ĐẠI HỌC QUỐC GIA HÀ NỘI
ĐẠI HỌC KHOA HỌC XÃ HỘI VÀ NHÂN VĂN
KHOA TRIẾT HỌC
ĐỀ TÀI NIÊN LUẬN
“SỰ TIẾP BIẾN TƯ TƯỞNG ĐÔNG TÂY CỦA PHAN CHÂU TRINH
VỀ CHÍNH TRỊ”
Giáo viên hướng dẫn
: PGS.TS. Trần Thị Hạnh
Người thực hiện
: Đặng Thị Minh Diễm
Lớp
: K62 Triết học
MSSV
: 17031761
Hà Nội – 2020
1
MỤC LỤC
MỞ ĐẦU ........................................................................................................4
1.
2.
3.
4.
5.
6.
Lý do chọn đề tài ..................................................................................4
Tổng quan tình hình nghiên cứu đề tài ..............................................5
Mục đích và nhiệm vụ nghiên cứu.......................................................6
Đối tượng và phạm vi nghiên cứu .......................................................7
Phương pháp nghiên cứu .....................................................................7
Ý nghĩa nghiên cứu ..............................................................................7
CHƯƠNG 1: ĐIỀU KIỆN, TIỀN ĐỀ CƠ BẢN CHO SỰ CHUYỂN BIẾN TƯ
TƯỞNG CỦA PHAN CHÂU TRINH
1
2
Tình hình kinh tế - chính trị - xã hội cuối thế kỷ XIX – đầu thế kỷ
XX…………………………………………………………………….8
1
Thế giới cuối thể kỷ XIX đầu thế kỷ XX ........................................8
2
Chuyển biến chính trị - kinh tế - xã hội Việt Nam .........................9
Tiền đề tư tưởng cơ bản cho sự chuyển biến tư tưởng của Phan Châu
Trinh ......................................................................................................12
1
Tư tưởng chính trị Nho giáo ở Việt Nam........................................12
2
Sự du nhập tư tưởng phương Tây vào Việt Nam ...........................14
3
Tư tưởng cải cách, duy tân ở Nhật Bản từ thế kỷ XX đến đầu thế kỷ XX
........................................................................................................
3
........................................................................................................17
4
Tư tưởng cải cách, duy tân, cách mạng Trung Quốc.....................18
Cuộc đời và sự nghiệp của Phan Châu Trinh ...................................20
CHƯƠNG 2: NỘI DUNG ĐẶC ĐIỂM CƠ BẢN CỦA TƯ TƯỞNG CHÍNH TRỊ
PHAN CHÂU TRINH
2.1. Phê phán nền quân chủ phong kiến và chế độ thuộc địa của Việt Nam
...........................................................................................................................25
2.2. Tư tưởng về cơ chế nhà nước và quản lý nhà nước của Phan Châu Trinh
...........................................................................................................................28
2
2.3. Tư tưởng của Phan Châu Trinh về phương pháp cách mạng..............33
2.4. Đánh giá sự tiếp biến tư tưởng của Phan Châu Trinh về chính trị ....35
2.4.1. Giá trị và ý nghĩa lịch sử ...............................................................35
2.4.2. Hạn chế trong tư tưởng chính trị của Phan Châu Trinh................38
KẾT LUẬN .....................................................................................................42
DANH MỤC TÀI LIỆU THAM KHẢO ......................................................43
MỞ ĐẦU
1.
Lý do chọn đề tài
Tư tưởng Việt Nam cuối thế kỷ XIX đầu thế kỷ XX phát triển phong phú
sinh động nhưng cũng nhiều biến động. Những vấn đề lý luận và thực tiễn lớn về
giữ gìn các giá trị truyền thống và tiếp thu các giá trị mới được du nhập; kết hợp
giữa các tư tưởng triết học phương Đông và phương Tây đều hướng vào việc giải
quyết các nhiệm vụ thực tiễn đặt ra trong lịch sử cũng như đương đại. Lịch sử đã
minh chứng, trong thời kỳ khủng hoảng tư tưởng, lực lượng nòng cốt của công
cuộc tiếp thu, đổi mới tư tưởng và xã hội cuối thể kỷ XIX đầu thế kỷ XX là đội
ngũ trí thức, đi tiên phong là các nho sĩ duy tân yêu nước. Đặc biệt là quá trình
chuyển biến , đổi mới tư tưởng của Phan Châu Trinh cuối thế kỷ XIX đầu thế kỷ
XX diễn ra trong những bối cảnh những biến chuyển của lịch sử xã hội Việt Nam
3
và thế giới với tư cách người trí thức luôn tự nhiệm với dân tộc. Có thể nói sự tiếp
biến tư tưởng Đông Tây của các nhà Nho nói chung và của Phan Châu Trinh nói
riêng thể hiện logic phát triển của lịch sử tư tưởng Việt Nam, đáp ứng yêu cầu lịch
sử xã hội.
Quá trình chuyển biến tư tưởng của Phan Châu Trinh về mặt chính trị ttrong
giai đoạn này có vai trò như là dấu gạch nối cần thiết cho sự truyền bá và phát triển
của tư tưởng cách mạng vào Việt Nam giai đoạn sau. Do vậy, việc nghiên cứu quá
trình chuyển biến tư tưởng của nho sĩ Việt Nam, đặc biệt là sự tiếp biến tư tưởng
Đông Tây của Phan Châu Trinh cuối thế kỷ XIX đầu thế kỷ XX, theo tôi, vừa là đề
tài nghiên cứu khoa học cơ bản, vừa góp phần giải quyết các vấn đề thực tiễn của
công cuộc đổi mới và phát triển đất nước hiện nay. Chính vì vậy dưới đây tôi xin
phép được trình bày rõ hơn về “sự tiếp biến tư tưởng Đông Tây của Phan Châu
Trinh về chính trị “.
2.
Tổng quan tình hình nghiên cứu đề tài
Có thể nói rằng Phan Châu Trinh là một trong những nhà cách mạng, nhà tư
tưởng lớn của Việt Nam vào những năm cuối thế kỷ XIX đầu thế kỷ XX. Nghiên
cứu về Phan Châu Trinh và tư tưởng của ông đã thu hút được sự quan tâm đông
đảo của các nhà khoa học nhà nghiên cứu về nhiều vấn đề với nhiều công trình
khác nhau. Các công trình đó tập trung chủ yếu theo một số hướng nghiên cứu
chính như sau:
Hướng thứ nhất là các công trình nghiên cứu riêng về cuộc đời sự nghiệp của
Phan Châu Trinh. Tiểu biểu nhất phải kể đến là các công trình: “ Phan Châu Trinh
thân thế và sự nghiệp”, nhà xuất bản Đà Nẵng, năm 1992 của giáo sư Huỳnh Lý.
Tiếp đến là “tuyển tập Phan Châu Trinh”, xuất bản Đà Nẵng, năm 1995 của
4
Nguyễn Văn Dương. Ngoài ra còn có tác phẩm “Phan Châu Trinh cuộc đời và tác
phẩm”, nhà xuất bản thành phố Hồ Chí Minh năm 1987 của Nguyễn Quang Thắng
. “Phong trào Duy Tân với khuôn mặt tiêu biểu “, nhà xuất bản Văn hóa Thông tin
Hà Nội, năm 2006 của Nguyễn Quang Thắng.
Hướng thứ hai là các công trình nghiên cứu cụ thể nội dung bước chuyển biến
tư tưởng Phan Châu Trinh ở giai đoạn lịch sử cuối thế kỷ XIX đầu thế kỷ XX qua
đó chỉ ra ý nghĩa và hạn chế của tư tưởng. Trước hết phải kể đến các công trình có
liên quan như “Việt Nam cuối thế kỷ XIX đầu thế kỷ XX”, nhà xuất bản Chính trị
quốc gia Hà Nội, năm 2005 của tập thể tác giả Phó giáo sư Tiến sĩ Trương Văn
Trung, Phó giáo sư Tiến sĩ Doãn Chính đồng chủ biên. “ Quá trình chuyển biến tư
tưởng chính trị Việt Nam cuối thế kỷ 19 đầu thế kỷ thứ 20 qua các nhân vật tiêu
biểu” của Phó giáo sư Tiến sĩ Phạm Chính và thạc sĩ Phạm Đào Thịnh.
Cũng theo hướng nghiên cứu này còn có các hội thảo về chuyên đề vấn đề
Phan Châu Trinh do các nghiên cứu sinh chuyên ngành triết học và lịch sử chủ trì
năm 1964 - 1965 năm 1964 (số 66 67 68) là hàng loạt bài đánh giá Phan Châu
Trinh của tác giả Duy Minh. “Góp mấy ý kiến đánh giá Phan Châu Trinh” của tác
giả lượng Khê . Tác giả Nguyễn Đức với bài “Phan Chu Trinh với nhiệm vụ chống
Đế quốc trong cách mạng Việt Nam”,…
Như vậy các công trình nghiên cứu trên đây đã đề cập nhiều vấn đề khác
nhau và đã đạt được những kết quả nhất định cả về mặt lý luận thực tiễn. Tuy nhiên
xét ở nhiều phương diện có thể nhận thấy chưa có một công trình nào đi sâu cụ thể
về sự tiếp biến tư tưởng Đông Tây của Phan Châu Trinh về chính trị cuối thế kỷ
XIX đầu thế kỷ XX, do vậy vấn đề này vẫn cần phải tiếp tục nghiên cứu.
3.
Mục đích, nhiệm vụ nghiên cứu
5
Mục đích: Đề tài nhằm mục đích nghiên cứu và trình bày để làm rõ quá trình
tiếp biến tư tưởng Đông Tây của Phan Châu Trinh về chính trị ở giai đoạn cuối thế
kỷ XIX đầu thế kỷ XX. Qua đó chỉ ra ý nghĩa lịch sử và một số những hạn chế
trong tư tưởng chính trị của Phan Châu Trinh.
Nhiệm vụ nghiên cứu: Để đạt được mục đích đề ra như trên, cần phải tập trung
giải quyết các nội dung sau :
+ Thứ nhất: Khái quát điều kiện, tiền đề cơ bản cho sự chuyển biến tư tưởng của
Phan Châu Trinh. Trong đó làm rõ tình hình kinh tế - chính trị - xã hội của cả thế
giới nói chung và Việt Nam nói riêng và làm rõ về phần tiểu sử, cuộc đời của Phan
Châu Trinh.
+ Thứ hai: Nội dung cơ bản sự tiếp biến tư tưởng Đông Tây của Phan Châu Trinh
về chính trị. Sau đó chỉ ra ý nghĩa và hạn chế trong tư tưởng của Phan Châu Trinh.
4. Đối tượng và phạm vi nghiên cứu
Đối tượng nghiên cứu: Sự tiếp biến tư tưởng Đông Tây của Phan Châu
Trinh.
Phạm vi nghiên cứu: Nghiên cứu sự tiếp biến tư tưởng Đông Tây của Phan
Châu Trinh về chính trị, trong giai đoạn lịch sử cuối thế kỷ XIX đầu thế kỷ XX.
5. Phương pháp nghiên cứu
Phương pháp nghiên cứu: Phân tích dựa trên phép biện chứng duy vật, các
quan điểm lịch sử cụ thể và phát triển toàn diện. Ngoài ra còn sử dụng và kết hợp
một số phương pháp như: phương pháp phân tích và tổng hợp, phương pháp logic
và lịch sử, phương pháp tìm kiếm thông tin.
6
6. Ý nghĩa nghiên cứu
Kết quả nghiên cứu công trình này có ý nghĩa về mặt triết học ở chỗ đã làm
rõ những nội dung cơ bản “ Sự tiếp biến tư tưởng Đông Tây của Phan Châu Trinh
về chính trị”. Trong đó làm rõ về các tư tưởng cơ bản như quan niệm về nhà nước.
về cơ chế quản lý nhà nước của Phan Châu Trinh. Qua quá trình phân tích làm rõ
các vấn đề trên, công trình nghiên cứu này đã rút ra những giá trị hạn chế và những
bài học lịch sử của tư tưởng chính trị Phan Chu Trinh.
CHƯƠNG 1: ĐIỀU KIỆN, TIỀN ĐỀ CƠ BẢN CHO SỰ CHUYỂN BIẾN TƯ
TƯỞNG CỦA PHAN CHÂU TRINH
1.1.
1.1.1.
Tình hình kinh tế - chính trị - xã hội cuối thế kỷ XIX – đầu thế kỷ XX
Thế giới cuối thể kỷ XIX đầu thế kỷ XX
Trong giai đoạn những năm cuối thế kỷ XIX - đầu của thế kỷ XX, thế giới
đã có những biến đổi to lớn, tác động mạnh mẽ đến sự hình thành tư tưởng chính
trị của Phan Châu Trinh như: sự phát triển của chủ nghĩa tư bản, chủ nghĩa thực
dân cũ chuyển sang giai đoạn chủ nghĩa đế quốc. Các cuộc xâm lược của chủ nghĩa
đế quốc đã tác động rất lớn đến độc lập dân tộc của các nước trên thế giới, đặc biệt
là Phương Đông. Nhằm chống lại sự bành trướng xâm lược của chủ nghĩa thực
7
dân, các nước Phương Đông, tiêu biểu là Nhật Bản, Trung Quốc đã có những cuộc
Canh tân làm chuyển biến tình hình xã hội.
Sự bành trướng của chủ nghĩa thực dân cũ cuối thế kỷ XIX đầu thế kỷ XX
đã làm cho tình hình thế giới biến đổi rất lớn trên tất cả các mặt của đời sống xã
hội, đồng thời cũng đã tác động mạnh mẽ đời sống xã hội Việt Nam. Trong quá
trình phát triển của chủ nghĩa tư bản, do sự phát triển không đồng đều của nó, nên
đã dẫn đến các cuộc khủng hoảng kinh tế – xã hội.
Đầu thế kỷ XX, chủ nghĩa tư bản trải qua cuộc khủng hoảng kinh tế năm
1900 – 1903, dẫn đến tổng khủng hoảng và cuộc chiến tranh thế giới lần thứ nhất
từ năm 1914 đến 1918. Theo, V.I Lênin, tính chất cuộc chiến tranh là chiến tranh
đế quốc chủ nghĩa nhằm mục đích cướp bóc các nước khác, bóp nghẹt các dân tộc
nhược tiểu, thống trị thế giới về mặt tài chính, chia và chia lại thuộc địa [80, 18].
Đồng thời, để mở rộng thị trường, các nước tư bản đã tiến hành chiến tranh xâm
lược các dân tộc Phương Đông, dẫn đến sự biến đổi sâu sắc các mặt của đời sống
xã hội như chính trị, văn hoá, xã hội, … ở các nước Phương Đông.
Cuối thế kỷ XIX đầu thế kỷ XX, phong trào cách mạng vô sản thế giới phát
triển ngày càng mạnh mẽ, đặc biệt là cách mạng Tháng Mười Nga (1917) thành
công, chế độ xã hội chủ nghĩa xuất hiện, ghi dấu ấn đậm nét trong tư duy chính trị
của các nhà tư tưởng Việt Nam, tạo ra sự chuyển biến nhất định về tư tưởng vào
những năm hai mươi của thế kỷ XX. Sự thành công của Cách mạng Tháng Mười
Nga (1917) dẫn đến sự ra đời chế độ xã hội chủ nghĩa đã trở thành điểm nhấn quan
trọng trong tư duy của dân tộc Việt Nam.
1.1.2.
Chuyển biến chính trị - kinh tế - xã hội Việt Nam
Trong trào lưu xâm lược thuộc địa của chủ nghĩa tư bản phương Tây, từ năm
1858 thực dân Pháp bắt đầu tiến công quân sự để chiếm Việt Nam. Sau khi đánh
8
chiếm được nước ta, thực dân Pháp thiết lập bộ máy thống trị thực dân và tiến hành
những cuộc khai thác nhằm cướp đoạt tài nguyên, bóc lột nhân công rẻ mạt và mở
rộng thị trường tiêu thụ hàng hóa.
Từ năm 1897, thực dân Pháp tiến hành chương trình khai thác thuộc địa lần thứ
nhất và sau Chiến tranh thế giới thứ nhất (1914-1918), chúng tiến hành chương
trình khai thác thuộc địa lần thứ hai ở Đông Dương với số vốn đầu tư trên quy mô
lớn, tốc độ nhanh. Do sự du nhập của phương thức sản xuất tư bản chủ nghĩa, tình
hình kinh tế Việt Nam có sự biến đổi: quan hệ kinh tế nông thôn bị phá vỡ, hình
thành nên những đô thị mới, những trung tâm kinh tế và tụ điểm cư dân mới.
Nhưng thực dân Pháp không du nhập một cách hoàn chỉnh phương thức tư bản chủ
nghĩa vào nước ta, mà vẫn duy trì quan hệ kinh tế phong kiến. Chúng kết hợp hai
phương thức bóc lột tư bản và phong kiến để thu lợi nhuận siêu ngạch. Chính vì
thế, nước Việt Nam không thể phát triển lên chủ nghĩa tư bản một cách bình
thường được, nền kinh tế Việt Nam bị kìm hãm trong vòng lạc hậu và phụ thuộc
nặng nề vào kinh tế Pháp.
Về chính trị: Thực dân Pháp tiếp tục thi hành chính sách chuyên chế với bộ
máy đàn áp nặng nề. Mọi quyền hành đều thâu tóm trong tay các viên quan cai trị
người Pháp, từ toàn quyền Đông Dương, thống đốc Nam Kỳ, khâm sứ Trung Kỳ,
thống sứ Bắc Kỳ, công sứ các tỉnh, đến các bộ máy quân đội, cảnh sát, toà án...;
biến vua quan Nam triều thành bù nhìn, tay sai. Chúng bóp nghẹt tự do, dân chủ,
thẳng tay đàn áp, khủng bố, dìm các cuộc đấu tranh của dân ta trong biển máu.
Chúng tiếp tục thi hành chính sách chia để trị rất thâm độc, chia nước ta làm ba kỳ,
mỗi kỳ đặt một chế độ cai trị riêng và nhập ba kỳ đó với nước Lào và nước
Campuchia để lập ra liên bang Đông Dương thuộc Pháp, xóa tên nước ta trên bản
đồ thế giới. Chúng gây chia rẽ và thù hận giữa Bắc, Trung, Nam, giữa các tôn giáo,
9
các dân tộc, các địa phương, thậm chí là giữa các dòng họ; giữa dân tộc Việt Nam
với các dân tộc trên bán đảo Đông Dương.
Về kinh tế: Thực dân Pháp tiến hành cuộc khai thác thuộc địa Đông Dương
lần thứ nhất (1897 - 1914); khai thác thuộc địa lần thứ hai (1919- 1929), trong đó
lấy Việt Nam là trọng điểm. Tư bản Pháp bỏ vốn nhiều nhất vào nông nghiệp (lập
các đồn điền cao su, cà phê, chè...) và ngành khai mỏ (chủ yếu là than, sẳt, thiếc,
vàng...) để thu lợi nhuận nhiều và nhanh. Tư bản Pháp xây dựng ngành giao thông
vận tải đường bộ, đường sắt, phát triển các cơ sở công nghiệp chế biến; độc quyền
ngoại thương. Ngân hàng Đông Dương của Pháp độc quyền tài chính, đặt ra hàng
trăm thứ thuế, tàn ác nhất là thuế thân; thi hành rộng rãi chính sách cho vay nặng
lãi. Kết quả là nền kinh tế nước ta có sự phát triển mức độ nào đó theo hướng tư
bản chủ nghĩa nhưng là nền kinh tế thuộc địa, mất cân đối, phụ thuộc vào Pháp.
Về văn hóa: Chúng thi hành triệt để chính sách văn hóa nô dịch, gây tâm lý
tự ti, vong bản, khuyến khích các hoạt động mê tín dị đoan, đồi phong bại tục. Mọi
hoạt động yêu nước của nhân dân ta đều bị cấm đoán. Chúng tìm mọi cách bưng
bít và ngăn chặn ảnh hưởng của nền văn hóa tiến bộ trên thế giới vào Việt Nam và
thi hành chính sách ngu dân để dễ bề thống trị.
Về xã hội: Các cuộc khai thác thuộc địa của thực dân Pháp ảnh hưởng mạnh
mẽ đến tình hình xã hội Việt Nam. Sự phân hoá giai cấp diễn ra ngày càng sâu sắc
hơn.
+ Giai cấp địa chủ phong kiến đã tồn tại hơn ngàn năm. Chủ nghĩa tư bản
thực dân được đưa vào Việt Nam và trở thành yếu tố bao trùm, song vẫn không xóa
bỏ mà vẫn bảo tồn và duy trì giai cấp địa chủ để làm cơ sở cho chế độ thuộc địa.
Tuy nhiên, do chính sách kinh tế và chính trị phản động của thực dân Pháp, giai
10
cấp địa chủ càng bị phân hóa thành ba bộ phận khá rõ rệt: tiểu, trung và đại địa
chủ. Có một số địa chủ bị phá sản..
+ Giai cấp nông dân chiếm khoảng 90% dân số. Họ bị đế quốc, phong kiến
địa chủ và tư sản áp bức, bóc lột rất nặng nề.
+ Giai cấp tư sản hình thành trong quá trình khai thác thuộc địa của thực dân
Pháp. Trước Chiến tranh thế giới thứ nhất, tư sản Việt Nam mới chỉ là một tầng lớp
nhỏ bé. Sau chiến tranh, tư sản Việt Nam đã hình thành giai cấp rõ rệt. Ra đời trong
điều kiện bị tư bản Pháp chèn ép, cạnh tranh rất gay gắt, nên số lượng tư sản Việt
Nam không nhiều, thế lực kinh tế nhỏ bé, thế lực chính trị yếu đuối.
Trong quá trình phát triển, giai cấp tư sản Việt Nam phân thành hai bộ phận: Bộ
phận thứ nhất là tư sản mại bản là những tư sản lớn, hợp tác kinh doanh với đế
quốc, bao thầu những công trình xây dựng của chúng ở nước ta. Bộ phận thứ hai là
tư sản dân tộc là bộ phận đông nhất trong giai cấp tư sản, bao gồm những tư sản
loại vừa và nhỏ, thường hoạt động trong các ngành thương nghiệp, công nghiệp và
cả tiểu thủ công nghiệp.
+ Giai cấp tiểu tư sản bao gồm nhiều bộ phận khác nhau: tiểu thương, tiểu
chủ, thợ thủ công, viên chức, trí thức, học sinh, sinh viên và những người làm nghề
tự do.
+ Giai cấp công nhân là sản phẩm trực tiếp của chính sách khai thác thuộc
địa của Pháp và nằm trong những mạch máu kinh tế quan trọng do chúng nắm giữ.
Lớp công nhân đầu tiên xuất hiện vào cuối thế kỷ XIX, khi thực dân Pháp xây
dựng một số cơ sở công nghiệp và thành phố phục vụ cho việc xâm lược và bình
định của chúng ở nước ta. Giai cấp công nhân Việt Nam có những đặc điểm chung
của giai cấp công nhân quốc tế, đồng thời còn có những điểm riêng của mình như:
phải chịu ba tầng lớp áp bức bóc lột (đế quốc, phong kiến và tư sản bản xứ); phần
11
lớn vừa mới từ nông dân bị bần cùng hóa mà ra, nên có mối quan hệ gần gũi nhiều
mặt với nông dân.
Nước Việt Nam trong thời kỳ thực dân Pháp xâm lược đã có những biến
chuyển sâu sắc về chính trị, kinh tế, văn hóa, xã hội. Việt Nam từ một xã hội phong
kiến thuần tuý đã biến thành một xã hội thuộc địa. Mặc dù thực dân còn duy trì
một phần tính chất phong kiến, song khi đã thành thuộc địa thì tất cả các mặt chính
trị, kinh tế, văn hóa, xã hội và giai cấp ở Việt Nam đều bị đặt trong quỹ đạo chuyển
động của xã hội đó.
1.2.
Tiền đề tư tưởng cơ bản cho sự chuyển biến tư tưởng của Phan Châu
Trinh
1.2.1.
Tư tưởng chính trị Nho giáo ở Việt Nam
Sự phát triển của chế độ phong kiến tập quyền đã đưa Nho giáo lên địa vị
độc tôn, thống trị xã hội Việt Nam từ thế kỷ XV đến đầu thế kỷ XX. Tầng lớp trí
thức dù xuất thân từ quý tộc, địa chủ hay nông dân đều là sản phẩm của nền giáo
dục Nho giáo, gọi là nho sĩ. Sau khi họ Nguyễn lên làm vua nhằm bảo vệ sự
chuyên chế cực đa nghi, nhà Nguyễn sử dụng một bộ máy quan liêu to lớn, dùng
Nho thần thay thế các công thần. Cho nên ngay từ đầu đã quan tâm mở rộng học và
thi, quan tâm việc đề cao Nho giáo. Nho giáo thời Nguyễn phát đạt hơn các triều
đại trước (số lượng người đi thi, người đậu đạt, số lượng sách vở…) nhưng cũng có
khuynh hướng bảo thủ, khắc nghiệt hơn. Nho học ở nước ta vốn đã được truyền bá
rộng rãi và lâu đời ở miền Bắc và phát triển theo hướng Đường Tống, từ chương
nhiều hơn nghĩa lý.
Sự hưng thịnh của Phật giáo và Đạo giáo ở Việt Nam vào thế kỷ XVII chứng
tỏ rằng, Nho giáo có mặt yếu kém, hạn chế, nên phải lùi bước để giành chỗ đứng
cho Phật giáo, Đạo giáo. Sự yếu kém của Nho giáo ở Việt Nam lúc này, trước hết,
biểu hiện về mặt nghĩa lý. Điều đó thể hiện ở sự giảm sút niềm tin của giai cấp
12
thống trị, của tầng lớp Nho sĩ vào giá trị và tính hiệu quả của Nho giáo trên bình
diện Nho giáo là đạo trị nước và là nhân sinh quan.
Với tư cách là đạo trị nước, Nho giáo vẫn không giúp cho người ta chấm
dứt được cảnh loạn lạc, thực hiện sự ổn định xã hội. Với tư cách là nhân sinh quan,
Nho giáo không giải thích được nguyên nhân của mọi nỗi đau khổ trên trần gian và
những số phận bi đát của con người. Trong trường hợp này, thuyết thiên mệnh hay
thiên lý của Nho giáo tỏ ra đơn giản, có nhiều hạn chế, không thoả mãn được yêu
cầu của con người. Tuy nhiên, suốt từ thời Mạc cho đến Lê trung hưng, Phật giáo,
Đạo giáo hay bất cứ một tôn giáo nào khác cũng vẫn không thay thế được Nho
giáo ở cương vị của một đạo trị nước, một học thuyết về quản lý xã hội và tổ chức
hành chính. Vì vậy, chính quyền của họ Trịnh ở ngoài Bắc hay của họ Nguyễn ở
trong Nam vẫn phải đề cao Nho giáo và mở mang giáo dục khoa cử theo Nho học
một cách đều kỳ. Do đó, hết thế hệ Nho sĩ này đến thế hệ Nho sĩ khác được tái sản
xuất một cách liên tục. Đó chính là cơ sở xã hội vững chắc cho sự tồn tại của Nho
giáo trong xã hội phong kiến ở nước ta.
Tư tưởng chống đối với chế độ chuyên chế và Nho giáo khắc nghiệt không
xuất hiện trong nghị luận của các nhà tư tưởng mà xuất hiện trong văn học.Ở thế
kỷ XVIII trong ngâm khúc và truyện nôm đã xuất hiện một khuynh hướng nhân
đạo chủ nghĩa, chống lễ giáo, đòi hỏi giải phóng cá nhân. Đến đây xu hướng đó lại
phát triển cao hơn trong Truyện Kiều và thơ Nguyễn Du. Nguyễn Công Trứ đầu
tiên là người say mê với nghĩa quân thân, với hào khí nam nhi, say sưa cổ vũ và ra
sức phục vụ cho những giáo điều Tống Nho, cho chế độ chuyên chế, nhưng cuối
cùng tỉnh ngộ, phẫn uất tố cáo ông Trời hay đố kỵ "trẻ không thương mà già cũng
không tha". Cao Bá Quát trẻ hơn cũng hăng hái nhập thế bằng con đường học vấn,
cuối cùng cũng uất ức tố cáo thực tế xấu xa đến nỗi nổi lên "làm loạn",…
13
Thực trạng xã hội Việt Nam từ nửa cuối thế kỷ XIX đã gây nên cuộc khủng
hoảng về ý thức hệ và sự phân hóa đội ngũ nho sĩ ngày càng rõ rệt. Trước hết là sự
hình thành những trí thức yêu nước, quyết định ly khai triều đình nhà Nguyễn,
phản đối chủ trương cầu hòa của triều đình. Trong cuộc đấu tranh không cân sức
này, nho sĩ nhiệt huyết yêu nước thương dân nhưng bị thất bại do hạn chế về nhiều
mặt, trong đó chủ yếu là hệ tư tưởng phong kiến vẫn chỉ đạo hoạt động của họ.
Logic của lịch sử và tư tưởng thôi thúc các sĩ phu yêu nước của thế hệ tiếp theo tìm
hệ tư tưởng mới, chủ trương mới, con đường mới giải phóng dân tộc.
1.2.2.
Sự du nhập tư tưởng phương Tây vào Việt Nam
Cuối thế kỉ XIX đầu thế kỉ XX thực dân Pháp đã xác lập nền cai trị của
chúng trên đất nước ta. Xã hội Việt Nam chuyển từ xã hội phong kiến độc lập sang
xã hội phong kiến nửa thuộc địa. Điều đó đã tác động mạnh mẽ đến chủ thể văn
hóa Việt Nam, chủ thể văn hóa truyền thống bị phân hóa, xuất hiện những lớp cư
dân mới ngoài "tứ dân". Cùng với sự du nhập phương thức kinh tế tư bản chủ
nghĩa một lực lượng lao động mới xuất hiện. Họ là những người nông dân, thợ thủ
công thời phong kiến, bị chính sách bần cùng hoá làm phá sản và xô đẩy ra khỏi
làng mạc đến sống tập trung ở các công trường xây dựng, các xí nghiệp, nhà máy,
hầm mỏ, đồn điền, bán sức lao động làm thuê cho tư sản (tư sản Pháp, Hoa, Việt
Nam) và trở thành những người công nhân hiện đại. Đến năm 1906 công nhân Việt
Nam có khoảng 55.000 người, đến trước chiến tranh thế giới thứ nhất tăng lên
khoảng 10 vạn người và thành một giai cấp mới - giai cấp công nhân Việt Nam.
Sau chiến tranh thế giới thứ nhất, tư sản Pháp đổ xô vào khai thác thuộc địa thì
công nhân Việt Nam tăng lên nhanh chóng. Đến năm 1929 đã có trên 22 vạn người
làm thuê cho Pháp, khoảng 10 vạn làm thuê cho Việt Nam… Đây là một lực lượng
lao động mới trong dây chuyền sản xuất tư bản, họ sống, làm việc và quan hệ xã
14
hội đã vượt ra ngoài khuôn khổ làng xã, nông dân và nông thôn. Họ trở thành một
bộ phận mới trong chủ thể Việt Nam.
Sự tiếp xúc với nền kinh tế tư bản đã sản sinh ra những nhà thầu khoán,
những nhà làm đại lý cho giới tư sản Pháp, những nhà kinh doanh công thương
nghiệp Việt Nam. Họ là những người vừa thoát ra từ nền kinh tế phong kiến đang
học tư bản để kinh doanh, quản lý và sản xuất công nghiệp, làm chủ hiệu buôn, chủ
nhà máy, xí nghiệp, đồn điền. Tầng lớp này ngày càng đông hơn và hợp thành giai
cấp tư sản Việt Nam.
Phương thức kinh tế tư bản du nhập vào Việt Nam đã tác động mạnh vào quá
trình đô thị hóa. Phố xá xuất hiện, các thành phố cận đại ra đời và lớp cư dân đô thị
hình thành. Họ là những người thợ thủ công, những người buôn bán, những người
làm thuê trong nhà máy, xí nghiệp, các bến xe, bến tàu, bến cảng, là những công
chức trong guồng máy cai trị, những nhà tư sản và tiểu tư sản. Lớp cư dân này phát
triển nhanh sau chiến tranh thế giới thứ nhất. Lớp cư dân thành thị sống hoàn toàn
khác trước. Họ không còn là những cư dân nông nghiệp sống tản mạn trong các
làng quê yên tĩnh mà trở thành lớp thị dân sống tập trung ở các thành phố, thị xã,
những trung tâm kinh tế với hoạt động công thương sôi động hàng ngày.
Xã hội thuộc địa còn tồn tại một tầng lớp trí thức Tây học biết tiếng Pháp,
hiểu văn hóa Pháp và xuất hiện một lực lượng sáng tác mới: những người làm báo,
viết truyện ngắn, viết kịch, viết tiểu thuyết, dịch thuật… Văn nghệ sĩ trở thành một
chức nghiệp: viết văn bán cho công chúng, đáp ứng yêu cầu văn hóa của cư dân
thành thị. Lớp thị dân trở thành một bộ phận mới của chủ thể văn hóa Việt Nam.
Chẳng hạn như quan hệ giữa các quan cai trị người Pháp và người Việt trong bộ
máy chính quyền thuộc địa (Hội đồng cơ mật, Hội đồng bảo hộ, Hội đồng thuộc
địa, Hội đồng dân biểu…); quan hệ giữa tư sản nước ngoài với tư sản dân tộc, quan
hệ giữa chủ và thợ, quan hệ giữa tư sản và vô sản, quan hệ giữa thầy và trò trong
15
hệ thống trường học. Các mối quan hệ trên đã tác động vào chủ thể văn hóa Việt
Nam thúc đẩy quá trình biến đổi chủ thể văn hóa theo hướng văn minh phương
Tây.
Trong quá trình tiếp xúc giao thoa văn hóa, chủ thể văn hóa Việt Nam xuất
hiện những thái độ khác nhau đối với văn hóa Đông - Tây. Một số cho rằng cần
phải kết hợp để Âu hóa hoàn toàn. Một bộ phận khác nhìn nhận những mặt trái của
văn hóa phương Tây để phê phán đi theo văn hóa phương Tây là không thỏa đáng.
Từ những thái độ khác nhau với văn hóa Đông - Tây, chủ thể văn hóa Việt Nam
phân hoá thành hai trường phái văn hóa: phái cựu học và phái tân học. Phái cựu
học khư khư bài ngoại, luôn cho mình là văn minh, người nước ngoài là mọi rợ nên
không đề cập đến chính thuật, tài năng của người nước ngoài. Trọng vương, rẻ bá
nên không bàn đến máy móc tinh xảo và sự giàu mạnh của nước ngoài, cái gì cũng
cho là xưa phải nay trái, nên không chịu xem xét, bàn luận chính kiến của người
sau . Họ chống sự xâm lược của thực dân Pháp và chống luôn Âu hóa, coi việc đi
làm cho Pháp, học tiếng Pháp là vong Tổ. Thực ra phái cựu học có cái lý của họ.
Bởi sự tiếp xúc với văn hóa Phương Tây trực diện là chính sách văn hóa nô dịch
của chính quyền thực dân nhằm ngu dân để dễ bề cai trị, một mặt muốn gây ảnh
hưởng tinh thần để nắm lấy trí thức, thanh niên phục vụ nền thống trị thuộc địa lâu
dài của chúng. Nhưng một mặt khác chúng ngăn chặn mọi yếu tố tiến bộ của văn
hóa Phương Tây có thể gây ảnh hưởng tích cực đến tinh thần, tư tưởng người Việt
Nam. Đồng thời nó gieo rắc tư tưởng tự ti dân tộc bằng cách xuyên tạc nguồn gốc
giá trị văn hóa Việt Nam. Họ cho rằng văn hóa Việt Nam bắt nguồn từ Trung Hoa,
Ấn Độ để phủ nhận văn hóa bản địa - nền văn minh Sông Hồng của người Việt.
1.2.3.
Tư tưởng cải cách, duy tân ở Nhật Bản từ thế kỷ XX đến đầu thế kỷ XX
Trong quá trình phát triển của mình, lịch sử tư tưởng Nhật Bản hầu như
không có hiện tượng độc tôn về tư tưởng. Đặc trưng này là do nền văn hóa Nhật
16
Bản có tính chất mở của một quốc gia hải đảo, người Nhật Bản vốn sớm hình
thành phong cách tư duy độc lập, tự chủ, duy lý. Ở thế kỷ XIX, do nền chính trị
phong kiến phân quyền với những đặc tính văn hóa – xã hội của mỗi vùng, tầng
lớp thị dân, đô thị phát triển cũng tạo điều kiện cho sự phát triển đa dạng các học
thuyết, quan điểm, học phái, có những cuộc đấu tranh tư tưởng, học phái.
Giữa thế kỷ XIX, trong quá trình vận động cải cách, vai trò của các tầng lớp
trong xã hội đối với tiến trình cải cách có khác nhau, tạo ra đặc trưng của phong
trào cũng như tư tưởng cải cách, Duy tân Nhật Bản. Do điều kiện chính trị, xã hội
phong kiến ở Nhật Bản, mặc dù Nho giáo được coi là hệ tư tưởng chính thống của
giai cấp phong kiến nhưng trí thức Nho sĩ lại không trở thành một tầng lớp có tính
thuần nhất. Tầng lớp võ sĩ trong xã hội phong kiến Nhật Bản tuy giữ vai trò quản
lý xã hội, nên mặc dù giữa họ có sự khác nhau về địa vị xã hội và kinh tế nhưng lại
có đặc điểm chung là lối sống coi trọng sự thẳng thắn, trung thực, ưa hành động,
coi trọng các giá trị thực tế, dám nghĩ, dám làm, sẵn sàng chịu trách nhiệm trước
các quyết định của cá nhân mình, hy sinh tính mạng vì danh dự và quyền lợi của
dân tộc. Do vậy, trong tiến trình cải cách Nhật Bản cuối thế kỷ XIX đầu thế kỷ XX,
đẳng cấp võ sĩ là lực lượng tiên phong và giữ vai trò quyết định.
Sang đầu thế kỷ XX, tầng lớp võ sĩ và trí thức Tây học là lớp người tiếp tục
phát triển tư tưởng Duy tân và thực hiện Duy tân xã hội trong nhiều lĩnh vực. Họ là
những nhà tư tưởng và nhà hoạt động Duy tân nổi tiếng như: Fukuzawa Yukichi
(1834 - 1901), Mori Arinori (1847 - 1889), Nakamura Masanao (1832 - 1891),
Kato Hiroyuki (1836 - 1916), Nishi Amane (1829 - 1897)… Trong không khí của
một đất nước đang thực hiện công cuộc Minh Trị Duy tân, họ đã dịch sách Phương
Tây, viết sách, mở trường học theo lối Phương Tây, thực học, thực dụng để nâng
cao dân trí, đào tạo thanh niên trở thành những người gánh vác trọng trách xây
dựng Nhật Bản văn minh.
17
Như vậy, về cơ bản, các tư tưởng cải cách, Duy tân Nhật Bản cuối thế kỷ
XIX, đầu thế kỷ XX và tác động của nó tới xã hội Nhật Bản đã để lại dấu ấn lịch
sử và là cơ sở tiền đề để hình thành nên những thành tố mới, tạo quá trình chuyển
biến phát triển mới trong kết cấu hệ tư tưởng Phương Đông, trong đó có Việt Nam.
Các nhà tư tưởng Việt Nam đầu thế kỷ XX, trong đó có Phan Châu Trinh đã coi
Nhật Bản như một tấm gương của các dân tộc châu Á đã tự tìm con đường để độc
lập, phú cường, đứng ngang hàng với Phương Tây..
1.2.4.
Tư tưởng cải cách, duy tân, cách mạng Trung Quốc
Trong khi Nhật Bản có những biển đổi lớn lao trong mọi lĩnh vực của đời
sống xã hội cuối thế kỷ XIX đầu thế kỷ XX, thì ở Trung Quốc, xã hội vẫn nằm
trong tình trạng trì trệ, bảo thủ của chế độ phong kiển. Trí thức tiến bộ của Trung
Quốc bắt đầu hướng sự chú ý sang Nhật Bản, nhất là sau khi Trung Quốc thua
Nhật Bản trong cuộc chiến tranh Trung — Nhật thì họ càng cúng cô nhận thức răng
Trung Quốc muốn tồn tại được thì phải duy tân theo Nhật Bản. Họ khuyên khích
những thanh niên Trung Quốc học tiếng Nhật để có thể đọc được những cuốn sách
phương Tây đã được dịch sang tiếng Nhật, các tác phẩm của các tác giả người Nhật
viết. Giữ vai trò quan trọng trong phong trào Đông học ở Trung Quốc là nhóm của
Lương Khải Siêu.
Ở Trung Quốc tư tưởng Canh tân của Khang Hữu Vi (1858 – 1927), Lương
Khải Siêu (1873 – 1929), Tôn Trung Sơn (1866 – 1925) có ảnh hưởng rất lớn đến
Việt Nam. Tư tưởng Lương Khải Siêu và Khang Hữu Vi do ảnh hưởng của tư
tưởng nhân quyền, tư tưởng khế ước xã hội, tư tưởng pháp quyền Phương Tây, nên
đã thực hiện một cuộc đả phá mạnh mẽ đối với quan niệm “Thiên bất biến, đạo
diệc bất biến” về chính trị nhằm bảo vệ quyền lợi giai cấp phong kiến, nó tồn tại
rất dai dẳng, đã kìm hãm sự phát triển của lịch sử xã hội Trung Quốc và Việt Nam.
18
Khang Hữu Vi là một nhà tư tưởng Canh tân lớn của Trung Quốc thời cận
đại. Về tư tưởng chính trị của ông, nổi bật là: chủ trương xây dựng một xã hội “đại
đồng” lý tưởng, thiên hạ là của chung, mọi người đều bình đẳng như nhau, không
có sự phân biệt giàu hay nghèo, nam hay nữ, thần hay người, chủng tộc này hay
chủng tộc kia. Trong xã hội đại đồng không có vua chúa, quốc gia thành cộng
đồng, mọi người đều tham gia sản xuất, thực hiện công bằng xã hội . Tuy nhiên, tư
tưởng chính trị của ông là tư tưởng phi giai cấp, không thừa nhận đấu tranh giai
cấp, chưa đánh giá đúng vai trò của quần chúng nhân dân, mà trái lại, quá đề cao
vai trò của cá nhân, anh hùng sáng tạo ra lịch sử. Khang Hữu Vi còn đưa ra thuyết
Tam thế, cho rằng xã hội loài người luôn luôn vận động và phát triển. Đây là quan
điểm khá tiến bộ, có giá trị chống lại quan điểm duy tâm về lịch sử “Thiên bất
biến, đạo diệc bất biến”. Quan điểm chính trị của Khang Hữu Vi, mang màu sắc
của chủ nghĩa nhân đạo tư sản, sự ảnh hưởng tư tưởng phong kiến vẫn chưa được
khắc phục triệt để. Tư tưởng của ông thể hiện một tư duy chính trị khá sắc bén, mở
đầu cho sự phát triển tư duy chính trị của Trung Quốc đáp ứng yêu cầu phát triển
của thời đại.
Tiếp thu và kế thừa tư tưởng của Khang Hữu Vi, Lương Khải Siêu với chủ
trương “biến pháp”, theo quan niệm của ông thì “biến pháp” trước hết là đổi mới
quan niệm về cái gọi là “quốc gia”. Quốc gia không thể xem là “tài sản tư hữu của
vua chúa khanh tướng” mà phải là “của chung của dân chúng trong nước”. Tư
tưởng của ông thể hiện một sự đổi mới khá triệt để so với tư tưởng tôn quân quyền
của hệ tư tưởng Nho giáo.
Có thể nói, những trị thức khoa học của phương Tây, những hiểu biết về
phương Tây của trí thức Trung Quốc thời kỳ này đều được tiếp thu thông qua các
tác phẩm dịch của Nhật Bản. Khi các học giả Trung Quốc tiếp thu tư tưởng duy tân
từ Nhật Bản và phương Tây trong hoàn cảnh Trung Quốc còn có chút ít chủ quyền
19
nên việc đó được tiến hành công khai. Mở trường, xuất bản sách, bảo, tạp chí và
ngay cả biến pháp đêu được tiền hành công khai, từ vua, quan đến kẻ sĩ, thương
nhân, bình dân. Cũng giông như người Nhật Bản, người Trung Quốc duy tân là đề
tự cường, từ đó có thể tránh sự xâm lược của thực dân phương Tây.
Như vậy tư tưởng duy tân đã góp phần nâng cao tầm vóc tư duy lý luận, đặc
biệt là tư duy lý luận chính trị của các nhà tư tưởng Việt Nam lúc bấy giờ, trong đó
có tư tưởng chính trị của Phan Châu Trinh.
1.3.
Cuộc đời và sự nghiệp của Phan Châu Trinh (1972 – 1926)
Phan Châu Trinh tự là Tử Cán, hiệu Tây Hồ, biệt hiệu Hy Mã, sinh ngày
9/9/1872 tại làng Tây Lộc, xã Tam Phước nay là xã Tam Lộc, Tam Kỳ, Tỉnh Quảng
Nam. Cha là Phan Văn Bình - một nhân sĩ của phong trào Cần Vương..
Năm 28 tuổi Phan Châu Trinh đỗ Cử nhân ( năm 1900), năm 29 tuổi đỗ Phó bảng (
năm 1901), cùng khoa với Phó bảng Nguyễn Sinh Huy (thân sinh của Nguyễn Ái
Quốc).
Năm 1902, Phan Châu Trinh được triều đình nhà Nguyễn bổ nhiệm làm
Thừa Biện (một chức quan nhỏ) Bộ Lễ và đến năm 1904 cụ xin từ quan. Phan Chu
Trinh trước đó đã cùng Phan bội Châu và Vũ Phương Trứ (Cử nhân trường Nghệ.
Năm 1905 ông cùng bạn đồng chí là Trần Quí Cáp, Huỳnh Thúc Kháng đi vào
Nam để tìm bạn đồng tâm và xem xét tình hình đất nước. Đến Bình Định, gặp kì
khảo hạch, ông cùng hai bạn giả danh vào ứng hạch làm bài thơ Chí thành thông
thánh và hai bạn làm bài phú Danh sơn Lương Ngọc, gây chấn động trong học
giới, chính giới, văn giới. Trong bài thơ Chí thành thông thánh Phan Châu Trinh đã
chất vấn các học trò rằng: “ Muôn dân làm tôi tớ dưới ách cường quyền mà sao các
20
anh vẫn còn say sưa trong giấc mộng cử nghiệp? Nếu mãi trăm năm cam chịu sỉ
nhục thì biết ngày nào mới thoát khỏi chỗ cũi lồng?” 1
Sau đó, Phan Châu Trinh trở về Quảng Nam, rồi ra Nghệ Tĩnh, thẳng ra Hà
Nội, liên kết với trí thức yêu nước lập nên phong trào Đông kinh nghĩa thục. Năm
1906 ông bí mật đi Nhật, gặp Phan Bội Châu trao đổi ý kiến và đã kịch liệt công
kích chủ trương bạo động cũng như chủ trương ngoại viện bằng một câu thơ đanh
thép:
“ Bất bạo động, bạo động tắc tử
Bái vọng ngoại, vọng ngoại giả ngu.”
(Không bạo động, bạo động ắt chết
Không hướng bên ngoài, hướng bên ngoài là ngu)
Đồng bào ta, người nước ta, ai mà ham mến tự do, tôi xin có một vật rất quý báu
tặng cho đồng bào, là “Chi Bằng Học” 2
Ở Nhật về, ông tích cực hoạt động với chủ trương: thức tỉnh lòng dân, tạo
dân khí mạnh, đề cao Dân quyền. Ông gửi cho Toàn quyền Paul Beau một bản điều
trần (quen gọi là Đầu Pháp chính phủ thư: Thư gởi chính phủ Pháp) vạch trần chế
độ quân chủ chuyên chế thối nát, yêu cầu nhà cầm quyền Pháp phải thay đổi thái
độ đối với sĩ dân nước Việt và sửa đổi chính sách cai trị để giúp người Việt từng
bước tiến lên văn minh.. Đường lối cứu nước của ông là dựa vào lí tưởng cách
mạng Pháp để tiến hành cải cách.Ông không tán thành chủ trương võ trang bạo
động của Phan Bội Châu lúc đương thời.
1 Theo Lời giới thiệu Thơ văn Phan Châu Trinh trong Phan Châu Trinh Toàn tập (2005), Tập 1, , trang 16
2 Trích trong Bài báo “ Hiện trạng vấn đề” được Phan Châu Trinh viết bằng chữ Hán đăng lần đầu năm 1907 trên
Đại Việt Tân báo (tức Đăng Cổ Tùng Báo đổi tên).
21
Tháng 7-1907, Phan Châu Trinh ra Hà Nội tham gia giảng dạy ở Đông Kinh
nghĩa thục, những buổi diễn thuyết của ông có rất đông người đến nghe. Ông mở
rộng giao du với cả một số người Pháp. Năm 1908 phong trào Duy tân lên mạnh
mà đỉnh cao là vụ chống thuế ở miền Trung xuất phát từ tỉnh Quảng Nam, thực dân
và triều đình Huế cho là ông khởi xưởng, bắt ông tại Hà Nội, giải về Huế, rồi kết
án đày đi Côn Đảo. Hội Nhân quyền Pháp can thiệp, ông được trả tự do trước hạn
tù đưa về quản thúc ở Mĩ Tho (nay thuộc tỉnh Tiền Giang) vào năm 1911. Ngay
trong năm này, do yêu cầu của ông, chính quyền Đông Dương buộc lòng chấp nhận
cho ông sang Pháp. Tại Pháp, ông liên lạc mật thiết với Nguyễn Ái Quốc, Phan
Văn Trường. Tại đây ông làm nghề chữa ảnh để mưu sinh và nuôi con là Phan
Châu Dật ăn học; Chẳng bao lâu con bị bệnh mất, ông mang vết thương lòng.
Năm 1914, ông bị Pháp bắt giam ở nguc La Santé vì tình nghi tư thông với Đức
ngót 9 tháng mới được thả. Khi Sang Pháp, ông ở nhà luật sư Phan Văn Trường,
mở một hiệu sửa ảnh, sống thanh bạch (Nguyễn Tất Thành cũng từng làm việc tại
cửa hiệu của ông). Ông tìm cách liên hệ với những người trong Liên minh Nhân
quyền và Đảng Xã hội Pháp. Ông cũng có những cuộc tiếp xúc với các nhóm Việt
kiều và các đảng phái tiến bộ, thảo luận vấn đề độc lập, tự do, dân chủ.
Ngày 19/6/1919, ông cùng với Phan Văn Trường, Nguyễn Thế Truyền và
Nguyễn Tất Thành soạn "Bản Yêu sách của nhân dân An Nam" gửi cho Hội nghị
Versailles, ký tên chung là Nguyễn Ái Quốc, làm nổ ra "quả bom chính trị" chấn
động tại nước Pháp. Năm 1920, Phan Châu Trinh hội kiến với Bộ trưởng Bộ thuộc
địa Anbe Sarô đòi hỏi cải cách chính trị ở Đông Dương. Năm 1922, vua Khải Định
sang Pháp dự đấu xảo Marseille, ông viết một bức thư dài buộc tội Khải Định 7
điều và khuyên vua về nước gấp đừng làm nhục quốc thể (quen gọi là Thất điều
trần hay Thư thất điều). Năm 1925 ông trở về nước, ngụ ở Sài Gòn diễn thuyết hai
lần: Đạo đức và luân lý Đông Tây và Quân trị chủ nghĩa và dân trị chủ nghĩa
22
Cuối cùng Phan Châu Trinh lâm bệnh nặng và mất tại Sài Gòn vào ngày 24-31926 hưởng hương 54 tuổi.
Một số tác phẩm tiêu biểu
- Thi phẩm Tỉnh quốc hồn ca (2 tập) hiệu triệu, thức tỉnh đồng bào, tạo dân khí
mạnh, đề cao dân quyền - (tập I: 468 câu, tập II: 500 câu).
- Tập thơ Tây hồ và Santé thi tập (1914-1915) gồm khoảng 50 bài thơ chữ Hán và
hơn 200 bài thơ chữ quốc ngữ .
- Đầu Pháp chính phủ thư (gửi toàn quyền Beau sau khi ông đi Nhật về) .
- Hợp quần doanh sinh thuyết quốc âm tự, 1907 (bài tựa chữ Nôm kêu gọi toàn dân
tổ chức đoàn thể, mở mang thực nghiệp để mưu cầu hạnh phúc).
- Hiện Trạng Vấn Đề (còn gọi là bài Kêu gọi "Chi bằng học"), báo Đăng Cổ Tùng
Báo, 1907 .
- Tuồng Trưng nữ vương bình ngũ lãnh, 1910 biểu dương tinh thần bất khuất của
Hai Bà Trưng và bày tỏ ý hướng duy tân.
- Trung Kỳ dân biến thỉ mạt ký, 1911 gửi cho Hội Nhân quyền và Dân quyền ở
Paris - Giai nhân kỳ ngộ diễn ca (1913-1915) nội dung nói về sự gặp gỡ lạ lùng của
một đôi trai tài gái sắc trên đất Mỹ.
- Ký Khải Định hoàng đế thư (còn gọi là Thư thất điếu gởi vua Khải Định), 1922 thư chữ Hán gửi Khải Định khi ông sang Pháp làm điều ám muội mà Phan Châu
Trinh cho là một điều sỉ nhục với quốc thể.
23
- Bức thư trả lời cho một người học trò tên Đông, 1925, ý kiến với một du học sinh
Việt Nam tại Pháp về một loạt liên hệ tới tình hình đất nước và đường lối thực hiện
để cứu nước .
- Quân trị chủ nghĩa và Dân trị chủ nghĩa, Đạo đức và luân lý Đông Tây, 1925, là
hai bài diễn văn của ông đọc tại nhà Hội thanh niên Sài Gòn, sau khi ông từ Pháp
trở về .
- Đông Dương chính trị luận, 1926, là một bản án thực dân về những tệ chính và tệ
trạng với hệ thống chặt chẽ, rõ ràng...
- Pháp Việt liên hiệp hậu chi Tân Việt Nam, bản thảo chữ Hán trình bày đường lối
chính trị của ông về mộ nước Việt Nam mới sau khi thi hành chính sách "Liên hiệp
Pháp Việt".
CHƯƠNG 2: NỘI DUNG ĐẶC ĐIỂM CƠ BẢN CỦA TƯ TƯỞNG CHÍNH
TRỊ PHAN CHÂU TRINH
2.1. Phê phán nền quân chủ phong kiến và chế độ thuộc địa của Việt Nam
Ngay trong khoảng thời gian làm việc ở triều đình Huế, Phan Châu Trinh đã
tìm đọc các sách có chứa đựng những tư tưởng dân chủ của Phương Tây và thế
giới qua các tân thư tân văn của Trung Quốc, Nhật Bản. Nhờ đó, ông hiểu rằng học
khoa cử là lạc hậu, nhưng không biết phải khắc phục bằng cách nào. Đến khi được
tiếp xúc với tư tưởng mới, ông mới tìm thấy lối thoát.
Phan Châu Trinh cho rằng, chế độ phong kiến Việt Nam đã thực sự thối nát,
mục ruỗng, nhu nhược, nên đã để cho quyền lực chính trị rơi vào thực dân Pháp.
24
Bộ máy của chế độ phong kiến là bù nhìn, như quân trên bàn cờ tướng: “Một ông
tướng lác đứng trong cung, Sĩ tượng khoanh tay chẳng vẫy vùng”3. Tầng lớp Nho
sĩ vẫn chìm đắm trong hư văn, chưa kịp chuyển biến theo thời thế: “Việc đời nhìn
lại thấy chẳng còn gì, sông núi không còn nước mắt để khóc các bậc anh hùng.
Muôn nhà làm tôi tớ dưới ách cường quyền, nhiều người đang ngủ mê trong giấc
mộng văn chương bát cổ”4.
Trong sách Pháp Việt liên hiệp hậu chi tân Việt Nam, Phan Châu Trinh đã kể
lại rằng, “năm 1902 (năm Nhâm Dần), tôi được đọc sách mới do ông Đào Nguyên
Phổ tặng và lấy làm sướng quá và nói: Đây là lúc dùng cái khùng cái ngu này
vậy”. Từ đó, ông càng hăng hái tuyên truyền chống chế độ phong kiến, nhất là tập
đoàn vua quan triều đình Huế, và cổ súy cho tư tưởng dân chủ.
Quan điểm chính trị của Phan Châu Trinh đã đạt đến độ tương đối chín
muồi (hoàn thiện) sau mấy năm được đọc các sách mới (tân thư, tân văn), và nhất
là được tiếp xúc với nhiều trí thức có tư tưởng tiến bộ ở cả trong và ngoài nước,
trong đó có một khoảng thời gian ở Quảng Đông ( Trung Quốc) và Nhật Bản. Tư
tưởng đó được thể hiện rất rõ trong thư gửi Toàn quyền Bô (Paul Beau) với tiêu đề
Đầu Pháp Chính phủ thư. Trong Thư gửi Toàn quyền Đông Dương - Phan Châu
Trinh viết: “… một dân tộc đến 20 triệu người, kẻ có học thức cũng đến vài mươi
vạn, mà tối tăm mù mịt, mềm yếu ươn hèn… đã bao năm nay người Nam ở dưới
bóng cờ Bảo hộ, mà đến bây giờ ngày một yếu hèn…. “ 5
Giai đoạn cuối thế kỷ XIX đầu thế kỷ XX, thực dân Pháp xâm lược và biến
nước ta thành xã hội thuộc địa, nửa phong kiến. Chế độ phong kiến Việt Nam cùng
3 Nguyễn Văn Dương (1995). Tuyển tập Phan Châu Trinh. Nxb Đà Nẵng, 1995, tr.71
4 Dẫn theo: Nguyễn Văn Dương. Sđd., tr.74.
5 Phan Châu Trinh Toàn tập (2005), Tập II, NXB Đà Nẵng, trang 53
25