Sự ảnh hưởng của văn học dân gian đối với Truyện Kiều
SỰ ẢNH HƯỞNG
CỦA VĂN HỌC DÂN GIAN
ĐỐI VỚI TRUYỆN KIỀU
A.
MỞ ĐẦU
NỘI DUNG .................................................................................
1. Ảnh hưởng của văn học dân gian Việt Nam đối với
Truyện Kiều của Nguyễn Du về kết cấu
1.1. Khái niệm
B.
1.2. Ảnh hưởng về kết cấu tác phẩm có ba phần
1.3. Ảnh hưởng về kết cấu kết thúc có hậu ............................
1.4. Ảnh hưởng về kết cấu xây dựng nhân vật
2. Ảnh hưởng của VHDG Việt Nam đối với Truyện Kiều
của Nguyễn Du về đề tài
2.1. Đề cao nhân nghĩa – đạo lý
2.2. Phản ánh xã hội phong kiến ............................................
2.3. Tài hoa bạc mệnh
3. Ảnh hưởng của VHDG Việt Nam đối với Truyện Kiều
của Nguyễn Du về quan điểm thẩm mỹ
3.1. Khái quát chung về quan điểm thẩm mỹ ..........................
3.2. Những yếu tố ảnh hưởng đến tư tưởng thẩm mỹ của
Nguyễn Du
3.3. Một số nội dung cơ bản trong tư tưởng thẩm mỹ của
Nguyễn Du được thể hiện qua tác phẩm “Truyện Kiều” ..................
3.3.1. Cơ sở quan niệm thẩm mỹ của Nguyễn Du ..................
3.3.2. Quan niệm của Nguyễn Du về cái đẹp
3.3.2.1. Quan niệm về cái đẹp
Trang
3
3
3
3
4
5
6
7
7
9
11
13
13
13
17
17
17
17
18
31
31
31
34
34
3.3.2.2. Quan niện thẩm mỹ về cái đẹp của Nguyễn Du ........
3.3.3. Sự ảnh hưởng của quan điểm thẩm mỹ văn học dân
gian trong Truyện Kiều về mặt hình thức
1
34
35
Sự ảnh hưởng của văn học dân gian đối với Truyện Kiều
3.3.3.1. Quan điểm thẩm mỹ thể hiện ở dung lượng tác phẩm
3.3.3.2. Quan điểm thẩm mỹ thể hiện ở mặt cấu trúc của
Truyện Kiều .......................................................................................
3.3.3.3. Quan điểm thẩm mỹ thể hiện ở thể loại
3.3.4. Hệ thống ngữ liệu văn hóa bác học và bình dân trong
ngôn ngữ nghệ thuật Truyện Kiều ....................................................
3.3.4.1. Khảo sát và nhận xét về hệ thống ngữ liệu văn hóa
bác học ...............................................................................................
3.3.4.2. Khảo sát và nhận xét về hệ thống ngữ liệu văn hóa
bình dân .............................................................................................
3.3.4.3. Sự kết hợp hài hoà, chuyển dịch hợp lý của hai hệ
thống ngữ liệu bác học và bình dân trong ngôn ngữ nghệ thuật
Truyện Kiều
C.
37
37
38
3.3.5. Quan điểm thẩm mỹ thể hiện ở việc sử dụng màu sắc
KẾT LUẬN
MỞ ĐẦU
Trong quá trình phát triển của văn học Việt Nam, hai dòng văn học viết
A.
và văn học truyền miệng – văn học dân gian – phát triển song song và bổ sung
cho nhau. Những câu cao dao, tục ngữ, truyện cổ tích… gắn bó với tuổi thơ
trong mỗi con người Việt Nam. Chính vì vậy, các chất liệu trong văn học dân
gian được các tác gia đưa vào tác phẩm. Ta cảm thấy chúng trở nên gần gũi.
Trong đó, Truyện Kiều của Nguyễn Du là một minh chứng. Đó là cấu trúc của
2
Sự ảnh hưởng của văn học dân gian đối với Truyện Kiều
thơ lục bát, thành ngữ, tục ngữ được sử dụng một cách nhuần nhuyễn. Chính vì
vậy, tuy rằng hơn 3000 câu lục bát nhưng Truyện Kiều lại gần gũi và đi sâu vào
trong tâm thức của mỗi con người. Đó cũng chính là lý do nhóm ba đến với đề
tài “Sự ảnh hưởng của văn hoc dân gian đối với Truyện Kiều” về phương diện
đề tài, kết cấu và quan điểm thẩm mỹ.
3
Sự ảnh hưởng của văn học dân gian đối với Truyện Kiều
B.
NỘI DUNG
1. Ảnh hưởng của văn học dân gian Việt Nam đối với Truyện Kiều
của Nguyễn Du về kết cấu:
1.1. Khái niệm:
Trong một tác phẩm văn học, dù có dung lượng lớn hay nhỏ thì đều bao
ngồm nhiều yếu tố, bộ phận kết hợp thành. Tất cả những yếu tố, bộ phận đó đã
được tác giả sắp xếp theo một trật tự, hệ thống nhằm thể hiện một nội dung
nghệ thuật nhất định được gọi là kết cấu. Nói cách khác thì kết cấu là toàn bộ
tổ chức nghệ thuật sinh động và có phần phức tạp của tác phẩm văn học.
Kết cấu là một yếu tố tất yếu của mọi tác phẩm, nhưng cần có sự phân
biệt giữa kết cấu và bố cục. Bố cục là sự sắp xếp các phần, các chương, các
đoạn, các khổ thơ. Đây chỉ là sự tổ chức hình thức bên ngoài tác phẩm, chỉ là
kết cấu bề mặt của tác phẩm. Kết cấu ngoài việc tổ chức, sắp xếp các yếu tố
của tác phẩm, còn bao gồm cả sự liên kết bên trong, những mối liên hệ qua lại
giữa các yếu tố thuộc về nội dung và hình thức của tác phẩm, trong đó có cả
yếu tố bố cục.
1.2. Ảnh hưởng về kết cấu tác phẩm có ba phần:
Trong một tác phẩm văn học dân gian thì kết cấu tác phẩm có thể dễ
dàng nhận ra được kết cấu được chia thành ba phần. Cụ thể hơn trong mỗi thể
loại ví dụ như: Truyền thuyết Truyện An Dương Vương và Mị Châu – Trọng
Thủy kết cấu truyện theo thời gian tuyến tính, không có sự quay trở lại. Hay
trong truyện cổ tích thì được xây dựng thành những môtip – kiểu truyện mà
mỗi môtip lại có những đặc trưng riêng về kết cấu; kiểu truyện người mồ côi,
bất hạnh thì nhân vật chính là người mồ côi phải ở với dì ghẻ hoặc là người có
số phận bất hạnh, bị đày đọa áp bức, hoặc người em út hiền lành mà yếu thế so
với người anh. Người mồ côi, bất hạnh trải qua nhiều khó khăn, bị hãm hại,
sau được Tiên, Bụt hoặc vật thần kì giúp đỡ nên có được hạnh phúc, nhận được
phần thưởng xứng đáng như trong truyện Tấm Cám, Cây tre trăm đốt, Ăn khế
4
Sự ảnh hưởng của văn học dân gian đối với Truyện Kiều
trả vàng,... Kiểu truyện người xấu xí mà tốt bụng, người mang lốt vật, ban đầu
bị ghét bỏ hãm hại nhưng sau đó được giúp đỡ mà trở nên sung sướng, hoặc
trút bỏ lốt xấu xí trở thành một người đẹp, thể hiện tài năng như trong truyện:
Lấy vợ Cóc, Sọ Dừa, ....Hay trong truyện cười thì kết cấu cũng rất chặt chẽ,
các chi tiết đan móc với nhau, đều hướng về cái đáng cười như trong truyện:
Tam đại con gà, Nhưng nó phải bằng hai mày,...
Dù ở thể loại nào của văn học dân gian thì ta cũng dễ dàng nhìn thấy
được một cách cụ thể là kết cấu của các truyện dân gian đều bao gồm có ba
phần. Thì trong tác phẩm Truyện Kiều của Nguyễn Du cũng vậy, cũng ảnh
hưởng rất rõ nét của văn học dân gian khi tác phẩm được Nguyễn Du chia theo
kết cấu của thể loại truyện thơ Nôm cũng gồm có ba phần: Gặp gỡ và đính
ước; Gia biến và lưu lạc; Đoàn tụ. Ở phần thứ nhất là Gặp gỡ và đính ước kể
về Thúy Kiều, con gái đầu lòng gia đình Vương viên ngoại – một gia đình
thuộc hạng thường thường bậc trung. Thúy Kiều tài sắc vẹn toàn. Nhân ngày
tiết thanh minh, Thúy Kiều gặp Kim Trọng, giữa hai người đã chớm nở mối
tình rất đẹp. Rồi hai người đã gặp gỡ, thề nguyền và đính ước với nhau. Phần
thứ hai Gia biến và lưu lạc kể về những biến cố xảy ra với Kiều trong suốt 15
năm. Sau khi Kim Trọng phải về Liêu Dương chịu tang chú, gia đình Kiều gặp
cơn gia biến. Kiều quyết định bán mình chuộc cha. Kiều bị bọn buôn người là
Mã Giám Sinh, Tú Bà, Sở Khanh lừa gạt, đẩy vào lầu xanh. Kiều được Thúc
Sinh – một khách làng chơi hào phóng cứu vớt khỏi cuộc đời kỹ nữ nhưng bị
vợ cả Hoạn Thư đánh ghen. Thúy Kiều trốn đến nương nhờ cửa Phật, Sư Giác
Duyên thương tình gửi nàng cho Bạc Bà nhưng lại là người cùng phường buôn
người với Tú Bà, Kiều lại rơi vào lầu xanh lần thứ hai. Ở đây, Kiều được anh
hùng Từ Hải cưới về, giúp Kiều báo ân báo oán nhưng lại mắc mưu Hồ Tôn
Hiến. Từ Hải bị giết, Thúy Kiều phải hầu đàn hầu rượu Hồ Tôn Hiến, sau đó
ép gả Kiều cho viên thổ quan. Tủi nhục, Thúy Kiều nhảy xuống sông nhưng
được sư Giác Duyên cứu và đến nương nhờ cửa Phật lần thứ hai. Phần thứ ba
Đoàn tụ, sau nửa năm về Liêu Dương chịu tang chú, Kim Trọng trở lại tìm
5
Sự ảnh hưởng của văn học dân gian đối với Truyện Kiều
Kiều và hay tin gia đình Kiều bị tai biến và nàng phải bán mình chuộc cha,
Kim Trọng đau đớn vô cùng. Tuy kết duyên cùng Thúy Vân nhưng Kim Trọng
không thể nào nguôi ngoai được, chàng cất công lặn lội tìm Kiều. Tình cờ gặp
được sư Giác Duyên mà Kim và Kiều tìm được nhau, gia đình đoàn tụ. Chiều
lòng mọi người, Kiều nối duyên với Kim Trọng nhưng cả hai cùng nguyện ước
rằng “Duyên đôi lứa cũng là duyên bạn bầy”. Như vậy có thể thấy về mặt xây
dựng kết cấu của Truyện Kiều cũng vẫn là hình thái của kết cấu của thể loại
truyện cổ tích, kết cấu ba phần. Mở đầu truyện bao giờ cũng là cảnh trai gái
gặp gỡ rồi xảy ra biến cố ly tan mỗi người mỗi ngả, sau trải qua nhiều bước
gian nan họ lại được đoàn tụ trong hạnh phúc lứa đôi, gia đình êm ấm. Chính
vì vậy mà đã chi phối toàn bộ sự phát triển của các tình tiết cũng như cả tính
cách của các nhân vật trong tác phẩm.
1.3. Ảnh hưởng về kết cấu kết thúc có hậu:
Kết thúc có hậu là quy luật có tính tất yếu và đặc trưng của thể loại
truyện thơ Nôm và nó cũng có sự ảnh hưởng từ kết thúc có hậu của văn học
dân gian. Trong văn học dân gian, chúng ta sẽ thấy kết thúc có hậu trong
truyện cổ tích, là kết thúc mà cái thiện chiến thắng hay được tôn vinh, cái ác sẽ
bị tiêu diệt, cụ thể ta sẽ thấy trong truyện cổ tích các nhân vật có tấm lòng nhân
hậu, tốt bụng sau khi trải qua bao nhiêu thử thách, cuối cùng đều được hưởng
hạnh phúc đó chính là nàng Tấm, Sọ Dừa hay chàng Thạch Sanh còn những kẻ
ác thì sẽ bị trừng trị thích đáng. Đó là ở các tác phẩm của nền văn học dân
gian, còn trong Truyện Kiều của Nguyễn Du có thể thấy cũng dáng dấp của sự
ảnh hưởng nền văn học dân gian khi cách xây dựng tác phẩm của tác giả cũng
mang dáng dấp của truyện cổ khi nhân vật chính là Thúy Kiều được miêu tả
với bề ngoài là một người con gái xinh đẹp và có tài năng (cầm – kì – thi –
họa) và có phẩm chất tốt đẹp nhưng trái lại với điều đó thì cuộc đời gặp nhiều
bất hạnh, cuối cùng thì bằng sự cố gắng của mình mà có được hạnh phúc, kết
thúc có hậu. Nhưng ở đây có lẽ sẽ khác một chút so với văn học dân gian thì
kết thúc có hậu trong Truyện Kiều của Nguyễn Du không phải do Tiên, do Bụt
6
Sự ảnh hưởng của văn học dân gian đối với Truyện Kiều
giúp đỡ mà là tự Thúy Kiều tự tìm và giải thoát chính bản thân mình. Như vậy
qua đây có thể thấy, không chỉ thể hiện ước mong của nhân dân mà còn thể
hiện ý chí đấu tranh mãnh liệt trước mọi thế lực tàn bạo trong xã hội xưa. Và
đây cũng chính là cơ sở tư tưởng của kiểu kết cấu kết thúc có hậu.
1.4. Ảnh hưởng về kết cấu xây dựng nhân vật:
Nhân vật trong các tác phẩm văn học dân gian, đặc biệt là trong truyện
cổ tích rất đa dạng và phong phú, phản ánh hầu hết các hạng người trong xã
hội, và còn là nhân vật của các mối quan hệ gia đình, thân tộc, xã hội. Nhân vật
xuất hiện trong cổ tích bao giờ cũng nêu là những mâu thuẫn trong quan hệ xã
hội, quan hệ gia đình. Nhưng dù có đa dạng và phong phú thì nhân vật trong
truyện cổ tích được phân tuyến và chia làm hai tuyến nhân vật chính là tuyến
nhân vật chính diện và tuyến nhân vật phản diện, tiêu biểu cho hai lực lượng
đối lập nhau trong xã hội đó là thống trị - bị trị; thiện – ác; cao cả - thấp hèn;
tốt – xấu...
2. Ảnh hưởng của VHDG Việt Nam đối với Truyện Kiều của Nguyễn
Du về đề tài:
2.1. Đề cao nhân nghĩa – đạo lý:
Trong nền văn học dân gian, đề tài thể hiện nhân nghĩa – đạo lý rất được
phổ biến trong nhiều thể loại như ca dao, tục ngữ, truyện cổ tích, truyền
thuyết… Đặc biệt ở mảng ca dao – tục ngữ, đề tài đề cao về hiếu nghĩa rất
phong phú và đa dạng. Nhấn mạnh đạo hiếu, nếu ta không có cha mẹ sanh
thành dưỡng dục thì không có chúng ta trên quả đất này:
Con người có tổ có tông
Như cây có cội, như sông có nguồn.
Bổn phận làm con phải luôn nhớ đến công ơn của cha mẹ đối với các
con thật to lớn như trời cao:
7
Sự ảnh hưởng của văn học dân gian đối với Truyện Kiều
Đố ai đếm được lá rừng
Đố ai đếm được công lao mẫu từ.
Cha mẹ đã tạo ra ta, phận làm con phải hiếu kính với cha mẹ. Việc kính
trọng và báo hiếu dành cho cha mẹ không chỉ về vật chất mà còn về tinh thần:
Đêm đêm khấn nguyện Phật trời
Cầu cho cha mẹ sống đời với con.
Tất cả những biểu hiện của đề tài về hiếu nghĩa của văn học dân gian
trong ca dao – tục ngữ ngoài ra còn trong truyền thuyết, truyện cổ tích có ảnh
hưởng sâu sắc trong Truyện Kiều của Nguyễn Du. Trong tác phẩm, Kiều vì
thực hiện chữ hiếu mà phụ nghĩa Kim Trọng. Gia đình Kiều bị thằng bán tơ vu
oan, Kiều quyết định bán mình để thực hiện hiếu nghĩa vì “Có ba trăm lạng
việc này mới xong”. Kiều rất đau đớn vì phải chọn giữa chữ hiếu và chữ tình.
Cuối cùng, Kiều quyết định chọn chữ hiếu theo nhân nghĩa đạo lý ở đời:
Duyên hội ngộ, đức cù lao
Bên tình, bên hiếu, bên nào nặng hơn?
Để lời thề bải minh sơn
Làm con trước phải đền ơn sinh thành
Quyết tình nặng mới hạ tình,
Để cho để thiếp bán mình chuộc cha!
Hay trong đoạn trích Kiều ở lầu Ngân Bích. Kiều xót xa nghĩ đến cha
mẹ già tựa cửa trông con. Khi thời tiết thay đổi, ai là người chăm sóc cha mẹ
“tựa cửa hôm mai”, “quạt nồng ấm lạnh”. Sự trăn trở của Kiều khi nghĩ đến
cha mẹ, nghĩ đến bổn phận làm con của mình chứng tỏ Kiều là một người con
hiếu thảo:
Xót người tựa cửa hôm mai
Quạt nồng ấm lạnh những ai đó giờ
Sân lai cách mấy nắng mưa
Có khi gốc tử đã vừa người ôm.
8
Sự ảnh hưởng của văn học dân gian đối với Truyện Kiều
Đề tài nhân nghĩa – đạo lý trong Truyện Kiều còn được thể hiện qua việc
Kiều biết trọng nghĩa nhân và luôn thực hiện chữ “tam tòng” đối với Kim
Trọng và Từ Hải. Trong đoạn trích Trao duyên sao khi việc nhà im xuôi, Kiều
tìm cách trao duyên cho Thúy Vân, mong muốn Thúy Vân thay mình trả nghĩa
cho Kim Trọng vì Kiều không muốn là người nợ ân tình, không muốn là người
phụ bạc Kim Trọng. Nàng đúng là một người biết trọng tình nghĩa:
Cậy em, em có chịu lời
Ngồi lên cho chị lạy rồi sẽ thưa…
Hay trong đoạn trích Chí khí anh hùng, Từ Hải quyết định ra đi vì sự
nghiệp lớn, Kiều một mực đòi theo để thực hiện chữ “tam tòng”của người phụ
nữ có chồng. Kiều muốn cùng chia sẻ với Từ Hải những khó khăn, trắc trở trên
con đường đi tìm công danh. Nàng muốn đi cùng chồng để chăm sóc chồng vì
nàng không muốn cô đơn:
Nàng rằng: “Phận gái chữ tòng”,
Chàng đi thiếp cũng một lòng xin đi.
Có thể nói, Nguyễn Du chịu sự ảnh hưởng rất lớn về mặt đề tài nhân
nghĩa – đạo lý của nền văn học dân gian qua việc xây dựng hình tượng nhân
vật Thúy Kiều – một nhân vật luôn giữ trọn đạo lý Nho giáo. Kiều là một
người phụ nữ hiếu thảo, trọng tình nghĩa, là một người phụ nữ điển hình trong
xã hội phong kiến.
2.2. Phản ánh xã hội phong kiến:
Trước hết chúng ta thấy trong Truyện Kiều quyền lực lớn nhất tập trung
vào bọn quan lại trong xã hội phong kiến. Trong Truyện Kiều, Nguyễn Du thấy
cái xấu xa của bọn quan lại không phải là hiện tượng mà là bản chất. Nguyễn
Du khái quát chúng về đặc điểm của bọn quan lại phong kiến giống như trong
câu ca dao:
Một ngày là thói sai nha
Làm cho khốc hại chẳng qua vì tiền
9
Sự ảnh hưởng của văn học dân gian đối với Truyện Kiều
Đến đây, ta thấy Truyện Kiều cũng chịu ảnh hưởng sâu sắc đề tài về
phản ánh xã hội phong kiến từ văn học dân gian. Nguyễn Du xây dựng quan lại
bằng những hình tượng cụ thể. Những tên này tuy khác nhau về ngoại hình,
tính cách nhưng đều là những kẻ phá hoại hạnh phúc gia đình Kiều. Thằng bán
tơ là kẻ vu oan cho gia đình Kiều, chúng đến nhà tàn sát, bạo ngược và cuối
cùng :
Đồ tuế nhuyễn, của riêng tây,
Sạch sành sanh vét cho đầy túi tham
Và bọn quan lại chỉ dịu cơn thịnh nộ khi nghe thấy có mùi hôi tanh của
đồng tiền «Có ba trăm lạng việc này mới xong ». Câu thơ này của Nguyễn Du
cũng gần giống với câu ca dao « Đồng tiền đi trước, mực thước theo sau »
trong nền văn học dân gian. Hay là những ông quan động lòng với tiếng khóc
sụt sùi của Thúc Sinh mà chẳng động lòng một chút nào trước cảnh tra tấn
Kiều dã man. Khi biết Kiều có tài thơ, quan quên hết công lý bắt Thúy Kiều
làm thơ và cuối cùng nhờ một bài thơ mà xong hết mọi chuyện :
Thôi đừng rước dữ cưu hờn,
Làm chi lỡ nhịp cho đờn ngang cung
Đã đem đến trước cửa công
Ngoài thì là lý song trong là tình…
Ở mảng đề tài về phản ánh xã hội phong kiến, Nguyễn Du cũng chịu ảnh
hưởng lớn của nền văn học dân gian. Ông tiếp tục lên án những thói xấu xa của
bọn quan lại như vơ vét, vu oan cho dân lành. Những ông quan xử kiện theo
cảm tính, vì tiền, bất tài vô dụng…Trước đó, trong văn học dân gian cũng có
nhiều câu ca dao – tục ngữ phản ánh những thói xấu của bọn quan lại như :
Con ơi nhớ lấy câu này
Cướp đêm là giặc, cướp ngày là quan.
Sau thế lực của quan lại là thế lúc của đồng tiền, Nguyễn Du là một
trong những nhà thơ tố cáo gay gắt sức mạnh của đồng tiền.Trong Truyện Kiều
, đồng tiền len lỏi vào khắp chốn, khắp nơi, vào mọi tầng lớp xã hội, chi phối
10
Sự ảnh hưởng của văn học dân gian đối với Truyện Kiều
tâm lý một bộ phận lớn những con người trong cái xã hội này. Ở đây quan lại
có kẻ vì tiền mà hành hạ con người, nho sĩ có kẻ vì tiền mà lưu manh hóa, bọn
buôn thịt bán người tất cả vì tiền mà bày biện ra trăm phương nghìn kế bẫy
người phụ nữ, bắt họ phải đem thân ra làm món hàng để buôn bán cho chúng
kiếm chác. Đồng tiền ăn sâu vào tâm lý con người đến nỗi Mã Giám Sinh
trước tài hoa và nhan sắc của Thúy Kiều chỉ biết có cân đo, trả giá. Còn Tú Bà
thì mừng cuống lên khi thấy Mã Giám Sinh mua được Thúy Kiều, rồi tức đến
lộn ruột khi biết Kiều kết thân với Mã Giám Sinh, và run sợ mặt tái mét khi
thấy Thúy Kiều rút dao tự tử. Nguyễn Du đã coi giai cấp thương nhân với tất
lòng khinh miệt.
Thực chất đồng tiền làm xáo lộn hết cả mọi giá trị của đời sống, làm cho
đời người không còn là của mình mà biến thành một vật ngoài mình, một món
hàng để trao đổi, đảo lộn cả xã hội và mối quan hệ con người với con người, bị
tha hóa… Sở dĩ đồng tiền có năng lực làm lộn ngược hết cả ý nghĩa của đời
sống, chính là vì mọi giá trị nhân bản đã bị tha hoá, biến thành những vật ngoài
người ta, những món hàng ở thị trường. Mã Giám sinh cân nhắc tài sắc của
Kiều như con vật bán ở chợ, “cò kè bớt một, thêm hai”, rồi mua được về thì
tính toán vốn lãi:
Về đây nước trước bẻ hoa,
Vương tôn quý khách ắt là đua nhau.
Hẳn ba trăm lạng kém đâu,
Cũng đà vừa vốn còn sau thì lời.
… Mập mờ đánh lận con đen,
Bao nhiêu cũng bấy nhiêu tiền, mất chi?
Trong Truyện Kiều, quan lại đòi bại và đồng tiền là hai thế lực to lớn
nhất chi phối toàn bộ xã hội. Bên dưới hai thế lực ấy, chúng ta còn thấy có thế
lực của các nhà chứa. Ở đây nhà chứa có cái to như lầu xanh cuả Tú Bà, có cái
bé như hành viện của Bạc Bà, Bạc Hạnh. Thúy Kiều sảy nhà là rơi vào nhà
chứa. Nhà chứa được pháp luật thừa nhận, hoạt động công khai, tự do đi mua
11
Sự ảnh hưởng của văn học dân gian đối với Truyện Kiều
người, rồi lại tự do bán người. Kinh doanh cái nghề này không phải chỉ có bọn
gái đĩ về già như Tú Bà, mà có cả Sở Khanh, Mã Giám Sinh, vốn là nhà nho, là
sinh viên trường Quốc Tử Giám, có cả Bạc Bà, Bạc Hạnh vừa buôn người, vừa
“Am mây quen lối đi về dầu hương”… Đạo đức phong kiến đã làm cho con
người tàng bạo và giả dối. Trước đó, trong văn học dân gian cũng phản ánh tác
hại của đồng tiền trong các truyện cổ tích như Ăn khế trả vàng, Đồng tiền Vạn
Lịch… Đến đây, Nguyễn Du đã tiếp nhận và cũng chịu ảnh hưởng sâu sắc từ
đề tài phản ánh xã hội phong kiến của văn học dân gian.
2.3. Tài hoa bạc mệnh:
Gia đình viên ngoại họ Vương thuộc về thành phần trung gian trong xã
hội phong kiến. Kiều đã được luyện tập trong mọi nghề phong lưu: thi, hoạ, ca,
nhạc. Nhưng phương thức sinh hoạt còn giản dị: ngày hội Đạp Thanh, ba chị
em “bộ hành chơi xuân”, trong khi bọn giàu có thì “ngựa xe như nước, áo quần
như nêm”. Thậm chí phụ nữ trong nhà còn có phần tham gia lao động, và hôm
bọn sai nha đến cướp phá thì chúng đã làm “Rụng rời khung cửi, tan tành gói
may”. Vậy họ Vương chắc cũng có ruộng phát canh mà không có nhiều. cả nhà
lại tìm cách sinh nhai trong nghề thủ công: “Thuê may bán viết, kiếm ăn lần
hồi”. Chúng ta có thể nhận định: Kiều xuất thân ở tầng lớp tiểu phong kiến, có
thể là vào hạng dưới. Mâu thuẫn giữa tài và mệnh xuất phát từ kinh nghiệm
thực tế xã hội. Họ có phương tiện để rèn luyện cá nhân, xây dựng tài năng,
nhưng lại không được sử dụng cái tài năng ấy một cách xứng đáng, vì bị bọn
quý tộc, quan liêu đàn áp, có khi biến cái tài năng ấy thành một cái tai vạ.
Nhưng vì gia tư họ Vương là “thường thường bậc trung”, chỉ một buổi
quấy lộn của bọn sai nha là đủ để làm tan nát tài hoa của Kiều đã có điều kiện
để xây dựng, nhưng lại sẽ làm một mồi hấp dẫn cho bọn thống trị dầy vò và
biến thành một công cụ hưởng lạc cho chúng. Cái bạc mệnh này không phải là
trường hợp cá biệt, mà là điển hình cho cả một số thành phần quan trọng trong
xã hội phong kiến: “Làm gương cho khách hồng quần thử soi”. Tư tưởng tài
mệnh tương đố phản ánh trong chủ quan cá nhân tình trạng thực tế của những
12
Sự ảnh hưởng của văn học dân gian đối với Truyện Kiều
tầng lớp trung gian bị bọn thống trị đe doạ, đàn áp « Nghìn thu bạc mệnh, một
đời tài hoa ».
Phạm vi này mới là phạm vi tài hoa cá nhân, oán trách bạc mệnh, nhưng
vì nội dung mối sầu cũng còn có ý nghĩa phổ cập, tiếng đàn đã đạt được một
giá trị nghệ thuật sâu sắc, làm cho thiên hạ cảm thấy một cách thấm thía bản
chất bất nhân, bầu không khí nghẹt thở :
Khúc nhà tay lựa nên chương
Một thiên Bạc mệnh lại càng não nhân.
Trước đó, trong văn học dân gian, trong các bài ca dao than thân « Thân
em… » tác giả dân gian cũng thể hiện vẻ đẹp, tài hoa của người phụ nữ phong
kiến nhưng vẻ đẹp, tài hoa ấy lại không được trân trọng mà bị vùi dập, xem
thường, bị phụ thuộc vào người khác, mặc cho số phận đưa đẩy. Đến với
Truyện Kiều, Nguyễn Du cũng tiếp nối và chịu ảnh hướng lớn đề tài tài hoa
bạc mệnh thông qua việc xây dựng nàng Kiều với tài sắc vẹn toàn nhưng « bạc
mệnh », chịu nhiều nỗi đau từ thể xác đến tâm hồn trong xã hội phong kiến.
3. Ảnh hưởng của VHDG Việt Nam đối với Truyện Kiều của Nguyễn
Du về quan điểm thẩm mỹ:
3.1. Khái quát chung về quan điểm thẩm mỹ:
Đại Từ điển Tiếng Việt, thẩm mỹ là khả năng cảm thụ và hiểu biết về cái
đẹp: khiếu thẩm mỹ và giáo dục thẩm mỹ cho học sinh. Thẩm mỹ chính là
quan niệm, sự đánh giá, cảm thụ của con người về cái đẹp, về những biểu hiện
của các quan hệ thẩm mỹ trong cuộc sống: cái thẩm mỹ trong tự nhiên, trong
đời sống xã hội, trong sáng tạo nghệ thuật.
Ta có thể hiểu tư tưởng thẩm mỹ là những suy nghĩ, quan niệm, quan
điểm về những biểu hiện của cái đẹp, cái thẩm mỹ trong tự nhiên, xã hội và
nghệ thuật của cá nhân, nhóm, trào lưu nghệ thuật, tổng thể giai cấp, xã hội,
được bộc lộ qua các hoạt động thực tiễn cụ thể. Tư tưởng thẩm mỹ là sự kết
13
Sự ảnh hưởng của văn học dân gian đối với Truyện Kiều
hợp giữa lý trí và tình cảm, tức là biểu hiện cả dưới dạng lý trí và xúc cảm. Nó
thuộc về tư duy hình tượng.
3.2. Những yếu tố ảnh hưởng đến tư tưởng thẩm mỹ của Nguyễn
Du:
Trước hết, có thể thấy rằng, tư tưởng thẩm mỹ của Việt Nam nói chung
và của Nguyễn Du nói riêng chịu ảnh hưởng sâu sắc của tư tưởng mỹ học cổ
đại Trung Hoa. Chính bản thân Truyện Kiều cũng được Nguyễn Du dựa theo
tiểu thuyết Kim Vân Kiều truyện của Thanh Tâm Tài Nhân, Trung Quốc. Mỹ
học Trung Hoa là sự đan cài và đầy mâu thuẫn giữa các luận thuyết mỹ học
khác nhau. Khuynh hướng tích cực nhất là xem cái “mỹ” có nguồn gốc ở cái
“chân” của tự nhiên. Vì vậy, cái “mỹ” của nghệ thuật cần lĩnh hội có chọn lọc
cái “chân” đó thông qua sự thể hiện cái “tâm”, cái“tình” thuần khiết của người
sáng tạo. Khuynh hướng mỹ học quý tộc thường đề cao “đạo”, “lý tưởng” phụ
thuộc vào hệ tư tưởng thống trị và xem cái thẩm mỹ là phẩm chất “người quân
tử” (kẻ đại diện cho quyền lực tinh thần của giai cấp thống trị).
Nguyễn Du chịu ảnh hưởng khá rõ nét từ Nho giáo và Đạo giáo. Nguồn
gốc tư tưởng thẩm mỹ của ông trước hết là tư tưởng thẩm mỹ Nho giáo. Bởi lẽ,
từ thế kỷ XV, cho đến giữa thế kỷ XIX, thậm chí đến đầu thế kỷ XX, trong đời
sống tinh thần của nước ta, Nho giáo vẫn giữ vai trò chủ đạo, chi phối. Nguyễn
Du sống ở cuối thế kỷ XVIII – đầu thế kỷ XIX nên đã chịu ảnh hưởng rất lớn
từ những tư tưởng của Nho giáo, trong đó có tư tưởng thẩm mỹ, nhất là khi
ông xuất thân trong một gia đình, một dòng họ nổi tiếng về tước vị và
vănchương, đặc biệt ông nội của Nguyễn Du là Nguyễn Quỳnh lại chuyên chú
về Kinh Dịch.
Trong hệ thống tư tưởng của mình, Nho giáo cũng đề cập tới những tư
tưởng thẩm mỹ sâu sắc. Đối với học thuyết này, thì mỹ chính là thiện, tận
thiện, tận mỹ tồn tại trong một sự vật hiện tượng, là tiêu chuẩn và yêu cầu cao
nhất của cái đẹp. Khổng Tử quan niệm: mỹ tức là thiện. Thiện chủ yếu là sự
bình giá có tính công lợi của sự vật. Còn đối với mỹ, ngoài tính công lợi ra nó
14
Sự ảnh hưởng của văn học dân gian đối với Truyện Kiều
còn phải đáp ứng sự hài hòa giữa nội dung và hình thức. Khi nói thiện tức là
mỹ, Khổng Tử đặc biệt nhấn mạnh sự thống nhất thiện – nội dung, mỹ hìnhthức trong văn chương – nghệ thuật, là sự biểu hiện giữa đức và văn. Ông
nói: “Người có đức tất có lời, người có lời tức có đức”. Y phục xứng kỳ đức.
Cái đẹp của cách may mặc phải hài hòa với các giá trị đạo đức. Cũng bàn về
vấn đề này, từ góc độ nhân tính, Mạnh Tử cho rằng, cái đẹp luôn có trong mọi
người. Ông quan niệm: “Làm cho đầy đặn gọi là đẹp”. Do vậy, theo ông, cái
đẹp thống nhất với cái thiện, thêm tín vào nữa là sự thống nhất chân – thiện –
mỹ.
Đồng thời, Nho giáo cũng đưa ra quan niệm về cái đẹp thực hữu, sống
động. Tư tưởng thẩm mỹ Nho giáo đề cao tính biểu tượng, được soi rọi từ hiện
thực của tâm, chí. Mặc dù đề cao vai trò của cái chủ quan trong quá trình tiếp
nhận ngoại cảnh, Nho giáo trong bản thân học thuyết của mình chưa bao giờ
phủ định tính hiện thực của sự tồn tại thế giới hiện tượng. Cái đẹp, cái thẩm
mỹ trong quan điểm của Nho giáo vẫn là những gì gắn với mặt đất, con người
đang tồn tại chứ không nằm trong một thế giới siêu việt. Nó thường vận động,
biến đổi theo quy luật biến dịch chứ không hề tĩnh tại. Có thể coi cái động là
một phạm trù thẩm mỹ tiêu biểu của văn chương nhà nho.
Những hình tượng thiên nhiên sống động, cương kiện như tùng, trúc,
cúc, mai là sự tiếp diễn một cách tự nhiên từ tinh thần triết học tới lĩnh vực
thẩm mỹ. Hay nói cách khác, thẩm mỹ cũng là một phương diện trong đời sống
tinh thần lấy tu dưỡng làm then chốt của nhà nho, thẩm mỹ cũng là một loại
công cụ phục vụ tu dưỡng.
Tư tưởng thẩm mỹ Nho giáo còn được thể hiện ở thái độ đối với thiên
nhiên – khách thể thẩm mỹ. Giới tự nhiên được nhà nho xác định là miền đất
để bộc lộ tâm sự, để trứ tâm. Đó là nơi nhà nho có thể truy cầu sự thỏa mãn về
phương diện thẩm mỹ, ở đó có cái đẹp toàn vẹn, có cái phong phú, phóng
khoáng thanh khiết. Mây, nước, phong, hoa, tuyết, nguyệt đều là cội nguồn cái
đẹp trong thơ miêu tả tự nhiên của các nhà nho. Chỉ có điều, thiên nhiên không
15
Sự ảnh hưởng của văn học dân gian đối với Truyện Kiều
phải là một khách thể thẩm mỹ khách quan mà là chủ khách thể tương thông
hợp nhất. Đứng trước thiên nhiên hùng vĩ, các nhà nho thường có một tâm
trạng phổ biến là cảm nhận được sự trường cửu của non sông, đồng thời cũng
cảm nhận được cả cái phù vân, ngắn ngủi của cuộc đời con người, cái một đi
không trở lại của dòng thời gian. Từ đó, trong mỗi người đều sinh ra một lòng
cảm khái đối với quá khứ, với lịch sử hào hùng. Trong phạm vi đạo Nho, chí
có một nghĩa cụ thể: khao khát muốn làm cái gì đó cho đời và nhất là sống
đúng theo những chỉ dẫn của thánh hiền. Đó chính là quan niệm thơ để nói chí
của mình (Thi ngôn chí).
Bên cạnh sự ảnh hưởng của tư tưởng Nho giáo, Nguyễn Du cũng chịu
những tác động nhất định của Đạo giáo. Theo Trang Tử, cái đẹp tối cao là cái
đẹp tự do không phụ thuộc một nguyên tắc nào. Khát vọng tự do là cội nguồn
của cái đẹp khoáng đạt trong tư tưởng của Trang Tử. Khi đứng lên đòi quyền
tự do trong tình yêu, tự do cho người phụ nữ chắc hẳn Nguyễn Du không thể
không chịu ảnh hưởng từ quan điểm này của Đạo giáo.
Ngoài sự tiếp xúc với Nho giáo, Đạo giáo, Nguyễn Du cũng có nhiều
điều kiện nghiên cứu về Phật giáo. Theo Phật giáo thì cái thẩm mỹ, quan hệ
thẩm mỹ là sản phẩm của ý thức thuần túy, của “linh hồn vũ trụ” hay “linh hồn
cá thể”. Đời sống thẩm mỹ, hoạt động thẩm mỹ của con người rút cuộc cũng
nằm trong “luân hồi” và “nghiệp”. Như thế, mọi sáng tạo văn hóa thẩm mỹ của
con người đều không thể thoát ra khỏi mục tiêu “Niết bàn”, “Không”. Phật
giáo khác các tôn giáo khác ở chỗ, chúng sinh thuộc bất kỳ đẳng cấp nào cũng
được giải thoát. Con người là đối tượng trung tâm của hệ thống giáo lý Phật
giáo. Triết lý tìm về bản thân, hiểu về bản ngã là triết lý tối cao của Phật giáo.
Đức Phật đã khuyến khích chúng sinh: “Hãy tự mình thắp đuốc mà đi, hãy
nương tựa vào chính mình, vì Như lai chỉ là người dẫn đường”. Tư tưởng thẩm
mỹ của Nho – Phật – Lão có một lịch sử lâu dài và có những thành tựu quý
báu. Tuy nhiên, do nảy sinh và phát triển trên cơ sở của phương thức sản xuất
châu Á và chế độ nông nô, phong kiến nên mỹ học nói chung và tư tưởng thẩm
16
Sự ảnh hưởng của văn học dân gian đối với Truyện Kiều
mỹ thời kỳ này nói riêng đã không thể vượt lên được và về sau thường rơi vào
duy tâm, thần bí, siêu hình. Với Nguyễn Du, Thiền, Phật, Lão Trang thể hiện
cái nhìn hư ảo về cuộc đời, đề cao cái tự nhiên trong con người, có tính cách
phi chính thống của nhà nho tài tử, đồng thời cũng là phương tiện để chuyển
tải những tư tưởng nhân văn chủ nghĩa.
Tóm lại Có thể nói, tư tưởng thẩm mỹ là những suy nghĩ, quan niệm,
quan điểm về các thuộc tính thẩm mỹ trong tự nhiên, xã hội và nghệ thuật của
cá nhân, nhóm, trào lưu nghệ thuật, tổng thể giai cấp, xã hội như cái đẹp, cái
xấu, cái cao cả, cái bi, cái hài,… được bộc lộ qua các hoạt động thực tiễn cụ
thể. Tư tưởng thẩm mỹ bao giờ cũng được cụ thể hóa trong các chất liệu của
nó, tức nó phải được thể hiện một cách đặc thù vào tác phẩm nghệ thuật. Nó có
sự kết hợp giữa lý trí và tình cảm đã được nâng lên ở tầm lý luận. Quan niệm
về cái đẹp, cái xấu, cái cao cả, cái bi, cái hài,… phải tạo ra được giá trị thẩm
mỹ nhất định. Điều đó có nghĩa là nó phải gắn bó chặt chẽ với các vấn đề cá
nhân, xã hội, thời đại,… Và Nguyễn Du đã làm được điều đó. Ông đã gắn liền
những vấn đề chung của thời đại, của dân tộc, nhân dân với những vấn đề
mang tính chất cá nhân, những câu chuyện riêng tư của chính mình. Vì vậy, mà
những chuyện đời tư ấy luôn mang trong mình những giá trị thẩm mỹ tốt đẹp.
3.3. Một số nội dung cơ bản trong tư tưởng thẩm mỹ của Nguyễn Du
được thể hiện qua tác phẩm “Truyện Kiều”:
3.3.1. Cơ sở quan niệm thẩm mỹ của Nguyễn Du:
Một là, quan niệm thẩm mỹ của ông được bộc lộ rõ nét qua cái nhìn về
cuộc đời và con người. Nguyễn Du đã tạo nên những cơ sở triết học, mỹ học
để triển khai tư tưởng nhân sinh của mình theo hướng kết hợp Nho, Phật và
Lão trên nền tảng tâm thế Việt: lấy sự cảm thương, đồng điệu làm điểm tựa cho
những nhận định về nhân thế. Hai là, Nguyễn Du đã xem thiên nhiên như một
cõi thiêng, một chốn đi về của tâm hồn. Ba là, quan niệm thẩm mỹ của Nguyễn
Du được thể hiện qua sự minh triết của con người thanh cao, u uẩn. Nguyễn
Du đã tuân thủ nguyên lý minh triết của Phật giáo và sắc thái duy tình của
17
Sự ảnh hưởng của văn học dân gian đối với Truyện Kiều
người Việt. Bốn là, nhà thơ còn quan tâm đến bản chất, chức năng của văn
chương.
3.3.2. Quan niệm của Nguyễn Du về cái đẹp:
3.3.2.1. Quan niệm về cái đẹp:
Theo quan điểm mỹ học hiện đại, cái đẹp được coi là một phạm trù cơ
bản, đóng vai trò trung tâm trong đời sống thẩm mỹ, trong các quan hệ thẩm
mỹ. Nó vừa là sản phẩm của lịch sử phát triển bản thân năng lực thẩm mỹ, vừa
là sự phát triển tư tưởng thẩm mỹ của chính loài người. Bản chất cái đẹp gắn
liền với lịch sử phát triển tư tưởng, quan niệm về cái đẹp của nhân loại. Nó
“bắt nguồn từ cái chân thật và cái tốt; nó tỏa chiếu bằng những xung động
thẩm mỹ có sức cuốn hút cho con người định hướng đời sống theo luật hoàn
thiện, hoàn mỹ. “Tính toàn thiện, toàn vẹn và sinh động được thể hiện cao nhất
trong cái đẹp nghệ thuật, vì nó là cái đẹp được tạo ra bởi những chủ thể tài
năng theo mục đích của con người nhằm vươn tới lý tưởng của loài người tiến
bộ”.
3.3.2.2. Quan niệm thẩm mỹ về cái đẹp của Nguyễn Du:
Ông đã dành rất nhiều thời gian, tâm huyết để nói về cái đẹp. Quan điểm
của ông về vấn đề này được thể hiện ở cả hai khía cạnh nội dung và hình thức
của tác phẩm. Bởi lẽ “cái khác biệt giữa cái đẹp trong tự nhiên và cái đẹp trong
cuộc sống xã hội bình thường là ở chỗ, cái đẹp nghệ thuật là sự thống nhất giữa
nội dung và hình thức; cái chỉnh thể thống nhất này được thể hiện ra dưới dạng
cái đẹp độc đáo bằng các loại hình, thể loại nghệ thuật hết sức độc đáo và
phong phú”
Những gì là quan điểm của con người đã trải qua sự chắt lọc của tư duy
và được hiện thực hóa thì đó là tư tưởng. Đối với một tác phẩm nghệ thuật,
hình thức bao giờ cũng mang mục đích hướng tới cái đẹp, cái thẩm mỹ. Vì thế,
nó chứa đựng tư tưởng thẩm mỹ của tác giả. Giá trị của tác phẩm không chỉ
nằm trong nội dung của nó mà còn bộc lộ trong phong cách thể hiện, cá tính
của người sáng tác. Một sáng tác nghệ thuật thành công bao giờ cũng phải có
18
Sự ảnh hưởng của văn học dân gian đối với Truyện Kiều
một hình thức phù hợp với nó, lột tả được tư tưởng, ý đồ của tác giả. Tố Như
bộc lộ quan điểm về cái đẹp thông qua cách thức biểu hiện của chính cái đẹp
ấy. Lấy nội dung của một tiểu thuyết chương hồi bằng văn xuôi, ít được đón
nhận ở Trung Quốc là Kim Vân Kiều truyện để hiện thực hóa ý đồ của mình
không phải là chuyện dễ. Phải làm sao để thổi được tư tưởng của mình vào đó,
làm sao để được nhân dân đón nhận? Chắc chắn rằng, những trăn trở ấy cũng
đã dằn vặt Nguyễn Du rất nhiều. Cách duy nhất để giải quyết vấn đề là phải tạo
ra được sự đặc sắc, khác biệt. Muốn vậy thì phải bắt đầu từ những gì “rất Việt
Nam”, phải mang hồn dân tộc, giúp cho người đọc dễ hiểu, dễ nhớ, dễ cảm
thụ.Gần gũi với đời sống hằng ngày của người bình dân như: cái nhìn về con
người, về thiên nhiên, quan niệm về chữ “tâm”, chữ “tài” chữ “đức, hạnh” của
nhân dân ta trong tư tưởng hay vẻ đẹp sinh hoạt hằng ngày của người bình dân
trong cuộc sống.
Với Nguyễn Du vẻ đẹp về hình thức của tác phẩm văn học trước hết
phải phản ánh đúng, triệt để tư tưởng tác giả, phải gần gũi đối với tất cả mọi
người, từ những người có học tới những người không biết chữ, từ những người
trẻ tới các cụ già, bất cứ ai nghe hay đọc cũng có thể hiểu và cảm thấy yêu
thích. Hình thức đẹp không cần phải quá cầu kỳ, trau chuốt với những kỹ xảo
ngôn từ, các biện pháp nghệ thuật mà quan trọng là phải hợp với người đọc,
người nghe.
Hơn nữa, trong cách trình bày, thể hiện của Tố Như có sự giao thoa, kết
hợp giữa những đặc trưng của các khuynh hướng thẩm mỹ như người viết vừa
nêu ở trên. Điều đó góp phần làm nên sự thành công trong hình thức thể hiện
của Truyện Kiều. Trước tiên là sự kết hợp giữa hình thức thể hiện của khuynh
hướng thẩm mỹ cổ điển và khuynh hướng thẩm mỹ hiện thực. Đồng hành cùng
thứ ngôn ngữ bác học, những từ Hán Việt, điển tích điển cố, lối diễn đạt đài
các, quý phái là ngôn ngữ bình dân, lời ăn tiếng nói hằng ngày, ca dao, tục ngữ
của người Việt. Bên cạnh những nhân vật ước lệ, mang tính chất chuẩn mực
bao giờ cũng hiện diện sự phá cách của chính nhân vật đó và sự có mặt của hệ
19
Sự ảnh hưởng của văn học dân gian đối với Truyện Kiều
thống nhân vật phản diện, các thế lực tượng trưng cho sự xấu xa của xã hội
đương thời. Trong cách bày tỏ sự ưu ái đối với những nhân vật chính diện bao
giờ cũng là ngòi bút sắc nhọn, đanh thép bộc lộ thái độ lên án mạnh mẽ với
hiện thực đời sống, với những nhân vật phản diện. Nhưng tất cả đều được sử
dụng có liều lượng, được chọn lọc tinh vi, khéo léo, kết hợp hài hòa đúng nơi,
đúng thời điểm nên đều hợp lý. Đối với quan niệm dân gian thì vẻ đẹp của cái
thiện được biểu hiện qua dung mạo đoan trang, thùy mị, nết na, sự dung hòa
giữa nội dung và hình thức, còn cái ác thì có thể biểu hiện qua các gương mặt
như: mắt trắng, môi thâm….
Không chỉ có vậy, ở hình thức Truyện Kiều còn có sự đan xen giữa cách
thể hiện của khuynh hướng thẩm mỹ cổ điển, hiện thực với khuynh hướng
nhân đạo. Việc sử dụng thể thơ lục bát (thể thơ dân tộc) vừa có thể diễn đạt
được nhiều sắc thái của cuộc sống, những nét tinh vi, tế nhị trong tình cảm con
người vừa tạo được chất thơ tinh túy trong cá tính Nguyễn Du - yếu tố quy
định quan niệm nhân sinh của ông, khiến ông tạo ra một kiến trúc cảnh trạng
và ý thức làm toàn bằng những cái hợp với nó. Cái định luật nền móng của âm
hưởng lục bát trong suốt tác phẩm là: bằng nhiều hơn trắc: “Dưới dòng nước
chảy trong veo / Bên cầu tơ liễu bóng chiều thướt tha” (169 – 170); “Hải
đường lả ngọn đông lân / Hạt sương gieo nặng cành xuân la đà” (175 – 176);
“Lơ thơ tơ liễu buông mành / Con oanh học nói trên cành mỉa mai” (269 –
270); “Đêm thâu khắc lậu canh tàn / Gió cây trút lá trăng ngàn ngậm sương”
(1119 – 1120);… Điều này tạo nên sự thành đạt tuyệt mĩ của điệu thơ lục bát.
Đọc Truyện Kiều, chúng ta thấy một Nguyễn Du trí tuệ, mẫn tiệp về tư
tưởng, ngôn từ, cấu tứ và sắp xếp tuyến nhân vật; một Nguyễn Du sáng tạo,
uyên bác, độc đáo lạ thường. Sức sáng tạo chính là phản ánh đặc trưng của tư
tưởng, ý thức con người. Nó làm nên cái mới cho tác phẩm, khẳng định tầm
vóc của tác giả. Bản thân Nguyễn Du đã trở thành minh chứng cho điều đó.
Nhà văn Cuba Fêlích Pita Rôdriget trong bài Nguyễn Du nhà thơ vĩ đại của
dân tộc Việt Nam đã nhận xét: “Với một trình độ học vấn uyên bác và là một
20
Sự ảnh hưởng của văn học dân gian đối với Truyện Kiều
trong số ít người thời đó hiểu biết gia tài phong phú của nền văn hóa Trung
Quốc, Nguyễn Du đã biết tìm và đã tìm được tài sản phong phú của nền văn
hóa dân gian Việt Nam và đã kết hợp cả hai nền văn hóa đó một cách vô cùng
sáng tạo, ông đã làm cho ngữ ngôn Việt Nam vốn đã phong phú lại càng rực rỡ
hơn” [41, 614].
Mặt khác, bên cạnh hình thức đẹp, Truyện Kiều còn chứa đựng một hệ
thống tư tưởng giàu có và độc đáo về nội dung. Trước hết, nói về tư tưởng
thẩm mỹ của Nguyễn Du về cái đẹp trong tự nhiên. Với ông, thiên nhiên như
có tình, như có hồn để cùng vui, cùng buồn, cùng hân hoan, cùng đau khổ với
tâm tình của người trong cảnh. Một nét gần gũi với thiên nhiên trong ca dao.
Khi nói về vẻ đẹp của ánh trăng
“Vầng trăng ai xẻ làm đôi
Đường tình ai rẽ ngược xuôi hỡi chàng”.
Còn truyện Kiều:
“Vầng trăng ai xẻ làm đôi
Nữa in gối chiếc nữa soi dặm trường”
Bên cạnh hình ảnh vầng trăng, truyện Kiều dạy cho ta biết yêu thiên
nhiên trong màu sắc, thanh âm, ý vị của nó. Nguyễn Du đã tạo nên những áng
thơ tuyệt mỹ, điển hình cho vẻ đẹp thiên nhiên mỹ lệ đắp đổi qua bốn mùa:
mùa xuân non tươi, mỡ màng với: “Cỏ non xanh tận chân trời/ Cành lê trắng
điểm một vài bông hoa” (41 – 42); mùa hè oi ả, tươi tắn với: “Dưới trăng
quyên đã gọi hè/ Đầu tường lửa lựu lập lòe đơm bông” (1307 – 1308); mùa thu
lộng lẫy, sáng trong với: “Long lanh đáy nước in trời/ Thành xây khói biếc non
phơi bóng vàng” (1603 1604).Cảnh thiên nhiên trong Truyện Kiều hết sức toàn
diện, chân thật mà cũng rất cụ thể: cảnh chiều hôm, cảnh “non xa trăng gần”
khi cô thiếu nữ ngồi nghe “ầm ầm tiếng sóng kêu quanh ghế ngồi (1054), cảnh
“ngọn triều non bạc trùng trùng” (2969)… Bao nhiêu thanh âm, màu sắc, bao
nhiêu cảm giác của ngũ quan, bao nhiêu ý nghĩ của con người trước tạo vật!
Nguyễn Du đã lựa chọn, sắp xếp để họa những bức cảnh phù hợp với tâm
21
Sự ảnh hưởng của văn học dân gian đối với Truyện Kiều
trạng, ăn nhịp với bước đường biến chuyển của cuộc đời. Khi thi sĩ gây cho ta
mối cảm tình sâu sắc đối với cảnh vật thì đồng thời cũng vun đắp nỗi lòng yêu
quê hương đất nước trong ta. Nhân dân ta yêu mãi Truyện Kiều cũng là vì qua
Truyện Kiều, mọi người đều thấy non nước, quê hương thật gần gũi và cũng
thật đẹp.
Với Nguyễn Du, cái đẹp của thiên nhiên được nhìn nhận theo tâm trạng
của con người. Thiên nhiên chỉ đẹp khi con người cho đó là đẹp, nói cách khác
cái đẹp của thiên nhiên là do sự cảm nhận của con người, nó được thông qua
lăng kính chủ quan của người thưởng thức. Thiên nhiên hiện lên gắn bó chặt
chẽ với tâm lý, tình cảm của những cá nhân cụ thể. Trong văn học dân gian
thiên nhiên là nơi giải bày tâm sự, không gian đôi lứa hẹn hò “ Đêm trăng
thanh anh mới hỏi nàng; Tre non đủ lá đan sàng nên chăng?”
Rõ ràng một âm hưởng chất liệu văn học, văn hóa dân gian rất rỏ, không
gian thiên nhiên là nơi để nói hộ tâm tư, tình cảm con người. Cảnh vật thiên
nhiên trong Truyện Kiều vừa là một quang cảnh “nhìn qua tâm trạng” vừa là
một bức tranh trí họa cho đời sống của con người. Đó cũng là sự kết hợp độc
đáo từ Nguyễn Du, vừa nhìn thiên nhiên hết sức khách quan lại vừa coi chúng
là nơi bộc bạch tâm trạng của con người. Cái đẹp của thiên nhiên vừa cổ điển
vừa hiện thực lại cũng rất nhân ái là ở chỗ đó. Tất nhiên trong quan điểm của
ông, cái đẹp thiên nhiên vẫn không nằm ngoài tính ước lệ, tượng trưng theo
một chuẩn mực đã có sẵn trong quan niệm của văn học phong kiến, của xã hội
thời đó.
Khía cạnh thứ hai trong quan điểm về cái đẹp nội dung tác phẩm của
Nguyễn Du là về vẻ đẹp của con người. Tư tưởng mỹ học phong kiến phương
Đông – văn dĩ tải đạo - đặt cái đẹp của con người trong những chuẩn mực, quy
phạm nhất định. Nếu như vượt ra khỏi những chuẩn mực, quy phạm ấy thì
không phải là đẹp. Cái đẹp truyền thống của dân tộc Việt Nam là cái đẹp mang
tính nhân văn, tính chất người của dân tộc ta trước đây, trong đó tính nhân ái
và tinh thần yêu nước là những đặc trưng cơ bản. Quan niệm truyền thống coi
22
Sự ảnh hưởng của văn học dân gian đối với Truyện Kiều
cái đẹp là cái đẹp đạo đức, cái đẹp gắn liền với cái thiện là quan niệm chính
thống và phổ biến trong tư tưởng thẩm mỹ cuối thế kỷ XVIII – đầu thế kỷ
XIX. Cái đẹp lý tưởng được đồng nhất với một thể chế chính trị lý tưởng là
thời vua Nghiêu vua Thuấn, vua sáng tôi hiền. Bản thân các nhân vật của
Nguyễn Du, đôi khi không phải là họ thiếu thiện ý mà vì chỗ đứng của họ
không vượt ra ngoài khuôn khổ của giáo lý và nhân sinh quan phong kiến hay
tôn giáo.Nguyễn Du không thể không bị hạn chế bởi hệ tư tưởng của thời đại
mình, không thể không đặt ra cho nhân vật nữ trung tâm của mình những yêu
cầu thẩm mỹ nhất định. Bản thân ông xuất thân từ một gia đình quýtộc, thấm
nhuần đạo Nho, không thể rời bỏ những quan niệm chuẩn mực thẩm mỹ đã ăn
sâu vào cốt tủy con người mình, gia đình, dòng họ mình. Nhưng bản thân ông
sẵn có tâm hồn dễ cảm, đã từng lăn lộn với đời, với nhân dân. Ông nhận thức
được giá trị của thực tiễn, ông cảm thấy xa lạ với cái mỹ xa rời cuộc sống, bất
chấp ước mơ, hạnh phúc thực tế của con người. Cho nên, trong Truyện Kiều
hình thành một quan niệm rất độc đáo về thẩm mỹ, về giá trị của cái đẹp.
Nguyễn Du đã đưa ra mẫu người bị xã hội dồn lên đầu tất cả những nhục nhã,
ê chề mà người đàn bà thời trước phải chịu đựng nhưng cũng chính người phụ
nữ ấy vẫn luôn sáng ngời vẻ đẹp của nhân phẩm, của dung nhan.
Trung tâm cái đẹp Nguyễn Du muốn mô tả chính là cái đẹp của con
người. Cái đẹp tuyệt đối, cái đẹp lý tưởng mà ông đã để hết tâm huyết xây
dựng, mơ ước và vươn tới đó là hình tượng con người toàn mỹ, toàn thiện và
toàn tài. Các nhân vật chính diện của tác phẩm chính là sự cụ thể hóa tập trung
nhất tư tưởng thẩm mỹ Nguyễn Du. Đặc biệt là nhân vật chính Thúy Kiều.
Kiều là một người con gái đẹp cả về ngoại hình và cả về đức hạnh. Điều chúng
ta dễ nhận thấy đó là cách đánh giá về người con gái đẹp của Nguyễn Du gần
với quan niệm của Nho giáo, nhưng nó lại mềm mỏng hơn quan niệm của Nho
giáo rất nhiều.Tạo hóa cho Kiều những vẻ đẹp hơn người. Mà vốn dĩ trong
cuộc sống những gì là hơn, là quá so với cái thường thì lại càng gặp nhiều rắc
rối. Vẻ đẹp của người con gái trong tư tưởng Nguyễn Du là vẻ đẹp mực thước,
23
Sự ảnh hưởng của văn học dân gian đối với Truyện Kiều
khuôn phép, có chuẩn mực nhất định. Với ông, người con gái có khuôn mặt
đầy đặn, tròn trĩnh, cười như hoa, giọng nói trong như ngọc, tóc đẹp như mây,
da trắng như tuyết là người con gái có vẻ đẹp “trang trọng khác vời”. Còn điểm
nhấn của người con gái đẹp “sắc sảo mặn mà” là đôi mắt trong sáng như làn
nước mùa thu, lông mày xinh đẹp như rặng núi mùa xuân. Nguyễn Du đã rất
tinh tế khi miêu tả vẻ đẹp mặn mà của Kiều, nó xuất phát từ chính đôi mắt –
nơi nói lên vẻ đẹp trong thế giới tâm hồn của nhân vật. Chỉ cần một điểm đó
thôi, Nguyễn Du đã lột tả được thần sắc của cái đẹp“sắc sảo mặn mà”. Kiều
đẹp đến mức hoa ghen, liễu hờn, thiên nhiên cũng sinh lòng đố kỵ, vì thế mà số
phận long đong, cực khổ. Nàng đẹp cả khi buồn. Nét buồn của nàng lại chính
là nét mê mẩn như hút hồn, là “nét hoa”, lệ của nàng rơi được Nguyễn Du gọi
là “châu”. Cái buồn của Kiều được ví với cúc, với mai: “Nét buồn như cúc,
điệu gầy như mai” (638). Càng suy tư, trầm lặng thì nàng lại càng đẹp. Lúc
khóc nàng lại càng trở nên đẹp hơn đẹp một cách nhẹ nhàng mà quyến rũ. Điều
này cho thấy, sắc đẹp của Kiều đã đạt đến độ hoàn mỹ, nàng chính là hiện thân
của cái đẹp toàn vẹn.
Thúy Kiều đẹp còn bởi lẽ nàng là một cô gái có tài năng văn chương
nghệ thuật: thơ ca, nhạc, họa,… “Cung thương lầu bậc ngũ âm/ Nghề riêng ăn
đứt hồ cầm một trương/ Khúc nhà tay lựa nên chương/ Một thiên bạc mệnh lại
càng não nhân” (31 – 34). Kiều giỏi về âm luật, giỏi đến mức “lầu bậc”. Cây
đàn mà nàng chơi là cây “hồ cầm”. Tiếng đàn của nàng thật hay, “ăn đứt” bất
cứ nghệ sĩ nào. Kiều còn biết sáng tác âm nhạc, tên khúc đàn của nàng sáng tác
là một “thiên bạc mệnh” nghe buồn thê thiết, làm cho lòng người sầu não, đau
khổ. Nguyễn Du dùng những từ ngữ cực tả tài sắc dành cho Thúy Kiều nhưng
nó cũng hé lộ, dự báo số phận bạc mệnh của nàng như ca dao lưu truyền: “Một
vừa hai phải ai ơi!/ Tài tình chi lắm cho trời đất ghen”. Có thể thấy rằng, vẻ
đẹp ngoại hình của Kiều mang đặc trưng của vẻ đẹp phụ nữ Á Đông theo quan
niệm xưa. Nguyễn Du “chú trọng đến các biến thái làm nổi bật sự khác nhau
giữa vẻ đẹp đoan trang, phúc hậu của Thúy Vân và vẻ đẹp sắc sảo (…) của
24
Sự ảnh hưởng của văn học dân gian đối với Truyện Kiều
Thúy Kiều. Đó là chỗ độc đáo hơn người của Nguyễn Du (…). Chúng ta đứng
trước hiện tượng về sắc đẹp nói chung của hai hạng đàn bà phúc hậu (Thúy
Vân)và sắc sảo (Thúy Kiều) nhưng chúng ta vẫn chưa có được một người đàn
bà phúc hậu, một người đàn bà sắc sảo, khó mà hình dung được mỗi người họ
là như thế nào” [24, 409-410]. Một khía cạnh nữa trong tư tưởng của Nguyễn
Du về cái đẹp là cái đẹp phải gắn với cái đạo đức. Đạo đức ở đây chính là cái
tình, lòng thành và chữ hiếu. Quan niệm về sự hiếu, đạo là quan niệm của nhân
dân ta. Nó là truyền thống ca ngợi những gương hiếu nghĩa trong cuộc sống.
Nguyễn Du Sự “sắc sảo mặn mà” của Kiều là cái tình đời luôn dào dạt, thiết
tha, luôn quan tâm đến mọi buồn vui của con người và cuộc sống. Kiều và
Đạm Tiên, tuy kẻ sống người chết, kẻ cõi âm người cõi dương nhưng “tình lại
gặp tình”, “ta lại gặp ta”, lại trở thành chị em. Khóc người mà thương mình,
thương người như thương mình. Sự chân thành ấy đã động thấu đến người nằm
dưới mồ. Đạm Tiên dù sao cũng là một người xa lạ mà tình cảm của Kiều còn
thế nói gì đến cha và em. Nếu chỉ vì hiếu, nghĩa, Kiều chưa hẳn đã bán mình.
Sức mạnh khiến nàng kiên quyết và chủ động “dẽ cho để thiếp bán mình chuộc
cha” (606) phải là một tình thương. Tình thương ấy lên tới đỉnh cao: Thương
người như thể thương thân. Thúy Kiều hy sinh duyên hội ngộ với Kim Trọng
để đền đáp công ơn sinh thành, dưỡng dục khó nhọc của cha mẹ: “Duyên hội
ngộ đức cù lao/ Bên tình bên hiếu bên nào nặng hơn/ Để lời thệ hải minh sơn/
Làm con trước phải đền ơn sinh thành” (601 – 604). Tác giả lấy từ thành ngữ
“Chín chữ cù lao”. Rồi trong suốt thời gian lưu lạc, bao nhiêu lần Kiều nhớ
nhà là bấy nhiêu lần nỗi nhớ đi liền với niềm thương, lúc nào Kiều cũng sống
trong băn khoăn, day dứt vì không làm tròn trách nhiệm của một người con đối
với cha mẹ. Đó cũng là nét đẹp vô cùng quý giá ở nàng Kiều. Nàng là người
con gái biết đối nhân xử thế, biết đạo lý, biết hy sinh bản thân vì người
khác.Nguyễn Du đề cao hạnh phúc của con người tự nhiên, con người trần thế.
Và Truyện Kiều chính là bản tình ca ca ngợi, nâng niu, trân trọng vẻ đẹp diệu
kỳ của tình yêu đôi lứa. Kiều có một trái tim chung thủy, một tâm hồn vị tha.
25