền kinh tế thế giới
Làm rõ cơ sở lý luận.
Nghiên cứu thực tiễn: nghiên cứu rõ hơn về nhiều chiều trong một nền kinh tế
như xã hội, chính trị, nguồn lao động đã bị ảnh hướng như thế nào? Ngoài ra nhìn các
nghành được ảnh hưởng tích cực từ dịch bênh
Kết luận, khuyến nghị, đưa ra các giải pháp phục hồi nền kinh tế sau khi đại
dịch đi qua

4. Đối tượng nghiên cứu:
Đối tượng nghiên cứu của đề tài là các nền kinh tế thế giới trong đại dịch
Covid-19

5. Phạm vi nghiên cứu:
Bài tiểu luân sẽ nghiên cứu tập chung vào các nước lớn bị ảnh hưởng nặng vì
dịch Covid vì khi các nước phát triển bị khủng hoảng sẽ ảnh hướng đến kinh tế toàn
thế giới

6. Ý nghĩa việc nghiên cứu:
Nghiên cứu đề tài trên để có thể phân tích tình hình kinh tế thế giới ở hiện tại và
tương lai nhằm mục đích có giải pháp hồi phục nền kinh tế

7. Phương pháp nghiên cứu:
Để phân tích, nghiên cứu về vấn đề “tác động của đại dịch đến các nền kinh tế
thế giới ”, em đã sử dụng một số phương pháp như: phân tích, nghiên cứu tài liệu,
quan sát


2


B. NỘI DUNG
1. Cơ sở lý luận
1.1.

Tác động là gì:

Tác động là một hiện tượng, sự vật, sự việc làm cho một đối tượng nào đó có
những biến đổi nhất định
1.2.

Đại dịch Covid-19 là gì

Theo trang web Wikipedia “Đại dịch COVID-19là một đại dịch bệnh truyền
nhiễm với tác nhân là virus SARS-CoV-2, đã xuất hiện và gây ảnh hưởng trên phạm vi
toàn cầu[8] từ tháng 12 năm 2019. Tâm dịch đầu tiên được ghi nhận là thành phố Vũ
Hán thuộc miền Trung Trung Quốc, bắt nguồn từ một nhóm người mắc viêm phổi
không rõ nguyên nhân. Giới chức y tế địa phương xác nhận rằng trước đó nhóm người
này đã từng tiếp xúc, chủ yếu là với những thương nhân buôn bán và làm việc tại chợ
bán buôn hải sản Hoa Nam, nơi được cho là địa điểm bùng phát dịch bệnh đầu tiên.
Các nhà khoa học Trung Quốc đã tiến hành nghiên cứu và phân lập được một chủng
loại coronavirus mới, được Tổ chức Y tế Thế giới lúc đó tạm thời gọi là 2019-nCoV,
có trình tự gen giống với SARS-CoV trước đây với mức tương đồng 79,5%.

Các ca nghi nhiễm đầu tiên ở Vũ Hán được báo cáo vào ngày 31 tháng 12 năm
2019. Trường hợp tử vong do SARS-CoV-2 đầu tiên xảy ra ở Vũ Hán vào ngày 9
tháng 1 năm 2020. Các ca nhiễm virus đầu tiên được xác nhận bên ngoài Trung Quốc

bao gồm hai người phụ nữ ở Thái Lan và một người đàn ông ở Nhật Bản. Sự lây
nhiễm virus từ người sang người đã được xác nhận cùng với tỷ lệ bùng phát dịch tăng
nhanh vào giữa tháng 1 năm 2020. Ngày 23 tháng 1 năm 2020, chính phủ Trung Quốc
quyết định phong tỏa Vũ Hán, toàn bộ hệ thống giao thông công cộng và hoạt động
xuất - nhập đều bị tạm ngưng. Vào đêm ngày 11 tháng 3 năm 2020 theo giờ Việt Nam,
Tổ chức Y tế Thế giới (WHO) đã ra tuyên bố chính thức, gọi "COVID-19" là "Đại
dịch toàn cầu".

Chính phủ các quốc gia trên thế giới đã tiến hành phản ứng đáp trả nhằm bảo vệ
sức khỏe người dân cũng như các nhóm cộng đồng trên toàn cầu, bao gồm: hạn chế đi
lại, phong tỏa kiểm dịch, ban bố tình trạng khẩn cấp, sử dụng lệnh giới nghiêm, tiến
3


hành cách ly xã hội, hủy bỏ các sự kiện đông người, đóng cửa trường học và những cơ
sở dịch vụ, kinh doanh ít quan trọng, khuyến khích người dân tự nâng cao ý thức
phòng bệnh, hạn chế ra ngoài, đồng thời chuyển đổi mô hình hoạt động kinh doanh,
học tập, làm việc từ truyền thống sang trực tuyến. Một số ví dụ tiêu biểu có thể kể đến
như: phong tỏa để kiểm dịch toàn bộ tại Ý và tỉnh Hồ Bắc của Trung Quốc; các biện
pháp giới nghiêm khác nhau ở Trung Quốc và Hàn Quốc; phương pháp sàng lọc tại
các sân bay và nhà ga; hạn chế hoặc hủy bỏ các hoạt động du lịch tới những khu vực,
vùng, quốc gia có nguy cơ nhiễm dịch cao,... Ngoài ra, các trường học cũng đã phải
đóng cửa trên toàn quốc hoặc ở một số vùng tại hơn 160 quốc gia, ảnh hưởng đến 87%
học sinh, sinh viên trên toàn thế giới, tính đến ngày 28 tháng 3 năm 2020.

Những ảnh hưởng trên toàn thế giới của đại dịch COVID-19 hiện nay bao gồm:
thiệt hại sinh mạng con người, sự bất ổn về kinh tế và xã hội, tình trạng bài ngoại và
phân biệt chủng tộc đối với người gốc Trung Quốc và Đông Á, việc truyền bá thông
tin sai lệch trực tuyến và thuyết âm mưu về virus.”


1.3.

Phục hồi nền kinh tế là gì ?

Phục hồi nền kinh tế là sự trở về điểm “đỉnh” của nền kinh tế trong quá khứ do
sự tác động nào đó làm gây nên suy thoái nền kinh tế. Để phục hồi nền kinh tế thường
có các chính sách của giai cấp thống trị để có thể dẫn dắt thị trường trở lại tăng trưởng
sau khủng hoảng

Kinh tế thế giới cũng đã từng gặp phải nhiều cuộc khủng hoảng như cuộc
khủng đại khủng hoảng năm 1929-1939, khủng hoảng giá dầu năm 1973, cuộc khủng
hoảng tài chính Châu Á năm 1997. Và đến ngày nay qua nhiều cuộc khủng hoảng
nhưng kinh tế các nước đã phục hồi và phát triển mạnh nhờ sự thay đổi chính sách, mô
hình tài chính đề thích ứng với sự phát triển của thị trường

2. Phân tích các tác động của Covid-19 đến các nền kinh tế
1.4.

Dịch bệnh tác động đến trực tiếp đến nguồn lao động

Dịch bệnh nổ ra ở thành phố Vũ Hán của Trung Quốc vào cuối tháng 12 năm
2019 đã ảnh hướng rất lớn đến nền kinh tế các nước bị dịch lây nhiễm dẫn đến nhều
doanh nghiệp điêu đứng, sản phẩm làm ra không có nơi tiêu thụ, không có nguồn
4


nguyên liệu do cấm xuất nhập khẩu. Để doanh nghiệp có thể tồn tại thì doanh nghiệp
cần phải cắt giảm lao động. Chính vì vậy thế giới hiện nay có rất nhiều lao động đang
mất việc làm.
Theo báo cáo tháng 4 của Liên Hợp Quốc, trong quý II năm 2020 sẽ có hơn 195

triệu người lao đọng bị mất việc làm trên thế giới. Nền kinh tế toàn cầu sẽ bị suy thoái
với tỉ lệ thất nghiệp và tỉ lệ nghèo đói cao nhất trong lịch sử. Theo sự báo liên hợp
quốc, lao động bị ảnh hưởng lớn nhất trong cuộc khủng hoảng này sẽ là công nhân,
công dân tự làm chủ, người tị nạn và người di cư.
“Mới đây, các chuyên gia tại Viện Chính sách xã hội thuộc Đại học HSE (Nga)
cho biết, số người thất nghiệp đã đăng ký ở Nga có khả năng tăng gần 6 lần - lên tới
5,3 triệu người. Ngày 25/4, một trợ lý của Tổng thống Nga đã gọi đây là cuộc khủng
hoảng tồi tệ nhất kể từ Thế chiến thứ II và cho rằng, tình trạng thất nghiệp ngày càng
tăng ở các quốc gia khác nhau trên thế giới ảnh hưởng nghiêm trọng đến sự năng động
của nền kinh tế.

Theo một dự báo được đưa ra vào tháng 3 vừa qua, tỷ lệ thất nghiệp ở Italy có
thể l ên tới11,2% vào năm nay, do ảnh hưởng của Covid-19, sau đó, sẽ giảm xuống
9,6% vào năm 2021. Tỷ lệ thất nghiệp ở Italy bắt đầu tăng sau cuộc khủng hoảng tài
chính năm 2008, đạt đỉnh 12,7% vào năm 2014 và 9,9% vào năm 2019. Năm 2020,
dịch Covid-19 đã có tác động tiêu cực đến một số lĩnh vực ở Italy. Đặc biệt, ngành
khách sạn và dịch vụ ăn uống sẽ phải đối mặt với sự sụt giảm doanh thu lớn nhất.
Kênh CNBC trích dẫn dữ liệu từ Bộ Lao động Mỹ (DOL) cho hay, số lượng
đơn xin trợ cấp thất nghiệp tại nước này lên tới 4,4 triệu, nâng số lượng đơn xin trợ
cấp vượt quá 26 triệu tính từ giữa tháng 3. JP Morgan dự đoán tổng cộng 25 triệu việc
làm ở Mỹ sẽ biến mất trong cuộc khủng hoảng này, gần gấp 3 lần số người thất nghiệp
trong cuộc Đại suy thoái (1929-1933). Đồng thời, các nhà phân tích lưu ý rằng tỷ lệ
thất nghiệp thực sự thậm chí còn cao hơn, vì khi dịch bắt đầu bùng phát, ở Mỹ đã có
7,1 triệu người thất nghiệp.
Như vậy, tổng số người thất nghiệp, có tính đến các đơn xin trợ cấp, đã vượt
quá 33 triệu, có nghĩa là tỷ lệ thất nghiệp ở Mỹ đã lên tới 20,6% - con số cao nhất kể
từ năm 1934. Một số nhà kinh tế ước tính, tổng sản phẩm quốc nội của Mỹ trong năm
nay sẽ giảm hơn cả thời điểm năm 2008. Vào ngày 8/5 tới, khi Chính phủ Mỹ công bố
số liệu thất nghiệp của tháng 4, các nhà kinh tế dự đoán rằng con số có thể tiếp tục
tăng cao.


5


DOL cũng công bố dữ liệu ban đầu của các tiểu bang, theo đó, trong tuần kết
thúc vào ngày 4/4, tỷ lệ thất nghiệp được bảo hiểm cao nhất là ở Michigan (17,4%),
Rhode Island (15%) và Nevada (13,7%). Trong khi đó, một số thành viên đảng Cộng
hòa, đã đưa ra quan ngại về các chính sách hỗ trợ liên quan đến đại dịch Covid-19 có
thể làm tăng nợ quốc gia, dự kiến sẽ tăng vọt lên 101% tổng sản phẩm quốc nội vào
tháng 10 tới.

Theo cố vấn của Tổng thống Donald Trump về các vấn đề kinh tế - ông Kevin
Hassett, tỷ lệ thất nghiệp tiến gần đến mức của cuộc Đại khủng hoảng. Còn nhớ, vào
năm 1933, trong cuộc Đại khủng hoảng, tỷ lệ thất nghiệp lên tới 24,9%; từ 1931 đến
1940, tỷ lệ này là trên 14%. Kể từ đó, thất nghiệp chỉ hai lần vượt quá 10% - vào năm
1982 và 2009.

Trong khi đó, theo đài RFI, Covid-19 đẩy thế giới vào cuộc “khủng hoảng chưa
từng thấy” từ sau Thế chiến thứ II và tác động “sâu rộng đến thị trường lao động toàn
cầu”. Dưới hình thức này hay một hình thức khác, SARS-CoV-2 ảnh hưởng đến 80%
người trong tuổi lao động trên thế giới. Nghiêm trọng hơn nữa, 1,25 tỷ người lao động
trên toàn cầu bị đe dọa mất việc hoặc giảm lương. Ngày 22/4, hơn 40% người dân Mỹ
thừa nhận họ đã mất việc hoặc phải đối mặt với việc giảm lương do đại dịch Covid19”

1.5. Dịch bệnh tác động đến chính trị từ đó ảnh hưởng đến nền kinh tế
giữa các nước
Căng thẳng giữa Mỹ và Trung Quốc ngày càng gia tăng, một ví dụ điển hình
như Tổng thống D.Trump cáo buộc Trung Quốc về vấn đề nguồn gốc của virus corona
hay về việc ông D.Trump cắt giảm trợ cấp cho tổ chức y tế thế giới WHO vì lý do tại
sao WHO phản ứng chậm chạm và đưa ra các khuyến nghị sai lệch sau khi đến TQ.

Ngoài ra, số liệu người chết ở TQ như một mớ hỗn lộn khi các số liệu được sửu
đổi liên tục. Việc điều chỉnh gây mối quan ngại rất là lớn giữa các nước phương tây
đặc biệt là các nước thuộc G7 khi các nước đó đang bị dịch bùng phát nghiêm trọng và
khiến nền kinh tế của họ bị ảnh hưởng cực kỳ nghiêm trọng.
Đối chọi lên đến đỉnh điểm thì các động thái của các quốc gia trên lĩnh vực kinh
tế cũng xuất hiện khi mà TQ đã cấm xuất khẩu các loại khẩu trang về lại mỹ đặt tại
TQ. Và cũng “nhờ đại dịch” mà TQ đã thất hứa với mỹ khi không thể mua được nông
6


sản của mỹ trị giá 50 tỷ đô hay phá vỡ thỏa thuận thương mại khi mua tích trữ đậu
tương của Brazil. Nên vì thế, nếu ông D.Trump có thể tái đắc cử lần thứ 2 thì rất có thể
chiến tranh thương mại sẽ nổ và không chỉ có Mỹ-Trung mà còn có các nươc khác như
Anh, Pháp. Vì có rất nhiều các nghành hàng như sắt thép hay da giày của TQ xuất
khẩu sang Mỹ. Ngoài Mỹ và các nươc phương tây thì Nhật bản cũng có động thái
không vừa lòng khi hỗ trợ số tiền khủng lồ để các công ty có thể chuyển nhà máy sản
xuất ra khỏi Trung Quốc có thể vì họ nhìn ra được sau dịch kinh tế TQ sẽ gặp nhiều
bất ổn và sẽ không an toàn khi đặt các nhà máy sản xuất tại đó.
Trích dẫ một bài báo có tựa đề Mỹ-Trung đang 'manh nha' một cuộc chiến
tranh lạnh về công nghệ và cái giá phải trả?. “Mỹ đã áp dụng 4 “đòn” đánh Trung
Quốc, gồm: thương mại, tiền tệ, công nghệ và vấn đề Đài Loan (Trung Quốc) Thứ
nhất, về thương mại, Mỹ tiếp tục đánh thuế lên hàng hóa của Trung Quốc. Hành động
này làm nền kinh tế Mỹ chịu nhiều tổn thất.
Thứ hai, về tiền tệ, các quan chức cao cấp của Nhà Trắng đã thảo luận về việc
Mỹ yêu cầu Trung Quốc xoá khoản nợ 1,1 nghìn tỷ USD để bồi thường cho thiệt hại
do Covid-19. Tuy nhiên, điều này sẽ gây hậu quả nghiêm trọng cho tình hình tín dụng
của Mỹ, đe dọa vai trò dự trữ tiền tệ của đồng USD. Ngược lại, đối với Trung Quốc,
đây là cái giá quá thấp.
Thứ ba, về công nghệ, Mỹ hạn chế chuyển nhượng công nghệ cho Trung Quốc.
Điều này chắc chắn gây tổn hại cho lĩnh vực công nghệ của Trung Quốc nhưng không

ảnh hưởng quá lớn đến sự phát triển của Trung Quốc xét về lâu dài.
Thứ tư, về vấn đề Đài Loan (Trung Quốc), Mỹ tăng cường bán vũ khí cho Đài
Loan, thậm chí công khai cổ xúy Đài Loan độc lập. Từ khi Tổng thống Nixon lần đầu
tiên thăm Trung Quốc vào năm 1972, Mỹ luôn duy trì chính sách “mơ hồ về chiến
lược” trong vấn đề Đài Loan. Điều này ngăn chặn có hiệu quả sự gây hấn giữa Đài
Loan (Trung Quốc) và Đại lục. Nếu Chính quyền Tổng thống Trump muốn thay đổi
chính sách này, sẽ gia tăng rủi ro xung đột vũ trang tại eo biển Đài Loan (Trung Quốc).
Đến lúc đó, liệu Mỹ có sử dụng quân đội để bảo vệ Đài Loan hay không?”
Tuy xung đột giữa Mỹ và Trung đã có từ trước dịch bệnh bùng phát nhưng dịch
bệnh giống như một nguồn dầu đổ vào cuộc chiến. Và cũng chính dịch bệnh nổi lên đã
làm cho tỉ lệ tái đắc cử của tổng thống D.Trump từ 80% xuống 60%

7


1.6.

Dịch bệnh tác động đến xã hội

Bệnh viêm đường hô hấp cấp corona không những ảnh hướng đến tính mạng
hàng triệu người, làm thiệt mạng hàng trăm nghìn người mà còn làm tăng nguy cơ
bùng nổ cuộc khủng hoảng xã hội khi nó đã làm mất 198 triệu việc làm.

Song song với việc cứu chữa người bệnh đang bị quá tải trong các bệnh viện
khó có đủ nhân lực để chăm sóc hết người bệnh, chi rất nhiều tiền cho thuốc điều trị,
vaccin phòng chống bệnh thì thế giới đang phải cứu vãn cỗ máy kinh tế. Theo thống
kê, Nhật bản đã hỗ trợ kinh tế tương đương với 20%GDP, Mỹ 2000 tỷ USD, Đức 1000
tỷ USD
Theo thống kê của Pháp, GDP trong 3 tháng đầu năm 2020 đã giảm 6%. Trong
gần 4 tuần lể phong tỏa có gần 6 triệu người đăng ký thất nghiệp. Còn tại Đức, hơn

500.000 công ty lớn, nhỏ đã cho nhân viên của họ nghỉ việc

Tuy Trung Quốc không công bố số liệu người thất nghiệp nhưng ta có thể nhìn
vào số liệu giảm của các nghành như sản xuất, dịch vụ và bán hàng nội địa thì ta cũng
dễ dàng nhìn ra được Trung Quốc cũng không được quá ổn định trong đợt dịch này.
Nhìn vào số liệu trên ta có thể thấy được các nước đang phải bỏ ra một số tiền
khủng lồ đề trợ cấp xã hội giúp người dân ổn định cuộc sống trong đại dịch. Nếu tình
hình dịch bệnh vẫn diễn biến phức tạp, việc làm không đủ cho người dân mà người
dân sống nhờ vào trợ cấp sẽ làm cho lạm phát ra tăng nhanh chóng.

Nhưng nếu trợ cấp bị giảm, sẽ làm tăng khoảng cách mất cân bằng trong xã hội
người nghèo càng nghèo mà người giàu càng giàu
Cũng do dịch bệnh hoành hành mà nền giáo dục bị ảnh hưởng. Có rẩt nhiều
trường ở nhiều nước phải đóng cửa về lâu dài sẽ ảnh hướng đến 1 thế hệ trong tương
lai chưa kể đến tỉ lệ kết hôn hay sinh con ở lứa tuổi học sinh cũng tăng cao.

1.7. Dịch bệnh ảnh hướng đến thị trường chứng khoán từ đó ảnh hưởng
đến huy động vốn trong nền kinh tế.
Thị trường chứng khoán cũng là một phần tối quan trọng trong một nền kinh tế
của quốc gia. Chỉ khi thị trường chứng khoán ổn định dòng tiền nhàn rỗi trong thị

8


trường mới thu hút các nhà đầu tư tham gia góp vốn nhưng do dịch bệnh thị trường
chứng khoán cũng không được yên ổn

Theo một bài báo em trích dẫn có thống kê như sau:
“Giới đầu tư "tháo chạy" khỏi thị trường chứng khoán (TTCK) và tìm đến các
tài sản an toàn hơn. Trong khi lãi suất trái phiếu Bộ Tài chính Mỹ kỳ hạn 10 năm sụt

xuống dưới 0,5%. Lãi suất trái phiếu Mỹ kỳ hạn 30 năm cũng lần đầu tiên giảm xuống
dưới mức 1%. Đó là những thông tin được các hãng thông tấn phản ánh về nền kinh tế
số 1 thế giới những ngày qua trong cơn bão của đại dịch COVID-19.
Ngày thứ Hai đen tối đối với các TTCK toàn cầu

Từ tháng 1 năm 2020, chỉ sốc các TTCK lớn ở châu âu bị sụt giảm khoảng 20%
do tác động của dịch bệnh đồng thời giá dầu xuống dốc cùng làm ảnh hửng đến chỉ số
CK của châu âu. Do mối lo ngại dịch bệnh này sẽ gây tác hại lâu dài lên nền kinh tế
thế giới, mà ngày 09/3/2020 đã trở thành ngày thứ Hai đen đối với các TTCK trên
toàn cầu.
Chỉ số thị trường Franforct đã sụt giảm đến 7,94%, mức sụt giảm mạnh nhất kể
từ đợt tấn công khủng bố 11/09/2001 tại Hoa Kỳ. Thị trường Luân Đôn cũng bị mất
7,69%, còn Paris mất đến 8,39%, nặng nhất kể từ năm 2008, tức là năm xảy ra khủng
hoảng tài chính toàn cầu.

Sắc đỏ ngập tràn trong thị trường chứng khoán châu Á trong phiên 12/3, sau khi
Tổng thống Mỹ Donald Trump ban hành lệnh cấm đi lại từ các nước châu Âu sang Mỹ
trong vòng một tháng để đối phó với dịch viêm đường hô hấp cấp COVID-19, qua đó
làm dấy lên lo ngại kinh tế thế giới sẽ rơi vào suy thoái. Thông tin trên được đưa ra sau
khi Tổ chức Y tế Thế giới (WHO) chính thức "gắn mác" đại dịch toàn cầu đối với dịch
COVID-19 khiến TTCK châu Á vốn đã chịu tác động trước thông báo của WHO, lại
giảm sâu hơn sau phát biểu của Tổng thống Trump.
Tại thị trường Tokyo (Nhật Bản), chỉ số Nikkei 225 giảm 4,4% xuống
18.559,63 điểm. Tại Trung Quốc, chỉ số Hang Seng của Hong Kong hạ 3,5% xuống
24.344,13 điểm, còn chỉ số Shanghai Composite để mất 1,5% xuống 2.923,49 điểm.
Chứng khoán Sydney để mất 7,4%, ghi nhận phiên giao dịch tồi tệ nhất kể từ
cuộc khủng hoảng tài chính 2008. Chứng khoán Seoul, Singapore và Jakarta đều hạ
hơn 3%, chứng khoán Mumbai giảm hơn 6% và chứng khoán Bangkok sụt giảm 8%.

9



Chứng khoán Manila để mất gần 10% giá trị sau thông tin Tổng thống
Philippines sẽ trải qua một cuộc kiểm tra xem có bị nhiễm virus SARS-CoV-2 hay
không khi nhà lãnh đạo Philippines cùng Bộ trưởng Tài chính và Thống đốc Ngân
hàng Trung ương của nước này nằm trong số các quan chức từng tiếp xúc với người
bệnh.

Chứng khoán Wellington mất 5% và chứng khoán Đài Bắc hạ 4,3%. Trên thị
trường tiền tệ, đồng yen, vốn được coi là tài sản an toàn trong thời kỳ khủng hoảng, đã
tăng hơn 1% so với đồng USD. Một USD đổi 103,91 yen so với mức 104,54 yen/USD
trước đó.
TTCK Việt Nam tại thời điểm này, chỉ số VN-Index giảm 5,19% xuống 769,25
điểm, còn chỉ số HNX-Index hạ 3,41% xuống 101,92 điểm.
Còn tại Mỹ, TTCK Phố Wall được cho là u ám nhất kể từ năm 2008 bởi vừa trải
qua tuần lễ tồi tệ nhất kể từ cuộc khủng hoảng tài chính năm 2008 bất chấp gói cứu trợ
kinh tế của chính quyền Tổng thống Donald Trump.
Có thể thấy, mối lo ngại tái diễn khủng hoảng tài chính nay đã lan ra toàn cầu,
vì vậy, Quỹ tiền tệ Quốc tế (IMF) đã kêu gọi phải có một đối sách phối hợp ở cấp độ
thế giới để ngăn chặn một cuộc khủng hoảng tài chính 2008 tái diễn.”F

1.8.

Các nghành bị dịch bệnh tác động mạnh mẽ

Một thị trường bao gồm rất nhiều ngành và trong mùa dịch này gần như mọi
nghành đều bị tác động nhưng có một số nghành bị tác động mạnh mẽ nhất. Đầu tiền
phải kể đến nghành “hàng không”. Với rất nhiều lần bị buộc hủy chuyến bay hay cấm
xuất nhập cảnh đã làm cho nghành hang không thế giới bị điêu đứng với khoản lỗ
hang nghìn tỉ đô. Ở Việt Nam nghành hang không cũng không ngoại lệ. Theo thống kê

quý I năm 2020 Vietnam Airlines đã lỗ 2,323 tỉ đồng và nếu đến hết quý IV năm 2020
mà dịch bệnh vẫn còn HVN có thể sẽ lỗ đến gần 20000 tỷ đồng.
Nghành thứ hai phải nói đến đó là nghành du lịch. Với việc cấm xuất nhập cảnh
thì lượng khách du lịch nước ngoài giảm đi rất lớn, lượng khách trong nước cũng
không nhiều. Bên cạnh đó do lệnh cách ly tránh lây nhiễm nên các điểm du lịch cũng
bị cấm mở cửa. Khi nghành du lịch bị điêu đứng thì kéo theo rất nhiều vấn đề khác
như các hộ dân kinh doanh nhớ du lịch bị mất thu nhập, nhà nghỉ- khách sạn cũng
không có khách dẫn đến nhiều cơ sở kinh doanh phải trả mặt bằng

10


Nghành thứ ba đó là nghành nông-lâm-thủy sản khi sản xuất ra nhưng không
thể xuất khẩu. Theo số liệu thống kê đầu năm 2020 kim ngạch xuất khẩu của các sản
phẩm nông-lâm nghiệp giảm 4,5%, thủy sản cũng bị giảm nặng nề đến 11,2% so với
cũng kỳ năm ngoái
Ngoài ra các nghành dịch vụ hay nghành xây dựng cũng bị giảm do dịch bệnh
vì tổng cầu giảm

1.9.

Tác động tích cực của dịch bệnh.

Mọi sự việc đều có hai chiều của nó, Covid đã kéo rất nhiều ngành kinh tế đi
xuống, tạo ra nhiều thiệt hại về người, làm hằng triệu người thất nghiệp. Nhưng bên
cạnh đó, chính nhờ dịch bệnh mà mà nghành giao dịch trên nền tảng thương mại điện
tử rất phát triển vì mọi người không thể ra ngoài. Tuy không có công bố cụ thể từ phía
các sàn nhưng theo các kênh bán đã công bố thì các đơn hàng trong mùa dịch nhiều
hơn rất nhiều so với mọi ngày. Các mặt hàng chủ yếu là các thực phẩm thiết yếu. Ở sàn
Tiki, mặt hàng chủ lực của họ là sách cũng được tăng lượt mua gấp 1.5 lần. Tác động

tích cực vậy khiến cho xu hướng mua bán của người dùng được chuyển đổi nhanh
chóng. Từ đó ta có thể đẩy mạnh được công nghệ phát triển nhanh hơn
Ngoài ra dịch bệnh cũng là cơ hội “vàng” để các doanh nghiệp có thể trụ vững
sau dịch bệnh phát triển vì dịch bệnh đã làm cho rất nhiều doanh nghiệp đóng cửa vì
vậy đối thủ cạnh tranh ít đi, cung ít đi ngoài ra các doanh nghiệp còn được nhận các
gói cứu trợ từ nhà nước. Tuy dịch bệnh là khó khăn nhưng nó cũng đòn bẩy cho các
doanh nghiệp có nền tảng vửng thực sự.
Việc Trung Quốc rối loạn do dịch đã làm nhiều doanh nghiệp nước ngoài
chuyển đổi đặt nhà máy sản xuất ở Trung Quốc về Việt Nam hay các nước Đông Nam
Á vì sự chống dịch xuất sắc đó. Nhờ đó mà nước ta có cơ hội giải quyết được việc làm
cho người lao động

3. Giải pháp phục hồi nền kinh tế sau dịch bệnh
1.10. Lịch sử các khủng hoảng kinh tế và đại dịch. Giải pháp hồi phục lúc
bấy giờ
1. Thế chiến thứ nhất (1914-1918): Sau thế chiến thứ nhất đã có cuộc khủng
hoảng kinh tế diễn ra ở các nước như Anh, Đức và Mỹ. Anh có tỉ lệ thất nghiệp nên
đến 10% với tốc độ phục hồi chậm chậm chạp. Đức thì phải trả một khoản bồi thường
do là người thua trận lên đến 268 tỷ đô và chính phủ Đức đã in thêm tiền nhưng hành
11


động này chỉ dẫn đến tình trạng siêu lạm phát. Trái ngược với các nước khác, Mỹ có 6
tháng khủng hoảng với tỷ lệ thất nghiệp 11% nhưng Mỹ được lợi từ cuộc chiến nên
kinh tế Mỹ phục hồi rất nhanh mặc dù chính phủ Mỹ không đưa ra bất kỳ hành động
can thiệp nào
2. Đại dịch cúm Tây Ban Nha năm 1918. Dịch bệnh bùng phát vào cuối thế
chiến thứ nhất gây nên cái chết của 2/5 dân số thế giới, dịch cúm TBN tập chung vào
lứa tuổi lao động. Chính vì vậy, các doanh nghiệp chịu tổn thất cực kỳ nghiêm trọng về
nguồn lao động và lúc bấy giờ Châu Á và Châu Phi là 2 nơi bị chịu tổn thất nặng nề

nhất do dân số đang mà ý tế chưa được phát triển. Nó đã gây lên sụt giảm GDP cao kỷ
lục 10%, lạm phát cao chưa từng thấy
3. Đại suy thoái năm 1929 (khủng hoảng thừa). Thị Trường chứng khoán Mỹ là
nơi bắt đầu của sự sụp đổ do sự đầu tư quá nhiều và thị trường chứng khoán. Mỹ đã
gặp khó khăn rất lớn với tỷ lệ thất nghiệp cao đến 25%, giá cổ phiếu giảm 50%, tốc độ
tăng trưởng giảm 10%. Lúc bấy giờ để cải thiện thị trưởng tổng thống Mỹ đã ra chính
sách thúc đẩy chi tiêu đã giúp nên kinh tế Mỹ khôi phục vào năm 1934.
4. Thế chiến thứ 2 năm 1939-1945: Trong cuộc chiến thế giới thứ hai có rất
nhiều quốc gia bị ảnh hưởng nhưng sau chiến tranh lại phục hồi rất nhanh đặc biết là
Đức, trước đó nền kinh tế của Đức gần như sụp đổ thì sau thế chiến thứ 2 đã vươn lên
thành cường quốc Châu Âu. Mỹ không những phục hồi nhanh chóng sau đại khủng
hoảng năm 1929 mà còn phát triển lớn nhớ việc bán vũ khí cho cuộc chiến.
5. Khủng hoảng dầu mỏ 1980: Vào năm 1979 giá dầu tăng cao do các cuộc
chiến tranh Hồi giáo Iran. Giá dầu nhảy vọt từ 19$ lên đến 40$ một thùng dầu. Giá dầu
tăng cao làm giá cả leo thang, kinh tế chậm phát triển. Để giải quyết vấn đề đó các
nước đã điều tiết việc phân phối dầu, tìm các nguồn năng lượng thay thế
6. Khủng hoảng tài chính toàn cầu 2007-2009: Cuộc khủng hoảng bắt đầu từ
thị trường nhà đất Mỹ. Các chỉ số trên thị trường lao dốc, Dow Jones bay hơi 50% giá
trị. Để cứu vãn tính huống bấy giờ, Tổng thống B.Obama đã tung ra gói cứu trợ gần
800 tỷ USD, cắt giảm thuế và tăng đầu tư công. Tuy vậy nền kinh tế phục hồi rất chậm
Anh cũng phải chịu ảnh hưởng suy thoái liên tục 5 quý và cần mất 5 năm Anh
mới phục hồi và đến năm 2018 tiền lương thực tế của Anh mới quay hồi lại bằng năm
2008.
1.11. Đưa ra giải pháp hồi phục nền kinh tế sau đại dịch covid-19
-

Việt Nam cần làm gì để sớm phục hồi kinh tế

12



Theo Word Bank dự báo, kinh tế Việt Nam sẽ bị giảm đáng kể, và đến hết quý 3
năm 2020 nền kinh tế nước ta vẫn chưa thể phục hồi hoàn toàn
Cũng theo World Bank nếu có giải pháp đúng hướng của chính phủ, người dân
và doanh nghiệp thì có thể sẽ đầy nhanh quá trình hồi phục một cách bền vừng:
Giải pháp thông thường mà chính phủ có thể áp dụng để thúc đẩy phục hồi kinh
tế là sử dụng các gói kích thích tài khóa để tăng chi, đặc biệt là cho các dự án đầu tư.
Không những các cơ quan quản lý có thể trực tiếp/chủ động lựa chọn các dự án đầu tư
ưu tiên theo mục tiêu của họ, mà bên cạnh đó, tăng chi đầu tư xây dựng cơ bản sẽ tạo
ra hệ số nhân Keynes (tác động kép) cần thiết đối với nền kinh tế. Theo ước tính tại
Việt Nam, khi giải ngân đầu tư công tăng thêm 10% thì tăng trưởng GDP sẽ tăng thêm
0,6%.
Giải pháp phục hồi cần giúp giảm thiểu chi phí giao dịch và cắt giảm các quy
định, thủ tục không cần thiết. Tương tự như giải pháp mà nhiều quốc gia khác áp dụng
để ứng phó với cuộc khủng hoảng COVID-19, Chính phủ có thể khai thác cơ hội này
để hiện đại hóa hệ thống công nghệ thông tin và truyền thông của mình, đảm bảo tính
phối hợp trong quá trình ra quyết định và tiến độ của quá trình thực hiện.

Mở rộng các cơ hội thu nhập bằng cách cải thiện khả năng tiếp cận công việc,
đặc biệt là đối với các nhóm dễ bị tổn thương, là một nhiệm vụ quan trọng để giảm
nguy cơ mất mát nguồn nhân lực do COVID-19.
Các hành động để bảo vệ và tạo việc làm, cũng như để tăng cường nguồn nhân
lực, bao gồm các biện pháp ngắn hạn và dài hạn. Trong cả hai trường hợp, các biện
pháp đó cũng sẽ cần xem xét các xu hướng lớn như tăng trưởng của nền kinh tế tri
thức, mở rộng phạm vi áp dụng tự động hóa và chuyển dịch các mô hình thương mại
và những thay đổi về cách thức làm việc.
Với các doanh nghiệp, có thể sẽ cần nhiều thời gian hơn để khôi phục cơ cấu
nhân sự, hàng hóa tồn kho, chuỗi cung ứng, doanh thu và nguồn vốn sau nhiều tuần
hay nhiều tháng tạm ngừng hoạt động. Tương tự như vậy, việc thực hiện và lồng ghép
hài hòa các chính sách điều tiết cũng cần nhiều thời gian để nền kinh tế toàn cầu thực

sự hoạt động trở lại...
-

Giải pháp phục hồi nền kinh tế các nước Châu Âu

Theo các nhà phân tích, tuy các nước Châu Âu đề chịu sự sụt giảm do đại dịch
nhưng sau dịch tốc độ phục hồi nền kinh tế sẽ khác nhau rõ rệt.
Trích một bài báo, Con Đường Tái Thiết Nền Kinh Tế Sau Đại Dịch,
13


“Triển vọng kém lạc quan
Báo cáo mới nhất về kinh tế toàn cầu World Economic Outlook vừa phát hành
là một trong những báo cáo bi quan nhất của Quỹ Tiền tệ quốc tế (IMF) kể từ khi tôi
bắt đầu đọc chuỗi tài liệu này từ năm 2000. Nếu quay lại thời điểm 20 năm trước, chắc
chắn, tôi không thể tưởng tượng có một ngày đọc được một báo cáo kinh tế bi quan
đến vậy từ IMF. Ngay cả trong thời kỳ khủng hoảng kinh tế 2007-2009, tôi cũng chưa
thấy nhiều ngôn từ bi quan và nhiều con số âm đến như vậy.
“Kinh tế đình đốn đột ngột”, “sức cầu rơi tự do”, “đảo ngược dòng vốn”, “giá
thương phẩm sụp đổ” là các từ tôi ít khi thấy trong một báo cáo của IMF. Thế mà họ
còn bồi thêm câu “rủi ro những điều tồi tệ hơn còn chưa đến vẫn bao trùm”.
Nếu quan sát kinh tế toàn cầu, điều này không có gì lạ. Hơn 22 triệu người Mỹ
đã xin trợ cấp thất nghiệp lần đầu đến lúc này. “Chỉ trong 4 tuần mà nước Mỹ đã mất
toàn bộ số việc làm tạo ra trong 11 năm”, trang tin CNBC nhận định.

Trung Quốc, nước vừa mở cửa trở lại sớm nhất sau cách ly dài hạn đang bắt đầu
nhận ra, hồi phục hình chữ V chỉ là mơ ước. Công nhân Trung Quốc trở lại nhà máy
làm việc để rồi nhận thấy, đơn hàng xuất khẩu tụt giảm mạnh nhất trong lịch sử. Trong
quý I/2020, xuất khẩu Trung Quốc giảm 13,3%. Theo đánh giá của Tổ chức Thương
mại thế giới (WTO), thương mại toàn cầu dự kiến sụt giảm 32% trong năm 2020.


Ngân hàng Gansu của Trung Quốc vừa được giải cứu thông qua việc Chính phủ
và cổ đông hiện hữu phải “bơm” thêm tiền để mua cổ phiếu nhằm giúp ngân hàng tăng
vốn để hấp thụ 10 tỷ nhân dân tệ nợ xấu. Và còn một danh sách rất dài những ngân
hàng như vậy ở Trung Quốc. Vấn đề nợ xấu của ngân hàng Trung Quốc là bệnh kinh
niên mấy năm nay và Covid-19 chỉ là chất xúc tác để đẩy những ngân hàng này tới
thêm một bước gần vực thẳm.
Trong bối cảnh như vậy, vẫn có ý kiến cho rằng, vĩ mô của Việt Nam còn rất lạc
quan. So với tăng trưởng âm của hầu hết các nền kinh tế chính và thậm chí là khối
ASEAN 5, Việt Nam có thể vẫn sẽ tăng trưởng kinh tế dương trong năm nay. Trong 3
kịch bản tăng trưởng kinh tế mà PGS-TS. Phạm Thế Anh công bố gần đây, chỉ có kịch
bản xấu nhất là Việt Nam sẽ tăng trưởng kinh tế -1%. Còn lại thì đều tăng trưởng
dương.

14


Tuy nhiên, không tăng trưởng âm không có gì đáng mừng. Nhiều doanh nghiệp
đang vay nợ với lãi suất cao hơn rất nhiều với con số tăng trưởng 1,5% của kịch bản
trung bình. Nếu doanh thu và lợi nhuận chỉ tăng cao hơn 1,5% một chút, về cơ bản,
nhiều doanh nghiệp sẽ không làm ra đủ tiền để trả lãi vay. Và nếu tiền mặt dự trữ
không dồi dào để bù đắp, vỡ nợ là khó tránh.

Thị trường tín dụng đang lộ rõ những khó khăn trên khắp các phân khúc tín
dụng doanh nghiệp, cho vay tiêu dùng, tín dụng mua ô tô và trái phiếu bất động sản...
Nhiều trái phiếu bất động sản được phát hành trên nền tảng phát hành riêng lẻ, đạt tiêu
chí “ba không”: không minh bạch, không xếp hạng tín nhiệm, không có tài sản đảm
bảo có chất lượng thật sự.

Mặt khác, nếu thương mại toàn cầu sụt giảm 32% trong năm 2020, với độ mở

và phụ thuộc xuất khẩu, vốn ngoại của nền kinh tế Việt Nam, đây là một cú sốc lớn về
cả tổng cầu bên ngoài lẫn dòng vốn. Đó là chưa kể, giá dầu giảm cũng tác động xấu
đến doanh thu xuất khẩu dầu của Việt Nam. Ngoài ra, còn một điều đáng lo ngại nữa
là, dòng tiền từ kiều hối trong năm 2020 do kinh tế các nước khó khăn, lượng kiều hối
chuyển về năm nay có thể giảm. Lượng kiều hồi của năm 2019 đạt khoảng 17 tỷ USD,
một con số rất lớn đối với cán cân thanh toán, giúp ổn định nguồn ngoại tệ trong nước.

Nhìn vào đây, có thể thấy, cán cân thanh toán quốc tế trong năm nay của Việt
Nam sẽ chịu sức ép không nhỏ. Triển vọng năm nay là dòng ngoại tệ từ xuất khẩu sụt
giảm, dòng vốn đầu tư nước ngoài giảm (giảm 20,9% so với cùng kỳ năm trước), dòng
vốn ổn định là kiều hối lại đe dọa, tạo sức ép lên tỷ giá nhiều khả năng sẽ cao hơn năm
sau.

Nếu muốn lãi suất tiền đồng tiếp tục giảm xuống để hỗ trợ nền kinh tế, trong
khi cán cân thanh toán chịu sức ép, thì sức ép tăng giá USD trong nền kinh tế là khó
tránh khỏi.
Có thể nói, là một nền kinh tế thuộc loại mở nhất thế giới, Việt Nam đang đối
mặt với một cú sốc kép về sụt giảm nhu cầu từ bên ngoài lẫn cú sốc với cán cân thanh
toán cần hấp thụ.

Phải làm những điều không tưởng
15


“Chúng ta đều đang bắt đầu làm những điều không tưởng”. Thủ tướng Pháp
Emmanuel Macron nói như vậy trong một trả lời phỏng vấn mới đây với Tờ Financial
Times. Tôi nghĩ đó cũng là câu trả lời cho Việt Nam.
Một câu trả lời đơn giản đã được hầu hết giới phân tích chính sách chỉ ra để đối
mặt với đợt suy thoái kinh tế đi kèm với Covid-19: phải chi ngân sách để cứu nền kinh
tế và cứu cả người dân, giữ lại nguyên khí quốc gia để hồi phục khi dịch bệnh bị đẩy

lùi.

Vấn đề ở đây là, tiền đâu để chi ngân sách và nên cứu như thế nào? Trong
khuôn khổ bài viết này, xin chỉ đề cập vấn đề tiền đâu chi ngân sách, bởi không có tiền
thì không thể bàn tiếp đến chuyện “cứu ai, ai cứu” nữa. Tất nhiên, có tiền rồi thì chi
sao cho đúng cũng rất cần quan tâm. Nhưng đó là một chủ đề khác. Trong bài này, chỉ
xin bàn trước tới vấn đề “kiếm tiền để chi tiêu” như thế nào.
Với những nước giàu và có uy tín trên thị trường quốc tế như Đức, họ đơn giản
là phát hành trái phiếu (như họ vừa phát hành hơn 300 tỷ euro và đang có kế hoạch
tiếp tục tiếp tục). Nhưng Việt Nam có nhiều lựa chọn hơn như vậy.

Hãy nhìn vào cách làm của Mỹ. Chính phủ Mỹ đang bắt đầu một đợt mua trái
phiếu không giới hạn, bao gồm trái phiếu chính phủ. Nói cách khác, Cục Dự trữ Liên
bang Mỹ (Fed) đang bơm tiền ra tài trợ chi tiêu ngân sách của Mỹ và chấp nhận gia
tăng bảng cân đối tài sản của mình. Mỹ không đi vay tiền của nhà đầu tư quốc tế và tư
nhân trong nước, mà đang đi vay chính tiền của ngân hàng trung ương của mình. Quy
mô tăng tài sản của Fed hiện tại đã vượt qua mức tăng của giai đoạn 2008-2009. Nói
nôm na, Fed đang “in tiền” ra để tài trợ chi tiêu ngân sách của Mỹ.

Nước Anh trước đây từ chối cách làm này, thì nay cũng đã thay đổi quan điểm.
Vào hôm 9/4, Chính phủ Anh đã tuyên bố sẽ nâng quy mô tài khoản của mình ở Ngân
hàng trung ương Anh lên không giới hạn. Tài khoản này trước đây chỉ giới hạn ở mức
370 triệu bảng Anh, chủ yếu dùng vào thời điểm rất khẩn cấp không xoay sở kịp của
Chính phủ Anh trong hoạt động thường ngày. Nay, nó được nâng lên mức “không giới
hạn” cho phép các bộ trưởng chi nhiều tiền mà không cần đi ra thị trường trái phiếu
vay tiền.

16



Đây không phải là lần đầu tiên Anh áp dụng chuyện này. Vào năm 2008, Anh
đã tăng quy mô chi tiêu từ tài khoản này lên 20 tỷ bảng Anh. Lần này, không biết số
tiền sẽ tăng lên bao nhiêu và kéo dài bao lâu. Nước Anh gọi đây là “tài trợ tiền tệ”
(monetary financing), mà theo nhiều người, đó chỉ là cách gọi khác của “tiền tệ hóa”
nợ (debt monetization).

Ngoài việc vay nợ qua trái phiếu phát hành cho nhà đầu tư quốc tế và tư nhân
trong nước, hoặc “tiền tệ hóa” nợ, một lựa chọn khác của Việt Nam là tiếp cận những
khoản vay hỗ trợ của IMF, Ngân hàng Thế giới (WB) và Ngân hàng Phát triển châu Á
(ADB). Bộ Tài chính cho biết, đã báo cáo Thủ tướng Chính phủ và đang đàm phán với
các nhà tài trợ này để có điều kiện vay ưu đãi nhất (dự kiến có thể vay với chi phí thấp
khoảng 1 tỷ USD). Đây là một bước đi đúng đắn để tiếp cận các khoản vay quốc tế chi
phí thấp, mà không cần sử dụng đến thị trường nợ tư nhân quốc tế.”

C. KẾT LUẬN
Dịch bệnh thực sự đã mang đến khó khăn rất lớn cho nền kinh tế các nước. Và
thực sự khó khăn hơn khi dịch Covid đã thành đại dịch lây lan cộng đồng. Đến nay đã
có nhiều cách phòng tránh và các nhà khoa học khắp thế giới cũng đã dần hoàn thành
vacin phòng covid, tiếp sau đó là cần hồi phục nền kinh tế đã bị khủng hoảng sau khi
dịch bệnh làm nguồn thu nhập đi xuống, nhiều người mất việc làm. Đưa ra giải pháp là
vấn đề cấp bách ngay lúc này để có thể sẳn sàng cho khôi phục nền kinh tế. Và ở Việt
Nam nói riêng tuy chúng ta đã làm rất tốt phòng trách dịch nhưng hậu quả nó mang lại
cũng không kém các nước Châu Âu khi ta cũng phải cách ly xã hội 21 ngày làm giao
17


thương không phát triển. Chính Phủ tuy đã trợ cấp một khoản tiền lớn nhưng đó chỉ là
phương pháp tạm thời. Ngay lúc này chúng ta cần có một phương pháp hồi phục chắc
chắn trong tương lai.


TÀI LIỆU THAM KHẢO
[1] LÊ NGỌC (2020), Covid-19 làm khuynh đảo thị trường lao động thế giới,
Baoquocte.vn, 20/5/2020 < />[2] D.Bùi (T/h) (2020), Thị trường chứng khoán thế giới lao dốc vì tác động của
dịch Covid-19, 20/5/2020, < />[3] Linh Nga (2020), Việt Nam cần làm gì để sớm hồi phục kinh tế?, 26/5/2020
< />
phuc-kinh-te-323394.html>
[4]Hồ Quốc Tuấn (04/2020), Con đường tái thiết nền kinh tế sau đại dịch - Bài 1:
Thời của những giải pháp “không tưởng”, < />
18



×