Hồ sơ thực hành – Tranh chấp đòi lại tài sản và ly hôn – Đinh Thế Thắng
MỤC LỤC
Hồ sơ thực hành – Tranh chấp đòi lại tài sản và ly hôn – Đinh Thế Thắng
PHẦN 1: TÓM TẮT NỘI DUNG VỤ VIỆC
1.
Căn cứ tiếp nhận vụ việc:
Bà Huỳnh Thị Nga là nguyên đơn trong vụ án “Tranh chấp quyền sử dụng
đất” với bị đơn là ông Lâm Chí Cường và bà Huỳnh Cẩm Nhung. Vụ án nêu trên
được Tòa án nhân dân huyện Bình Chánh, Tp. Hồ Chí Minh thụ lý và giải quyết
theo trình tự sơ thẩm.
Ngày 20/11/2018, Tòa án nhân dân huyện Bình Chánh, Tp. Hồ Chí Minh
ban hành bản án số191/2018/DS-ST với phán quyết bác toàn bộ yêu cầu khởi
kiện của nguyên đơn – bà Huỳnh Thị Nga. Đồng thời, chấp nhận toàn bộ yêu
cầu phản tố của bị đơn – ông Lâm Chí Cường và bà Huỳnh Thị Cẩm Nhung.
Không đồng tình với bản án nêu trên nên vào ngày 04/12/2018 bà Huỳnh
Thị Nga đã nộp đơn kháng cáo tại Tòa án nhân dân huyện Bình Chánh với nội
dung kháng cáo toàn bộ bản án sơ thẩm.
Vụ án sau đó đã được Tòa án nhân dân Tp. Hồ Chí Minh thụ lý, giải quyết
theo trình tự phúc thẩm theo thụ lý số 690/2018/TLPT-DS ngày 27/12/2018.
Ngày 02/5/2019, bà Huỳnh Thị Nga đến trụ sở Công ty Luật ............ yêu
cầu tư vấn pháp lý và cử Luật sư tham gia tố tụng tại Tòa án để bảo vệ quyền và
lợi ích cho bà Nga.
Căn cứ vào quy định của Luật Luật sư, lĩnh vực hoạt động của Công ty
Luật TNHH Thiên Định và yêu cầu của bà Huỳnh Thị Nga, hai bên đã tiến hành
ký kết Hợp đồng dịch vụ pháp lý. Đồng thời, Công ty Luật ............... đã cử Luật
sư .................. tham gia bảo vệ quyền và lợi ích hợp pháp cho bà Huỳnh Thị Nga
trong quá trình giải quyết vụ án nêu trên.
2.
Tên luật sư hướng dẫn:
Từ thời điểm bắt đầu tập sự tại Công ty Luật ......... từ tháng 11 năm 2018
đến tháng 11 năm 2019, tôi được Luật sư ................ hướng dẫn trực tiếp để tiếp
cận các hồ sơ dịch vụ pháp lý, các vụ việc thực tế để tôi nghiên cứu, trau dồi
kiến thức, kinh nghiệm trong quá trình hành nghề, trong đó có hồ sơ vụ án nêu
trên.
Vào ngày 02/5/2019, khi Luật sư ................. tiếp nhận vụ án của bà
Huỳnh Thì Nga thì vụ án nêu trên đã có quyết định đưa vụ án ra xét xử phúc
thẩm tại Tòa án nhân dân Tp. Hồ Chí Minh. Vì vậy, người tập hành nghề luật sư
tham gia khi vụ án đã có quyết định đưa vụ án ra xét xử tại cấp phúc thẩm.
3.
Tóm tắt nội dung vụ việc:
Nguyên đơn ông Dương Văn Sơn trình bày:
2
Hồ sơ thực hành – Tranh chấp đòi lại tài sản và ly hôn – Đinh Thế Thắng
Nguyên, vào năm 2002 ông Dương Văn Sơn và bà La Thị Út Chót chung
sống tại nhà không số, cạnh nhà số 258/30/1 đường Bông Sao, phường 5, quận
8, Tp. Hồ Chí Minh
Vào năm 2004, ông Sơn có mua căn nhà và đất tại ấp 2, xã Vĩnh Lộc B,
huyện Bình Chánh, Tp. Hồ Chí Minh theo giấy chứng nhận quyền sử dụng đất
số 623, số thửa 10, tờ bản đồ 12, diện tích 48 m2 trên đất có căn nhà nát từ bà
Lại Thị Út với giá là 115.000.000 đồng (Một trăm mười lăm triệu đồng), người
giới thiệu mua là ông Nguyễn Văn Tư. Hiện tại nhà đất này được cấp số nhà mới
là B13/10/18V1 ấp 2B, xã Vĩnh Lộc B, huyện Bình Chánh, Tp. Hồ Chí Minh
theo giấy chứng nhận số 379/CN-QLĐT của Phòng Quản lý đô thị Huyện Bình
Chánh ngày 25 tháng 01 năm 2013)
Khi mua nhà nêu trên ông Sơn có nhờ bà La Thị Út Chót đứng tên mua
bán vì thời điểm nêu trên ông Sơn không có giấy tờ tuỳ thân (CMND). Số tiền
mua nhà nêu trên là tài sản riêng của ông Sơn, có nguồn gốc từ việc nhận tiền
bồi thường, hỗ trợ đất đai, hoa màu, vật kiến trúc và tài sản khác khi bị nhà nước
thu hồi đất đối với căn nhà không số, cạnh nhà số 258/30/1 đường Bông Sao,
phường 5, quận 8, Tp. Hồ Chí Minh (theo Biên bản kiểm kê và hiệp thương
ngày 29/8/2005 và Quyết định số 2804/QĐ-UBND ngày 26/4/2006 của UBND
Quận 8, Tp. Hồ Chí Minh) là 235.846.020 đồng (Hai trăm ba mươi lăm triệu
tám trăm bốn mươi sáu nghìn không trăm hai mươi đồng). Quyết định về việc
giải tỏa, bồi thường để thực hiện Dự án xây dựng Trường mầm non phường 5,
quận 8, Tp Hồ Chí Minh được lập vào năm 2005, 2006 nhưng trên thực tế thì
theo thỏa thuận giữa ban giải phóng mặt bằng và các hộ dân nếu hộ nào di dời
sớm sẽ được nhận tiền hỗ trợ trước, do ông Sơn đã tìm được nhà nên vào năm
2004 ông được nhận tiền đền bù giải tỏa. Nguồn gốc căn nhà giải tỏa này là do
bà Lê Thị Anh (mẹ ruột ông Sơn) sang nhượng cho ông Sơn vào năm 1992 theo
như Biên bản điều tra hiện trạng nhà đất lập ngày 19/7/2004.
Năm 2008 ông Dương Văn Sơn và bà La Thị Út Chót đăng ký kết hôn và
là vợ chồng hợp pháp theo Giấy chứng nhận kết hôn số 229, quyển 02/2008
đăng ký ngày 01/08/2008 tại UBND phường 5, quận 8, Tp. Hồ Chí Minh, trên
thực tế sống chung với nhau như vợ chồng từ năm 2002 tại nhà không số, cạnh
nhà số 258/30/1 đường Bông Sao, phường 5, quận 8, Tp. Hồ Chí Minh, trong
quá trình sống chung ông Sơn và bà Chót có một người con chung là bé Dương
Hiểu Nhi, sinh ngày 25/4/2006. Quá trình chung sống vợ chồng phát sinh nhiều
mâu thuẫn. Hiện hai vợ chồng đã ly thân nhiều năm, không còn sống chung với
nhau.
3
Hồ sơ thực hành – Tranh chấp đòi lại tài sản và ly hôn – Đinh Thế Thắng
Vào năm 2016, Ông Sơn nghi ngờ bà La Thị Út Chót đang lén lút tiến
hành thủ tục đăng ký kê khai đăng ký biến động đất đai và xin cấp giấy chứng
nhận quyền sử dụng đất, quyền sở hữu nhà ở và tài sản khác gắn liền với đất ra
tên bà La Thị Út Chót mà không hề thông báo cho ông Sơn biết nhằm mục đích
chiếm đoạt tài sản nên ông Sơn đã làm đơn khởi kiện gửi đến Tòa án nhân dân
huyện Bình Chánh, Tp. Hồ Chí Minh yêu cầu giải quyết, công nhận toàn bộ nhà,
đất thuộc thửa 10, tờ bản đồ 12, diện tích 48 m2, số nhà mới là B13/10/18V1 ấp
2B, xã Vĩnh Lộc B, huyện Bình Chánh, Tp. Hồ Chí Minh là tài sản riêng của
ông Dương Văn Sơn và yêu cầu bà La Thị Út Chót phải trả lại căn nhà thuộc
thửa 10, tờ bản đồ 12, diện tích 48 m2, số nhà mới là B13/10/18V1 ấp 2B, xã
Vĩnh Lộc B, huyện Bình Chánh, Tp. Hồ Chí Minh cho ông Dương Văn Sơn.
Ngày 11/11/2016, Tòa án nhân dân huyện Bình Chánh, Tp. Hồ Chí Minh
đã thụ lý vụ án nêu trên.
Bị đơn bà La Thị Út Chót trình bày:
Nguyên, vào năm 2002 ông Dương Văn Sơn và bà La Thị Út Chót chung
sống tại nhà không số, cạnh nhà số 258/30/1 đường Bông Sao, phường 5, quận
8, Tp. Hồ Chí Minh, không có tổ chức đám cưới nhưng có đăng ký kết hôn vào
năm 2008, trong quá trình sống chung ông Sơn và bà Chót có một người con
chung là bé Dương Hiểu Nhi, sinh ngày 25/4/2006.
Tháng 10/2004 bà La Thị Út Chót nhận chuyển nhượng của bà Lại Thị Út
phần diện tích đất 48 m2, thửa 10, tờ bản đồ 12, số nhà mới là B13/10/18V1 ấp
2B, xã Vĩnh Lộc B, huyện Bình Chánh, Tp. Hồ Chí Minh trên đất có căn nhà cũ
nát với giá 110.000.000 đồng (Một trăm mười triệu đồng). Nguồn gốc số tiền
mua nhà nêu trên là từ tiền dành dụm của vợ chồng cộng với tiền có được từ
nhận bồi thường giải tỏa nhà bên phường 5, quận 8, Tp Hồ Chí Minh. Bà Chót
cho rằng tiền đền bù giải tỏa nhà ông Sơn đã tiêu xài hết chỉ còn 70.000.000
đồng và bà phải bỏ ra 40.000.000 đồng nữa mới đủ tiền để mua nhà và đất.
Trong quá trình sinh sống vào năm 2009 bà Chót còn bỏ ra số tiền 90.000.000
đồng để sửa chữa nhà như hiện trạng bây giờ. Do đó bà cho rằng đây là tài sản
chung của vợ chồng nên không đồng ý với yêu cầu khởi kiện của ông Sơn.
Năm 2012 ông Sơn có quan hệ tình cảm với người khác nên thường
xuyên kiếm chuyện đánh đập bà Chót, đỉnh điểm là ông Sơn đánh bà tét đầu
chảy máu, hiện tại bà Chót và ông Sơn đã ly thân nhiều năm. Từ khi sinh ra trẻ
Dương Hiểu Nhi thường xuyên đau ốm do bị bệnh thiếu máu tán huyết bẩm sinh
mãn tính nhưng ông không hề phụ giúp chăm sóc con vì con còn nhỏ nên bà cố
chịu đựng, hiện ông Sơn bỏ ra ngoài sống. Một mình bà Chót bán tạp hoá tại nhà
để trang trải cuộc sống, lo cho con ăn học và trị bệnh cho con.
4
Hồ sơ thực hành – Tranh chấp đòi lại tài sản và ly hôn – Đinh Thế Thắng
Vào ngày 12/01/2018 bà La Thị Út Chót đã có đơn yêu cầu phản tố yêu
cầu được ly hôn với ông Dương Văn Sơn, con chung sẽ do bà Chót nuôi, không
yêu cầu cấp dưỡng. Về tài sản chung: không yêu cầu Tòa án chia tài sản chung
là căn nhà đang tranh chấp. Về nợ chung: Trong quá trình chung sống bà Chót
và ông Sơn không có nợ chung nên không yêu cầu toà giải quyết.
Ngày 17/01/2018 Tòa án nhân dân huyện Bình Chánh ra thông báo về
việc thụ lý yêu cầu phản tố.
Ngày 20/9/2018, Tòa án nhân dân huyện Bình Chánh ra biên bản về việc
không tiến hành hòa giải được.
Ngày 20/9/2018, Tòa án nhân dân huyện Bình Chánh quyết định đưa vụ
án nêu trên ra xét xử.
Ngày 19/11/2018 Tòa án nhân dân huyện Bình Chánh xét xử vụ án
Ngày 29/11/2019 ông Sơn đã nộp đơn kháng cáo một phần bản án dân sự
sơ thẩm số 189/2018/DSST ngày 19/11/2018
Hiện tại vụ án đang được cấp phúc thẩm giải quyết theo thẩm quyền.
4.
Yêu cầu của khách hàng:
Ông Dương Văn Sơn yêu cầu luật sư ....................... tư vấn, soạn thảo đơn
từ tài liệu và tham gia bảo vệ quyền và lợi ích hợp pháp cho ông trong vụ án
“Tranh chấp quyền sở hữu nhà, đất” tại cấp Sơ thẩm và cấp Phúc thẩm, gồm:
-
Buộc bà La Thị Út Chót trả lại nhà ở và quyền sử dụng đất ở thuộc thửa
10, tờ bản đồ 12, diện tích 48 m2 (Nay được cấp số nhà mới là B13/10/18V1 ấp
2B, xã Vĩnh Lộc B, huyện Bình Chánh, Tp. Hồ Chí Minh vì tiền mua nhà đất
nêu trên là do ông Sơn bỏ tiền riêng ra mua (tiền từ bồi thường đất tại Quận 8),
bà Chót chỉ là người đứng tên dùm.
-
Ông Sơn đồng ý trả lại cho bà Chót số tiền sửa chữa nhà là 45.000.000đ,
tương đương với 50% số tiền sửa nhà của ông Sơn và bà Chót là 90.000.000đ
(Chín mươi triệu đồng chẵn)
-
Đồng ý với yêu cầu ly hôn của bà La Thị Út Chót và giao trẻ Dương Hiểu
Nhi, sinh năm 2006 cho mẹ trẻ là bà La Thị Út Chót được quyền trực tiếp nuôi
dưỡng, ông Sơn được quyền thăm nom, về cấp dưỡng cho trẻ Dương Hiểu Nhi thì
ông Sơn sẽ cấp dưỡng nuôi con mỗi tháng 1.000.000VNĐ (Một triệu đồng) cho
đến khi trẻ Nhi trưởng thành.
-
5.
Phạm vi công việc được luật sư hướng dẫn phân công:
Lúc người tập sự luật sư nghe luật sư hướng dẫn chia sẻ về vụ án thì vụ án
đã có quyết định đưa vụ án ra xét xử và có Giấy triệu tập đương sự của Toà án
nhân dân huyện Bình Chánh Tp. Hồ Chí Minh nên các công việc được luật sư
hướng dẫn giao là:
5
Hồ sơ thực hành – Tranh chấp đòi lại tài sản và ly hôn – Đinh Thế Thắng
Soạn thảo văn bản yêu cầu Luật sư, đơn xin hoãn phiên toà, đơn xin sao
chụp hồ sơ vụ án, đồng thời đi cùng Luật sư đi nộp hồ sơ Luật sư, đơn xin hoãn
phiên Toà, đơn xin sao chụp hồ sơ vụ án.
-
-
Chụp hồ sơ tại Toà án cùng luật sư hướng dẫn
Nghiên cứu hồ sơ tài liệu, thông tin nguyên đơn, bị đơn, người có quyền
lợi và nghĩa vụ liên quan, tóm tắt nội dung vụ án, sắp xếp phân loại hồ sơ vụ án.
-
Tổng hợp các văn bản pháp luật có liên quan đến việc giải quyết vụ án
của ông Sơn
-
Thu thập hồ sơ tài liệu cần thiết về người làm chứng, thông tin nhà đất.
Giúp Luật sư soạn thảo bản dự thảo bài luận cứ và kế hoạch xét hỏi tại
Toà cấp sơ thẩm, xem xét sắp xếp các chứng cứ trong vụ án nêu trên.
-
Cùng Luật sư hướng dẫn làm việc với khách hàng để phân tích thống nhất
hướng bảo vệ quyền và lợi ích hợp pháp cho khách hàng và hướng dẫn các thủ
tục của phiên tòa cho khách hàng;
-
Đi cùng luật sư tham gia phiên toà Sơ thẩm đồng thời lắng nghe và ghi
chép diễn biến của phiên toà Sơ Thẩm.
-
Trao đổi với Luật sư hướng dẫn những vấn đề sau khi kết thúc phiên tòa
cấp Sơ thẩm để rút kinh nghiệm và học tập.
-
Xác định yêu cầu kháng cáo của khách hàng, xác định căn cứ kháng cáo,
soạn thảo đơn kháng cáo, đưa ra định hướng để xây dựng bản luận cứ bảo vệ
quyền và lợi ích hợp pháp của khách hàng tại phiên tòa phúc thẩm
-
-
Học kỹ năng hỏi, tranh luận, xử lý tình huống phát sinh tại Tòa án;
-
Báo cáo, đánh giá các kỹ năng học hỏi được trong vụ án
PHẦN 2: PHƯƠNG ÁN GIẢI QUYẾT VỤ VIỆC
1.
Căn cứ pháp luật để giải quyết vụ việc:
-
Luật hôn nhân và gia đình năm 2000
-
Nghị quyết số 35/2000/NQ-QH10 ngày 09/6/2000 về việc thi hành luật hôn
nhân và gia đình
-
Bộ luật dân sự năm 2015
-
Bộ luật tố tụng dân sự năm 2015
-
Luật hôn nhân và gia đình năm 2014
Pháp lệnh số 10/2009 UBTVQH12 ngày 27/02/2009 của Uỷ ban Thường
vụ Quốc hội quy định về án phí, lệ phí Toà án
-
Nghị quyết số 01/2013/NQ-HĐTP ngày 13/6/2012 của Hội đồng Thẩm
phán Toà án nhân dân tối cao hướng dẫn áp dụng một số quy định của pháp luật
về án phí, lệ phí Toà án
-
6
Hồ sơ thực hành – Tranh chấp đòi lại tài sản và ly hôn – Đinh Thế Thắng
Nghị quyết số 326/2016/UBTVQH14 của Uỷ ban Thường vụ Quốc hội
quy định về án phí, lệ phí toà án
-
2.
Nêu bản chất vụ việc và quan hệ pháp lý phải giải quyết:
Đây là tranh chấp dân sự về “Quyền sở hữu nhà, đất” theo quy định tại
khoản 2, điều 26 Bộ luật tố tụng dân sự 2015 và yêu cầu ly hôn theo quy định tại
khoản 1 điều 28 Bộ luật tố tụng dân sự 2015, vụ án nêu trên thuộc thẩm quyền
của Toà án nhân dân huyện Bình Chánh, Tp Hồ Chí Minh điểm a, khoản 1 điều
35; điểm a và c khoản 1 điều 39 của Bộ luật tố tụng dân sự năm 2015. Giữa
nguyên đơn ông Dương Văn Sơn và bị đơn bà La Thị Út Chót
-
Luật sư Trần Đăng Minh tham gia phiên Toà nhằm bảo vệ quyền và lợi
ích hợp pháp cho nguyên đơn ông Dương Văn Sơn. Quan hệ pháp lý phải giải
quyết là “ Xác định yêu cầu đòi lại nhà của ông Dương Văn Sơn có cơ sở để Toà
án chấp nhận không?”
-
3.
Quan điểm bảo vệ quyền và lợi ích hợp pháp
Thứ nhất: Buộc bị đơn La Thị Út Chót phải giao trả lại nhà đất hiện nay
mang số B13/10/18V1 ấp 2B, xã Vĩnh Lộc B, huyện Bình Chánh, Tp. Hồ Chí
Minh thuộc thửa số 10, tờ bản đồ số 12 Bộ địa chính xã Vĩnh Lộc B, huyện Bình
Chánh, Tp. Hồ Chí Minh cho ông Dương Văn Sơn bởi lẽ:
- Nhà đất thuộc thửa số 10, tờ bản đồ số 12, diện tích 48m2 nay mang số
B13/10/18V1 ấp 2B, xã Vĩnh Lộc B, huyện Bình Chánh, Tp. Hồ Chí Minh là
được ông Dương Văn Sơn mua vào năm 2004 bằng tiền riêng là tiền từ việc bồi
thường nhà không số cạnh nhà số 258/30/1 đường Bông Sao, phường 5, quận 8,
Tp Hồ Chí Minh do mẹ là bà Lê Thị Anh cho tặng. Việc mua căn nhà này là do
ông Nguyễn Văn Tư người hàng xóm lâu năm cùng bị bồi thường giới thiệu và
cùng mua sau khoảng 1 tuần kể từ ngày nhận tiền bồi thường và là người làm
chứng về việc ông Sơn bỏ toàn bộ số tiền 115.000.000VNĐ để mua nhà đất
thuộc thửa số 10, tờ bản đồ số 12, diện tích 48m2 nay mang số B13/10/18V1 ấp
2B, xã Vĩnh Lộc B, huyện Bình Chánh, Tp. Hồ Chí Minh, lời khai của ông
Nguyễn Văn Tư (BL 152; 153) cũng hoàn toàn phù hợp với lời khai cùng các tài
liệu, chứng cứ do ông Sơn cung cấp, cũng như lời khai trong đơn xin ly hôn của
bà La Thị Út Chót ngày 24/5/2012
- Tại thời điểm nhận chuyển nhượng vào năm 2004 ông Sơn chưa đăng ký
kết hôn với bất kỳ ai, do không có giấy tờ nhân thân nên nhờ bà La Thị Út Chót
người sống chung với ông Sơn từ năm 2002 không có đăng ký kết hôn đứng tên
dùm, căn cứ theo quy định của Luật Hôn nhân và Gia đình năm 2000 cũng như
hướng dẫn tại Nghị quyết số 35/2000/NQ-QH10 ngày 09/6/2000 về việc thi
hành luật hôn nhân và gia đình năm 2000 thì trong khoảng thời gian từ năm
2002 đến trước ngày 01/8/2008 (ngày đăng ký kết hôn) thì ông Sơn và bà Chót
7
Hồ sơ thực hành – Tranh chấp đòi lại tài sản và ly hôn – Đinh Thế Thắng
không phải là vợ chồng hợp pháp nên không phát sinh các quyền và nghĩa vụ
của vợ chồng mặc dù ông Sơn và bà Chót đã có với nhau 1 người con chung là
bé Dương Hiểu Nhi, sinh năm 2006. Căn cứ theo quy định nêu trên thì tài sản là
nhà đất thuộc thửa số 10, tờ bản đồ số 12, diện tích 48m2 nay mang số
B13/10/18V1 ấp 2B, xã Vĩnh Lộc B, huyện Bình Chánh, Tp. Hồ Chí Minh
không thuộc tài sản chung của vợ chồng, tuy ông Sơn và bà Chót có chung sống
với nhau năm 2002 nhưng không phải là vợ chồng hợp pháp do chưa đăng ký
kết hôn nên không phát sinh tài sản chung theo quy định luật hôn nhân và gia
đình năm 2000, đồng thời nguồn gốc tiền mua tài sản là nhà đất thuộc thửa số
10, tờ bản đồ số 12, diện tích 48m2 nay mang số B13/10/18V1 ấp 2B, xã Vĩnh
Lộc B, huyện Bình Chánh, Tp. Hồ Chí Minh là tài sản riêng của ông Sơn vì toàn
bộ số tiền mua nhà là của cá nhân ông Sơn, bà Chót không có bất kỳ khoản đóng
góp nào trong số tiền mua nhà đất nêu trên, bà Chót chỉ là người đứng tên dùm.
Theo chứng cứ trong hồ sơ và quy định tại khoản 1, 2 điều 32 Luật hôn
nhân và gia đình năm 2000 thì nhà đất thuộc thửa số 10, tờ bản đồ số 12, diện
tích 48m2 nay mang số B13/10/18V1 ấp 2B, xã Vĩnh Lộc B, huyện Bình Chánh,
Tp. Hồ Chí Minh là tài sản riêng của ông Dương Văn Sơn.
Thứ 2: Ghi nhận sự tự nguyện của ông Dương Văn Sơn về việc thanh
toán lại cho bà La Thị Út Chót 50% giá trị tiền đầu tư sửa chữa nhà với số tiền là
45.000.000VNĐ, việc giao nhà và giao tiền được thực hiện cùng lúc
Căn cứ theo lời khai của bà La Thị Út Chót thì bà đã bỏ ra số tiền là
90.000.00VNĐ để sửa chữa nhà do xuống cấp trầm trọng vào năm 2009, tuy
nhiên ông Dương Văn Sơn khai, ông Sơn là người hợp đồng với thợ sửa nhà, có
chứng từ rút tiền từ Ngân hàng để thanh toán tiền sửa nhà.
Xác định phần tài sản là nhà sửa chữa vào năm 2009 trong thời kỳ hôn
nhân giữa ông Sơn và bà Chót (đăng ký kết hôn theo Giấy chứng nhận kết hôn
số 229, quyển số 02/2008 do Uỷ ban nhân dân phường 5, quận 8, Tp. Hồ Chí
Minh cấp ngày 01/8/2008)
Căn cứ theo quy định tại khoản 1, điều 33 Luật hôn nhân và gia đình năm
2014 thì xác định tài sản chung của vợ chồng là tài sản phải được tạo lập trong
thời kỳ hôn nhân, như vậy số tiền 90.000.000VNĐ sửa chữa nhà năm 2009 được
xác định là tài sản chung của vợ chồng, tuy nhiên kể từ thời điểm sửa chữa nhà
năm 2009 đến nay năm 2018 giá trị căn nhà đã hao mòn theo thời gian nhưng
ông Sơn đồng ý thanh toán lại cho bà Chót 50% giá trị đầu tư sửa chữa nhà là
45.000.000VNĐ.
Thứ 3: Ghi nhận sự tự nguyện thoả thuận về việc thuận tình ly hôn ông
Dương Văn Sơn theo yêu cầu phản tố của bà La Thị Út Chót và việc ông Sơn
đồng ý để bà La Thị Út Chót được quyền trực tiếp nuôi dưỡng con chung là trẻ
Dương Hiểu Nhi, ông Sơn đồng ý cấp dưỡng 1.000.000đ/1 tháng
8
Hồ sơ thực hành – Tranh chấp đòi lại tài sản và ly hôn – Đinh Thế Thắng
Theo bản tự khai của ông Sơn và bà Chót thì ông Sơn và bà Chót đã ly
thân nhiều năm (khoảng 8 năm), do hai bên không còn tình cảm, vợ chồng đã vi
phạm nghiêm trọng quyền và nghĩa vụ đối với nhau, mục đích hôn nhân không
đạt được nên cơ hội hàn gắn là không còn, Toà án đã hoà giải đoàn tụ nhưng
không thành và việc hai bên tự nguyện ly hôn là thật sự, không trái với quy định
của pháp luật nên việc công nhận thuận tình ly hôn cho ông Sơn và bà Chót là
phù hợp.
Về con chung: Bà chót yêu cầu chăm sóc nuôi dưỡng con chung trẻ
Dương Hiểu Nhi, hiện tại trẻ Nhi đang sinh sống với bà Chót và trẻ Nhi có
nguyện vọng được chung sống với bà Chót ngoài ra ông Sơn cũng đồng ý việc
trẻ Nhi sẽ do mẹ là bà Chót trực tiếp nuôi dưỡng nên việc xác định bà Chót là
người trực tiếp nuôi dưỡng bé Nhi là phù hợp đồng thời theo đơn yêu cầu của bà
Chót thì bà Chót không yêu cầu ông Sơn cấp dưỡng nuôi trẻ Dương Hiểu Nhi,
nhưng ông Sơn tự nguyện cấp dưỡng cho trẻ Nhi số tiền là 1.000.000đ/1 tháng,
tuy cuộc sống của ông Sơn đang gặp rất nhiều khó khăn, công việc, thu nhập
không ổn định.
Căn cứ theo quy định tại theo điều 51, 56, 58 Luật Hôn nhân và Gia đình
năm 2014
Đề nghị Hội đồng xét xử chấp nhận yêu cầu khởi kiện của nguyên đơn là
ông Dương Văn Sơn
PHẦN 3: KẾT QUẢ THỰC HIỆN VỤ VIỆC
1.
Nội dung công việc thực hiện theo phân công của luật sư hướng
dẫn:
Xây dựng bài luận cứ bảo vệ quyền lợi hợp pháp cho khách hàng,
tranh luận tại phiên tòa sơ thẩm;
1.1
BẢN LUẬN CỨ BẢO VỆ QUYỀN VÀ LỢI ÍCH HỢP PHÁP
CHO NGUYÊN ĐƠN - ÔNG DƯƠNG VĂN SƠN
TRONG VỤ ÁN “TRANH CHẤP TÀI SẢN” TẠI PHIÊN TOÀ SƠ THẨM
Kính gửi:
TOÀ ÁN NHÂN DÂN HUYỆN BÌNH CHÁNH
THÀNH PHỐ HỒ CHÍ MINH
Kính thưa quý Hội đồng xét xử!
Thưa vị đại diện Viện kiểm sát nhân dân huyện Bình Chánh có mặt tại
phiên toà hôm nay!
Thưa vị Luật sư đồng nghiệp và quý vị dự khán tại phiên toà.
9
Hồ sơ thực hành – Tranh chấp đòi lại tài sản và ly hôn – Đinh Thế Thắng
Tôi, luật sư ............. thuộc Công ty Luật ............. – Đoàn luật sư Tp. Hồ
Chí Minh.
Theo yêu cầu của thân chủ là ông Dương Văn Sơn, được sự đồng thuận
của Toà án nhân dân huyện Bình Chánh, tôi tham dự phiên toà hôm nay với tư
cách luật sư bảo vệ quyền và lợi ích hợp pháp cho nguyên đơn trong vụ án.
Để quý Hội đồng xét xử, quý vị đại diện Viện kiểm sát thuận tiện theo
dõi, tôi xin giới thiệu bài Luận cứ của tôi được chia thành 03 phần:
Phần 1: Nguồn gốc của tài sản tranh chấp và các chứng cứ do nguyên đơn
cung cấp, các lời khai của người làm chứng đều phù hợp với sự thật khách quan
của vụ án nên yêu cầu khởi kiện của nguyên đơn là có căn cứ để chấp nhận;
Phần 2: Bị đơn có nhiều mâu thuẫn trong lời khai của chính mình qua
từng thời điểm và hoàn toàn không có chứng cứ để chứng minh tài sản tranh
chấp là tài sản chung nên không có căn cứ để chấp nhận yêu cầu của bị đơn;
Phần 3: Đề xuất và kiến nghị
Tôi xin phép được trình bày cụ thể và chi tiết từng phần như sau:
Phần 1: Nguồn gốc của tài sản tranh chấp và các chứng cứ do nguyên đơn
cung cấp, các lời khai của người làm chứng đều phù hợp với sự thật khách quan
của vụ án nên yêu cầu khởi kiện của nguyên đơn là có căn cứ để chấp nhận;
Về nguồn gốc của tài sản:
Bà Lê Thị Anh là mẹ của ông Dương Văn Sơn có chuyển nhượng cho ông
Sơn nhà đất không số toạ lạc tại phường 5, quận 8, Tp. Hồ Chí Minh để ở. Năm
2004, nhà đất nêu trên bị giải toả để thực hiện Dự án xây dựng Trường mầm non
phường 5, quận 8 nên ông Sơn được nhận số tiền đền bù là 235.846.020VNĐ.
Sau khi nhận được số tiền đền bù giải toả như trên, qua sự giới thiệu của người
hàng xóm lâu năm là ông Nguyễn Văn Tư nên ông Sơn đã mua nhà đất hiện nay
mang số B13/10/18V1 ấp 2B, xã Vĩnh Lộc B, huyện Bình Chánh, Tp. Hồ Chí
Minh thuộc thửa số 10, tờ bản đồ số 12 Bộ địa chính xã Vĩnh Lộc B, huyện Bình
Chánh, Tp. Hồ Chí Minh với số tiền là 115.000.000VNĐ. Trong khoảng thời
gian từ năm 2000 đến năm 2004 được đền bù tiền và mua nhà đất số
B13/10/18V1 ấp 2B, xã Vĩnh Lộc B, huyện Bình Chánh, Tp. Hồ Chí Minh thì
ông Dương Văn Sơn chưa đăng ký kết hôn với ai.
Về quan hệ hôn nhân giữa ông Dương Văn Sơn và bà La Thị Út Chót:
Các tài liệu có trong hồ sơ vụ án cũng như sự thừa nhận của các bên tại các biên
bản ghi lời khai đều thể hiện ông Sơn và bà Chót có chung sống với nhau từ năm
2002 nhưng đến năm 2008 mới đăng ký kết hôn theo Giấy chứng nhận kết hôn
số 229, quyển số 02/2008 do Uỷ ban nhân dân phường 5, quận 8, Tp. Hồ Chí
Minh cấp ngày 01/8/2008. Như vậy, theo quy định của Luật Hôn nhân và Gia
đình năm 2000 cũng như hướng dẫn tại Nghị quyết số 35/2000 thì trong khoảng
thời gian từ năm 2002 đến trước ngày 01/8/2008 thì ông Sơn và bà Chót không
phải là vợ chồng hợp pháp nên không phát sinh các quyền và nghĩa vụ của vợ
10
Hồ sơ thực hành – Tranh chấp đòi lại tài sản và ly hôn – Đinh Thế Thắng
chồng, dẫu rằng giữa ông Sơn và bà Chót đã có một con chung là bé Dương
Hiểu Nhi sinh năm 2006.
Tại thời điểm ngày 29/10/2004, do không phải là vợ chồng hợp pháp nên
giữa ông Sơn và bà Chót không có tài sản chung trong thời kỳ hôn nhân, mặc dù
nhà đất số B13/10/18V1 được mua vào năm 2004 là thời kỳ ông Sơn và bà Chót
đang chung sống với nhau nhưng đây vẫn là tài sản riêng của ông Sơn vì toàn bộ
số tiền mua nhà là của cá nhân ông Sơn, bà Chót không có bất kỳ khoản đóng
góp nào trong số tiền mua nhà đất nêu trên.
Ngoài các chứng cứ do ông Sơn cung cấp có trong hồ sơ vụ án như:
Giấy mua bán sang nhượng đất lập ngày 29/10/2004 (BL 112);
Biên bản kiểm kê và hiệp thương lập ngày 29/3/2005 (BL 118);
Biên bản bàn giao mặt bằng giải toả (BL 113)
Thì lời khai của những người làm chứng như bà Phạm Thị Kim Duyên
(BL 155; 156; 157) thể hiện nội dung trong khoảng thời gian ông Sơn mua nhà
gia cảnh của bà Út Chót rất khó khăn nên không thể có đủ điều kiện để đóng góp
số tiền 40.000.000VNĐ cùng ông Sơn mua nhà như bà Chót đã khai, lời khai
của ông Nguyễn Văn Tư (BL 152; 153) cũng hoàn toàn phù hợp với lời khai
cùng các tài liệu, chứng cứ do ông Sơn cung cấp để có thể chứng minh rõ sự thật
là nhà đất B13/10/18V1 được mua với giá là 115.000.000VNĐ từ khoản tiền
riêng của ông Sơn có được từ đền bù giải toả nhà đất ở quận 8, Tp. Hồ Chí
Minh. Lý do để ông Sơn không trực tiếp đứng ra mua nhà đất mà lại nhờ bà La
Thị Út Chót đứng tên trên Giấy mua bán sang nhượng lập ngày 29/10/2004 là do
ở thời điểm này ông Sơn không có chứng minh nhân dân, phải đến năm 2008
mới được cấp nên ông Sơn mới nhờ bà Chót đứng tên dùm do lúc này hai người
đang chung sống cùng nhau từ năm 2002.
Trong hồ sơ vụ án này lời trình bày của ông Sơn luôn thống nhất, hoàn
toàn phù hợp với các chứng cứ có trong hồ sơ vụ án và phù hợp với quy định tại
các Điều 93; Điều 94 và Điều 95 của Bộ Luật Tố tụng dân sự năm 2015 quy
định về chứng cứ nên yêu cầu khởi kiện đòi tài sản của ông Sơn là có cơ sở nên
tôi kính mong quý Hội đồng xét xử xem xét và chấp nhận.
Phần 2: Phân tích những mâu thuẫn trong lời khai của bị đơn qua từng
thời điểm và bị đơn cũng hoàn toàn không có chứng cứ để chứng minh tài sản
tranh chấp là tài sản chung nên không có căn cứ để chấp nhận yêu cầu của bị
đơn;
Về phía bà La Thị Út Chót, trong quá trình giải quyết vụ án khai bằng bà
Chót có bỏ ra số tiền 40.000.000VNĐ để cùng mua nhà với ông Sơn với gía
mua là 110.000.000VNĐ. Ngoài lời khai có nhiều mâu thuẫn này thì bà Chót
không có bất kỳ chứng cứ nào để chứng minh rằng nhà đất B13/10/18V1 là tài
sản chung cùng với ông Sơn. Tôi xin dẫn chứng một vài tài liệu thể hiện sự mâu
thuẫn từ chính lời khai của bà Út Chót có trong hồ sơ vụ án như sau:
11
Hồ sơ thực hành – Tranh chấp đòi lại tài sản và ly hôn – Đinh Thế Thắng
Tại Đơn xin ly hôn đề ngày 24/5/2012 bà Chót xác định mua nhà năm
2005, tiền mua nhà từ số tiền giải toả nhà đất ở quận 8 của cá nhân ông Sơn;
Tại Biên bản đề ngày 14/12/2016 (BL 150); Biên bản đề ngày 21/02/2017
(BL 180); Biên bản đề ngày 03/3/2017 (BL 190); Biên bản đề ngày 26/7/2017
(BL 182) có sự tham dự của Luật sư Nguyễn Văn Thái bảo vệ quyền và lợi ích
hợp pháp cho bà Chót; Biên bản đề ngày 04/12/2017 (BL 193); Biên bản đề
ngày 04/12/2017 (BL 195). Các biên bản này bà Chót đều khai rằng mua nhà
năm 2005 với giá là 110.000.000VNĐ bà Chót bỏ ra số tiền 40.000.000VNĐ và
ông Sơn bỏ ra số tiền 70.000.000VNĐ;
Ngày 12/01/2018, bà Chót có Đơn yêu cầu phản tố (BL 122) vẫn xác định
nhà đất B13/10/18V1 là tài sản chung với ông Sơn như các lời khai trước đây
nhưng lại không có yêu cầu chia tài sản chung.
Nghiên cứu kỹ hồ sơ vụ án thì tôi phát hiện kể từ sau thời điểm nộp Đơn
yêu cầu phản tố vào ngày 12/01/2018 thì bà Út Chót lại đồng loạt thay đổi lời
khai của mình như sau:
Tại Biên bản đề ngày 02/7/2018 (BL 215); Biên bản đề ngày 08/8/2018
(BL 202); Biên bản đề ngày 20/9/2018 (BL 205; 209) thì bà Út Chót lại thay đổi
lời khai với nội dung:
“… Ngày 29/10/2004 vợ chồng tôi có một số tiền dành dụm cộng với số
tiền giải toả căn nhà ở phường 5, quận 8, Tp. Hồ Chí Minh để mua căn nhà
B13/10/18V1 ấp 2B xã Vĩnh Lộc, huyện Bình Chánh, Tp. Hồ Chí Minh với giá
là 110.000.000VNĐ. Căn nhà này khi mua có hiện trạng nhà trệt, nền gạch, cấp
4 rất sập sệ, ngập nước. Sau thời gian sinh sống tôi có tự mình bỏ ra số tiền hơn
90 triệu đồng để tu sửa lại và hiện nay có hiện trạng là gác suốt, diện tích 48m 2.
Trước đây tôi khai tôi mua căn nhà này năm 2005 là không chính xác, thật sự
thời điểm tôi mua căn nhà này là ngày 29/10/2004 mới đúng. Quá trình chung
sống, ông Sơn thường xuyên đánh đập tôi, mà đỉnh điểm vào năm 2012 ông Sơn
đánh tôi tét đầu chảy máu, trong lúc quá bức xúc tôi nhờ người viết đơn xin ly
hôn với ông Sơn. Vì muốn ly hôn nên tôi khai nguồn gốc căn nhà này là do nhận
tiền đền bù giải toả của ông Sơn ở quận 8, sự thật là ông Sơn có nhận tiền đền
bù nhà, tuy nhiên sau khi nhận tiền đền bù nhà ở quận 8 thì ông Sơn lấy tiền
tiêu xài chỉ còn lại một ít khoảng 70.000.000VNĐ, tôi phải bỏ thêm
40.000.000VNĐ để mua căn nhà B13/10/18V1…”
Như vậy, trong hồ sơ vụ án này đã thể hiện rất rõ sự mâu thuẫn trong lời
khai của bà Chót, trước khi nộp đơn yêu cầu phản tố thì toàn bộ lời khai của bà
Chót đều xác định mua nhà năm 2005, sau khi nộp đơn phản tố thì lại khai rằng
mua nhà năm 2004 để phù hợp với giấy mua bán sang nhượng đất lập ngày
29/10/2004 có trong hồ sơ. Ngoài lời khai của mình ra thì bà Chót không có bất
kỳ chứng cứ gì chứng minh có bỏ ra số tiền 40.000.000VNĐ để cùng với ông
Sơn để mua nhà.
Kính thưa quý Hội đồng xét xử!
12
Hồ sơ thực hành – Tranh chấp đòi lại tài sản và ly hôn – Đinh Thế Thắng
Sự thật khách quan của vụ án chỉ có một, trong khi lời khai của nguyên
đơn luôn thống nhất từ đầu đến cuối thì bị đơn lại có đến hai lời khai trong vụ
án, sự viện dẫn lý do để thay đổi lời khai của bị đơn là không có căn cứ để chấp
nhận bởi lẽ lời khai trước khi thay đổi của bị đơn không phải chỉ thể hiện ở một
bút lục mà lại được thể hiện ở rất nhiều bút lục được lập ở các thời điểm khác
nhau, trong đó tại BL số 182 có sự chứng kiến của Luật sư Nguyễn Văn Thái là
người bảo vệ quyền và lợi ích hợp pháp của bị đơn nên đây hoàn toàn không
phải là sự nhầm lẫn mà sự thay đổi này là nhằm mục đích duy nhất để cho lời
khai của bà Chót phù hợp với chứng cứ có trong hồ sơ vụ án, do vậy không có
căn cứ để chấp nhận lý do thay đổi lời khai của bị đơn vì không trung thực.
Do lời khai của bị đơn có mâu thuẫn, không thoả mãn quy định của pháp
luật về chứng cứ được quy định tại Điều 93 của Bộ luật Tố tụng Dân sự năm
2015 nên không có căn cứ để chấp nhận yêu cầu của bị đơn trong vụ án.
Đối với số tiền sửa nhà khoảng 90.000.000VNĐ được thực hiện vào năm
2009, xét thấy:
Năm 2008, ông Dương Văn Sơn và bà La Thị Út Chót đăng ký kết hôn
và đã được cấp Giấy chứng nhận kết hôn số 229, quyển số 02/2008 do Uỷ ban
nhân dân phường 5, quận 8, Tp. Hồ Chí Minh cấp ngày 01/8/2008 và đến nay
hai bên vẫn chưa ly hôn. Mặc dù ông Sơn có chứng cứ để chứng minh việc ông
Sơn là người đi hợp đồng với thợ sửa nhà, có chứng từ rút tiền từ Ngân hàng để
thanh toán tiền sửa nhà nhưng tôi không đi sâu vào chứng minh phần này vì
khoản chi phí này là trong thời kỳ hôn nhân với bà Chót nên nguyên đơn không
tranh chấp. Vậy nên, số tiền sửa nhà này giả sử nếu có thật do một mình bà Chót
bỏ tiền ra để sửa như lời khai của bà Chót thì cũng là từ tài sản chung của hai vợ
chồng trong thời kỳ hôn nhân nên việc phân chia khoản này là hợp tình hợp lý
và có căn cứ. Theo nguyên tắc, việc đầu tư sửa chữa nhà tại thời điểm năm 2009
tính đến nay đã 08 năm nên khi phân chia phải tính đến yếu tố khấu hao, tuy
nhiên sau khi chúng tôi trao đổi thì ông Sơn đã đồng ý thanh toán lại cho bà
Chót 50% giá trị đầu tư sửa chữa nhà là 45.000.000VNĐ vì dù sao cũng còn
nghĩa vợ chồng với nhau. Đây là sự tự nguyện của nguyên đơn có lợi cho bị đơn
nên tôi kính đề nghị quý Hội đồng xét xử ghi nhận.
Đối với yêu cầu phản tố của bị đơn:
Về quan hệ hôn nhân giữa ông Sơn và bà Chót, do hai bên không còn tình
cảm, vợ chồng đã vi phạm nghiêm trọng quyền và nghĩa vụ đối với nhau, mục
đích hôn nhân không đạt được, đôi bên đã ly thân nhiều năm nên cơ hội hàn gắn
là không còn nên nghĩ việc chấp nhận yêu cầu ly hôn và được quyền nuôi dưỡng
con chung là bé Dương Hiểu Nhi của bà Chót là có căn cứ và phù hợp với quy
định của pháp luật về Luật Hôn nhân và Gia đình, nguyên đơn Dương Văn Sơn
hoàn toàn thống nhất với yêu cầu này của bị đơn. Do vậy, đề nghị quý Hội đồng
xét xử ghi nhận sự tự nguyện thoả thuận này theo nguyện vọng của các bên.
Vì các lý do nêu trên,
Căn cứ các Điều 93; 94; 95 của Bộ luật Tố tụng Dân sự năm 2015;
13
Hồ sơ thực hành – Tranh chấp đòi lại tài sản và ly hôn – Đinh Thế Thắng
Tôi trân trọng kính đề nghị quý Hội đồng xét xử tuyên xử:
1/. Chấp nhận toàn bộ yêu cầu khởi kiện của nguyên đơn Dương Văn
Sơn, buộc bị đơn La Thị Út Chót phải giao trả lại nhà đất hiện nay mang số
B13/10/18V1 ấp 2B, xã Vĩnh Lộc B, huyện Bình Chánh, Tp. Hồ Chí Minh
thuộc thửa số 10, tờ bản đồ số 12 Bộ địa chính xã Vĩnh Lộc B, huyện Bình
Chánh, Tp. Hồ Chí Minh cho ông Dương Văn Sơn;
2/. Ghi nhận sự tự nguyện của ông Dương Văn Sơn về việc thanh toán
lại cho bà La Thị Út Chót 50% giá trị tiền đầu tư sửa chữa nhà với số tiền
là 45.000.000VNĐ, việc giao nhà và giao tiền được thực hiện cùng lúc;
3/. Ghi nhận sự tự nguyện thoả thuận về việc thuận tình ly hôn giữa
ông Dương Văn Sơn và bà La Thị Út Chót, bà La Thị Út Chót được quyền
trực tiếp nuôi dưỡng con chung là trẻ Dương Hiểu Nhi;
Trên đây là luận cứ bảo vệ quyền và lợi ích hợp pháp cho nguyên đơn
trong vụ án, rất mong nhận được quan tâm xem xét của Hội đồng xét xử.
Xin trân trọng cảm ơn sự quan tâm, lắng nghe của quý Hội đồng xét xử và
vị đại diện Viện kiểm sát.
Luật sư
..........................................
1.2
Ý kiến tư vấn đối với vụ án:
Đề xuất luật sư hướng dẫn:
- Yêu cầu nguyên đơn ông Dương Văn Sơn cung cấp thông tin về thời
điểm thực tế mua nhà đất đang tranh chấp và xác định rõ ông Dương Văn Sơn
mua nhà đất đang tranh chấp từ ai, ông Sơn giao tiền 115.000.000VNĐ cho ai
(theo trình bày của ông Sơn thì không phải là bà Út), đồng thời liên hệ người
bán thực tế cung cấp lời khai cho Toà nhằm xác định việc mua bán giữa bà La
Thị Út Chót và bà Lại Thị Út chỉ để thực hiện thủ tục cấp giấy chứng nhận.
- Cần xác minh, thu thập thông tin thực tế bà Lại Thị Út có trực tiếp bán
nhà cho ông Sơn hoặc bà Chót không hay bà Út ký giấy tờ theo yêu cầu của chủ
trước đã mua của bà Út (chủ mua của bà Út bán lại cho ông Sơn và nhờ bà Út ký
bán trực tiếp bà Chót người ông Sơn nhờ đứng tên dùm) đồng thời xác định bà
Út có nhận tiền của ông Sơn hay bà Út không? Chứng cứ chứng minh.
- Yêu cầu nguyên đơn ông Dương Văn Sơn cung cấp thêm nhưng giấy tờ
chứng minh thời điểm thực tế nhận tiền bồi thường giải phóng mặt bằng (trước
thời điểm mua nhà tại Bình Chánh vào ngày 29/10/2004) liên quan đến nhà đất
không số toạ lạc tại phường 5, quận 8, Tp. Hồ Chí Minh để thực hiện Dự án xây
14
Hồ sơ thực hành – Tranh chấp đòi lại tài sản và ly hôn – Đinh Thế Thắng
dựng Trường mầm non phường 5, quận 8. Tp Hồ Chí Minh (trích lục Biên lai
nhận số tiền đền bù số tiền là 235.846.020VNĐ) để chứng minh tiền mua nhà
đất tại số B13/10/18V1 ấp 2B, xã Vĩnh Lộc B, huyện Bình Chánh, Tp. Hồ Chí
Minh là tiền riêng của ông Sơn phù hợp với lời khai tại Toà.
2.
Kết quả giải quyết vụ án:
Tại bản án số 189/2018/DS-ST ngày 19/11/2018 V/v tranh chấp đòi lại
tài sản và ly hôn của Toà án nhân dân huyện Bình Chánh, Tp Hồ Chí Mính
NHẬN ĐỊNH CỦA TOÀ ÁN
…………
Luật sư Trần Đăng Minh người bảo vệ quyền và lợi ích hợp pháp của
nguyên đơn đưa ra luận cứ: Năm 2004 sau khi căn nhà không số tại phường 5,
quận 8 bị giải toả thì ông Sơn được đền bù số tiền là 235.846.020 đồng. Qua sự
giới thiệu của người hàng xóm lâu năm là ông Nguyễn Văn Tư, ông Sơn đã mua
nhà, đất hiện nay mang số B13/10/18V1 ấp 2B, xã Vĩnh Lộc B, huyện Bình
Chánh, Tp Hồ Chí Minh với số tiền là 115.000.000 đồng. Trong khoảng thời
gian từ năm 2000 đến năm 2004 được đền bù tiền và mua nhà đất trên thì ông
Sơn chưa đăng ký kết hôn với ai. Tại thời điểm ngày 29/10/2004 do ông Sơn và
bà Chót không phải là vợ chồng hợp pháp nên căn nhà và đất trên phải là tài sản
riêng của ông Sơn. Lời khai của bà Chót có sự không thống nhất và mâu thuẫn
về thời điểm và số tiền mua nhà, đất. Bà Chót không có chứng cứ chứng minh
đã bỏ ra số tiền hơn 40.000.000 đồng để cùng mua nhà, đất trên với ông Sơn.
Luật sư Minh đề nghị Hội đồng xét xử chấp nhận yêu cầu khởi kiện của
ông Sơn về việc buộc bà Chót giao trả lại nhà, đất tại địa chỉ số B13/10/18V1 ấp
2B, xã Vĩnh Lộc B, huyện Bình Chánh, Tp Hồ Chí Minh cho ông Sơn.
……
Xét lời trình bày của Luật sư Trần Đăng Minh bảo vệ quyền và lợi ích hợp
pháp cho nguyên đơn đề nghị Hội đồng xét xử chấp nhận yêu cầu khởi kiện của
ông Dương Văn Sơn là không có cơ sở nên Hội đồng xét xử không chấp nhận.
…….
Vì các lẽ trên,
QUYẾT ĐỊNH:
Căn cứ khoản 2 Điều 26; khoản 1 Điều 28; điểm a khoản 1 Điều 35; điểm
a và c khoản 1 Điều 39; Điều 91; Điều 93, Điều 94; Điều 95; Điều 157; Điều
158; Điều 165; Điều 166; điểm b và đ khoản 2 Điều 227; khoản 3 Điều 228;
khoản 2 Điều 229 và Điều 273 Bộ luật tố tụng dân sự;
Căn cứ Điều 8, Điều 9, Điều 51, Điều 56, Điều 57, Điều 58, Điều 81,
Điều 82; Điều 83 Luật hôn nhân và gia đình năm 2014;
15
Hồ sơ thực hành – Tranh chấp đòi lại tài sản và ly hôn – Đinh Thế Thắng
Căn cứ Pháp lệnh số 10/2009/UBTVQH12 ngày 27/02/2009 của Ủy ban
thường vụ Quốc hội quy định về án phí, lệ phí Tòa án;
Căn cứ nghị quyết số 326/2016/UBTVQH14 của Ủy ban thường vụ Quốc
hội quy định về án phí, lệ phí Tòa án,
Tuyên xử:
1. Không chấp nhận yêu cầu khởi kiện của ông Dương Văn Sơn về việc
yêu cầu bà La Thị Út Chót trả lại nhà, đất tại địa chỉ B13/10/18V1 ấp 2B, xã
Vĩnh Lộc B, huyện Bình Chánh, Thành phố Hồ Chí Minh.
Vị trí nhà, đất căn cứ Bản đồ hiện trạng vị trí do Công ty Hoàng Long lập,
được Văn phòng đăng ký đất đai Thành phố Hồ Chí Minh Chi nhánh huyện
Bình Chánh kiểm tra nội nghiệp ngày 29/06/2017 (Số hợp đồng: 6ĐĐL6/17).
2. Công nhận sự thuận tình ly hôn giữa ông Dương Văn Sơn và bà La Thị
Út Chót. Giấy chứng nhận kết hôn số 229 quyển số 02/2008 đăng ký ngày
01/8/2008 tại Ủy ban nhân dân Phường 5, Quận 8, Thành phố Hồ Chí Minh
không còn giá trị pháp lý.
Về con chung: Giao trẻ Dương Hiểu Nhi (sinh ngày 25/04/2006) cho bà
La Thị Út Chót tiếp tục chăm sóc, nuôi dưỡng.
Ông Dương Văn Sơn có trách nhiệm cấp dưỡng nuôi con mỗi tháng là
1.000.000 đồng (Một triệu đồng) cho đến khi trẻ Nhi trưởng thành.
Ông Sơn có quyền thăm nom chăm sóc con chung, không ai có quyền
ngăn cản. Vì lợi ích con cái khi cần thiết có thể xin thay đổi việc nuôi con hoặc
góp phần phí tổn nuôi con sau này.
Cha, mẹ không trực tiếp nuôi con lạm dụng việc thăm nom để cản trở
hoặc gây ảnh hưởng xấu đến việc trông nom, chăm sóc, nuôi dưỡng, giáo dục
con thì người trực tiếp nuôi con có quyền yêu cầu Tòa án hạn chế quyền thăm
nom con của người đó.
Cha, mẹ trực tiếp nuôi con cùng các thành viên gia đình không được cản
trở người không trực tiếp nuôi con trong việc thăm nom, chăm sóc, nuôi dưỡng,
giáo dục con.
Về tài sản chung, nợ chung: Ông Sơn và bà Chót không yêu cầu Tòa án
giải quyết, do đó Tòa án không đặt ra để giải quyết.
Kể từ ngày bản án, quyết định có hiệu lực pháp luật (Đối với các trường
hợp cơ quan thi hành án có quyền chủ động ra quyết định thi hành án) hoặc kể
từ ngày có đơn yêu cầu thi hành án của người được thi hành án (đối với các
khoản tiền phải trả cho người được thi hành án) cho đến khi thi hành án xong,
tất cả các khoản tiền, hàng tháng bên phải thi hành án còn phải chịu khoản tiền
lãi của số tiền còn phải thi hành án theo mức lãi suất quy định tại khoản 2 Điều
468 Bộ luật Dân sự năm 2015.
3. Về chi phí đo đạc, định giá: Ông Sơn đã nộp đủ số tiền 7.450.000 đồng
(Bảy triệu bốn trăm năm mươi nghìn đồng) cho cơ quan đo đạc, định giá.
16
Hồ sơ thực hành – Tranh chấp đòi lại tài sản và ly hôn – Đinh Thế Thắng
4. Về án phí: Ông Dương Văn Sơn chịu 200.000 đồng (Hai trăm ngàn
đồng) án phí sơ thẩm đối với yêu cầu tranh chấp đòi lại tài sản và 300.000 đồng
(Ba trăm nghìn đồng) án phí sơ thẩm đối với nghĩa vụ cấp dưỡng định kỳ.
Nhưng được cấn trừ vào số tiền 3.625.000 đồng (Ba triệu sáu trăm hai mươi lăm
nghìn đồng) mà ông Sơn đã tạm nộp theo Biên lai thu tạm ứng án phí số
AA/2016/0021026 ngày 28/10/2016 của Chi cục Thi hành án dân sự huyện Bình
Chánh. Ông Sơn còn được nhận lại số tiền chênh lệch là 3.125.000 đồng (Ba
triệu một trăm hai mươi lăm nghìn đồng).
Bà Chót chịu 300.000 đồng (Ba trăm nghìn đồng) án phí sơ thẩm đối với
yêu cầu ly hôn. Nhưng được cấn trừ vào số tiền 300.000 đồng mà bà Chót đã
nộp theo biên lai thu tạm ứng án phí số AA/2017/0031225 ngày 12/01/2018 của
Chi cục thi hành án dân sự huyện Bình Chánh. Bà Chót đã nộp đủ án phí.
Trường hợp bản án, quyết định được thi hành theo quy định tại Điều 2
Luật Thi hành án dân sự thì người được thi hành án dân sự, người phải thi hành
án dân sự có quyền thỏa thuận thi hành án, quyền yêu cầu thi hành án, tự nguyện
thi hành án hoặc bị cưỡng chế thi hành án theo quy định tại các Điều 6, 7 và 9
Luật Thi hành án dân sự; thời hiệu thi hành án được thực hiện theo quy định tại
Điều 30 Luật Thi hành án dân sự.
....................................
PHẦN 4: BÀI HỌC KINH NGHIỆM, KIẾN NGHỊ, ĐỀ XUẤT
4.1 Bài học kinh nghiệm:
Trong quá trình cùng luật sư hướng dẫn tham gia giải quyết vụ án, tôi đã
rút ra được bài học kinh nghiệm cụ thể như sau:
- Phải chuẩn bị, nắm kỹ các tình tiết liên quan đến hồ sơ vụ án, nắm rõ
những quy định pháp luật liên quan đến nội dung vụ án để tránh tình trạng lúng
túng khi gặp khách hàng trao đổi cũng như gặp các cơ quan tố tụng trong quá
trình giải quyết vụ án.
- Khi tiếp xúc với cơ quan tiến hành tố tụng, người tiến hành tố tụng luật
sư cần có thái độ lịch sự, ôn hòa, nhỏ nhẹ, tôn trọng người tiến hành tố tụng.
Ngoài ra cần phải có thái độ kiên quyết với những hành vi thiếu tôn trọng luật sư
và khách hàng của luật sư và các hành vi khác trái quy định của pháp luật trong
quá trình tham gia vụ án nhằm bảo vệ quyền và lợi ích cho khách hàng và luật
sư theo quy định của pháp luật.
- Với khách hàng luật sư phải biết lắng nghe, chia sẻ, giải thích tận tình,
thấu đáo để khách hàng hiểu rõ quyền và nghĩa vụ của mình theo quy định của
pháp luật từ đó khách hàng yên tâm khi đặt niềm tin vào luật sư;
- Trong vụ án có luật sư đồng nghiệp bảo vệ khách hàng có quyền lợi đối
lập cần thân ái, tôn trọng đồng nghiệp, luôn thể hiện tinh thần cạnh tranh nghề
17
Hồ sơ thực hành – Tranh chấp đòi lại tài sản và ly hôn – Đinh Thế Thắng
nghiệp một cách phù hợp nhưng hướng đến mục tiêu cuối cùng là làm rõ vấn đề
pháp lý liên quan.
4.2 Kiến nghị và đề xuất:
Những khó khăn, vướng mắc liên quan đến quy định về tập sự hành nghề
luật sư của Luật sư trong thực tiễn
Qua quá trình thực tập hành nghề Luật sư từ tháng 4 năm 2018 cho đến
tháng 4/2019 tôi nhận thấy có những quy định vẫn chưa phù hợp, làm hạn chế
quyền của người tập sự trong việc tiếp xúc với hồ sơ vụ việc và khách hàng.
Thứ nhất, Luật Luật sư cho phép người tập sự hành nghề luật sư được
“giúp luật sư hướng dẫn nghiên cứu hồ sơ vụ, việc, thu thập tài liệu, đồ vật, tình
tiết liên quan đến vụ, việc và các hoạt động nghề nghiệp khác”:
Căn cứ theo quy định nêu trên thì người tập sư Luật sư được đi cùng luật
sư để nghiên cứu, sao chụp hồ sơ vụ, việc, tuy nhiện trên thực tế cho thấy trong
những vụ án phức tạp, có số lượng hồ sơ lớn, bản thân Luật sư hướng dẫn phải
mất rất nhiều thời gian, công sức… mới có thể sao chụp được hồ sơ vụ án.
Nhưng việc cho phép người tập sự hành nghề Luật sư được tiếp cận, sao chụp hồ
sơ dưới sự giám sát của cán bộ Toà án, Luật sư hướng dẫn sẽ tạo điều kiện cho
người tập sự học hỏi được rất nhiều kinh nghiệm thực tế qua hồ sơ chụp để hỗ
trợ được luật sư hướng dẫn, đồng thời làm hành trang cho công việc là nghề luật
sư trong tương lai.
Thứ hai, Người tập sự hành nghề luật sư không được tham gia phiên tòa
cùng luật sư hướng dẫn với tư cách là người tập sự ngồi kế bên Luật sư hướng
dẫn mà chỉ có thể ngồi dưới là người dự khán giống như bao người khác.
Mặt hạn chế này theo tôi phần nào làm ảnh hưởng đến việc học hỏi kinh
nghiêm cũng như làm quen với vị trí, tâm lý, cách xử lý tình huống… của người
tập sự hành nghề Luật sư và chưa thể có được những kỹ năng cần thiết ở vị trí
luật sư, chưa được rèn luyện bản lĩnh của người Luật sư. Việc tham gia phiên tòa
như người dự khán không thể giúp người tập sự có được kỹ năng như khi ngồi
cạnh luật sư hướng dẫn và học hỏi cách làm việc, cách sắp xếp, ghi chép và đối
đáp của luật sư hướng dẫn.
Thứ ba, Người tập sự hành nghề luật sư không được phép làm đại diện ủy
quyền tham gia tố tụng tại Tòa án.
Tôi cho rằng việc giới hạn quyền tham gia tố tụng với tư cách đại diện ủy
quyền đối với người tập sự là chưa hợp lý bởi lẽ, căn cứ theo quy định của pháp
luật hiện hành thì bất kỳ cá nhân nào có đầy đủ năng lực hành vi dân sự đều
được nhận uỷ quyền để tham gia tố tụng tại Toà án với tư cách là đại diện theo
18
Hồ sơ thực hành – Tranh chấp đòi lại tài sản và ly hôn – Đinh Thế Thắng
uỷ quyền, tuy nhiên người tập sự hành nghề luật sư ngoài việc có đầy đủ năng
lực hành vi pháp luật còn có kiến thức trong lĩnh vực pháp luật nhất định, có khả
năng thay mặt khách hàng thực hiện các công việc pháp lý liên quan khi được
khách hàng lực chọn vì vậy cần mở rộng quyền, tạo điều kiện cho người tập sự
có cơ hội cọ sát thực tiễn ở những vị trí công việc mà Luật sư hướng dẫn chỉ
định đại diện theo uỷ quyền.
Thứ bốn, Căn cứ theo quy định của Luật luật sư cho phép người tập sự
hành nghề Luật sư được đi cùng luật sư hướng dẫn gặp gỡ bị can, bị cáo khi
được sự đồng ý của họ. Căn cứ theo quy định này thì thấy cơ hội để người tập sự
hành nghề luật sư học hỏi, cọ sát, theo dõi quy trình, cách thức tiếp cận bị can,
bị cáo, hướng xử lý vụ án từ Luật sư hướng dẫn tuy nhiên khi áp dụng vào thực
tế thì gặp phải nhiều khó khăn trở ngại bởi lẽ:
Nếu người yêu cầu luật sư bảo chữa là bản thân bị can và bị cáo thì việc
đề nghị bị can, bị cáo ký giấy cho người tập sự hành nghề luật sư tham gia là
điều không quá khó khăn, phức tạp. Tuy nhiên trong trường hợp người thân
trong gia đình bị can, bị báo họ yêu cầu luật sư bào chữa (lúc đó bị can, bị cáo
đang bị giam giữ) thì việc người ký giấy cho người tập sự hành nghề luật sư
tham gia gặp khó khăn phúc tạp vì phải được sự đồng ý của bị can, bị cáo hay
của người thân thích của bị can, bị cáo, ngoài ra theo Điểm b Khoản 3 Điều 27
Luật Luật sư, thì người tập sự hành nghề luật sư chỉ được tham gia vụ án hình sự
với Luật sư hướng dẫn ngay từ thời điểm Luật sư hướng dẫn tiến hành thủ tục
xin đăng ký bào chữa theo quy định của bộ luật tố tụng hình sự năm 2015, chứ
không phải bất cứ thời điểm nào cũng được tham gia. Qua quy định nêu trên cho
thấy mặt hạn chế quyền tham gia vụ án hình sự của người tập sự trong trường
hợp Luật sư hướng dẫn đã được thông báo là người bào chữa cho bị can, bị cáo.
Tôi cho rằng, nên cho phép người tập sự hành nghề luật sư đi cùng với luật sư
hướng dẫn khi luật sư hướng dẫn trong suốt quá trình Luật sư hướng dẫn tham
gia vụ án nếu được sự đồng ý của bị can, bị cáo hoặc người thân thích của họ.
Từ những khó khăn và vướng mắc như đã được phân tích ở trên, với
tư cách là một người đã trải qua và hoàn tất quá trình tập sự hành nghề
luật sư. Tôi xin có một số đề xuất, kiến nghị nhằm hoàn thiện và nâng cao
hơn nữa chất lượng tập sự hành nghề luật sư nói riêng và đội ngũ luật sư
trong tương lai nói chung như sau:
Tôi cho rằng, để nâng cao chất lượng đội ngũ luật sư trong tương lai về cả
kiến thức chuyên môn và kỹ năng hành nghề, kinh nghiệm thực tiễn ngay từ
trong quá trình đào tạo nghề Luật sư để đạt được vấn đề này cần tạo điều kiện
cho người tập sự hành nghề luật sư được tiếp xúc sớm với thực tiễn hành nghề
19
Hồ sơ thực hành – Tranh chấp đòi lại tài sản và ly hôn – Đinh Thế Thắng
để nhanh chóng nắm bắt, trau dồi kiến thức, học hỏi kỹ năng, kinh nghiệm hành
nghề của Luật sư hướng dẫn cũng như các luật sư khác trong các phiên toà diễn
ra thường ngày, từ đó học hỏi, trau dồi kinh nghiệm làm hành trang trên con
đường hành nghề luật trong tương lai.
Ngoài những sự nỗ lực, quyết tâm của từng người thì cần thiết có những
quy định pháp luật cho phép người tập sự hành nghề luật sư được tham gia tố
tụng tại Toà án với tư cách là đại diện theo uỷ quyền cho khách hàng dưới sự
giám sát của Luật sư hướng dẫn (thể hiện bằng văn bản xác định khách hàng biết
rõ người tập sự hành nghề luật sư đại diện theo uỷ quyền cho khách hàng và
đồng ý) đối với các vụ án dân sự, lao động, hôn nhân gia đình, kinh doanh
thương mại…ngoài ra được thực hiện các công việc cùng Luật sư hướng dẫn khi
được sự đồng ý, tin tưởng của khách hàng, như vậy thì người tập sự hành nghề
Luật sư mới có cơ hội tham gia vào thực tế các vụ, việc để sớm trưởng thành và
có đủ sự tự tin, bản lĩnh, nhiệt huyết khi chính thức hành nghề với tư cách Luật
sư, từ đó phát triển bản thân, giúp khách hàng, xã hội… và góp một phần vào
xây dựng, phát triển đất nước Việt Nam ngày càng phát triển sánh ngang với các
cường quốc khác
20
Hồ sơ thực hành – Tranh chấp đòi lại tài sản và ly hôn – Đinh Thế Thắng
PHẦN 5 : XÁC NHẬN CỦA LUẬT SƯ HƯỚNG DẪN VÀ TỔ CHỨC
HÀNH NGHỀ LUẬT SƯ
Xác nhận của luật sư hướng dẫn
Tôi, Luật sư ..............là luật sư hướng dẫn cho người tập sự hành nghề
luật sư: ông
Vụ án Người tập sự hành nghề luật sư trình bày trong “Hồ sơ kiểm tra
thực hành” là vụ việc của luật sư hướng dẫn thực hiện.
Luật sư hướng dẫn cam đoan nội dung thể hiện trong “Hồ sơ kiểm tra
thực hành” của Người tập sự hành nghề luật sư là đúng với nội dung và diễn
biến quá trình giải quyết vụ án thực tế.
Tp. HCM, ngày 04 tháng 11 năm 2019
Xác nhận của tổ chức hành nghề luật sư
Ngày 04 tháng 11 năm 2019
Chữ ký bên là của Luật sư Trần Đăng
Minh hiện đang hoạt động tại tổ chức
hành nghề và hướng dẫn TSHNLS cho
ông Đinh Thế Thắng là đúng
Tp. HCM, ngày 04 tháng 11 năm 2019
Giám đốc
21
Luật sư hướng dẫn
Hồ sơ thực hành – Tranh chấp đòi lại tài sản và ly hôn – Đinh Thế Thắng
PHẦN 6 : DANH MỤC TÀI LIỆU ĐÍNH KÈM
22