Nâng cao nhận thức con đường đi lên chủ nghĩa xã hội ở Việt Nam
MỞ ĐẦU
Cương lĩnh xây dựng đất nước trong thời kỳ quá độ lên CNXH năm 1991
đã phác họa mô hình CNXH mà nhân dân ta xây dựng với sáu đặc trưng. Đại hội
lần thứ X bổ sung, phát triển, làm cho mô hình CNXH đang được xây dựng ở
nước ta toàn diện hơn, hoàn chỉnh hơn. Đó là: "Xã hội xã hội chủ nghĩa mà nhân
dân ta xây dựng là một xã hội dân giàu, nước mạnh, công bằng, dân chủ, văn
minh; do nhân dân làm chủ; có nền kinh tế phát triển cao, dựa trên lực lượng sản
xuất hiện đại và quan hệ sản xuất phù hợp với trình độ phát triển của lực lượng
sản xuất; có nền văn hóa tiên tiến, đậm đà bản sắc dân tộc; con người được giải
phóng khỏi áp bức, bất công, có cuộc sống ấm no, tự do, hạnh phúc, phát
triểntoàn diện; các dân tộc trong cộng đồng Việt Nam bình đẳng, đoàn kết,
tương trợ và giúp đỡ nhau cùng tiến bộ; có nhà nước pháp quyền xã hội chủ
nghĩa của nhân dân, do nhân dân, vì nhân dân dưới sự lãnh đạo của Đảng Cộng
sản; có quan hệ hữu nghị và hợp tác với nhân dân các nước trên thế giới".
Trong thời đại ngày nay, mỗi quốc gia dân tộc đều có quyền lựa chọn con
đường, sự phát triển cho chính mình sao cho phù hợp với xu thế chung của thời
đại, với quy luật khách quan của lịch sử và nhu cầu, khát vọng của dân tộc. Do
vậy, Việt Nam đi lên CNXH là một tất yếu khách quan hoàn toàn phù hợp với xu
thế chung đó. Mặt khác, việc lựa chọn con đường đi lên chủ nghĩa xã hội
(CNXH) ở Việt Nam còn là yêu cầu của lịch sử, là khát vọng của dân tộc đã
được lịch sử lựa chọn từ những năm 1930, đó là sự lựa chọn duy nhất đúng đắn.
Hơn 80 năm qua, Đảng ta vẫn kiên định nhất quán con đường đi lên CNXH
trước những biến đổi sâu sắc của thời đại, đã biểu hiện bản lĩnh vững vàng của
Đảng và niềm tin tuyệt đối của dân tộc về con đường đi lên CNXH dưới sự lãnh
đạo đúng đắn của Đảng.
Trước thời cơ và vận hội, nguy cơ và thách thức đan xen nhau thì việc tìm
hiểu nhằm nâng cao nhận thức về con đường đi lên CNXH ở Việt Nam là việc
làm mang tính cấp thiết, có tầm quan trọng đặc biệt đối với nhận thức và hành
động của mỗi chúng ta trong giai đoạn hiện nay.
1. ĐI LÊN CHỦ NGHĨA XÃ HỘI Ở VIỆT NAM, SỰ LỰA CHỌN
DUY NHẤT ĐÚNG ĐẮN
1
1.1. Đi lên chủ nghĩa xã hội ở Việt Nam là phù hợp với quy luật khách
quan của lịch sử
Sự phát triển của xã hội loài người là sự thay thế kế tiếp nhau của các HT
KT-XH như một quá trình lịch sử tự nhiên. Loài người đã và đang tồn tại qua
năm HT KT-XH từ thấp đến cao: Từ HT KT-XH CSNT đến HT KT-XH CSCN
mà CNXH là giai đoạn đầu. Chính vì vậy, Việt Nam đi lên CNXH tức là đi vào
giai đoạn đầu của HT KT-XH CSCN. Vào năm 1930 trong Cương lĩnh đầu tiên,
Đảng ta đã khẳng định: Làm tư sản dân quyền cách mạng và thổ địa cách mạng
rồi đi tới xã hội cộng sản là hoàn toàn phù hợp với quy luật khách quan của lịch
sử.
Tuy nhiên, không phải bất cứ một quốc gia, dân tộc nào cũng phải lần lượt,
tuần tự qua đủ năm HT KT-XH, mà có những quốc gia dân tộc bỏ qua một hoặc
hai HT KT-XH nhưng vẫn bảo đảm sự phát triển. Ví dụ như Mỹ đi từ Bộ tộc lên
TBCN bỏ qua chế độ CHNL, phong kiến; Australia đi từ CHNL lên TBCN bỏ
qua chế độ phong kiến song các nước này hiện tại vẫn phát triển rất cao. Điều đó
được khẳng định rằng: Việt Nam đi lên CNXH bỏ qua giai đoạn phát triển
TBCN với tư cách một chế độ xã hội hoàn toàn phù hợp với quy luật khách quan
của lịch sử.
* Xem xét vấn đề bỏ qua
- CNM-LN cho rằng bỏ qua một HT KT-XH, một chế độ xã hội phải có sự
giúp đỡ của các nước tiên tiến đi trước.
- ĐCSVN khẳng định: Quá độ lên CNXH ở Việt Nam bỏ qua giai đoạn
phát triển TBCN với tư cách một chế độ xã hội.
- Vấn đề ở đây là bỏ qua cái gì? Bỏ qua như thế nào? Bỏ qua được không?
Trước hết, bỏ qua giai đoạn phát triển TBCN với tư cách một chế độ xã hội
ở Việt Nam là bỏ qua cái gì? Chính là bỏ qua sự thống trị của QHSX TBCN,
kiến trúc thượng tầng tư sản.
Hai là, bỏ qua giai đoạn phát triển TBCN với tư cách một chế độ xã hội ở
Việt Nam là bỏ qua thế nào? Chúng ta nên hiểu, bỏ qua không có nghĩa là phủ
định sạch trơn mà phải có sự kế thừa. Kế thừa sự phát triển của KHCN, LLSX,
KHQL, CSXH.,… Đây không phải là thành quả của GCTS mà là thành quả của
nhân loại chẳng qua GCTS ứng dụng trước mà thôi.
2
Ba là, bỏ qua giai đoạn phát triển TBCN với tư cách một chế độ xã hội ở
Việt Nam có được không? Trên cơ sở luận chứng khoa học là được với những
điều kiện cho phép sau:
+ Điều kiện thế giới:
Xu thế của thời đại ngày nay là xu thế toàn cầu hóa giúp cho các quốc gia
dân tộc xích lại gần nhau để chuyển giao công nghệ. Việt Nam đang thực hiện
CNH, HĐH đất nước gắn với phát triển kinh tế tri thức tức là đi tắt đón đầu
trong chuyển giao công nghệ nhằm xây dựng cơ sở vật chất kỹ thuật cho CNXH.
Xu thế hội nhập kinh tế quốc tế nhằm mở rộng quan hệ hợp tác kinh tế thế
giới. Việt Nam chủ động hội nhập trong QHQT vào Asean, WTO.,… từng lúc
nâng cao vị thế của mình trong khu vực và trên thế giới.
Vai trò ngày càng quan trọng của kinh tế tri thức tác động một cách mạnh
mẽ trên các lĩnh vực của đời sống xã hội. Đây là điều kiện để nước ta ứng dụng
KHCN và sản xuất nhất là công nghệ sinh học cho việc lai tạo cây giống, con
giống mới đáp ứng cho yêu cầu của sự nghiệp CNH, HĐH nông nghiệp, nông
thôn hướng đến nền nông nghiệp xanh, phát triển bền vững góp phần tích cực
cho việc xây dựng thành công nông thôn mới trên phạm vi cả nước.
Thời đại ngày nay vẫn là TKQĐ từ CNTB lên CNXH từ CMT1O Nga năm
1917. từ đó Việt Nam quá độ lên CNXH ở Việt Nam bỏ qua giai đoạn phát triển
TBCN với tư cách một chế độ xã hội là hoàn toàn phù hợp với quy luật khách
quan của lịch sử.
Hơn 25 năm đổi mới, mở cửa, hội nhập Đảng ta khẳng định: “Hợp tác bình
đẳng, cùng có lợi với tất cả các nước trên cơ sở những nguyên tắc cơ bản của
Hiến chương Liên hợp quốc và luật pháp quốc tế”.
“Trước sau như một ủng hộ các Đảng Cộng sản và công nhân, các phong
trào tiến bộ xã hội trong cuộc đấu tranh vì những mục tiêu chung của thời đại;
mở rộng quan hệ với các đảng cánh tả, đảng cầm quyền và những đảng khác trên
cơ sở bảo đảm lợi ích quốc gia, giữ vững độc lập, tự chủ, vì hoà bình, hữu nghị,
hợp tác và phát triển”.
“Tăng cường hiểu biết, tình hữu nghị và hợp tác giữa nhân dân Việt Nam
với nhân dân các nước trên thế giới”.
3
“Phấn đấu cùng các nước Hiệp hội các quốc gia Đông Nam Á (ASEAN)
xây dựng Đông Nam Á thành khu vực hoà bình, ổn định, hợp tác và phát triển
phồn vinh”. (Đảng Cộng sản Việt Nam, Văn kiện Đại hội Đại biểu toàn quốc lần
thứ XI. Nx. Chính trị Quốc gia - Sự thật, Hà Nội. 2011, tr. 84)
+ Tình hình trong nước.
Có ĐCSVN lãnh đạo với đường lối đúng; ý Đảng hợp lòng dân; dân tin Đảng.
Có đội ngũ cán bộ tuyệt đối trung thành với mục tiêu, lý tưởng của dân tộc,
xứng đáng là người đày tớ thật trung thành của nhân dân.
Có sự đồng thuận của nhân dân, nhân dân ta một lòng quyết tâm xây dựng
đất nước Việt Nam hòa bình, độc lập, thống nhất, dân chủ, giàu mạnh, văn minh
trên con đường đi lên CNXH.
Có lợi thế so sánh về vị trí địa lý, địa hình, tài nguyên thiên nhiên, nguồn
nhân lực.,.đây chính là cơ hội để thu hút đầu tư, chuyển giao công nghệ.
Hơn 25 năm đổi mới, mở cửa, hội nhập, Đảng ta khẳng định: “Dân tộc ta là
một dân tộc anh hùng, có ý chí vươn lên mãnh liệt; nhân dân ta có lòng yêu
nước nồng nàn, có truyền thống đoàn kết và nhân ái, cần cù lao động và sáng
tạo, luôn ủng hộ và tin tưởng vào sự lãnh đạo của Đảng; chúng ta đã từng bước
xây dựng được những cơ sở vật chất - kỹ thuật rất quan trọng; cuộc cách mạng
khoa học và công nghệ hiện đại, sự hình thành và phát triển kinh tế tri thức cùng
với quá trình toàn cầu hoá và hội nhập quốc tế là một thời cơ để phát
triển” (Đảng Cộng sản Việt Nam, Văn kiện Đại hội Đại biểu toàn quốc lần thứ
XI. Nxb. Chính trị Quốc gia - Sự thật, Hà Nội. 2011, tr. 71)
1.2. Việt Nam đi lên chủ nghĩa xã hội hoàn toàn phù hợp với quy luật
của cách mạng Việt Nam
Xuất phát từ điều kiện tự nhiên, vị trí địa lý, địa hình trong khu vực đã quy
định nên lịch sử truyền thống dân tộc Việt Nam đó là lịch sử dựng nước gắn với
giữ nước; độc lập dân tộc gắn liền với CNXH; xây dựng thành công CNXH gắn
liền với việc bảo vệ vững chắc Tổ quốc Việt Nam XHCN.
Từ lịch sử và truyền thống đã nêu, cho chúng ta thấy rõ lịch sử của Việt
Nam là lịch sử của công cuộc chống lại sức mạnh tự phát của tự nhiên trong quá
trình dựng nước. Đồng thời cũng là lịch sử của việc đương đầu chống lại sức
4
mạnh của các thế lực xâm lược trong suốt hơn một nghìn năm đô hộ của phong
kiến phương Bắc, 117 năm xâm lược của thực dân, đế quốc.
Trong cuộc kháng chiến chống thực dân Pháp và đế quốc Mỹ xâm lược,
117 năm là quá trình giành ĐLDT là tiền đề cơ bản để đi lên CNXH. Đây cũng
chính là quá trình thực hiện đường lối của cách mạng Việt Nam ĐLDT gắn liền
với CNXH như Cương lĩnh năm 1930 đã khẳng định: Làm tư sản dân quyền
cách mạng và thổ địa cách mạng rồi đi tới xã hội cộng sản .
Ngày nay, xây dựng thành công CNXH là điều kiện tiên quyết để bảo vệ
vững chắc Tổ quốc Việt Nam XHCN.
1.3. Đi lên chủ nghĩa xã hội ở Việt Nam là phù hợp với mục tiêu, lý
tưởng của dân tộc, được lịch sử lựa chọn từ những năm 1930
Bối cảnh lịch sử Việt Nam những năm trước 1930, nhiều xu hướng cứu
nước mang nhiều khuynh hướng tư tưởng khác nhau, song tất cả đều thất bại mà
nguyên nhân sâu xa chính là chưa có con đường cứu nước, cứu dân phù hợp với
xu thế của thời đại và khát vọng nghìn đời của dân tộc.
Trong hoàn cảnh ấy Nguyễn Ái Quốc ra đi tìm đường cứu dân, cứu nước
năm 1911, Người tìm đến CNM-LN và khẳng định: Muốn cứu nước, muốn giải
phóng dân tộc không có con đường nào khác con đường cách mạng vô sản.
Tiếp đó là chuẩn bị về tư tưởng, chính trị, tổ chức cho việc thành lập Đảng
Cộng sản Việt Nam ngày 03/02/1930 với Cương lĩnh đầu tiên khẳng định: Làm
tư sản dân quyền cách mạng và thổ địa cách mạng rồi đi tới xã hội cộng sản.
Đây là con đường phát triển của cách mạng Việt Nam phù hợp với xu thế
của thời đại và khát vọng nghìn đời của dân tộc được lịch sử lựa chọn.
1.4. Đi lên chủ nghĩa xã hội ở Việt Nam được thực tiễn kiểm nghiệm
bằng thành tựu của hơn 25 năm đổi mới
1. Nền kinh tế vượt qua nhiều khó khăn, thách thức, kinh tế vĩ mô cơ bản
ổn định, duy trì được tốc độ tăng trưởng khá, tiềm lực và quy mô nền kinh tế
tăng lên, nước ta đã ra khỏi tình trạng kém phát triển.
2. Giáo dục và đào tạo, khoa học và công nghệ, văn hoá và các lĩnh vực xã
hội có tiến bộ, bảo vệ tài nguyên, môi trường được chú trọng hơn; đời sống các
tầng lớp nhân dân được cải thiện
5
3. Quốc phòng, an ninh, đối ngoại được tăng cường độc lập, chủ quyền,
thống nhất, toàn vẹn lãnh thổ, chế độ xã hội chủ nghĩa, an ninh chính trị, trật tự,
an toàn xã hội được giữ vững.
4. Dân chủ xã hội chủ nghĩa có tiến bộ, sức mạnh đại đoàn kết toàn dân tộc
được củng cố
5. Việc xây dựng Nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa được đẩy mạnh,
hiệu lực và hiệu quả hoạt động được nâng lên
6. Công tác xây dựng, chỉnh đốn Đảng được tăng cường, đạt một số kết quả
tích cực
Những thành tựu đạt được trong thực hiện Cương lĩnh 1991 là to lớn và có
ý nghĩa lịch sử. Đất nước bước đầu thực hiện thành công công cuộc đổi mới, ra
khỏi tình trạng kém phát triển; bộ mặt của đất nước và đời sống của nhân dân có
nhiều thay đổi; sức mạnh về mọi mặt được tăng cường; độc lập, chủ quyền,
thống nhất, toàn vẹn lãnh thổ và chế độ xã hội chủ nghĩa được giữ vững; vị thế
và uy tín của Việt Nam trên trường quốc tế được nâng cao; tạo tiền đề để nước ta
tiếp tục phát triển mạnh mẽ hơn trong giai đoạn mới.
Nhìn tổng quát, hơn 25 năm qua, trong bối cảnh tình hình quốc tế và trong
nước có nhiều khó khăn, thách thức, nhất là do ảnh hưởng của cuộc khủng hoảng
tài chính, suy thoái kinh tế toàn cầu, toàn Đảng, toàn dân ta đã nỗ lực phấn đấu
đạt được những thành tựu quan trọng. Ứng phó có kết quả với những diễn biến
phức tạp của kinh tế thế giới và trong nước. Cơ bản giữ vững ổn định kinh tế vĩ
mô. Duy trì tốc độ tăng trưởng kinh tế khá, các ngành đều có bước phát triển, quy
mô nền kinh tế tăng lên; đời sống của nhân dân tiếp tục được cải thiện; chính trị xã hội ổn định; quốc phòng, an ninh được tăng cường; độc lập, chủ quyền, thống
nhất, toàn vẹn lãnh thổ được giữ vững; hoạt động đối ngoại, hội nhập quốc tế
được mở rộng, vị thế, uy tín quốc tế của nước ta được nâng cao; phát huy dân chủ
có tiến bộ, khối đại đoàn kết toàn dân tộc tiếp tục được củng cố; công tác xây
dựng Đảng và hệ thống chính trị đạt nhiều kết quả tích cực.
2. ĐI LÊN CHỦ NGHĨA XÃ HỘI Ở VIỆT NAM, SỰ LỰA CHỌN
KIÊN ĐỊNH NHẤT QUÁN
2.1. Sự kiên định nhất quán của ĐCS Việt Nam qua các kỳ đại hội
6
Từ Cương lĩnh 1930 Đảng ta khẳng định: Làm tư sản dân quyền cách mạng
và thổ địa cách mạng rồi đi tới xã hội cộng sản. Tức là đi vào giai đoạn đầu của
HT KT-XH CSCN mà CNXH là giai đoạn đầu.
Đến ĐH XI 2011, Đảng ta khẳng định: “Đi lên chủ nghĩa xã hội là khát
vọng của nhân dân ta, là sự lựa chọn đúng đắn của Đảng Cộng sản Việt Nam và
Chủ tịch Hồ Chí Minh, phù hợp với xu thế phát triển của lịch sử.” (Đảng Cộng
sản Việt Nam, Văn kiện Đại hội Đại biểu toàn quốc lần thứ XI. Nxb. CTQG - Sự
thật, Hà Nội. 2011, tr. 70).
Con đường đi lên CNXH ở Việt Nam được Đảng ta kiên định nhất quán,
vững vàng trong lãnh đạo: “Sự lãnh đạo đúng đắn của Đảng là nhân tố hàng đầu
quyết định thắng lợi của cách mạng Việt Nam. Đảng ta không có lợi ích nào
khác ngoài việc phụng sự Tổ quốc, phục vụ nhân dân. Đảng phải nắm vững, vận
dụng sáng tạo, góp phần phát triển chủ nghĩa Mác - Lênin và tư tưởng Hồ Chí
Minh, không ngừng làm giàu trí tuệ, nâng cao bản lĩnh chính trị, phẩm chất đạo
đức và năng lực tổ chức để đủ sức giải quyết các vấn đề do thực tiễn cách mạng
đặt ra. Mọi đường lối, chủ trương của Đảng phải xuất phát từ thực tế, tôn trọng
quy luật khách quan. Phải phòng, chống những nguy cơ lớn: sai lầm về đường
lối, bệnh quan liêu và sự thoái hoá, biến chất của cán bộ, đảng viên”. (Đảng
Cộng sản Việt Nam, Văn kiện Đại hội Đại biểu toàn quốc lần thứ XI. Nxb.
Chính trị quốc gia - Sự thật, Hà Nội. 2011, tr. 66)
“Từ năm 1930 đến nay, Đảng Cộng sản Việt Nam do Chủ tịch Hồ Chí Minh
sáng lập và rèn luyện, đã lãnh đạo nhân dân ta tiến hành cuộc đấu tranh cách
mạng lâu dài, gian khổ, vượt qua muôn vàn khó khăn, thử thách và giành được
những thắng lợi vĩ đại: Thắng lợi của Cách mạng Tháng Tám năm 1945, đập tan
ách thống trị của thực dân, phong kiến, lập nên nước Việt Nam Dân chủ Cộng
hoà, đưa dân tộc ta tiến vào kỷ nguyên độc lập, tự do; thắng lợi của các cuộc
kháng chiến chống xâm lược, mà đỉnh cao là chiến thắng lịch sử Điện Biên Phủ
năm 1954, đại thắng mùa Xuân năm 1975, giải phóng dân tộc, thống nhất đất
nước, bảo vệ Tổ quốc, làm tròn nghĩa vụ quốc tế; thắng lợi của công cuộc đổi
mới, tiến hành công nghiệp hoá, hiện đại hoá và hội nhập quốc tế, tiếp tục đưa đất
nước từng bước quá độ lên CNXH với nhận thức và tư duy mới đúng đắn, phù
7
hợp thực tiễn Việt Nam”. (Đảng Cộng sản Việt Nam, Văn kiện Đại hội Đại biểu
toàn quốc lần thứ XI. Nxb. Chính trị Quốc gia - ST, Hà Nội. 2011, tr. 63-64)
2.2. Đảng Cộng sản Việt Nam kiên định nhất quán trước sự sụp đổ của
CNXH hiện thực ở Đông Âu và Liên Xô
Trước sự điều chỉnh, thích nghi nhằm tồn tại của CNTB hiện đại, bước đầu
có những thành tựu nhất định, đó là việc đề ra và thực hiện chính sách xã hội
song, Đảng ta vẫn kiên định không đi theo CNTB hay CNXHDC Châu Âu vì
suy cho cùng bản chất của nó vẫn là chế độ chiếm hữu tư nhân TBCN về TLSX.
CNTB không phải là chế độ xã hội cuối cùng và duy nhất của loài người.
Trước sự sụp đổ của CNXH hiện thực ở Đông Âu và Liên Xô năm 1991,
lần nữa Đảng ta vẫn kiên định con đường đi lên CNXH với những thành tựu và
khuyết tật.
a.Thành tựu của CNXH hiện thực
Lần đầu tiên trong lịch sử, con người được giải phóng hoàn toàn từ địa vị
nô lệ trở thành người làm chủ trên mọi mặt của đời sống xã hội.
CNXH hiện thực từng cứu nhân loại khỏi nạn diệt chủng của chủ nghĩa
phát xít qua hai lần chiến tranh thế giới khốc liệt nhất.
CNXH hiện thực từng là chỗ dựa vững chắc cho PTCS và CNQT, PTGPDT
đấu tranh cho hòa bình, ĐLDT, dân chủ và tiến bộ xã hội.
CNXH hiện thực từng là lực đối trọng với CNĐQ, đứng đầu là Mỹ trên
nhiều lĩnh vực từ KT, CT, XH, đặc biệt là QP-AN, thăm dò và khai thác vũ trụ.
b.Khuyết tật của CNXH hiện thực
Do duy trì quá lâu cơ chế tập trung quan liêu, bao cấp khi nó không còn phù
hợp trở thành lực cản cho sự phát triển.
Khi phát hiện sai lầm, lại chủ quan, nóng vội, duy ý chí trong cải cách, cải
tổ, không xuất phát từ thực tế khách quan nên nhận thức và hành động không
tôn trọng quy luật.
Rơi vào âm mưu DBHB của CNĐQ, đứng đầu là Mỹ làm cho CNXH hiện
thực thoái trào, khủng hoảng và sụp đổ (31/12/1991).
Sự sụp đổ của CNXH hiện thực ở Đông Âu, Liên Xô là sự sụp đổ của mô
hình CNXH chủ quan nóng vội duy ý chí. Còn CNXH hiện thực sức sống vẫn
mãnh liệt, vẫn là sức hấp dẫn loài người tiến bộ trên thế giới.
8
Gần một thế kỷ lãnh đạo cách mạng Việt Nam, Đảng ta luôn kiên định nhất
quán con đường đi lên CNXH, Đảng ta khẳng định: “Với những thắng lợi đã
giành được hơn 80 năm qua, nước ta từ một xứ thuộc địa nửa phong kiến đã trở
thành một quốc gia độc lập, tự do, phát triển theo con đường XHCN; nhân dân
ta từ thân phận nô lệ đã trở thành người làm chủ đất nước, làm chủ xã hội; đất
nước ta đã ra khỏi tình trạng nước nghèo, kém phát triển, đang đẩy mạnh
CNH,HĐH, có quan hệ quốc tế rộng rãi, có vị thế ngày càng quan trọng trong
khu vực và trên thế giới”. (Đảng Cộng sản Việt Nam, Văn kiện Đại hội Đại biểu
toàn quốc lần thứ XI. Nxb. Chính trị Quốc gia - Sự thật, Hà Nội. 2011, tr. 64)
3. XÂY DỰNG CHỦ NGHĨA XÃ HỘI TRONG THỜI KỲ QUÁ ĐỘ Ở
VIỆT NAM HIỆN NAY
3.1. Mô hình CNXH
3.1.1. Theo C.Mác.
Cơ sở vật chất kỹ thuật của CNXH là nền đại công nghiệp.
Xoá bỏ chế độ tư hữu TBCN, xác lập chế độ công hữu XHCN về TLSX.
Tạo ra cách thức tổ chức lao động cùng với kỹ thuật và kỹ luật lao động mới.
Thực hiện nguyên tắc phân phối theo lao động.
Xây dựng nhà nước kiểu mới, thể hiện bản chất của GCCN.
Giải phóng con người, tạo điều kiện cho con người phát triển toàn diện.
3.1.2 Theo Đảng Cộng sản Việt Nam.
Dân giàu, nước mạnh, dân chủ, công bằng, văn minh.
Do nhân dân làm chủ.
Có nền kinh tế phát triển cao dựa trên lực lượng sản xuất hiện đại và quan hệ
sản xuất tiến bộ, phù hợp.
Có nền văn hóa tiên tiến, đậm đà bản sắc dân tộc.
Con người có cuộc sống ấm no, tự do, hạnh phúc, có điều kiện phát triển
toàn diện.
Các dân tộc trong cộng đồng Việt Nam bình đẳng, đoàn kết, tôn trọng và
giúp đỡ nhau cùng phát triển.
Có Nhà nước pháp quyền XHCN của dân, do dân, vì dân, do Đảng Cộng sản
Việt Nam lãnh đạo.
Có quan hệ hữu nghị và hợp tác với các nước trên thế giới.
9
(ĐCSVN, Văn kiện Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ XI, Nxb. CTQG-ST,
HN, Tr. 70).
3.2. Mục tiêu CNXH
Dân giàu, nước mạnh, dân chủ, công bằng, văn minh
3.3. Động lực xây dựng CNXH
Phát huy sức mạnh của khối đại đoàn kết toàn dân tộc trên nền tảng liên
minh giữa GCCN với GCND và TLTT đặt dưới sự lãnh đạo của ĐCS.
3.4. Thời gian xây dựng CNXH
Thế kỷ XXI là thế kỷ mà nhân dân ta thu được nhiều thành tựu to lớn trong
sự nghiệp xây dựng và bảo vệ CNXH.
Phấn đấu đến 2020 nước ta có nền công nghiệp phát triển theo hướng hiện
đại
Đến giữa TK XXI nước ta có nền công nghiệp hiện đại theo định hướng
XHCN
(ĐCSVN, Văn kiện Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ XI, Nxb. CTQG-ST,
HN, Tr. 71).
3.5. Phương hướng, giải pháp xây dựng CNXH
Đẩy mạnh CNH, HĐH đất nước gắn với phát triển kinh tế tri thức, bảo vệ
tài nguyên, môi trường.
Phát triển nền kinh tế thị trường định hướng XHCN.
Xây dựng nền văn hoá tiên tiến, đậm đà bản sắc dân tộc; xây dựng con
người, nâng cao đời sống nhân dân, thực hiện tiến bộ và công bằng xã hội.
Bảo đảm vững chắc quốc phòng và an ninh quốc gia, trật tự, an toàn xã hội.
Thực hiện đường lối đối ngoại độc lập, tự chủ, hòa bình, hữu nghị, hợp tác
và phát triển; chủ động và tích cực hội nhập quốc tế.
Xây dựng nền dân chủ XHCN, thực hiện đại đoàn kết toàn dân tộc, tăng
cường và mở rộng mặt trận dân tộc thống nhất.
Xây dựng Nhà nước pháp quyền XHCN của dân, do dân, vì dân.
Xây dựng Đảng trong sạch, vững mạnh.
(ĐCSVN, Văn kiện Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ XI, Nxb CTQG-ST,
HN, Tr. 72).
10
KẾT LUẬN
Từ những vấn đề lý luận đã nêu trên, thực tiễn của công cuộc đổi mới do
Đảng Cộng sản Việt Nam khởi xướng và lãnh đạo hơn 25 năm qua với những
thành tựu hết sức khả quan, cho phép chúng ta khẳng định dưới sự lãnh đạo
đúng đắn của Đảng và sự đồng thuận của nhân dân, con đường đi lên lên CNXH
ở Việt Nam nhất định kết thúc thắng lợi. CNXH hiện thực sức sống vẫn mãnh
liệt, mãi mãi vẫn là sức hấp dẫn đối với loài người tiến bộ, yêu chuộng hòa bình
trên thế giới. Toàn Đảng, toàn dân và toàn quân ta quyết tâm đồng thuận một
lòng xây dựng một nước Việt Nam hòa bình, độc lập, thống nhất, dân chủ, giàu
mạnh và văn minh trên con đường quá độ đi lên CNXH. Làm cho vị thế của Việt
Nam ngày càng trở nên quan trọng trong khu vực và trên thế giới. Dân tộc Việt
Nam bước đến đài vinh quang, sánh vai cùng các cường quốc năm châu trên thế
giới.
Từ nhận thức một cách đúng đắn, triệt để và nhất quán về con đường đi lên
CNXH ở Việt Nam đã giúp cho mỗi chúng ta có cái nhìn toàn diện hơn về
những thuận lợi, khó khăn; những thời cơ, vận hội; nguy cơ và thách thức đan
xen nhau để từ đó với quyết tâm chính trị cao chúng ta phải phấn đấu vượt qua,
tránh được căn bệnh chủ quan, nóng vội, duy ý chí; trong nhận thức phải xuất
phát từ thực tế khách quan tôn trọng và hành động theo quy luật.
11
DANH MỤC TÀI LIỆU THAM KHẢO
1. Đảng Cộng sản Việt Nam, Văn kiện Đại hội Đại biểu toàn quốc lần thứ XI.
Nxb. Chính trị Quốc gia - Sự thật, Hà Nội. 2011, tr. 71
2. Đảng Cộng sản Việt Nam, Văn kiện Đại hội Đại biểu toàn quốc lần thứ XI.
Nxb. CTQG - Sự thật, Hà Nội. 2011, tr. 70
3. Đảng Cộng sản Việt Nam, Văn kiện Đại hội Đại biểu toàn quốc lần thứ XI.
Nxb. Chính trị quốc gia - Sự thật, Hà Nội. 2011, tr. 66
4. Đảng Cộng sản Việt Nam, Văn kiện Đại hội Đại biểu toàn quốc lần thứ XI.
Nxb. Chính trị Quốc gia - ST, Hà Nội. 2011, tr. 63-64
5. ĐCSVN, Văn kiện Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ XI, Nxb. CTQG-ST,
HN, Tr. 70
6. ĐCSVN, Văn kiện Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ XI, Nxb. CTQG-ST,
HN, Tr. 71
7. ĐCSVN, Văn kiện Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ XI, Nxb CTQG-ST,
HN, Tr. 72
8.
Đảng Cộng sản Việt Nam, Văn kiện Đại hội Đại biểu toàn quốc lần thứ XI.
Nx. Chính trị Quốc gia - Sự thật, Hà Nội. 2011, tr. 84
12