Kết quả nghiên cứu Khoa học
BVTV - Số 4/2019
NGHIÊN CỨU ĐỊNH DANH LOÀI VÀ SỰ DI CƢ KHỎI NƠI BẢN ĐỊA CỦA LOÀI
MỌT ĐỤC THÂN CHÂU Á Xylosandrus crassiusculus (Motschulky, 1866)
(Coleoptera: Curculionidae) Ở AUSTRALIA
The Identification Method and Migration of Asian Ambrosia Beetle Xylosandrus
crassiusculus (Motschulky, 1866) (Coleoptera: Curculionidae) in Australia
1
1
2
1
Trần Xuân Hƣng , Phạm Quang Thu , Simon A. Lawson , Đào Ngọc Quang , Nguyễn Minh Chí
Ngày nhận bài: 22.07.2019
1
Ngày chấp nhận: 09.08.2019
Abstract
Xylosandrus crassiusculus (Motschulsky, 1866), a granulate ambrosia beetle, is an important member of the
genus Xylosandrus and also known as the Asian ambrosia beetle. This species is native to East and South East
of Asia such as in Japan, Thailand and Taiwan. Currently, this species has spread across almost all regions over
the world and to be considered as a high-risk quarantine pest in many countries. This study aims to identify to
species and discover the migration of ambrosia beetle X. crassiusculus. The result of this study determined the
population structure of X. crassiusculus divided into the two main clusters, in which the South East Asia
population includes the population in New South Wales, Thailand and Madagasscar; the island population
consists of the population in Queensland, North America and South America. The phylogenetic determination of
X. crassiusculus suggested that the trading using wood packing material in shipping may potentially become a
migration pathway of X. crassiusculus from native ranges to introduced regions.
Keywords: ambrosia beetle, Xylosandrus crassiusculus, phylogeny
1. ĐẶT VẤN ĐỀ
*
Mọt đục thân là nhóm loài thuộc bộ cánh
cứng (Coleoptera) bao gồm các phân họ
Scolytinae và Platypodinae. Các loài mọt đục
thân thường mang theo một số loài nấm như
Ambrosiella sp., Ophiostoma sp. và Graphium
sp. trên mảnh lưng ngực, miệng và đầu. Các loài
nấm này sẽ xâm nhiễm vào cây trong quá trình
mọt đào hang, phát triển và hình thành hệ sợi
ngay bên trong hang mọt và được sử dụng làm
thức ăn cho sâu non và mọt trưởng thành (Vega
and Hofstetter, 2014; Schowalter, 2016). Chính vì
vậy, các loài mọt đục thân trở thành loài gây hại
nguy hiểm đối với các loài ký cây chủ.
Mọt đục thân Xylosandrus crassiusculus
(Motschulsky, 1866) được biết đến với tên
thường gọi là mọt đục thân châu Á, một loài mọt
gây hại phổ biến trong giống Xylosandrus. Đây là
loài bản địa của châu Á, phạm vi phân bố chủ
yếu ở phía Đông và Đông Nam châu Á như Nhật
Bản, Thái Lan và Đài Loan (Storer et al., 2017).
Tuy nhiên, thông qua việc vận chuyển hàng hóa
thương mại toàn cầu mà loài mọt đục thân X.
crassiusculus phát tán đến nhiều nơi trên thế giới
và gây hại trên gần 200 loài ký cây chủ. Do vậy,
1. Forest Protection Research Centre, VAFS
2. University of the Sunshine Coast, Australia
20
loài mọt đục thân này được xem là loài ngoại lai
nguy hiểm và trở thành đối tượng kiểm dịch thực
vật có nguy cơ gây hại cao tại nhiều nước như
New Zealand và Mỹ (Reding et al., 2011).
Lần đầu tiên ghi nhận sự có mặt của loài X.
crassiusculus ở Australia vào năm 2011 tại
Toolara State Forest, Queensland (Hulcr and
Cognato, 2013). Chúng phát tán khá nhanh khi
mà tiếp tục được ghi nhận vào năm 2013 tại
Tewantin State Forest, năm 2015 tại Beerwah và
năm 2016 tại Beerburrum State Forest,
Queensland (Biosecurity Incident National
Communication Network, 2016; IPPO, 2017).
Việc mở rộng phạm vi phân bố quần thể và
nhanh chóng trở thành loài chiếm ưu thế so với
các loài bản địa khiến cho loài mọt đục thân X.
crassiusculus trở thành một loài ngoại lai mới có
khả năng gây hại đối với các loài thực vật tại
Australia. Tại Australia, chỉ có một vài điều tra về
sự xuất hiện của các loài mọt đục thân trong đó
có loài X. crassiusculus trong các khu vực trồng
bơ tại Queensland (Campell and Geering, 2013).
Loài mọt đục thân X. crassiusculus được đánh
giá là một loài ngoại lai mới có khả năng gây hại
đến cây trồng, chính vì vậy việc nghiên cứu
nguồn gốc phát sinh của loài mọt đục thân này là
cơ sở trong việc xác định con đường xâm nhập
của chúng đến nơi ở mới. Bài báo này trình bày
Kết quả nghiên cứu Khoa học
kết quả việc định danh loài mọt X. crassiusculus
và xác định sự xâm nhập của loài mọt đục thân
tại một số nước khác nhau.
2. PHƢƠNG PHÁP NGHIÊN CỨU
2.1 Đối tƣợng nghiên cứu
Các mẫu mọt đục thân được thu trên các
rừng trồng hỗn giao cây gỗ lớn tại Rocky Creek
Dam và Federal, bang New South Wales. Ngoài
ra, nghiên cứu cũng đã sử dụng một số mẫu đã
thu được từ Beerburrum, bang Queensland,
Australia; các mẫu đã thu từ Thái Lan, French
Polynesia, Madagascar, Canada, Mỹ, Argentina
và Pháp.
2.2 Định danh loài mọt đục thân
Sau khi thu thập mẫu tại hiện trường, mẫu
mọt được phân loại và bảo quản trong cồn 95%
o
ở 4 C, được định danh bằng hai phương pháp là
phương pháp hình thái học và phương pháp sinh
học phân tử. Cả hai phương pháp được tiến
hành tại phòng thí nghiệm sinh học thuộc trường
Đại học Southern Cross, bang New South Wales,
Australia.
Định danh bằng phương pháp hình thái học
Tất cả các mẫu mọt được soi bằng kính soi
nổi Olympus SC50 và chụp ảnh bằng phần mềm
Olympus Cellsens V1.18 (Olympus Corporation,
Japan). Ảnh được chụp ở 3 góc cơ bản bao gồm
góc nhìn từ trên xuống, góc bên cạnh và góc từ
phía đầu. Các đặc điểm được đối chiếu với khóa
phân loại các loài mọt đục thân Xyleborini:
“Ambrosia Beetles (Xyleborini): An identification
tool to the world genera” (Hulcr and Smith, 2010).
Đồng thời, Tiến sỹ Justin Bartlett, một chuyên gia
phân loại các loài bọ cánh cứng tại Cục Nông
lâm thủy sản và an toàn sinh học, bang
Queensland, cũng đã giúp đỡ định danh loài mọt
đục thân này.
Định danh bằng phương pháp sinh học
phân tử
Từ các mẫu mọt đã được định danh bằng
phương pháp hình thái học, định danh bằng
phương pháp sinh học phân tử dựa trên đoạn
gen ty thể cytochrome coxidase subunit I (COI)
được tiến hành để khẳng định loài mọt đục thân
X. crassiusculus và sử dụng cho các phân tích
nguồn gốc phát sinh loài.
Tách chiết DNA từ các mẫu mọt đục thân
Nghiên cứu sử dụng 10 mẫu mọt đục thân X.
crassiusculus thu được để tách chiết DNA theo
phương pháp của Landi et al., (2017). Với mỗi
BVTV - Số 4/2019
mẫu mọt sẽ được xử lý sơ bộ, rửa sạch cồn bảo
quản bằng nước vô trùng và để khô. Chỉ lấy các
mô ở chân, đầu và phần bụng để tách DNA giúp
giảm nguy cơ bị nhiễm bởi các vi sinh vật khác.
Tách chiết DNA sử dụng Isolate II Genomic
DNA Kit (Bioline, U.K.) theo hướng dẫn của nhà
sản xuất đã được điều chỉnh cho phù hợp với
mẫu mọt đục thân. Sản phẩm DNA sau khi tách
chiết sẽ được bảo quản ở -20°C cho đến khi
thực hiện phản ứng khuếch đại gen (PCR). Thực
TM
hiện phản ứng PCR sử dụng bộ Kit MyTaq HS
DNA Polymerase (Bioline, U.K.) với mồi trước
LCO1490 (5’-GGTCAACAAATCAT AAAGATA
TTGG-3’)
và
mồi
sau
HCO2413
(5’CATCTAAAAA TTTTAATT CCAGT-3’); HCO
2773 (5’-GGATAA TCTCTATATCGAC GAGG
TAT-3’) (Folmer et al., 1994).
Phản ứng PCR được thực hiện trên máy chu
trình nhiệt S100 thermal cycler (Bio-Rad, USA)
với các điều kiện nhiệt độ cụ thể cụ thể với mỗi
chu trình: đầu tiên tăng đến 94 °C trong 1 phút;
sau đó 49 °C trong 1 phút, 72 °C trong 1 phút.
Tiếp sau đó sẽ có 34 chu trình tiếp theo được lặp
lại và cuối cùng là giữ ở 72 °C trong 5 phút. Để
đánh giá chất lượng sản phẩm tách chiết DNA,
sản phẩm PCR được chạy điện di trên máy điện
di Bio-Rad, sau đó chụp ảnh trên máy Molecular
Imager Gel Doc XR và phần mềm Image Lab
(Bio-Rad, USA). Trước khi thực hiện giải trình tự,
sản phẩm được tinh sạch bằng bộ Kit ExoSAP-IT
PCR Product Cleanup Reagent (Thermo Fisher
Scientific, Waltham, Massachusetts, USA).
Sản phẩm PCR tinh sạch sẽ được gửi tới
AGRF Sanger Sequencing Service (AGRF,
Australia) để giải trình tự, sử dụng Bigdye
Terminator V3.1 Cycle Sequencing Kit (Applied
Biosystems, U.S.A). Với mỗi trình tự nhận được sẽ
sắp xếp và chỉnh sửa các nucleotid trên Geneious
v.7.0 (Kearse et al., 2012). Sau đó các trình tự sẽ
được so sánh với các trình tự trên GenBank với
công cụ BLAST (Altschul et al.,1990).
2.3 Phân tích nguồn gốc phát sinh loài
Tất cả các trình tự gen của loài mọt X.
crassiusculus đã được công bố trên cơ sở dữ
liệu trên Genbank. Các trình tự trên đoạn gen ty
thể (COI) của loài X. crassiusculus từ các vùng
địa lý khác nhau được lựa chọn để phân tích
nguồn gốc phát sinh loài. Trình tự gen của 3 loài
Xylosandrus monteithi, Cnestus bimaculatus và
Euwallacea fornicatus được sử dụng như một
nhóm ngoài để đối chiếu.
21
Kết quả nghiên cứu Khoa học
Bộ dữ liệu trình tự gen được sắp xếp dựa trên
chương trình trực tuyến MAFFT v. 7 Online Service
(Katoh and Standley, 2013). Kết quả được xem và
chỉnh sửa thủ công trên phần mềm MEGA v. 7
(Kumar et al., 2016). Phân tích nguồn gốc phát sinh
loài được dựa trên hai thuật toán là Maximum
Likelihood (ML) và Maximum Parsimony. Đối với
thuật toán MP được phân tích trên phần mềm
PAUP v. 4.0b10 (Swofford, 2003) with với 1000 lần
lặp ngẫu nhiên để chọn ra cây phân loại tốt nhất.
Đối với thuật toán ML, sử dụng PhyML v. 3.0 để
phân tích (Guindon và Guscuel, 2003) với độ tin
cậy được xác định dựa trên 1000 lần lặp ngẫu
nhiên. Tất cả các cây phân loại sau khi phân tích
được hiển thị trên MEGA v. 7 (Kumar et al., 2016).
3. KẾT QUẢ NGHIÊN CỨU VÀ THẢO LUẬN
3.1 Đặc điểm hình thái của loài mọt đục
thân Xylosandrus crassiusculus.
Loài:
Xylosandrus
crassiusculus
(Motschulsky, 1866) (Xyleborini, Scolytinae,
Curculionidae, Coleoptera)
BVTV - Số 4/2019
Tên đồng nghĩa: Phloeotrogus crassiusculus
Motschulsky, 1866
Đặc điểm hình thái: Loài mọt đục thân X.
crassiusculus cũng như các loài trong giống
Xylosandrus có hai chân trước khá rộng và
tách biệt. Đặc điểm này phân biệt rõ với các
loài khác trong tộc Xyleborini thường có hai
chân trước sát nhau, điển hình như các loài
thuộc giống Anisandrus có hình dạng khá
giống với các loài thuộc giống Xylosandrus
nhưng hai chân trước của chúng không tách
biệt. Loài mọt đục thân X. crassiusculus có
kích thước khá nhỏ, chiều dài cơ thể từ 1,95
đến 2,45 mm, có màu nâu đỏ, phía cuối cánh
cứng có màu nâu đậm. Mảnh lưng ngực trước
có kích thước khá to gần bằng kích thước của
cánh cứng. Râu đầu có dạng hình chùy, 5 đốt
với đốt cuối phình to. Phía cuối cánh cứng có
rất nhiều chấm nhỏ li ti. Trên cánh cứng có các
đường sọc và lông cứng thẳng. Nhìn từ trên
xuống, đầu được giấu hoàn toàn dưới mảnh
lưng ngục trước (hình 1).
A
C
B
D
Hình 1. (A-B) Mọt cái Xylosandrus crassiusculus
(C). Chấm nhỏ ở phía cuối cánh cứng. (D). Hai chân trước khá tách biệt khi nhìn từ phía bụng
(Hình B và C do J.S. Bartlett chụp)
22
Kết quả nghiên cứu Khoa học
Định danh bằng sinh học phân tử
Từ các trình tự xuôi và ngược sau khi được
giải mã được cắt và chỉnh sửa để tạo thành các
đoạn có độ dài khoảng 750 cặp base và được sử
BVTV - Số 4/2019
dụng để so sánh với các trình tự trên cơ sở dữ
liệu của Genbank. Kết quả so sánh các trình tự
DNA của loài mọt đục thân Xylosandrus
crassiusculus được trình bày tại bảng 1:
Bảng 1. Kết quả so sánh các trình tự của loài mọt đục thân Xylosandrus crassiusculus
với cơ sở dữ liệu của Genbank
TT
1
2
3
4
Loài
X. crassiusculus
X. crassiusculus
X. crassiusculus
X. crassiusculus
Ký hiệu mẫu
QLD 01
QLD 02
Federal
Rocky Creek
Đối với các mẫu thu tại New South Wales là
Federal và Rocky Creek tỷ lệ tương đồng lần
lượt đạt 94% và 93% so với cùng một mã tham
chiếu KX035196.1 với thông tin như sau:
KX035196.1:
Loài
Xylosandrus
crassiusculus độ dài 16875 cặp base được Bảo
tàng Lịch sử tự nhiên, Vương quốc Anh cung cấp
vào ngày 07/04/2016.
Đối với các mẫu tại Queensland là QLD 01
và QLD 02 tỷ lệ tương đồng là 100% so với mã
tham chiếu GU808710.1 với thông tin như sau:
GU808710.1:
Loài
Xylosandrus
crassiusculus tách từ đoạn gen ty thể
Cytochrome oxidase subunit I (COI). Chiều dài
% độ tương đồng
100 %
100 %
94%
93%
E value
0
0
0
0
Mã tham chiếu
GU808710.1
GU808710.1
KX035196.1
KX035196.1
đoạn gen là 585 cặp base được Khoa côn trùng
học, Đại học bang Michigan, Mỹ cung cấp vào
ngày 16/2/2010.
3.2 Xác định sự di cƣ thông qua phân tích
nguồn gốc phát sinh loài
Cả hai thuật toán phân tích ML và MP đều
cho thấy không có sự khác biệt đáng kể đối với
hình dạng cây phân loại, mặc dù đối với cây
phân loại dùng thuật toán ML thể hiện sự phân
tách nhỏ giữa các mẫu loài. Cây phân loại theo
kết quả phân tích ML được trình bày như sau
(hình 2).
Hình 2. Cây phân loại phân tích nguồn gốc phát sinh loài bằng phƣơng pháp
Maximum Likelihood
23
Kết quả nghiên cứu Khoa học
Kết quả phân tích ML đã cho thấy bằng
chứng về sự phân tách rõ rệt của quần thể loài
mọt đục thân X. crassiusculus thành hai nhóm
với độ tin cậy là 99%. Tất cả các mẫu từ Thái
Lan, French Polynesia và Madagascar hình
thành một nhóm (Cluster 1) cùng với các mẫu
thu được từ New South Wales, Australia. Trong
khi đó, các mẫu từ Canada, Mỹ, Argentina và
Pháp cùng với mẫu thu đươc từ Queensland,
Australia (Xc02) hình thành một nhóm (Cluster
2). Chỉ có một khoảng cách nhỏ về sự khác biệt
gen được thấy ở các mẫu thu từ Pháp với độ
thay đổi là 0,01.
Phân tích nguồn gốc phát sinh loài trong
nghiên cứu này cũng hoàn toàn trùng khớp với
một phân tích được thực hiện trên 198 mẫu mọt
X. crassiusculus từ 20 khu vực khác nhau trên
khắp thế giới cũng đã cho thấy sự phân tách
trong quần thể loài mọt này thành 02 nhóm chủ
đạo. Theo kết quả phân tích của Storer et al.
(2017), nhóm thứ nhất có tên là nhóm quần thể
Đông Nam Á (South East Asia population) trong
đó bao gồm các mẫu thu từ Thái Lan, Indonesia.
Ngoài ra các mẫu thu từ khu vực khác như Trung
Quốc, thậm chí ở cả Châu phi (Madagascar) và
Châu Đại dương (Papua New Guinea) nhưng
cũng nằm trong nhóm quần thể Đông Nam Á.
Nhóm thứ hai là nhóm quần thể đảo (island
population) bao gồm các nước là Nhật Bản, Khu
vực Bắc Mỹ và Nam Mỹ (Storer et al., 2017).
Như vậy, có thể thấy từ quần thể bản địa đã có
sự di cư sang các khu vực khác nhau và trong
quá trình di cư chúng phân tách thành các nhóm
riêng biệt. Với mỗi khu vực đặc trưng chúng lại
có những thay đổi để thích nghi với điều kiện
hoàn cụ thể.
Ngoài ra, dựa trên sự phân tích nguồn gốc
phát sinh loài từ các mẫu thu tại Australia cho
thấy quần thể mọt X. crassiusculus tại Australia
phân tách thành hai quần thể mọt riêng biệt là:
(1) Quần thể mọt đục thân ở New South Wales
có nguồn gốc từ quần thể Đông Nam Á và (2)
Quần thể mọt đục thân ở Queensland có nguồn
gốc từ quần thể đảo, có thể từ các đảo thuộc
Nhật Bản hoặc lục địa châu Mỹ.
Phân tích cây phân loại cũng cho thấy khoảng
cách về gen giữa hai nhóm Cluster 1 và Cluster 2
là 0,14, tuy nhiên khoảng cách giữa hai kiểu gen
Xc01 và Xc02 thu tại Australia là 0,20. Điều này
cho thấy sự khác biệt khá lớn về nguồn gốc của
quần thể mọt đục thân tại Australia với các mẫu
thu tại New South Wales thuộc nhóm Chuster 1 và
mẫu thu tại Queensland thuộc nhóm Cluster 2.
24
BVTV - Số 4/2019
Phân tích cũng chỉ ra hai mẫu thu tại hai địa điểm
khác nhau tại New South Wales (Rocky Creek và
Federal) là đồng nhất về kiểu gen (Xc01) với độ
tin cậy 98%. Tuy nhiên, nó lại khác biệt đối với các
mẫu còn lại trong nhóm Cluster 1 với độ tin cậy là
75%. Hai nhóm quần thể loài X. crassisuculus
cũng được xác định riêng biệt so với các loài
được sử dụng làm tham chiếu như X. compactus
và X. germanus và Xyleborus ferruginus.
Các mẫu mọt thu tại Australia có nguồn gốc
phát sinh từ cả hai nhóm quần thể chủ yếu trên thế
giới, điều này cho thấy sự xâm nhập của loài mọt
này vào Australia có thể liên quan đến con đường
vận chuyển hàng hóa với các nước như Mỹ,
Canada hay các nước Đông Nam Á. Vận chuyển
hàng hóa quốc tế có liên quan đến rất nhiều loài
ngoại lai xâm hại đến những nơi mới nhờ loại chất
liệu đóng gói kiện hàng hóa bằng gỗ mang theo. Ví
dụ như Sirex noctilio và Ips grandicollis là hai loài
ngoại lai xâm hại đến rừng thông tại Australia theo
con đường này (Lawson et al., 2018).
Theo báo cáo phân tích mối nguy cơ sinh học
trên hàng hóa nhập khẩu thì có khoảng 30% các
kiện hàng đóng gói bằng gỗ có chứa các loài
ngoại lai cần kiểm dịch thực vật. Tuy nhiên, nếu
chỉ sử dụng các biện pháp kiểm tra bề ngoài thì
sẽ không thể phát hiện ra các loài ngoại lai
(Biosecurity Australia, 2001). Bên cạnh đó việc
nhập khẩu gỗ từ Trung Quốc và một số nước
Đông Nam Á cũng tăng lên đáng kể trong giai
đoạn 2014 - 2015, chiếm tới 86% đồ gỗ nội thất
và 61% sản phẩm gỗ khác (Lawson et al., 2018).
Do vậy, các sản phẩm gỗ chưa được xử lý và sử
dụng gỗ để đóng gói kiện hàng là con đường
xâm nhập, làm gia tăng cơ hội lan truyền cho các
loài ngoại lai như loài mọt X. crassiusculus di cư
và xâm nhập vào các khu vực không phải bản
địa của chúng giống như Australia. Mặc dù loài
mọt đục thân X. crassiusculus bước đầu được
ghi nhận sự xuất hiện của chúng như một loài
ngoại lai ở Australia với mức độ gây hại thấp.
Tuy nhiên đây là loài ngoại lai tiềm năng trở
thành loài ngoại lai xâm hại như đã và đang xảy
ra tại Mỹ và Israel (Storer et al., 2013).
3. KẾT LUẬN
Đã định danh loài mọt đục thân X.
crassiusculus bằng phương pháp hình thái học
và phương pháp sinh học phân tử với kết quả so
sánh trình tự đạt từ 93% đến 100%. Phân tích về
nguồn gốc phát sinh loài đối với quần thể mọt
đục thân X. crassiusculus đã cho thấy sự di cư
Kết quả nghiên cứu Khoa học
của chúng đến các khu vực địa lý khác ngoài khu
vực bản địa như tại Australia theo các nhóm
quần thể riêng biệt đó là quần thể Đông Nam Á
và quần thể đảo. Riêng tại Australia, quần thể
mọt đục thân X. crassiusculus có sự xuất hiện
của cả hai nhóm đó là nhóm quần thể Đông Nam
Á bao gồm các mẫu thu tại New South Wales và
nhóm quần thể đảo gồm các mẫu thu tại
Queensland. Việc xác định nguồn gốc phát sinh
loài chỉ ra các loài mọt đục thân có thể xâm nhập
vào Australia một cách độc lập từ khu vực Đông
Nam Á và từ khu vực châu Mỹ.
Lời cảm ơn
Nhóm tác giả xin gửi lời cảm ơn chân thành
đến Phó Giáo Sư Doland Nichols, trường Đại
học Southern Cross đã giúp đỡ nhiệt tình trong
quá trình thu thập mẫu tại Australia. Đồng thời,
nhóm tác giả cũng gửi lời cảm ơn đến Tiến sỹ
Justin Barrlet, Cục Nông lâm thủy sản và an
toàn sinh học, bang Queensland đã giúp đỡ
trong việc giám định các mẫu mọt thu tại
Australia.
TÀI LIỆU THAM KHẢO
1. Altschul, S.F., Gish, W., Miller, W., Myers, E.W.
& Lipman, D.J., 1990. Basic local alignment search
tool. Journal Molecular Biology. 215:403-410
2. Australia, B., 2001. Import risk analysis (IRA)
for sawn coniferous timber from Canada, New Zealand
and the United States. IRA Issues Paper. Canberra:
Biosecurity Australia.
3. Biosecurity Incident National Communication
Network (NCN), 2016). Granulate ambrosia beetle
National Talking Points. Department og Agriculture and
Water Resorce, Australian Government.
4. Campbell, P. & Geering, A., 2013. Biosecurity
Capacity Building for the Australian Avocado Industry –
Laurel Wilt. Queensland, Australia: Queensland
Department of Employment, Economic Development
and Innovation.
5. Cognato, A. I., Hulcr, J., Dole, S. A., & Jordal,
B. H., 2011. Phylogeny of haplo–diploid, fungus‐
growing ambrosia beetles (Curculionidae: Scolytinae:
Xyleborini) inferred from molecular and morphological
data. Zoologica Scripta, 40(2), 174-186.
6. EPPO, 2017. Xylosandrus crassiusculus
(Coleoptera:
Scolytidae).
ngày
18/02/2018
/>xylosandrus_crassiusculus.htm
7. Folmer, O., Black, M., Hoeh, W., Lutz, R., &
Vrijenhoek, R., 1994. DNA primers for amplification of
mitochondrial cytochrome c oxidase subunit I from
diverse metazoan invertebrates. Mol Mar Biol
Biotechnol, 3(5), 294-299.
8. Fungiflora, O. S., & Gascuel, O., 2003. A simple,
BVTV - Số 4/2019
fast and accurate method to estimate large phylogenies
by maximum-likelihood. Syst Biol, 52, 696704.
9. Hulcr, J., & Cognato, A. I., 2013. Xyleborini of
New Guinea, a taxonomic monograph (coleoptera:
curculionidae: scolytinae). Entomological Society of
America.
10. Hulcr, J., & Smith, S., 2010. Xyleborini
ambrosia beetles: an identification tool to the world
genera.
URL:
/>id/wbb/
xyleborini/index.htm
11. Katoh, K., & Standley, D. M., 2013. MAFFT
multiple sequence alignment software version 7:
improvements in performance and usability. Mol Biol
Evol, 30(4), 772-780. doi:10.1093/molbev/mst010
12. Kumar, S., Stecher, G., & Tamura, K., 2016.
MEGA7: Molecular Evolutionary Genetics Analysis
Version 7.0 for Bigger Datasets. Mol Biol Evol, 33(7),
1870-1874. doi:10.1093/molbev/msw054
13. Kearse M, Moir R, Wilson A, Stones-Havas S,
Cheung M, Sturrock S, Buxton S, Cooper A, Markowitz
S, Duran C, Thierer T, Ashton B, Meintjes P,
Drummond A. 2012. Geneious Basic: an integrated
and extendable desktop software platform for the
organization
and
analysis
of
sequence
data. Bioinformatics28:1647–1649.
doi:10.1093/bioinformatics/bts199.
14. Landi, L., Gómez, D., Braccini, C. L., Pereyra, V.
A., Smith, S. M., & Marvaldi, A. E., 2017. Morphological
and Molecular Identification of the Invasive Xylosandrus
crassiusculus (Coleoptera: Curculionidae: Scolytinae)
and Its South American Range Extending Into Argentina
and Uruguay. Annals of the Entomological Society of
America, 110(3), 344-349.
15. Lawson, S., Carnegie, A., Cameron, N., Wardlaw,
T., & Venn, T., 2018. Risk of exotic pests to the Australian
forest industry. Australian Forestry, 81(1), 3-13.
16. Reding, M. E., Schultz, P. B., Ranger, C. M., &
Oliver, J. B., 2011. Optimizing ethanol-baited traps for
monitoring damaging ambrosia beetles (Coleoptera:
Curculionidae, Scolytinae) in ornamental nurseries.
Journal of Economic Entomology, 104(6), 2017-2024.
17. Schowalter, T. D., 2016. Chapter 8 - Species
Interactions. In Insect Ecology (Fourth edition).
Academic Press, (pp. 249-290):.
18. Storer, C., Payton, A., McDaniel, S., Jordal, B.,
& Hulcr, J., 2017. Cryptic genetic variation in an
inbreeding and cosmopolitan pest, Xylosandrus
crassiusculus, revealed using ddRADseq. Ecology and
Evolution.
19. Swofford, D. L. 2000. PAUP*: Phylogenetic
analysis using parsimony (* and other methods)
Version 4Sinauerunderland, MA. Swofford, DL
(2000). PAUP*: Phylogenetic analysis using parsimony
(* and other methods). Version, 4.
20. Vega, F. E., & Hofstetter, R. W., 2014. Bark
beetles: biology and ecology of native and invasive
species. Academic Press. 390p.
Phản biện: TS. NCVCC. Nguyễn Văn Liêm
25