BỘ NÔNG NGHIỆP & PHÁT TRIỂN NÔNG THÔN
PHÂN HIỆU TRƯỜNG ĐẠI HỌC LÂM NGHIỆP
----------------------------------------------
BÀI TẬP MÔN SINH THÁI RỪNG
“TÁC ĐỘNG CỦA MẤT RỪNG VÀ SUY GIẢM RỪNG? NÊU
NHỮNG NGUYÊN NHÂN CHỦ YẾU DẪN TỚI
MẤT RỪNG VÀ SUY GIẢM RỪNG”
Học viên: PHÙNG VĂN TỈNH
Lớp: CH 26B – Lâm Học
Giảng viên: PGS.TS. BÙI THẾ ĐỒI
Đồng Nai, năm 2019
MỤC LỤC
I
II
2.1
2.2
2.3
2.4
III
3.1
3.1.1
3.1.2
3.1.3
3.1.4
Đặt vấn đề
Tác động của mất rừng và suy thoái rừng
Gây xói mòn đất
Phá vỡ chu kỳ nước
Khí thải nhà kính
Mất đa dạng sinh học
Những nguyên nhân chủ yếu dẫn tới mất rừng và suy thoái rừng
Trên thế giới
Mở rộng diện tích đất nông nghiệp
Nhu cầu lấy củi
Chăn thả gia súc
Khai thác gỗ và các sản phẩm từ rừng
1
2
2
3
3
4
4
4
5
5
5
5
3.1.5
Phá rừng để trồng cây công nghiệp và cây đặc sản
5
3.1.6
Cháy rừng
6
3.1.7
Sức ép dân số
6
3.2
3.2.1
Ở Việt Nam
Chuyển đổi mục đích sử dụng đất
8
8
3.2.2
Khai thác lâm sản quá mức cho phép
9
3.2.3
Cháy rừng
10
3.2.4
Nghèo đói
11
3.2.5
Hậu quả của cuộc chiến tranh hoá học để lại
12
3.2.6
Tập quán du canh du cư
13
3.2.7
Hiệu lực pháp luật và chính sách
14
IV
Kết luận – Kiến nghị
15
I. Đặt vấn đề
Rừng là yếu tố quan trọng nhất của sinh quyển và có ý nghĩa lớn trong sự phát
triển kinh tế xã hội, sinh thái và môi trường. Trên thực tế rừng đã có lịch sử phát triển
lâu dài nhưng những hiểu biết về rừng chỉ mới thực sự có được từ thế kỷ thứ XIX.
Theo quan điểm học thuyết sinh thái học, rừng được xem là hệ sinh thái điển
hình trong sinh quyển (Tansley, 1935; Vili, 1957; Odum, 1966). Rừng là sự thống
nhất trong mối quan hệ biện chứng giữa sinh vật – trong đó thực vật với các loài cây
gỗ giữ vai trò chủ đạo, đất và môi trường. Rừng là dạng đặc trưng và tiêu
biểu nhất của tất cả các hệ sinh thái trên cạn, đồng thời cũng là đối tượng tác động sớm
nhất và mạnh nhất của con người.
Không thể phủ nhận vai trò to lớn của tài nguyên rừng đối với toàn hành tinh,
hơn 80% đa dạng sinh học trên cạn của thế giới có thể tìm thấy trong những cánh rừng.
Rừng không những là cơ sở phát triển kinh tế - xã hội mà còn gĩư chức năng sinh thái
cực kỳ quan trọng, rừng tham gia vào quá trình điều hoà khí hậu, đảm bảo chu chuyển
oxy và các nguyên tố cơ bản khác trên hành tinh, duy trì tính ổn định và độ màu mỡ
của đất, hạn chế lũ lụt, hạn hán, ngăn chặn xói mòn đất, làm giảm nhẹ sức tàn phá
khốc liệt của các thiên tai, bảo tồn nguồn nước và làm giảm mức ô nhiễm không khí.
Nhưng ngày nay, nguồn tài nguyên quý giá đó đang dần bị suy thoái. Những
năm qua, nạn phá rừng, mất rừng ngày càng nghiêm trọng, hàng ngàn hecta rừng bị
thu hẹp lại. Mất rừng và suy thoái rừng gây nên hiện tượng sa mạc hoá và làm nghèo
đất tại nhiều địa phương. Tình trạng đó đã tạo ra hàng loạt các tác động tiêu cực và
thách thức sự phát triển kinh tế, xã hội và môi trường như gây lũ lụt, hạn hán gây khó
khăn trong việc cung ứng lâm sản, làm giảm diện tích đất trồng khiến tình trạng nghèo
đói và thất nghiệp ở nhiều khu vực càng đáng lo ngại hơn, đặc biệt suy thoái rừng làm
phá vỡ các hệ sinh thái quan trọng, đe dọa đến sự tồn tại của nhiều loài động, thực vật
và làm giảm khả năng cung cấp các yếu tố thiết yếu như không khí sạch, nước sạch,
đất sạch cho nông nghiệp và điều hòa khí hậu.
1
II. Tác động của mất rừng và suy thoái rừng
Mất rừng là hiện tượng rừng bị chặt phá, chuyển đổi mục đích sử dụng, bị tác
động của biến đổi khí hậu: cháy, dịch hại, ngập lụt, sạt lở đất, chiến tranh hay do các
qui luật tự nhiên khác…Ngoài ra, mất rừng được hiểu là sự chuyển đổi từ rừng thành
không có rừng (UNFCCC, 2014).
Suy thoái rừng được định nghĩa là hiện tượng suy giảm đo được, do con người
gây ra làm suy giảm dự trữ carbon tại các vùng rừng trong một thời gian nhất định (Tại
COP 16, (Cancun, Mexico)).
Suy thoái rừng là một quá trình trong đó sự phì nhiêu, dồi dào của một khu vực
rừng bị làm giảm bớt một cách vĩnh viễn bởi một số nhân tố hoặc bởi sự kết hợp của
nhiều nhân tố. "Hiện tượng này không liên quan tới việc suy giảm diện tích rừng mà là
giảm chất lượng trong tình trạng của nó." Rừng vẫn ở đó, nhưng với ít cây hơn, hoặc ít
loại cây, thực vật hoặc động vật hơn, hoặc một số chúng bị ảnh hưởng bởi bệnh dịch.
Suy thoái rừng khiến rừng ít có giá trị hơn và có khả năng dẫn tới phá rừng. Suy thoái
rừng là một kiểu của một vấn đề chung hơn là suy thoái đất.
Hậu quả của việc mất rừng và suy thoái rừng để lại là không hề nhỏ, điều đó
ảnh hưởng tới cả vi sinh vật và con người. Một số tác hại của việc mất rừng và suy
thoái rừng phổ biến nhất là: Thông qua xói mòn đất, có thể dẫn đến tắc nghẽn đường
thủy và các vấn đề khác; thông qua sự gián đoạn chu kỳ nước, có thể dẫn đến sa mạc
hóa và mất môi trường sống; thông qua phát thải khí nhà kính, góp phần thay đổi khí
hậu toàn cầu; và thông qua mất mát đa dạng sinh học, có thể dẫn đến sự tuyệt chủng và
mất vẻ đẹp tự nhiên.
2.1. Gây xói mòn đất
Có rất nhiều hoạt động của con người gây ra tình trạng đất bị xói mòn tuy nhiên
mất rừng (chặt phá rừng) đầu nguồn để lại hậu quả nặng nề nhất. Tình trạng mất rừng,
suy thoái rừng đã dẫn đến hậu quả là thiên tai, xói mòn đất nghiêm trọng, khí hậu
nhiều địa phương biến đổi thất thường. Nguồn tài nguyên thiên nhiên nhiều nơi bị cạn
kiệt, đất đai bị rửa trôi, xói mòn gây ảnh hưởng đến đời sống và sản xuất nông nghiệp.
2
Độ che phủ rừng bị giảm đi không chỉ ảnh hưởng nghiêm trọng đến môi trường
mà còn đánh mất giá trị của nguồn tài nguyên thiên nhiên cũng như sự đa dạng sinh
học trên toàn cầu.
2.2. Phá vỡ chu kỳ nước
Chu trình nước là quá trình mà tất cả nước trên trái đất được phân phối. Nước
từ các đại dương trên Trái đất cũng như từ bề mặt của các nơi chứa nước ngọt bốc hơi
và ngưng tụ thành mây. Cây cối và các loại thực vật khác cũng trích xuất nước ngầm
và giải phóng nước đó vào khí quyển trong quá trình quang hợp. Sau đó, mây tạo ra
mưa ngấm vào mạch nước ngầm và trả lại nước về biển. Tuy nhiên khi rừng bị phá
hủy, số lượng cây lớn bị đốn hạ thì lượng nước lưu trữ và thải vào khí quyển không
còn nữa. Điều này có nghĩa là khi những khu rừng bị chặt phá, nơi từng có đất ẩm,
màu mỡ và nhiều mưa sẽ trở nên cằn cỗi.
Hậu quả của việc mất rừng và suy thoái rừng trong trường hợp này làm thay đổi
khí hậu gọi là hiện tượng sa mạc hóa. Điều kiện khô cằn như vậy làm tăng nguy cơ
hỏa hoạn trên đất than bùn dẫn đến ảnh hưởng đến đời sống của động vật, thực vật
sống trong rừng.
2.3. Khí thải nhà kính
Mất rừng và suy thoái rừng làm giảm khả năng thích ứng với khí hậu bởi rừng
có khả năng hấp thụ 2,4 tỷ tấn CO2 mỗi năm trên toàn thế giới, tương đương với 1/3
lượng khí CO2 phát thải từ việc đốt nhiên liệu hóa thạch. Rừng cũng đóng vai trò quan
trọng trong việc thích ứng với biến đổi khí hậu trên toàn hành tình bởi chúng giúp
giảm thiểu rủi ro từ thiên tai như lũ lụt, giúp điều chỉnh lưu lượng nước và vi khí hậu,
cải thiện sức khỏe của hệ sinh thái…
Các khí nhà kính như metan và carbon dioxide là các loại khí giữ nhiệt trong
khí quyển Trái đất, dẫn đến thay đổi khí hậu toàn cầu. May mắn thay, ngoài việc giải
phóng oxy và nước vào khí quyển, cây còn hấp thụ carbon dioxide. Trong khi cây vẫn
còn sống, chúng hoạt động như các bộ lọc khí nhà kính hiệu quả.
Khi rừng mất đi, không còn cây nữa thì carbon dioxide được lưu trữ trong thân và
lá của chúng được thải vào khí quyển, góp phần thêm vào sự tích tụ khí nhà kính đồng
thời carbon dioxide trong khu vực đó không còn có thể được hấp thụ như trước đây.
3
Biến đổi khí hậu toàn cầu, do sự tích tụ của khí nhà kính trong khí quyển Trái
đất ảnh hưởng đến động vật hoang dã, thực vật và con người thông qua thay đổi thời
tiết và tăng khả năng xảy ra thảm họa tự nhiên. Người ta ước tính rằng nạn phá rừng
gây ra tới 30% vào lượng khí thải nhà kính toàn cầu mỗi năm.
2.4. Mất đa dạng sinh học
Khả năng thích nghi với môi trường sống của sinh vật là rất quan trọng. Đây là
cách mà sự sống trên trái đất phát triển từ vùng lãnh nguyên Bắc cực đến vùng sa mạc
khô cằn nóng rát. Tuy nhiên sự thích nghi này cần một khoảng thời gian khá dài.
Mất rừng và suy thoái rừng làm thay đổi môi trường sống của sinh vật quá
nhanh khiến chúng không kịp thích ứng với môi trường mới. Điều này có nghĩa là khả
năng chúng sống sót được là rất thấp. Nếu khu vực sinh sống của 1 loài bị phá hủy
hoàn toàn thì khả năng chúng bị tuyệt chủng là rất cao. Điều này gây ra sự mất đa dạng
sinh học.
Hậu quả của việc mất rừng và suy thoái rừng gây mất tính đa dạng sinh học ảnh
hưởng đến hệ sinh thái. Mỗi phần của một hệ sinh thái phụ thuộc vào các phần khác,
mất một loài có thể gây hậu quả sâu rộng cho các loài khác.
Những mất mát về đa dạng sinh học có thể là hậu quả tồi tệ nhất của việc mất
rừng, suy thoái rừng – mất vẻ đẹp tự nhiên.
III. Những nguyên nhân chủ yếu dẫn tới mất rừng và suy thoái rừng
3.1 Trên thế giới
Sự suy giảm diện tích rừng và suy thoái rừng. Theo tài liệu công bố của Quỹ
bảo vệ động vật hoang dã (WWF, 1998), trong thời gian 30 năm (1960 – 1990) độ che
phủ rừng trên toàn thế giới đã giảm đi gần 13%, tức diện tích rừng đã giảm đi từ 37
triệu km2 xuống 32 triệu km2, với tốc độ giảm trung bình 160.000km2/năm. Sự mất
rừng lớn nhất xãy ra ở các vùng nhiệt đới, ở Amazone (Braxin) trung bình mỗi năm
rừng bị thu hẹp 19.000km2 trong suốt hơn 20 năm qua. Bốn loại rừng bị hủy diệt khá
lớn là rừng hỗn hợp và rừng ôn đới lá rộng 60%, rừng lá kim khoảng 30%, rừng ẩm
nhiệt đới khoảng 45% và rừng khô nhiệt đới lên đến khoảng 70%. Châu Á là nơi mất
rừng nguyên sinh lớn nhất, khoảng 70%. Có nhiều nguyên nhân dẫn đến làm mất rừng
trên thế giới, tập trung chủ yếu vào các nhóm nguyên nhân sau đây:
4
3.1.1. Mở rộng diện tích đất nông nghiệp
Để đáp ứng nhu cầu sản xuất lương thực, trong đó những người sản xuất nhỏ
du canh là nguyên nhân quan trọng nhất. Rowe (1992) cho rằng, có đến 60% rừng
nhiệt đới bị chặt phá hàng năm là do nguyên nhân này. Hiện nay mở rộng diện tích
nông nghiệp ở Châu Á và Châu Phi đang xãy ra với tốc độ mạnh hơn so với Châu Mỹ
La Tinh.
3.1.2. Nhu cầu lấy củi
Chặt phá rừng cho nhu cầu lấy củi đốt cũng là nguyên nhân quan trọng làm cạn
kiệt tài nguyên rừng ở nhiều vùng. Lượng gỗ sử dụng làm chất đốt trên thế giới đã
tăng từ 600 triệu m3 vào năm 1963 lên 1.300 triệu m3 vào năm 1983. Hiện nay vẫn
còn khoảng 1,5 tỷ người chủ yếu dựa vào nguồn gỗ củi cho nấu ăn. Riêng ở Châu Phi
đã có 180 triệu người thiếu củi đun.
3.1.3. Chăn thả gia súc
Sự chăn thả trâu bò và các gia súc khác đòi hỏi phải mở rộng các đồng cỏ cũng
là nguyên nhân làm giảm diện tích rừng. Ở Châu Mỹ La Tinh, có khoảng 35% rừng bị
chặt phá do những người sản xuất nông nghiệp nhỏ. Phần còn lại do chăn thả súc vật.
Riêng ở Nam Mỹ việc mở rộng diện tích đồng cỏ với tốc độ 20 nghìn km2/năm trong
giai đoạn 1950 – 1980. Còn ở Braxin, khoảng 3/4 diện tích rừng bị phá hủy ở vùng
Amazone đến 1980 có liên quan trực tiếp đến việc nuôi bò.
3.1.4. Khai thác gỗ và các sản phẩm từ rừng
Việc đẩy mạnh khai thác gỗ cũng như các tài nguyên rừng khác cho phát triển
kinh tế và xuất khẩu cũng là nguyên nhân dẫn đến làm tăng tốc độ phá rừng ở nhiều
nước. Hiện nay việc buôn bán gỗ xãy ra mạnh mẽ ở vùng Đông Nam Á, chiếm đến
gần 50% lượng gỗ buôn bán trên thế giới. Ví dụ, ở Malaisia rừng nguyên sinh che phủ
gần như toàn bộ đất nước vào năm 1990, đến năm 1960 đã có trên 1/2 diện tích rừng bị
khai thác gỗ cho xuất khẩu. Còn ở Philippine, đến năm 1980 rừng đã bị phá hủy
khoảng 2/3 diện tích, trong đó khai thác gỗ cho xuất khẩu chiếm một phần lớn.
3.1.5. Phá rừng để trồng cây công nghiệp và cây đặc sản
Nhiều diện tích rừng trên thế giới đã bị chặt phá lấy đất trồng cây công nghiệp
và các cây đặc sản phục vụ cho kinh doanh. Mục đích là để thu được lợi nhuận cao mà
5
không quan tâm đến lĩnh vực môi trường. Ở Thái Lan, một diện tích lớn rừng đã bị
chặt phá để trồng sắn xuất khẩu, hoặc trồng cacao để sản xuất sôcôla. Ở Pêru, nhân
dân phá rừng để trồng cacao; diện tích trồng cacao ước tính chiếm 1/10 diện tích rừng
của Pêru. Các cây công nghiệp như cao su, cọ dầu cũng đã thay thế nhiều vùng rừng
nguyên sinh ở các vùng đồi thấp của Malaisia và nhiều nước khác.
3.1.6. Cháy rừng
Cháy rừng là nguyên nhân khá phổ biến ở các nước trên thế giới và có khả
năng làm mất rừng một cách nhanh chóng. Ví dụ, năm 1977 đã xảy ra cháy rừng ở
nhiều nước thuộc Châu Âu, Châu Á và Châu Mỹ. Chỉ tính riêng ở Indonesia trong một
đợt cháy rừng (năm 1977) đã thiêu hủy gần 1 triệu ha rừng. Còn ở Mỹ, trong năm
2000 đã có 2,16 triệu ha rừng bị cháy.
3.1.7. Sức ép dân số
Tăng dân số nhanh là một trong những nguyên nhân chính làm suy thoái đa
dạng sinh học, suy thoái môi trường. Sự gia tăng dân số đòi hỏi tăng nhu cầu trong
sinh hoạt và các nhu cầu thiết yếu khác, nhất là tài nguyên đất cho sản xuất nông
nghiệp. Sự gia tăng về mật độ dân đã dẫn đến nạn phá rừng và suy thoái nghiêm trọng
về các hệ sinh thái, tài nguyên thiên nhiên. Khi chưa có sự xuất hiện của con người,
rừng che phủ hầu hết đất đai của các lục địa, trong lịch sử phát triển của loài người vào
thời kì đồ đá cũ, con người sống hoàn toàn phụ thuộc vào rừng bằng các hoạt động săn
bắt và hái lượm, các hoạt động này không gây thiệt hại gì cho rừng. Đến khi con người
bắt đầu biết chăn nuôi và trồng trọt thì con người có những hoạt động tác hại đến rừng,
mặc dù các tác động này có phần nào hạn chế sự phát triển của rừng nhưng cũng chưa
đáng kể lắm. Từ thế kỷ thứ 3 trước công nguyên trở về sau thì rừng mới thực sự bị con
người tấn công khai phá. Sự tấn công khai phá rừng ngày càng được thấy rõ nét hơn,
khi dân số đông dần lên, nông nghiệp ngày càng mở rộng đồng thời nghề luyện kim
xuất hiện. Con người đốt rừng để trồng tỉa, lấy gỗ để làm nhiên liệu, đồ gỗ làm thuyền
làm bè… Cứ như thế rừng bị thu hẹp dần. Cùng với sự phát triển của nền công nghiệp,
đời sống của con người dần được nâng lên, nhu cầu trong đời sống của họ cũng dần
tăng cùng theo đó. Và dần dần, dân cư ngày càng tập trung ở các đô thị để dễ dàng trao
đổi buôn bán… thoã mãn nhu cầu của họ, gây nên tình trạng mất cân đối giữa dân cư ở
nông thôn và thành thị. Người dân ồ ạt ra thành thị kiếm sống dẫn đến tình trạng đô thị
6
hoá, đòi hoỉ nền kinh tế ở khu vực này phải phát triển tương đồng để đáp ứng đầy đủ
việc làm cho người dân. Và khi nhu cầu con người trong tất cả các lĩnh vực tăng cao,
nhu cầu việc làm cũng tăng thì các nhà máy, xí nghiệp, các công ty, cơ sở chế biến…
bắt đầu được hình thành. Nhưng diện tích đất thành thị chỉ chiếm một phần rất nhỏ cho
nên tất cả các hoạt động tiêu dùng và sản xuất, khai thác chế biến không thể diễn ra ở
đây, chẳng hạn như xây dựng nhà máy xi măng, nhà máy gạch, các nhà máy chế biến
nguyên liệu mía, sắn… thì không thể xây dựng trong địa bàn thành thị vì lí do đảm bảo
đầu vào nguyên liệu dễ dàng, đảm bảo môi trườmh không bị ô nhiễm ở thành thị thì
buộc họ phải chuyển đến một nơi cách xa thành thị, cách xa nơi sinh sống, chuyển đến
một địa bàn nào đó để xây dựng cở sở sản xuất cho mình. Và dần họ lấn chiếm vào
rừng, nơi có diện tích khá rộng và tiến hành khai thác tàn phá rừng để xây dựng các
nhà máy xí nghiệp. Và tại các vùng nông thôn thì dân số tăng thì buộc người dân phải
mở rộng diện tích đất canh tác để sản xuất đủ lương thực đảm bảo cho cuộc sống. Điều
tất nhiên là người dân không thể mở rộng diện tích đất sản xuất xuống cac vùng đô thị,
diện tích đất đồng bằng chiếm phần rất ít thì buộc họ phải tiến sâu vào rừng, bất đầu
chặt phá rừng để lấy đất tiến hành sản xuất. Ban đầu chỉ khai thác một phần diện tích
nhỏ và sau một thời gian dài, ngoài nhu cầu mở rộng đất canh tác mà nhu cầu về nhà ở
của con người cũng tăng lên. Do nền kinh tế phát triển, giá cả đất tại các đô thị rất cao
nhưng người dân họ không đủ khả năng để mua nhà tại các vùng đồng bằng và đương
nhiên họ sẽ chuyển lên địa bàn mà nơi họ có khả năng mua nhà ở và rừng được xem là
địa bàn sinh sống tiềm năng. Khi dân số tăng nhanh không những nhu cầu về việc làm,
nhà ở tăng mà bên cạnh đó nhu cầu giả trí ăn uống du lịch… của con người cũng tăng
nhiều hơn khi đời sống người dân được nâng lên họ muốn được ăn những thứ ngon,
những thứ lạ, dùng những sản phẩm độc đào từ thên nhiên, muốn có nguồn vật liệu
xây dựng như sản phẩm từ gỗ quý hiếm như: giáng hương (Pterocarpus macrocarpus),
gụ (Sindora siamensis), sao đen (Hopea odaratu). Có cầu ắt sẽ có cung và con người
lại tiếp tục vào rừng tìm kiềm các loài động thực vật quý hiếm để săn bắt, khai thác với
mục đích bán cái trên thị trường cần để có thêm thu nhập. Tài nguyên rừng thì có hạn
mà nhu cầu con người thì ngày càng tăng và chỉ trong một thời gian ngắn các loài
động vật, thực vật quý hiếm đã bị khai thác cạn kiệt, thậm chí có nguy cở bị tiêu diệt
làm cho số lượng và chủng loài sinh vật ngày càng giảm đi. Vậy có thể nói sức ép dân
7
số cũng tác động mãnh mẽ đến sự suy thoái tài nguyên rừng, con người cần có sự khai
thác hợp lý có kế hoạch để hạn chế tình trạng kahi thác rừng bừa bài làm giảm tài
nguyên rừng một cách đáng kể.
Ngoài ra còn có nhiều nguyên nhân khác cũng trực tiếp hoặc gián tiếplàm tăng
quá trình phá rừng trên thế giới. Đó là các chính sách quản lý rừng, chính sách đất
đai, chính sách về di cư, định cư và các chính sách kinh tế xã hội khác. Các dự án
phát triển kinh tế xã hội như xây dựng đường giao thông, các công trình thủy điện, các
khu dân cư hoặc khu công nghiệp cũng làm gia tăng đáng kể tốc độ mất rừng ở nhiều
nơi trên thế giới.
3.2. Ở Việt Nam
Mặc dù tổng diện tích rừng toàn quốc tăng trong những năm qua, nhưng diện
tích rừng bị mất còn ở mức cao. Thống kê từ năm 1991 đến tháng 10/2008, tổng diện
tích rừng bị mất là 399.118ha, bình quân 57.019ha/năm. Trong 9 tháng đầu năm 2017
có 155,68 ha rừng bị chặt phá và 5.364,85ha rừng bị cháy. Diện tích rừng tự nhiên trên
khắp cả nước bị suy giảm nghiêm trọng. Độ che phủ của rừng chỉ nằm ở con số
41,65% (Quyết định Công bố hiện trạng rừng năm 2018 của Bộ Nông nghiệp và Phát
triển nông thôn, tính đến ngày 31-12-2018).
Diện tích và chất lượng rừng bị suy giảm ở nước ta nằm trong những nguyên
nhân chủ yếu như sau:
3.2.1. Chuyển đổi mục đích sử dụng đất
Chuyển đổi mục đích sử dụng đất chính là sự mở rộng đất nông nghiệp, đất sản
xuất, là mở rộng đất canh tác nông nghiệp bằng cách lấn sâu vào đất rừng, là nguyên
nhân quan trọng nhất làm mất rừng và suy thoái rừng, suy thoái đa dạng sinh học. Phá
rừng ngập mặn để nuôi tôm là hậu quả làm suy thoái rừng. Do chưa hiểu hết giá trị
nhiều mặt của hệ sinh thái rừng ngập mặn, hoặc do những lợi ích kinh tế trước mắt,
đặc biệt là nguồn lợi từ tôm nuôi xuất khẩu nên rừng ngập mặn Việt Nam đã bị suy
thoái nghiêm trọng. Hậu quả của việc phá rừng ngập mặn lấy đất nuôi tôm một cách
bừa bãi như hiện nay là huỷ hoại môi trường, làm suy giảm mức sống của nhiều người
dân nghèo ven biển, ảnh hưởng xấu đến chủ trương xoá đói giảm nghèo và phát triển
bền vững của Chính phủ. Nhiều cơ quan quản lý ở Trung ương và địa phương chưa
đánh giá đúng vai trò to lớn của hệ sinh thái rừng ngập mặn; buông lỏng quản lý trong
8
việc sử dụng tài nguyên vùng ven biển có rừng ngập mặn; không kiên quyết xử lý việc
phá rừng để nuôi tôm. Nhiều địa phương chỉ chú trọng đến lợi ích trước mắt là tôm
xuất khẩu mà chưa tính đến hậu quả lâu dài do thiên tai và suy giảm tài nguyên khi
không còn rừng, nên rừng bị tàn phá khắp nơi. Phần lớn các dự án nuôi tôm không
thực hiện việc đánh giá tác động môi trường mà hình như các cơ quan hữu quan cũng
không lưu ý nhắc nhở thực hiện luật pháp. Ngành lâm nghiệp cũng chưa quan tâm đến
việc tuyên truyền giáo dục về lợi ích lâu dài của rừng ngập mặn nên việc đấu tranh để
bảo vệ rừng của cộng đồng còn yếu. Vì mất nguồn sinh sống, một số người có thể biết
là sai nhưng vẫn phải làm để nuôi gia đình, đó là dùng lưới mắt nhỏ, đăng bắt hết tôm
tép hoặc dùng chất nổ, xung điện để huỷ diệt nguồn lợi.
Mặt khác, do thiếu sự phối hợp chặt chẽ giữa các ngành thuỷ sản và lâm nghiệp
nên không những mất rừng, mà sự cân bằng sinh thái suy giảm và cuộc sống của cộng
đồng ven biển bị xáo trộn.
3.2.2. Khai thác lâm sản quá mức cho phép
Khai thác lâm sản đang là tình trạng đáng lo ngại hiện nay đối với tài nguyên
rừng Việt Nam. Đây là nguyên nhân quan trọng trực tiếp dẫn đến rừng bị suy thoái một
cách nghiêm trọng làm cho sự đa dạng về hệ sinh thái tự nhiên, sự phong phú về các
loài sinh vật, độ che phủ và chất lượng rừng bị giảm sút gây ra nhiều hậu quả nghiêm
trọng cho sinh vật và cây trồng trên toàn cầu. Khai thác rừng là hành động do chính
con người tạo ra là phần lớn, vì rất nhiều mục đích khác nhau mà con người đã sử
dụng dưới nhiều hình thức để tác động và tàn phá tài nguyên rừng. Với các mục đích
khác nhau cho nên hoạt động khai thác nguồn lâm sản ở đây được chia thành 3 hoạt
động: khai thác gỗ, khai thác củi, khai thác lâm sản ngoài gỗ.
Khai thác gỗ: Ngày nay, khi giá gỗ tăng cao, con người đã không ngừng tiến
hành khai thác các loài nhóm gỗ trên theo các mục đích của mình. Họ khai phá để
phục vụ cho các công trình xây dựng như làm giàn giáo, cốp pha. Đối với loài gỗ bền
chắc thì họ khai thác để xây dựng nhà ở, đối với loài gỗ quý hiếm thì họ khai thác
nhằm để bán và xuất khẩu đáp ứng nhu cầu tiêu dùng xa xỉ của con người. Việc khai
thác các loài gỗ quý hiếm để phục vụ mục đích kinh doanh xuất khẩu hiện nay đang là
một nguồn lợi tức đáng kể cho quốc gia có trữ lượng lớn gỗ quý như Việt Nam. Với
9
tốc độ đáng lo ngại nạn khai thác rừng chủ yếu diễn ra ở các khu rừng nhiệt đới đang
dần đưa đến nguy cơ mất rừng.
Khai thác củi : Đối với các loại gỗ ngoài giá trị xây dựng công trình, xây dựng
nhà ở, phục vụ kinh doanh xuất khẩu thì những loại thực vật kém giá trị khác lại được
con người khai thác với mục đích là làm củi đốt. Nhiều người dân ở vùng miền núi và
nông thôn chiếm một phần dân số đông so với cả nước, đã theo thói quen trong sinh
hoạt họ chỉ dùng củi để làm nguyên liệu đốt và dùng với lượng củi khá cao. Những hộ
gia đình nghèo không có đất sản xuất, vốn đầu tư đã vào rừng khai thác củi bán đều có
thêm thu nhập. Đây là vấn đề đáng lo ngại cho việc tàn phá rừng tiếp tục tiếp diễn.
Khai thác lâm sản ngoài gỗ: Ngoài khai thác gỗ quý hiếm còn khai thác củi thì
khai thác lâm sản ngoài gỗ cũng là một sự tàn phá đến tài nguyên rừng. Đây có thể
xem là nguyên nhân tác động làm suy kiệt tài nguyên rừng nhanh nhất. Lâm sản ngoài
gỗ bao gồm các loài động vật quý, động vật hoang dã… và các loại thực vật mà cho
các sản phẩm ngoài gỗ như: song, mây, tre, nứa, lá các loại cây thuốc, dầu… Tất cả
các loài trên có thể được sử dụng trong gia đình, bán và xuất khẩu cho nên tình trạng
khai thác, buôn bán trái phép, xuất khẩu các loài động vật thực vật đang được diễn ra
mạnh mẽ. Giá trị xuất khẩu cao của các loài nói trên cùng với sự kém hiểu biết, hám
lợi nhuận đã thúc đẩy con người tìm cách săn bắt chúng ở khắp mọi nơi. Cùng xuất
phát từ sự nghèo đói mà người dân đổ xô vào rừng khai thác các nguồn lâm sản ngoài
gỗ. Chỉ vì khai thác quá mức để bán ra các tỉnh và cung cấp nguyên liệu cho các nhà
máy sản xuất đũa, chiếu và làn giàn giáo cho các công trình xây dựng mà dẫn đến suy
thoái các rừng luồng nghiêm trọng. Và đang còn rất nhiều hoạt động khai thác các loài
động vật thực vật khác theo từng mục đích riêng ảnh hưởng tới môi trường. Các hoạt
động khai phá trái phép này kéo dài âm ỉ, liên tục, tốc độ của sự phục hồi rừng không
kịp với tốc độ phá rứng cho nên rừng đang bị suy thoái. Cần có các biện pháp tích cực
để ngăn chặn và làm giảm các hoạt động trái phép này.
3.2.3. Cháy rừng
Cháy rừng cũng là một nguyên nhân quan trọng làm mất rừng và suy thoái tài
nguyên rừng một cách rất nhanh gây ảnh hưởng tới các hoạt động sống của sinh vật
trên một diện tích rộng lớn và gây ra hậu quả xấu như xói mòn, lũ lụt, hạn hán đến
cuộc sống con người. Ngày nay cháy rừng cũng do nhiều nguyên nhân gây ra, chúng ta
10
có thể kể đến một số nguyên nhân như: hiện tượng elnino gây ra, do các hoạt động
khai thác của con người như đốt lửa tìm mật ong, tìm mật gấu hay đốt hương tìm mộ
liệt sĩ trong chiến tranh, do hoạt động đốt nưong làm rẫy của người dân tộc miền núi…
những nguyên nhân này đều có thể khiến rừng bị cháy. Và hầu hết các diện tích rừng
bị cháy đều nằm trong những vùng nhạy cảm như rừng đầu nguồn, đất dốc, vùng sinh
thái đất ngập nước, rừng tràm, vùng rừng chống cát di động nên dễ gây lũ quét, xói lở,
đất dễ bị khô hạn và thoái hoá. Cháy rừng sẽ nhanh chóng lan ra trên một diện tích
rộng lớn và rất khó dập tắt cho nên thiệt hại cũng rất nghiêm trọng. Sự phục hồi và tái
tạo lại rừng trong điều kiện này là rất chậm vì thế mà tài nguyên rừng đang cạn kiệt
dần đi.
Theo số liệu báo cáo của Tổng cục Lâm nghiệp, 6 tháng đầu năm 2019 cháy
rừng diễn ra rất phức tạp, nhất là đối với các tỉnh phía Bắc và miền Trung. Cụ thể, cả
nước đã xảy ra 156 vụ cháy rừng, số vụ cháy rừng tăng 61 vụ (tăng 64%) so với cùng
kỳ năm 2018, diện tích rừng bị cháy 930ha, tăng 705ha (hơn 4 lần so với cùng kỳ năm
2018). Thời kỳ cao điểm xảy ra cháy rừng từ ngày 26/6 đến ngày 01/7 trên địa bàn các
tỉnh miền Trung, trong đó có 45 vụ cháy gây thiệt hại tới rừng, gồm: Nghệ An, Hà
Tĩnh, Quảng Bình, Quảng Trị, Thừa Thiên Huế, Đà Nẵng, Quảng Nam, Quảng Ngãi,
Phú Yên. Diện tích rừng bị thiệt hại ước tính sơ bộ khoảng 293ha (có 14 vụ chưa xác
định diện tích rừng bị thiệt hại).
3.2.4. Nghèo đói
Suy thoái môi trường có nhiều nguyên nhân trong đó một phần là do sự đói
nghèo tác động nên. Đói nghèo luôn đi đôi với sự khan hiếm tài nguyên sản xuất đã
dẫn đến tình trạng khai thác tài nguyên thiên nhiên quá mức làm tăng sự khan hiếm và
suy thoái. Với khoảng 80% dân số sống ở nông thôn, Việt Nam là một nước nông
nghiệp phụ thuộc vào tài nguyên thiên nhiên. Đất nông nghiệp ở nhiều nơi thiếu
nghiêm trọng và nhiều người phải sống dựa vào rừng, đời sống rất thấp khoảng 50%
gia đình thuộc vào diện đói nghèo. Vì thiếu ruộng, thiếu vốn đầu tư những người
nghèo đói thường phải đến sinh sống tạo những nơi có điều kiện không thuận lợi mà
cần ít vốn đầu tư phải bóc lột đất và tài nguyên thiên nhiên để duy trì cuộc sống làm
cho các loại tài nguyên nay dần bị suy thoái nhanh chóng. Nhưng cũng phải chứng tỏ
một điều là: nghèo đói không đồng nghĩa với việc được tàn phá rừng như hoạt động
11
khai thác gỗ, củi, đặc sản rừng… để đem đi bán. Nhưng vì nghèo, không có đất sản
xuất, không có vốn đầu tư, buộc họ phải tàn phá để nuôi sống bản thân và gia đình họ,
có thể số củi, gôx mà họ khai thác được chỉ bản ra với giá là 50.000 đồng nhưng số
tiền đó lại nuôi được gia đình họ trong một tuần. nếu thu nhập một người/ ngày mà
thấp hơn 15.000 thì được xét là hộ nghèo thì những hộ gia đình ố lại có cuộc sống khó
khăn hơn. Các hoạt động khai phá của họ cũng một phần đáp ứng nhu cầu tiêu dùng
cho những người giàu có, phục vụ mục đích kinh doanh cho những con người có tiền
bạc. Tuy hoạt động này mang tính nhỏ lẻ, manh múm, không ồ ạt nhưng lại được lặp
đi lặp lại trong một thời gian khá dài nên rất khó quản lý và gây nên tình trạng cạn kiệt
dần của tài nguyên rừng. Khi rừng ngày càng giảm về số lượng cây trồng, vật nuôi hay
diện tích rừng bị thu hẹp đã dẫn đến hiện tượng hạn hán lũ lụt, khả năng ngăn chặn xói
mòn đất là rất kém. Cho nên mỗi lần thiên tai ập đến lại chính những người nghèo tiếp
tục gánh chịu tổn thất nặng nề hơn do phải sống gần rừng. Vốn dĩ họ đã nghèo nay lại
càng nghèo hơn, sự nghèo đói luôn xây quanh cuộc sống của họ, dường như họ khó có
thể thoát ra được cuộc sống tiếp tục phá rừng lấy gỗ, củi, đặc sản rừng bán để có thu
nhập. Vì mục đích là có thu nhập nuôi sống gia đình mình mà các hộ dân nghèo đói
đang dần dần làm suy giảm nguồn tài nguyên thiên nhiên. Vậy cần có các chính sách
hỗ trợ giải quyết việc làm cho hộ nghèo đói như các chương trình phát triển ngành
nghệ phụ… để giảm bớt hiện tượng khai thác rừng.
3.2.5. Tập quán du canh du cư
Du canh du cư là tập quán sản xuất nông nghiệp lâu đời của nhiều dân tộc ít
người ở Việt Nam mà thường xuất hiện tại các vùng đồi núi và cao nguyên, nơi nhằm
ổn định sản xuất và đời sống trong một phạm vi lãnh thổ cố định. Vào mùa khô và
thường là cuối mùa đông (miền Bắc Việt Nam), người dân thường vào sâu trong rừng
tìm một khoảnh đất rừng phù hợp, đốt cháy một diện tích đủ rộng theo ý muốn
(thường là không thể điều khiển theo mục đích người đốt vì lửa rừng bị tác động của
gió và độ ẩm, nhiệt độ tại khoảnh rừng). Và đến đầu mùa mưa, người ta đi tra hạt (chủ
yếu là ngô), hoặc ươm sắn, lợi dụng lượng nước ẩm do mưa, hạt giống sẽ nảy mầm,
cây sinh trưởng rất tốt do đất dưới tán rừng có hàm lượng dinh dưỡng rất cao và cũng
nhờ than tro của việc đốt rừng tiến hành. Nhưng người dân canh tác ở đây lại ít có tác
động tới cây trồng mà chủ yếu là thoái mặc chúng cho tự nhiên và tới mùa thì thu
12
hoạch. Thông thường chỉ sau 3-4 mùa rẫy, do nước mưa rửa trôi và xói mòn, mặt khác
lại không được bổ sung các chất dinh dưỡng nên đất rẫy sẽ nghèo dinh dưỡng, cây
trồng phát triển kém. Lúc này, người dân sẽ bỏ rẫy cũ, tìm đến một khoảnh rừng mới
và lại đốt rừng thành rẫy. Cuộc sống của họ thường gắn bó với rẫy nên cả gia đình, bản
làng cùng di cư theo rẫy. Và đây chính là tập quán du canh du cư, là một tập tục cũ, lạc
hậu, năng suất cây trồng thấp, cuộc sống người dân bấp bênh gây thoái hoá đất, mất
rừng.
Mặt khác, cùng với việc gia tăng dân số mà tập quán du canh du cư trở thành
một nguyên nhân quan trọng làm mất rừng, thoái hoá đất và kết quả là đã tạo nên cả
một vùng đất trrống đồi núi trọc như hiện nay. Tăng dân số đồng nghĩa với việc mở
rộng sản xuất để sản xuất thêm lương thực phẩm đáp ứng với cuộc sống của con
người. Và điều tất yếu là những người dân sinh sống ở miền núi họ không thể mở rộng
diện tích đất canh tác xuống vùng đồng bằng được vì theo thói quen sinh sống của họ,
thói quen trong sản xuất, hơn nữa diện tích đồng bằng chỉ chiếm một phần rất nhỏ
không đủ để họ tiến hành canh tác. Cho nên người dân phải lấn sâu vào rừng để mở
rộng đất sản xuất và họ tiếp tục đốt nương rừng tạo rẫy canh tác. Diện tích rừng cứ thế
được đốt cháy nhưng lại không có sự đầu tư cũng không có sự tái tạo thì chắc chắn
diện tích rừng sẽ dần bị co hẹp lại theo thời gian.
3.2.6. Hiệu lực pháp luật và chính sách
Hiệu lực thi hành pháp luật trong cộng đồng và cán bộ địa phương còn hạn chế,
hành lang pháp lý chưa đủ mạnh. Các vụ vượt quá thẩm quyền chuyển cấp trên thời
gian xử còn kéo dài chưa có tác dụng giáo dục cho cộng đồng. Chính sách đãi ngộ,
quan tâm của Nhà nước đối với lực lượng Kiểm lâm, bảo vệ rừng chuyên trách chưa
thỏa đáng. Kiểm lâm thường xuyên bị đe dọa bởi những đối tượng có hành vi khai thác
trộm lâm sản. Họ chưa yên tâm với công tác. Đây là một khó khăn trong công tác quản
lý bảo vệ rừng Vườn quốc gia . Việc nâng cao năng lực kỹ năng về bảo tồn đa dạng
sinh học và thực thi pháp luật cho kiểm lâm chưa ngang tầm nhiệm vụ.
IV. Kết luận – Kiến nghị
Dựa vào nhưng thông tin trên ta đã thấy được một cái nhìn tổng quát về vấn đề
mất rừng và suy thoái rừng hiện nay trên thế giới nói chung và ở Việt Nam nói riêng.
Qua đó đưa ra được các biện pháp để khắc phục các nguyên nhân gây ra mất
13
rừng và suy thoái rừng để có thể làm cho diện tích rừng tăng lên về cả số lượng và chất
lượng là một vấn đề vô cùng cấp bách.
Một số giải pháp cơ bản cần thực hiện để hạn chế và ngăn chặn tình trạng mất
rừng và suy thoái rừng ở nước ta:
Tuyên truyền, phổ biến, giáo dục, nâng cao nhận thức về quản lý bảo vệ rừng.
Hoàn thiện thể chế, chính sách và pháp luật.
Nâng cao trách nhiệm của chủ rừng, chính quyền các cấp và sự tham gia của
các ngành, các tổ chức xã hội vào bảo vệ rừng.
Củng cố tổ chức, nâng cao năng lực của lực lượng kiểm lâm.
Hỗ trợ nâng cao đời sống người dân.
Xây dựng cơ sở hạ tầng, đầu tư trang thiết bị bảo vệ rừng.
Ứng dụng khoa học công nghệ vào công tác quản lý bảo vệ rừng.
Thực hiện nghiêm túc công tác phòng cháy chữa cháy rừng.
Tăng cường việc hợp tác Quốc tế, các tổ chức phi chính phủ, tuân thủ các quy
định về công ước Quốc tế mà Việt Nam đã tha gia (Công ước về buôn buôn bán quốc
tế các loài động vật, thực vật hoang dã nguy cấp - CITES; Hiệp định ASEAN về chống
ô nhiễm khói bụi xuyên biên giới - haZE; Diễn đàn hổ toàn cầu - GTF,...)
14