BỘ GIÁO DỤC VÀ ĐÀO TẠO
TRƯỜNG ĐẠI HỌC SƯ PHẠM TP.HCM
KHOA LỊCH SỬ
--- ---
BÀI TIỂU LUẬN
THÀNH THỊ TRUNG ĐẠI
TÂY ÂU
Sinh viên : Nguyễn Thị Hồng Lam
Mã số sinh viên: K40.608.035
LỜI MỞ ĐẦU
Thời kỳ trung đại (hay trung cổ) là giai đoạn trong lịch sử châu Âu bắt đầu từ sự sụp đổ của Đế
quốc Tây Rôma ở thế kỷ V, hòa vào thời Phục Hưng và thời đại khám phá. Thời trung đại ( trung
cổ) là thời đại thứ hai trong ba thời đại lịch sử theo cách phân kì truyền thống của lịch sử phương
Tây, cùng với cổ đại và hiện đại.
Các nhà sử học mác-xít cho rằng lịch sử trung đại về cơ bản là lịch sử chế độ phong kiến, một
hình thái kinh tế xã hội tiếp theo chế độ chiếm hữu nô lệ, mà niên đại đánh dấu sự kết thúc của
chế độ chiếm hữu nô lệ, ở Tây Âu là năm 476 – năm đế quốc Rôma diệt vong.
Lịch sử trung đại phương Tây kéo dài 12 thế kỷ ( từ thế kỷ V đến thế kỷ XVII ). Như trên đã nói,
nội dung của lịch sử trung đại là lịch sử chế độ phong kiến, một chế độ xã hội phổ biến nhất
trong lịch sử loài người. Căn cứ theo tiến trình của chế độ phong kiến có thể chia thành ba thời
kì: sơ kì, trung kì, hậu kì.
Thời sơ kì trung đại kéo dài từ thế kỷ V-X là thời kì hình thành và củng cố chế độ phong kiến.
Vào thời kì này, trên cơ sở diệt vong của đế quốc Tây Rôma, nhiêu vương quốc mới đã ra đời,
trong số đó tiêu biểu nhất là vương quốc Frăng.
Thời trung kì trung đại kéo dài từ thế kỷ XI – XV là thời kì phát triển của chế độ phong kiến. Từ
thế kỷ XI, nền kinh tế hàng hóa bắt đầu phát triển đã dẫn đến sự ra đời của thành thị và một tầng
lớp xã hội mới là thị dân – tầng lớp ngày càng có vai trò quan trọng về mọi mặt trong tiến trình
lịch sử. Tuy nhiên, do sự phát triển của chế độ phong kiến và của nền kinh tế hàng hóa, sự bóc
lột và nô dịch đối với nông dân càng tăng cường nên ở các nước Tây Âu đã diễn ra nhiều cuộc
khởi nghĩa tương đối lớn của nông dân.
Thời hậu kì trung đại kéo dài từ đầu thế kỷ XVI – giữa thế kỷ XVII là thời kì tan rã của chế độ
phong kiến. Do sự phát triển mạnh mẽ của nền kinh tế hàng hóa, quan hệ tư bản chủ nghĩa vốn
đã có mầm mống ở Italia từ thế kỷ XIV, giờ đây phát triển phổ biến ở Tây Âu dẫn đến sự ra đời
của chủ nghĩa tư bản.
Lịch sử trung đại phương Tây là lịch sử chế độ phong kiến trên phạm vị toàn châu Âu, trong đó
chế độ phong kiến ở Tây Âu xuất hiện và tan rã sớm hơn nhiều so với các khu vực khác, hơn nữa
những nội dung quan trọng nhất của lịch sử trung đại phương Tây về kinh tế, xã hội, chính trị,
tôn giáo,văn hóa, đấu tranh giai cấp,v.v… chủ yếu diễn ra ở Tây Âu. Do vậy, trong phạm vi yêu
cầu của bài tiểu luận, tôi chỉ tập trung giới thiệu lịch sử Tây Âu mà nội dung trọng tâm là thành
thị trung đại Tây Âu. Hơn nữa, do đặc điểm của khu vực này, nhiều biến động lịch sử không phải
chỉ xảy ra trong từng quốc gia riêng lẻ mà thường trở thành những sự kiện chung của cả Tây Âu,
do đó lịch sử trung đại phương Tây không viết theo từng nước mà theo những vấn đề cơ bản,
những sự kiện quan trọng mang tính tiêu biểu của cả khu vực.
1
Chương I
VÀI NÉT SƠ LƯỢC VỀ QUÁ TRÌNH HÌNH THÀNH VÀ CỦNG CỐ CỦA
CHẾ ĐỘ PHONG KIẾN TÂY ÂU THỜI SƠ KÌ TRUNG ĐẠI (THẾ KỈ V-XI)
Việc kinh thành La Mã bị thất thủ vào năm 476 được coi là mốc đánh dấu sự sụp đổ của đế quốc
Tây La Mã. Trên đống hoang tàn của đế quốc La Mã, hàng loạt các quốc gia mới ra đời như
vương Tây Gốt, Văngđan, Buôcgônhơ, Đông Gốt, Lômbad, Phrăng,… Trong các vương quốc
mới ra đời đó, sự hình thành và phát triển của vương quốc Phrăng có ảnh hưởng tới lịch sử Tây
Âu lớn hơn cả.
Các vương quốc mới không đi theo con đường chế độ nô lệ mà đi vào con đường phong kiến
hóa. Vua Phrăng từ thế kỷ V đã đem nhiều ruộng đất cướp được của các quý tốc La Mã cũ phân
chia cho các tướng lĩnh, người thân và những người có công. Cùng với ruộng đất, những người
này còn được phong tước. Đất đai và tước hiệu được phân phong có quyền cha truyền con nối,
chỉ không được mua bán chuyển nhượng mà thôi. Điều này đã tạo ra tầng lớp quý tộc lãnh chúa
phong kiến với những lãnh địa rộng lớn. Với hình thức lãnh địa này, chế độ ruộng đất phong kiến
ở Tây Âu được hình thành. Những người lính và nô lệ có công trong chiến tranh cũng được chia
một ít ruộng đất và họ trở thành những người nông dân tự do.
2
Một lãnh địa phong kiến
Lâu đài của lãnh chúa
Vào đầu thế kỷ VII, nông dân tự do là tầng lớp đông đảo nhất trong giai cấp nông dân, nhưng
tình hình ấy không duy trì được lâu. Do các nguyên nhân như thiên tai mất mùa, gia súc chết
không canh tác được, phải nộp thuế khóa nặng nề, phải rời ruộng đồng quê hương để đi làm
3
nghĩa vụ binh dịch,v.v… nên rất nhiều nông dân bị phá sản, phải bán ruộng đất của mình. Sau
khi không còn tư liệu sản xuất nữa, nông dân chỉ còn cách là lĩnh canh ruộng đất của lãnh chúa
để làm ăn và do đó biến thành nông dân lệ thuộc tương tự như lệ nông hoặc nông dân nửa tự do
và đến đời con cháu của họ thì sự lệ thuộc càng nặng hơn và hoàn toàn biến thành nông nô - tầng
lớp ở địa vị trung gian giữa dân tự do và nô lệ.
Về mặt kinh tế, họ được chủ giao cho một mảnh đất để cày cấy, do cày cấy ruộng đất của lãnh
chúa, nông nô phải nộp địa tô cho chủ. Trong thời kì hình thành chế độ phong kiến, hình thức địa
tô được áp dụng phổ biến nhất là tô lao dịch. Ngoài địa tô lao dịch, nông nô còn phải làm các
việc khác cho lãnh chúa như vận chuyển, chữa nhà, chữa hàng rào, làm đường, bắc cầu,v.v…
Ngoài ra, nông nô còn phải nộp nhiều thứ thuế khác như thuế xay bột, thuế nướng bánh mì, phải
nộp tiền khi qua cầu, qua đò, kiếm củi, chăn gia súc.
Nông nô làm ruộng và nướng bánh
Về mặt chính trị, tuy nông nô chưa hoàn toàn mất tự do, tức là họ có gia đình riêng và một ít tài
sản riêng, chủ không có quyền giết hại họ, nhưng họ bị lệ thuộc vào lãnh chúa về mặt thân thể.
Họ không được tự tiện rời bỏ ruộng đất mà chủ giao cho, con cháu họ cũng phải kế thừa mảnh
đất ấy và phải làm nông nô cho lãnh chúa. Lãnh chúa còn có quyền hành hạ đánh đập nông nô
4
miễn là không nguy hại đến tính mạng hoặc cơ thể là được. Như vậy, tuy nông nô không hoàn
toàn mất tự do, không hoàn toàn lệ thuộc vào chủ nhưng thực tế thì đời sống và địa vị của họ
không hơn nô lệ bao nhiêu.
Chương II
SỰ RA ĐỜI VÀ PHÁT TRIỂN CỦA THÀNH THỊ THỜI TRUNG KÌ
TRUNG ĐẠI (THẾ KỈ XII-XV)
I. SỰ RA ĐỜI CỦA THÀNH THỊ
1. Hoàn cảnh lịch sử
Từ cuối thời đế quốc Rôma, do sự suy thoái của nền kinh tế hàng hóa, các thành thị ở Tây
Âu đã bị điêu tàn. Sự xâm nhập và phá hoại của man tộc càng làm nghiêm trọng thêm tình
hình ấy. Trừ một số thành phố ở Italia, miền nam nước Pháp và Tây Ban Nha, còn nói
chung, các thành thị đều trở nên vắng vẻ, các công trình kiến trúc tráng lệ trước kia như lâu
đài, đền miếu,… chỉ còn lại những đống hoang tàn, đất đai xung quanh biến thành đồng
ruộng. Đến đầu thời trung đại, đề phòng sự xâm nhập của các tộc bên ngoài và do tình trạng
hỗn chiến ở Tây Âu, ở Pháp và Đức đã xây dựng những thành lũy mới hoặc khôi phục lại
các công trình phòng thủ của các thành phố cổ như Pari, Côlônhơ. Những cơ sở này thường
trở thành kinh đô của vua hoặc trung tâm hành chính của các bá tước hoặc giám mục. Cư
dân phần lớn là bà con và tôi tớ của lãnh chúa, ngoài ra còn có một số nông dân và thợ thủ
công.
Công trình phòng thủ của Cô lônhơ
5
Đến thế kỷ XI, nền kinh tế châu Âu có một bước tiến rất quan trọng mà chủ yếu biểu hiện
ở sự phát triển của nông nghiệp và thủ công nghiệp.
Từ cuối thế kỷ X, nền kinh tế nông nghiệp ở Tây Âu đã có những tiến bộ lớn. Trước hết
là do kinh nghiệm sản xuất được tích lũy, trải qua năm trăm năm, đã được dồi dào, phong
phú. Người nông nô đã biết cải tiến công cụ như dùng cày nặng có bánh xe, có hai hay ba
ngựa hoặc bò kéo. Kĩ thuật bón phân làm đất tơi, xốp và tăng độ phì đã được phổ biến. Việc
áp dụng phương pháp luân canh ba khoảnh ( hai khoảng cày cấy, một khoảng nghỉ thay
phiên nhau) đã góp phần làm tăng năng suất lao động. Thóc giống bỏ ra, có thể thu về gấp
sáu lần khi mùa tới. Lương thực dồi dào khiến người ta có thể mở rộng chăn nuôi. Nhờ vậy,
những người nông nô đã đem lương thực, nông sản thừa đổi lấy sản phẩm thủ công nghiệp.
Như thế là nông dân đã cung cấp nguyên liệu và lương thực thực phẩm cho thợ thủ công,
điều đó làm cho những thợ thủ công khéo tay có thể yên tâm sản xuất để có được những sản
phẩm tốt hơn.
Trong thủ công nghiệp, nhiều ngành nghề mới đã ra đời với trình độ kĩ thuật ngày càng
hoàn thiện. Đó là các nghề khai mỏ, luyện kim, chế tạo vũ khí, thuộc da, dệt len dạ, làm đồ
gốm bằng bàn xoay, v.v…Khi những thợ thủ công khéo tay yên tâm sản xuất để làm ra
những sản phẩm tốt hơn, từ đó dần xuất hiện lớp thợ thủ công chuyên nghiệp trong thôn
trang. Sản phẩm của họ vừa đẹp vừa bền hơn. Dần dần số thợ thủ công tăng lên, chuyên tâm
sản xuất hơn và tách khỏi việc cày cấy. Sự thay đổi tích cực ấy của thủ công nghiệp đòi hỏi
phải có những người thợ thủ công chuyên môn hóa, đồng thời phải biến thủ công nghiệp từ
một nghề phụ của nông nghiệp thành một ngành độc lập.
Máy xe chỉ quay tay trong ngành dệt
6
Chính sự tách rời giữa thủ công nghiệp và nông nghiệp là điều kiện quan trọng dẫn đến
sự ra đời của thành thị thời trung đại ở châu Âu. Mác và Ăngghen viết: “Sự phân công lao
động trong nội bộ một dân tộc gây ra trước hết là sự tách rời giữa lao động công nghiệp,
thương nghiệp với lao động nông nghiệp, và do đó gây ra sự tách rời giữa thành thị và nông
thôn và sự đối lập giữa lợi ích của thành thị và nông thôn”.
2. Quá trình ra đời của thành thị
Sự ra đời của thành thị ở châu Âu đã diễn ra từ trong các thể kỉ X, XI tùy theo trình độ
phát triển kinh tế và vị trí địa lí của từng vùng.
Do kĩ thuật sản xuất tiến bộ và năng suất lao động tăng, những người thợ thủ công ở nông
thôn đã từ chỗ làm việc theo yêu cầu đặt hàng của người tiêu dùng chuyển sáng sản xuất
hàng hóa để đem bán ở thị trường. Về thân phận thì thợ thủ công vẫn còn là nông nô sống
trong lãnh địa, dưới sự kiểm soát của lãnh chúa. Nghĩa là họ vẫn còn bị phụ thuộc chặt chẽ
vào lãnh chúa, phải nộp tô thuế và lao dịch cho lãnh chúa. Mặt khác, sống trong lãnh địa, thợ
thủ công rất khó trao đổi được nhiều hàng hóa vì sức mua bán của nông nô còn bị hạn chế.
Về sau, thợ thủ công tìm cách bỏ trốn hoặc chuộc lại thân phận tự do để đến những nơi có
điều kiện thuận lợi cho việc lao động sản xuất như gần nơi cung cấp nguyên liệu, có nhiều
khách hàng mua sản phẩm của họ và tương đối an toàn,v.v... Những nơi thợ thủ công chọn
đến cư trí là những trung tâm chính trị như kinh đô của vua, thành lũy của lãnh chúa phong
kiến hoặc những trung tâm tôn giáo như toàn giám mục, tu viện, nhà thờ,..Đó là những nơi
có hệ thống phòng vệ có thể đảm bảo an toàn cho tính mạng và tài sản của họ. Ngoài ra, thợ
thủ công còn tìm đến những nơi có đông người thường xuyên qua lại như chân nhà thờ, đầu
cầu, bến đò, ven sông, các ngả đường lớn, v.v… rồi mở xưởng sản xuất và bán hàng. Bấy
giờ, các nghề rèn, gốm, mộc, dệt, luyện kim,v.v… là những ngành sớm phát triển hơn cả.
Những thợ thủ công tập trung cư trú và sản xuất ở những khu vực nhất định lập tức tạo nên
những tụ điểm hay những trung tâm công thương nghiệp quen thuộc đối với cư dân trong
vùng. Tiếp đó, nông dân không ngừng chạy đến những nơi này làm cho cư dân ở đó càng
thêm đông đúc rồi dần dần phát triển thành những thành phố. Để bảo vệ các xưởng sản xuất,
chống sự cướp bóc hàng hóa, những người thợ thủ công ở các trung tâm này đã cùng nhau
góp tiền của, công sức xây dựng tường bao xung quanh, chỉ để lại các cửa ra vào.Sau đó,
những thợ thủ công khác trong vùng cũng lại đến chân các tường thành này sinh sống, mở
xưởng sản xuất và bán hàng. Và cũng nhằm mục đích bảo vệ, họ lại xây tường bao quanh.
Cứ như thế các thành thị của thợ thủ công thời trung kì trung đại lần lượt được xuất hiện.
Cấu trục của các thành thị này rất đặc biết, bao gồm nhiều lớp tường thành tạo nên các vòng
tròn đồng tâm.
Ở Tây Âu, thành thị ra đời tương đối sớm ở Italia (Vênêxia, Giênôva, Naplơ, Pida,
Amanphi …) và miền nam nước Pháp ( Mácxây, Áclơ, Nácbon, Môngpơliê). Tại những nơi
này, do kinh tế phát triển, quá trình tách rời giữa thủ công nghiệp và nông nghiệp diễn ra
sớm hơn những miền khác, đồng thời ở đây còn có điều kiện trao đổi kinh tế với Bidantium
và phương Đông. Kế tiếp đó, các thành phố ở Bắc Pháo, Đức và các nước Tây Âu khác cũng
lần lượt hình thành.
7
Phố Shamples - khu phố buôn bán vô cùng sầm uất được mệnh danh là con phố Trung cổ
được bảo tồn tốt nhất ở châu Âu.
Ở Đông Âu vào thời kì này cũng đã xuất hiện nhiều thành phố công thương nghiệp như
Kiép, Nốpgôrốt, Praha, v.v…
Bên cạnh các thành thị do thợ thủ công xây dựng nên, còn có các thành thị cổ đại được
khôi phục, tái sinh. Đây chính là các trung tâm công thương mại thời cổ Rôma, do có vị trí
buôn bán trao đổi thuận lợi nên được hồi phục nhanh chóng. Các thị trấn, đô thị mọc lên
nhiều nhưng vẫn ở trên đất của lãnh chúa. Vì vậy, lãnh chúa thu được nhiều thuế má của thợ
thủ công và thương nhận và chính các lãnh chúa cũng tìm cách tạo ra những thị trấn mới để
cho thị dân thuê. Về cơ bản, thị dân ở giai đoạn này đã thoát li khỏi nông nghiệp mà chuyên
sản xuất thủ công và buôn bán. Trong thế kỷ XI, XII, thành thị vẫn thuộc quyền kiểm soát
của các lãnh chúa địa phương.
Tuy vậy, bộ mặt thành thị ở thời kì này còn nghèo nàn, đơn sơ, xung quanh thành phố có
thành xây bằng đá, bằng gạch, bằng gỗ, có hào sâu, tháp canh, cổng thành chắc chắn cứ đến
tối thì đóng lại. Đây là những công trình dùng để bảo vệ dân cư thành phố đề phòng sự tấn
công của kẻ thù. Bên trong thành phố, nhà cửa lụp xụp, thấp bé, đường phố ngang dọc chằng
chịt, chật hẹp và bẩn thỉu, mãi đến thế kỷ XIV, XV mới biết rải đá, ban đêm thì tối tăm vì
chưa có đèn đường. Nhà ở đồng thời cũng là xưởng sản xuất và nơi buôn bán hàng. Khi cư
dân thành thị đông lên, hoạt động trao đổi mua bán nhộn nhịp hơn, thị dân đã xây dựng thêm
những nơi sinh hoạt và buôn bán công cộng như chợ, quảng trường, nhà thờ, tòa thị chính,
v.v…
8
Thành thị Mácxây
Tuy thành thị là những trung tâm công thương nghiệp, cư dân thành thị chủ yếu là thợ thủ
công và thương nhân, nhưng vào thời kì này thành thị vẫn mang ít nhiều dấu vết của nông
thôn và nông nghiệp vẫn còn có vai trò nhất định trong đời sống của thị dân. Nhiều thị dân
có ruộng đất, vườn rau và bãi chăn nuôi ở ngoại thành và ngay trong nội thành. Các loại gia
súc nhỏ ( dê, cừu, lợn,…) thường được thả kiếm ăn trong nội thành. Do ăn ở mất vệ sinh nên
thành phố thường trở thành những nơi sinh ra các loại bệnh dịch như dịch hạch, dịch tả,…
Đồng thời, vì nhà cửa đa số làm bằng gỗ nên ở đây cũng hay xảy ra hỏa hoạn có khi thiêu
hủy cả một khu phố. Quy mô các thành thị châu Âu lúc bấy giờ còn tương đối nhỏ. Cho đến
thế kỷ III, Pari là thành phố quan trọng nhất châu Âu cũng chỉ mới có 100.000 dân, Luân
Đôn và Milano có khoảng 50.000 người, còn phần lớn các thành thị khác dưới 10.000.
II. NHỮNG HOẠT ĐỘNG KINH TẾ CỦA CÁC THÀNH THỊ
1. Thủ công nghiệp và tổ chức phường hội
Ở hầu hết các thành thị ở châu Âu, ngành kinh tế quan trọng nhất là thủ công nghiệp.
Cũng như nông dân, thợ thủ công lúc bấy giờ là những người sản xuất nhỏ lẻ, độc lập. Họ
làm việc ngay tại nhà mình bằng công cụ lao động và nguyên liệu của mình. Vì thế, để đảm
bảo cho việc sản xuất được thuận lợi hơn, những người thợ thủ công ở thành thị đã tổ chức
thành những đoàn thể nghề nghiệp được gọi là phường hội hoặc hàng hội.
9
Cảnh sinh hoạt của thị dân
Phường hội là một hình thức tổ chức sản xuất và buôn bán quan trọng nhất của thợ thủ
công ở các thành thị trung đại. Tổ chức phường hội hầu như ra đời đồng thời với sự xuất
hiện của thành thị. Ở Italia, phường hội được thành lập từ thế kỷ X, còn các nước khác như
Pháp, Anh, Đức, Tiệp Khắc thì đến thế kỉ XI, XII mới có phường hội. Phường hội bao gồm
những người thợ sản xuất cùng một nghề, cùng cư trú trên một khu phố nhất định. Mỗi
phường hội bao gồm tất cả các xưởng thủ công sản xuất cùng một loại hàng hóa. Ví dụ:
nghề gia công kim loại có các phường hội như phường thợ rèn dao kéo, phường thợ làm vũ
khí, phường thợ đúc nồi, hoặc như ngành dệt len dạ gồm các phường hội như phường thợ
kéo sợi, phường thợ dệt, phường thợ nhuộm,v.v….Chủ xưởng là thợ cả, người lành nghề
nhất, người sở hữu tư liệu sản xuất chính của xưởng và cũng chính là thầy dạy nghề cho thợ
bạn – những người đã ít nhiều thạo nghề. Ngoài ra, còn có dăm bảy thợ học việc, mới vào
xưởng và chưa thạo nghề. Quan hệ giữa những người thợ này với thợ cả là quan hệ thầy trò,
giữa người dạy nghề và người học nghề. Muốn trở thành thợ cả, mọi người thợ thủ công đều
phải trải qua thời kì học việc và mấy năm làm thợ bạn. Đến khi tay nghề đã thành thạo, được
phường hội thừa nhận, thợ bạn mới có thể tách ra lập xưởng riêng do mình làm thợ cả và
mới có thể gia nhập phường hội.
10
Mỗi phường hội có một quy chế riêng, gọi là phường quy. Mỗi người trong xưởng tự lo
mua nguyên vật liệu, lo sản xuất và bán hàng. Người thợ phải lo hoàn thiện sản phẩm của
mình từ A đến Z. Nói chung, ở giai đoạn này, khi thành thị mới phát triển, phường quy có ý
nghĩa tích, bảo vệ quyền lợi cho thợ thủ công thành thị. Vì thị trường hạn chế, sức mua còn
nghèo nàn, việc quy định sản xuất của phường quy đã bảo đảm công ăn việc làm cho tất cả
thợ thủ công trong ngành. Về mặt kĩ thuật, các xưởng chưa có máy móc, người thợ sản xuất
sản phẩm hoàn toàn bằng tay. Kinh nghiệm và sự khéo léo của “đôi tay vàng” quyết định
chất lượng sản phẩm và tốc độ sản xuất. Quy chế của phường hội cũng do đại hội các chủ
xưởng thảo ra, trong đó gồm những quy định rất chặt chẽ và chi tiết về các mặt :
Quy mô sản xuất, gồm các khâu như số lượng công cụ lao động, số lượng thợ bạn và
thợ học việc, thời gian lao động hàng ngày.
- Điều kiện để nhận thợ học việc, thời gian học việc và thời gian làm thợ bạn, chế độ
thù lao đối với thợ học việc và thợ bạn.
- Chất lượng và quy cách sản phẩm, giá bán sản phẩm,v.v....
Ví dụ trong bản Điều lệ của phường hội thợ dệt lông cừu Pari thế kỷ XIII đã quy định:
“ Mỗi người thợ dệt lông cừu Pari, trong nhà có thể có hai khung cửi khổ rộng, một khung
cửi khổ hẹp…”
“ Mỗi người thợ dệt lông cừu chỉ được kèm nhiều nhất là một người học việc, nhưng thời
gian kèm cặp người đó không được ít hơn kì hạn phục vụ 4 năm ….”
-
Phường hội là tổ chức nghề nghiệp của thợ thủ công mang tính chất phong kiến. Mục
đích của việc sản xuất chủ yếu là để kiếm tư liệu sinh hoạt chứ không phải mưu cầu lợi
nhuận. Trong điều kiện nền thủ công nghiệp ở các thành thị còn nhỏ yếu, tổ chức phường
hội đã đảm bảo cho việc sản xuất được tiến hành thuận lợi, có tác dụng rất lớn trong việc
duy trì, trau dồi và lưu truyền kĩ thuật sản xuất, do đó đã thúc đẩy sự phát triển của các nghề
thủ công trong một thời gian nhất định.
Thành thị trung đại Tây Âu
11
Về mặt xã hội, phường hội trước hết là tổ chức đoàn kết tương trợ của thợ thủ công đấu
tranh chống lãnh chúa phong kiến, quý tộc thành thị và để giúp đỡ nhau mỗi khi gặp khó
khăn hoạn nạn. Phường hội còn có tính chất quân sự và tôn giáo. Mỗi phường hội có một đội
dân binh có nhiệm vụ tuần tra canh gác để bảo vệ thành phố và khi có chiến sự xảy ra thì lực
lượng dân binh ấy là một đơn vị tác chiến độc lập.
Tuy nhiên, đến thế kỷ XIV-XV, phường hội bắt đầu bước vào quá trình tan rã. Những
quy chế chặt chẽ của phường hội ngày càng tỏ ra không dung hòa được với yêu cầu phát
triển không ngừng của nền sản xuất thủ công nghiệp. Quy chế của phường hội không cho
phép mở rộng quy mô sản xuất, cải tiền công cụ để nâng cao năng suất lao động. Trong khi
đó, sự xâm nhập của chủ nghĩa tư bản càng thúc đẩy nhanh chóng quá trình tan rã của
phường hội.
2. Thương nghiệp
Thành thị không những là trung tâm thủ công nghiệp mà còn là trung tâm thương
nghiệp. Sự trao đổi hàng hóa trước hết diễn ra ở thành thị, địa điểm trao đổi hàng hóa chủ
yếu là chợ của thành phố được lập ở gần nhà thờ lớn. Hàng hóa được đem ra trao đổi là các
sản phẩm thủ công nghiệp do thành thị sản xuất và các loại nông sản như lương thực, rau
quả, thịt cá,…
Để trao đổi các sản phẩm của các nước châu Âu và các thứ hàng quý hiếm từ phương
Đông, ở nhiều nước Tây Âu đã tổ chức hội chợ. Ngoài các lái buôn Pháp, các nhà buôn
nhiều nước như Anh, Đức, Italia, Tiệp Khắc, Hunggari,… đã chở các sản phẩm nổi tiếng của
nước mình và của phương Đông đến đây trao đổi mua bán.
Xưởng thợ cũng là nơi bán hàng cho nên khả năng tiêu thụ sản phẩm bị hạn chế. Hàng
hóa đến tây người tiêu dùng bị chậm do đường sá đi lại xa xôi, khó khăn. Vì vậy, đã xuất
hiện những thương nhân “bao mua”. Họ thu mua sản phẩm ở các xưởng rồi đem bán ở các
nơi khác. Trong quá trình vận chuyển hàng hóa, thương nhân gặp rất nhiều khó khăn. Nạn
cướp bóc dọc đường, sự sách nhiễu của lãnh chúa các địa phương, tiền thuế bảo vệ các đoàn
hành thương rất cao,v.v…Bởi thế, để tự bảo vệ mình, các thương nhân ở cùng một khu vực
đã liên minh lại với nhau, lập ra các thương hội gọi là các hanxơ.
Các phường hội và các hanxơ ngày một phát triển ở khắp châu Âu. Vào thế kỷ XII, XIII,
Pari có tới 78 phường hội. Sang thế kỷ XIV đã lên tới hơn 300 phường hội. Ở Hà Lan, các
thương nhân đã thành lập “Hanxơ 17 tỉnh”. Ở Đức có “Đồng minh Hanxơ”, v.v… Việc buôn
bán ở Địa Trung Hải và vùng bờ biển từ Biển Bắc đến Ban Tích đã dần sầm uất lên với các
đô thị và hải cảng phồn vinh. Thương mại càng phát triển ở địa bàn rộng lớn thì nhu cầu trao
đổi tiền càng tăng.
Vì thế, sự phát triển của nền mậu dịch quốc tế đã dẫn đến sự ra đời của các quầy đổi tiền
và chợ phiên xuất hiện. Quầy đổi tiền và chợ phiên sau này đã phát triển thành các ngân
hàng và hội chợ.
12
III. QUÁ TRÌNH ĐẤU TRANH CỦA THỊ DÂN
1. Đấu tranh của thị dân chống lãnh chúa phong kiến
Bộ mặt kinh tế của Tây Âu đã thay đổi nhanh chóng từ khi thành thị ra đời. Thành thị
ngày càng đóng vai trò quan trọng trong đời sống kinh tế, văn hóa và xã hội ở Tây Âu.
Nhưng “ không có đất đai nào là không phải của lãnh chúa” cho nên thị dân luôn vấp phải sự
sách nhiễu của lãnh chúa. Thị dân ngày một đông, họ lại là tầng lớp giàu có, có tiền của
trong xã hội nên thế lực của họ ngày càng mạnh. Vì thế, lãnh chúa đã sớm trở thành đối
tượng đấu tranh của thị dân. Từ thế kỷ XII, phong trào thị dân nổi dậy đòi giải phóng thành
thị, thoát li khỏi sự kìm kẹp và phụ thuộc vào lãnh chúa. Lãnh chúa đánh thuế nặng, hạch
sách và đối xử tàn tệ đối với thị dân. Thị dân còn phải đi binh dịch, sưu dịch, xử án bất công,
cướp bóc hàng hóa và giết hại thương nhân. Do vậy, mâu thuẫn giữa thị dân và lãnh chúa
ngày càng tăng. Các phường hội và thương hội đã cố gắng bảo vệ quyền lợi của thợ thủ công
và thương nhân, giảm bớt phần nào sự can thiệp của lãnh chúa. Về sau, khi thế lực của thị
dân lớn mạnh hơn, họ đã đấu tranh đòi thành thị được giải phóng, thiết lập chính quyền tự
trị. Tùy hoàn cảnh cụ thể của từng nơi, có thành thị đã bỏ tiền chuộc tự dọ, có nhiều thành
thị khác phải tự sắm vũ khí, đấu tranh vũ trang mới giành được quyền tự trị. Đây là một
cuộc đấu tranh lâu dài, gian khổ và đổ máu. Ở thế kỷ XIII, nhiều thành thị đã được giải
phóng, thoát khỏi sự kiểm soát của lãnh chúa. Chính quyền của thị dân được thiết lập do một
thị trưởng đứng đầu và tất cả mọi công việc của thành thị đều do chính quyền của họ quyết
định, lãnh chúa không thể can thiệp vào công việc của thị dân.
Cuộc đấu tranh chống lãnh chúa phong kiến
13
2. Đấu tranh của thợ thủ công chống quý tộc thành thị
Trong cuộc đấu tranh của thành thị chống lãnh chúa phong kiến, thợ thủ công là lực
lượng giữ vai trò quan trọng nhất, nhưng sau khi giành được thắng lợi, thành quả đấu tranh
lại rơi vào tay tầng lớp quý tộc thành thị bao gồm các thương gia giàu có, các chủ nợ, chủ
cho thuê nhà và chủ ruộng đất,..
Từ thế kỷ XIII-XV, khi tổ chức phường hội đã vững chắc, thợ thủ công liền đấu tranh
mạnh mẽ với quý tộc thành thị để đòi quyền tham gia vào các cơ quan quản lí thành thị. Kết
quá là ở những thành phố thủ công nghiệp phát triển kém hơn thương nghiệp như Vênêxia,
Giênôva ở Italia và Hămbua, Lubếch ở Bắc Đức thì tầng lớp quý tộc vẫn giữ vững chính
quyền. Còn ở những thành phố có nền thủ công nghiệp phát triển như Côlônhơ (Đức),
Phirenxê (Italia) v.v… thì phường hội giành được thắng lợi. Do đó họ thành lập chính quyền
mới hoặc giành được một số chức vụ trong chính quyền thành phố. Tuy nhiên, thành quả đấu
tranh không thuộc về tất cả thợ thủ công của các phường hội mà bị các phường hội giàu có
lũng đoạn. Vì vậy, ở một số nơi lại diễn ra cuộc đấu tranh cũa nhựng người thợ thủ công mà
nghề nghiệp của họ bị coi là thấp kém như thợ cắt lông cừu, thợ dệt sợi lanh, v.v… chống lại
tầng lớp chủ xưởng giàu có và đặc quyền.
Cuộc đấu tranh chống quý tộc thành thị
14
3. Đấu tranh giữa thợ bạn và chủ xưởng
Theo quy chế của phường hội, sau một thời gian nhất định, thợ bạn có thể trở thành thợ
cả và có quyền mở xưởng rồi gia nhập phường hội. Nhưng đến thế kỷ XIII, nhất là thế kỷ
XIV, việc đó ngày càng khó khăn đối với thợ bạn. Muốn gia nhập phường hội, thợ bạn phải
thực hiện nhiều công việc “thử thách”. Càng về sau, chủ xưởng càng không muốn thợ bạn có
thể tách ra mở xưởng riêng để vừa khỏi mất người giúp việc, vừa khỏi tăng thêm lực lượng
cạnh tranh. Vì thế, phường hội thủ công nghiệp thực chất đã biến thành những tổ chức đóng
kín. Chỉ có con trai, con rể và người thân của chủ xưởng mới gia nhập được phường hội.
Trong khi đó, chủ xưởng lại tăng cường áp bức bóc lột đối với thợ bạn như tăng thêm
cường độ lao động, giảm tiền lương, luật lệ do chủ xưởng đặt ra càng khắt khe. Trước tình
hình ấy, bất chấp sự phản đối của chủ xưởng, các thợ bạn đã tổ chức thành những đoàn thể
riêng của mình gọi là “Hội anh em” hay “Hội thợ bạn” để đấu tranh với chủ. Họ đấu tranh
bằng nhiều hình thức, bao gồm bãi công, đòi chủ phải tăng lương, giảm giờ làm và cho họ
quyền được thôi việc trước thời hạn quy định,v.v….Điển hình là những cuộc đình công của
thợ bạn làm các nghề may, sản xuất đồ da…nổ ra ở nhiều thành phố Tây Âu như Luân Đôn
(Anh), Cônxtanxơ (Đức), Fribua (Thụy Sĩ), v.v… vào cuối thế kỷ XIV - đầu thế kỷ XV.
IV. ẢNH HƯỞNG CỦA THÀNH THỊ ĐỐI VỚI CHẾ ĐỘ PHONG KIẾN
Thành thị không những là trung tâm kinh tế công thương nghiệp mà còn là trung tâm văn
hóa, giáo dục và chính trị của xã hội phong kiến. Kinh tế thành thị là nền kinh tế hàng hóa – tiền
tệ, là một lực lượng kinh tế - xã hội mới tiến bộ và đang phát triển. Nó từng bước đầy lùi nền
kinh tế tự nhiên trong các lãnh địa. Thị dân tiêu thụ sản phẩm nông nghiệp của nông thôn, đồng
thời cung cấp cho nông thôn những sản phẩm quan trọng như nông cụ, vải vóc, các nhu yếu
phậm trong sinh hoạt như muối, diêm, xà phòng, v.v… Lãnh chúa cũng không cần những sản
phẩm thủ công của nông dân trong lãnh địa nữa, họ ưa thích những sản phẩm do thị dân làm ra.
Nó vừa đẹp hơn, tinh xảo hơn lại phong phú hơn. Vì thế, nông dân phải đem bán những nông
phẩm của mình để lấy tiền nộp địa tô cho lãnh chúa. Tô iền đã dần thay thế cho tô hiện vật.
Tới thế kỷ XIV, vai trò của thị dân trong đời sống kinh tế, chính trị lại được tăng cường. Thị
dân đã giúp đỡ tiền của cho vương quyền trong cuộc đấu tranh chống lại các lãnh chúa địa
phương, xóa bỏ chế độ phong kiến phân quyền, xác lập quyền lực của chính quyền trung ương
và của nhà vua.
Hoạt động văn hóa thành thị cũng ngày càng phong phú. Các trường học dần xuất hiện. Các
trường đại học ra đời. Văn học, nghệ thuật, thơ ca, âm nhạc,… trở thành nhu cầu không thể thiếu
được trong đời sống văn hóa tinh thần của thị dân. “Đêm trường trung cổ” dần bị xua tan, ánh
sáng văn hóa, tinh thần của khoa học bắt đầu có vị thế trong đời sống tinh thần của toàn xã hội.
15
Đại học Cambridge
Đại học Oxford cổ kính
16
KẾT LUẬN
Sự ra đời của thành thị là một biểu hiện của sự phát triển của chế độ phong kiến ở châu Âu.
Song, thành thị, với sự phát triển không ngừng của nền kinh tế hàng hóa cũng đã phá hoại ngầm
chế độ phong kiến và dần hình thành quan hệ sản xuất tư bản chủ nghĩa đang ngày càng phát
triển mạnh và lấn át quan hệ sản xuất phong kiến. Quy mộ, tính chất và cơ chế mới của nền kinh
tế thị trường thế giới và cả của hệ thống thuộc địa đang được mở rộng, tất cả đã công phá dữ dội
chế độ phong kiến. Từ đó, chế độ phong kiến dần rơi vào khủng hoảng và tan rã vào thời hậu kì
trung đại (thế kỷ XVI – XVII).
MỤC LỤC
Lời mở đầu ……………………………………………………………………………………….1
Chương I : VÀI NÉT SƠ LƯỢC VỀ QUÁ TRÌNH HÌNH THÀNH VÀ CỦNG CỐ CỦA
CHẾ ĐỘ PHONG KIẾN TÂY ÂU THỜI SƠ KÌ TRUNG ĐẠI (THẾ KỈ V-XI) …………...2
Chương II: SỰ RA ĐỜI VÀ PHÁT TRIỂN CỦA THÀNH THỊ THỜI TRUNG KÌ TRUNG
ĐẠI (THẾ KỈ XII-XV) ………………………………………………………………………….5
I. SỰ RA ĐỜI CỦA THÀNH THỊ …………………………………………………………….…5
1. Hoàn cảnh lịch sử …………………………………………………………………………5
2. Quá trình ra đời của thành thị ………………………………………………………….…7
II. NHỮNG HOẠT ĐỘNG KINH TẾ CỦA CÁC THÀNH THỊ ……………………………..…9
1. Thủ công nghiệp và tổ chức phường hội ……………………………………………...…9
2. Thương nghiệp ……………………………………………………………………….....12
III. QUÁ TRÌNH ĐẤU TRANH CỦA THỊ DÂN …………………………………………...…13
1. Đấu tranh của thị dân chống lãnh chúa phong kiến ………………………………..……13
2. Đấu tranh của thợ thủ công chống quý tộc thành thị ………………………………..…..14
3. Đấu tranh giữa thợ bạn và chủ xưởng ………………………………………..……….…15
IV. ẢNH HƯỞNG CỦA THÀNH THỊ ĐỐI VỚI CHẾ ĐỘ PHONG KIẾN………………..…..17
KẾT LUẬN …………………………………………………………………………..…………17
17