BỘ GIÁO DỤC VÀ ĐÀOTẠO TRƯỜNG
ĐẠI HỌC KINH TẾ QUỐC DÂN
BÀI TẬP LỚN MÔN NHỮNG NGUYÊN LÝCƠ BẢN
CỦA CHỦ NGHĨA MÁC-LENIN HỌC PHẦN 2
ĐỀ TÀI:
QUAN ĐIỂM CỦA CHỦ NGHĨA MÁC – LÊNIN VỀ
KHỦNG HOẢNG KINH TẾ, VẬN DỤNG PHÂN
TÍCH CUỘC KHỦNG HOẢNG KINH TẾ NĂM
2008
Trang
PHẦN A
QUAN ĐIỂM CỦA CHỦ NGHĨA MÁC –
LÊNIN VỀ KHỦNG HOẢNG KINH TẾ
TRONG TƯ BẢN CHỦ NGHĨA
Mục I: Khủng hoảng kinh tế và nguyên nhân của khủng
hoảng kinh tế trong tư bản chủ nghĩa.
Mục II: Tính chu kỳ của khủng hoảng kinh tế trong chủ
nghĩa tư bản.
PHẦN B
CUỘC KHỦNG HOẢNG KINH TẾ NĂM
2008
Mục I: Nguyên nhân của cuộc khủng hoảng kinh tế năm
2008
Mục II:Sự tác động của cuộc khủng hoảng đến nền kinh
tế toàn cầu.
Mục III: Giải pháp của các nước nhằm giải cứu và kích
thích nền kinh tế
TÀI LIỆU THAM KHẢO
1.
Giáo trình Những nguyên lý cơ bản của chủ nghĩa Mác – Lênin , NXB
Chính trị Quốc gia sự thật ( từ trang 272 đến 279 ).
2.
/>3.
/>4.
/>5.
/>6.
A.Khủng khoảng kinh tế theo quan điểm của chủ nghĩa
Mác – Lênin
I. KHỦNG HOẢNG KINH TẾ VÀ NGUYÊN NHÂN CỦA KHỦNG
HOẢNG KINH TẾ TRONG TƯ BẢN CHỦ NGHĨA
1)
Khái niệm
Khủng hoảng kinh tế đề cập đến quá trình tái sản xuất đang bị suy sụp tạm
thời. Thời gian khủng hoảng làm những xung đột giữa các giai cấp trong xã
hội trở nên căng thẳng, đồng thời nó tái khởi động một quá trình tích tụ tư
bản mới.
2)
Bản chất của khủng hoảng kinh tế
Khủng hoảng kinh tế trong chủ nghĩa tư bản có bản chất là khủng hoảng sản
xuất “ thừa “ so với sức mua có hạn của quần chúng lao động, chứ không
phải thừa so với nhu cầu của xã hội.
Theo Mác, bản chất khủng hoảng chính là các cuộc khủng hoảng thừa, được
biểu hiện thành nhiều hình thái khác nhau thông qua các loại thị trường khác
nhau như :
-
Khủng hoảng sản xuất thừa của tư bản công nghiệp
Khủng hoảng tài chính tiền tệ
Sự dư thừa của tư bản tiền tệ trong hệ thống ngân hàng
Sự dư thừa của trái phiếu chính phủ
3)
Nguyên nhân của khủng hoảng kinh tế tư bản chủ nghĩa
Khủng hoảng kinh tế không phải ngẫu nhiên và không tự nhiên mà nó bắt
nguồn từ bản chất của chủ nghĩa tư bản với vai trò là một hình thái xã hội.
C.Mác viết: “ cản trở của nền sản xuất tư bản chính là tư bản”. Sự mâu thuẫn
giữa trình độ xã hội hóa cao của lực lượng sản xuất với chế độ sở hữu tư
nhân tư bản chủ nghĩa về tư liệu sản xuất chủ yếu của xã hội đã khiến cho
khủng hoảng kinh tế nổ ra. Mâu thuẫn này biểu hiện ra thành các mâu thuẫn
sau:
Mâu thuẫn giữa tính tổ chức, tính kế hoạch trong từng xí nghiệp rất
chặt chẽ và khoa học với khuynh hướng tự phát vô chính phủ trong toàn xã
hội.
-
Mâu thuẫn giữa khuynh hướng tích lũy, mở rộng không có giới hạn
của tư bản với sức mua ngày càng eo hẹp của quần chúng do bị bần cùng
hóa.
Mâu thuẫn đối kháng giữa giai cấp tư bản và giai cấp lao động làm
thuê.
4)
a)
Các hình thức khủng hoảng kinh tế
Khủng hoảng thừa
Khủng hoảng thừa xảy ra do sức sản xuất của tư bản quá nhiều so với sức
mua có hạn của quần chúng. Trong lúc khủng hoảng thừa nổ ra, hàng hóa bị
ứ lại, giá hàng hóa sụt giảm, nhà máy phải đóng cửa, công nhân bị thất
nghiệp. Điển hình là cuộc khủng hoảng năm 1929-1933 khiến ¼ người dân
Mỹ bị thất nghiệp.
b)
Khủng hoảng thiếu
Khủng hoảng xảy ra khi có sự sụp giảm nghiêm trọng về nguồn cung sản
phẩm và hàng hóa, trong khi đó cầu về hàng hóa tăng cao, nguyên nhân có
thể do tăng dân số, do thiên tai, do hạn chế về năng lực sản xuất... Trong lịch
sử có thể kể đến cuộc khủng hoảng giá dầu OPEC 1973 gây ra tình trạng
lạm phát cao do giá dầu tăng.
c)
Khủng hoảng nợ
Khủng hoảng nợ xảy ra khi chính phủ một nước hoặc nhiều doanh nghiệp
lớn không có khả năng trả nợ. Như cuộc khủng hoảng nợ ở Mỹ Latin,
Mexico, châu Á và khu vực Châu Âu.
II. TÍNH CHU KỲ CỦA KHỦNG HOẢNG KINH TẾ TRONG CHỦ
NGHĨA TƯ BẢN
Khủng hoảng kinh tế xuất hiện làm cho quá trình sản xuất tư bản mang tính
chu kỳ. Trong giai đoạn tự do cạnh tranh của chủ nghĩa tư bản, cứ khoảng 8
đến 12 năm, nền kinh tế tư bản chủ nghĩa lại phải trải qua một cuộc khủng
hoảng kinh tế. Chu kỳ kinh tế của chủ nghĩa tư bản là khoảng thời gian nền
kinh tế tư bản chủ nghĩa vận động từ đầu cuộc khủng hoảng này đến đầu
cuộc khủng hoảng sau. Chu kỳ kinh tế gồm bốn giai đoạn: khủng hoảng, tiêu
điều, phục hồi và hưng thịnh.
-
Khủng hoảng: là giai đoạn khởi điểm của chu kỳ kinh tế mới. Ở giai
đoạn này, hàng hóa ế thừa, ứ đọng, giá cả giảm mạnh, sản xuất trì trệ, xí
nghiệp đóng cửa, công nhân thất nghiệp hàng loạt, tiền công hạ xuống. Tư
bản mất khả năng thanh toán các khoản nợ, phá sản, lực lượng sản xuất bị
phá hoại nghiêm trọng. Đây là giai đoạn mà các mâu thuẫn biểu hiện dưới
hình thức xung đột dữ dội.
-
Tiêu điều:đặc điểm ở giai đoạn này là sản xuất ở trạng thái trì trệ,
không còn tiếp tục đi xuống nhưng cũng không tăng lên,thương nghiệp vẫn
đình đốn, hàng hóa được bán hạ giá. Trong giai đoạn này để thoát khỏi tình
trạng bế tắc, các nhà tư bản còn trụ lại được tìm cách giảm chi phí bằng cách
hạ thấp tiền công, tăng cường độ và thời gian lao động của công nhân, đổi
mới tư bản cố định làm cho sản xuất vẫn còn có lời trong tình hình hạ giá.
Phục hồi: là giai đoạn mà các xí nghiệp đucọ khôi phục và mở rộng
sản xuất. Công nhân lại được thu hút vào làm việc; mức sản xuất đạt đến quy
mô cũ, vật giá tăng lên, lợi nhuân của tư bản do đó cũng tăng lên.
Hưng thịnh: là giai đoạn sản xuất phát triển vượt quá điểm cao nhất
mà chu kỳ trước đã đạt được. Nhu cầu và khả năng tiêu thụ hàng hóa tăng, xí
nghiệp được mở rộng và xây dựng thêm. Nhu cầu tín dụng tăng, ngân hàng
tung tiền cho vay, năng lực sản xuất lại vượt quá sức mua của xã hội. Do đó,
lại tạo điều kiện cho một cuộc khủng hoảng kinh tế mới.
B. CUỘC KHỦNG HOẢNG KINH TẾ NĂM 2008
I. Nguyên nhân của cuộc khủng hoảng kinh tế năm 2008
Khủng hoảng kinh tế toàn cầu 2008 là đợt suy thoái kinh tế kéo dài và
nghiêm trọng nhất kể từ “đại khủng hoảng thập niên” 1930. Không chỉ kéo
lùi sự phát triển của nền kinh tế lớn nhất thế giới là Mỹ, mà còn dẫn đến
khủng hoảng nợ công châu Âu, suy giảm tăng trưởng ở hầu hết các nền kinh
tế. Nguyên nhân của cuộc khủng hoảng tài chính này được “châm ngòi”
bằng hoạt động cho vay dưới chuẩn (sub-prime mortgage) dễ dãi và thiếu
kiểm soát ở Mỹ. Các ngân hàng cho vay cầm cố bất động sản mà không
quan tâm tới khả năng chi trả của khách. Số lượng các khoản vay này bùng
nổ trong thời kỳ hình thành bong bóng trên thị trường địa ốc ở Mỹ. Khi giá
nhà đất ở Mỹ đạt đỉnh và bắt đầu sụt giảm, tỷ lệ nợ xấu và vỡ nợ tăng theo.
Đến lúc này, tại nạn xuất hiện theo kiểu hiệu ứng domino, từ người mua nhà,
các ngân hàng thương mại, các ngân hàng đầu tư, tới các nhà đầu tư mua vào
chứng khoán nợ địa ốc... cùng điêu đứng.
Cơn địa chấn tài chính thực sự nổ ra vào ngày 7/9/2008 khi hai nhà cầm cố
khổng lồ của Mỹ là Freddie Mac và Fannie Mae buộc phải được chính phủ
tiếp quản để tránh khỏi nguy cơ phá sản. Chỉ vài ngày sau đó, 15/9/2008,
Ngân hàng lớn thứ 4 nước Mỹ Lehman Brothers sau 158 năm tồn tại đã
tuyên bố phá sản. Đúng 10 ngày sau, Washington Mutual tạo nên một vụ phá
sản ngân hàng lớn nhất trong lịch sử với tổng tài sản thiệt hại lên tới 307 tỷ
đôla.
II.Những hậu quả nghiêm trọng sau cuộc khủng hoảng
1.
-
Tốc độ tăng trưởng kinh tế giảm
Nền kinh tế Mỹ, chỉ đạt mức GDP là 1,4% ( giảm 0,6% so với mức
tăng 2% năm 2007)
Vào quý II năm 2008, nền kinh tế Nhật Bản rơi vào tình trạng tồi tệ
nhất trong 7 năm qua. IMF ( Quỹ tiền tệ quốc tế ) đã phải hạ dự báo tăng
trưởng của nền kinh tế lớn thứ hai thế giới này từ 1,5% xuống còn 0,5% năm
2008.
Tăng trưởng kinh tế của Liên minh châu Âu (EU) giảm xuống mức
thấp nhất trong 5 năm qua , với tốc độ tăng GDP đạt 1,4%. Trong đó, tăng
trưởng kinh tế của khu vực đồng ơ-rô chỉ đạt 1,2% (giảm 1,3% so với tốc độ
tăng 2,6% năm 2007). Anh là một trong những nước bị ảnh hưởng nặng nhất
do cùng lúc chịu tác động của khủng hoảng tín dụng, thị trường nhà đất và
thị trường tài chính. Tăng trưởng của nền kinh tế này chỉ đạt 0,8% năm
2008. Bên cạnh đó, kinh tế I-ta-li-a tăng trưởng âm 0,2% so với mức tăng
1,5% năm 2007.
Theo thống kê của IMF, tăng trưởng GDP trung bình của các nền kinh
tế đang phát triển đạt 6,6% năm 2008 và các nền kinh tế mới nổi ở châu Á
vẫn là mảng sáng nhất của kinh tế thế giới. Tăng trưởng GDP của châu Á
năm 2008 đạt 8,3%, thấp hơn 1,2% so với mức tăng gần 9,5% năm 2007
(con số của Ngân hàng Phát triển châu Á là 6,9%). Hai nền kinh tế Trung
Quốc và Ấn Độ (chiếm tới hơn 55% GDP của các nền kinh tế đang phát
triển ở châu Á) được nhìn nhận là chỗ dựa lớn nhất cho tăng trưởng kinh tế
trong khu vực cũng như toàn cầu.
Tăng trưởng kinh tế của các nước công nghiệp mới (NIEs) châu Á đạt
3,9%, giảm 1,7% so với tốc độ tăng 5,6% năm 2007. Tăng trưởng kinh tế
của các nước ASEAN tuy có giảm so với mức tăng của năm 2007, song vẫn
đạt tốc độ tăng trưởng khá cao 5,4%.
2.
Vượt ra ngoài những dự đoán ban đầu , tỷ lệ thất nghiệp tăng cao đã
gây ra nhiều áp lực cho FED trong việc thúc đẩy tăng trưởng kinh tế. Nhiều
doanh nghiệp không đủ sức chống đỡ lại vòng xoáy của khủng hoảng nên đã
buộc phải cắt giảm nhân sự và tạo nên làn sóng thất nghiệp lớn. Theo báo
cáo công bố ngày 4/4/2009 của chính phủ Mỹ, trong tháng 3/2009, 80.000
việc làm đã bị cắt giảm và đây là mức cắt giảm lớn nhất trong vòng 5 năm
qua. Đến cuối tháng 6/2009, số người thất nghiệp ở MỸ đã lên tới 627.000
người. Tháng 2/2010 mức thất nghiệp là 9.6%.
3.
Những cơn sốt dầu, lương thực, và lạm phát làm khuynh đảo nền kinh
tế toàn cầu. Đặc biệt là giá dầu, từ mức 90 đôla một thùng vào đầu năm 2008
đã liên tiếp lập kỷ lục và gần chạm mốc 150 đôla một thùng vào tháng
7/2008. Dầu leo thang kéo giá hàng hóa cơ bản và lương thực lên theo.
Trong đó giá vàng lập kỷ lục trên 1.032 đôla một ounce vào 17/3/2008. Giá
lương thực, thực phẩm thế giới tăng 80%, trong đó riêng giá lương thực tăng
tới 230%, giá thực phẩm tăng 12,8%.
Ngoài ra thế giới còn phải đương dầu với tình trạng giảm phát khi giá dầu
bất ngờ lao dốc không phanh sau khi đạt đỉnh vào tháng 7/2008.
-
Tại Mỹ, trong tháng 11/2008, CPI giảm với tốc độ kỷ lục 1,7%. Trong
suốt năm 2008, CPI của Mỹ chỉ tăng 0,7%, so với mức tăng 4,1% trong cả
năm 2007.
Tại châu Âu, Cơ quan Thống kê EU cho biết, lạm phát trong tháng 11
của khu vực này đã giảm xuống còn 2,1% , mức thấp nhất trong vòng 14
tháng trở lại đây.
Tại Trung Quốc, lạm phát cũng đã giảm xuống mức thấp nhất trong
vòng 22 tháng qua. Chỉ số CPI của nước này chỉ tăng 2,4% so với cùng kỳ
năm ngoái.
4.
Khủng hoảng tài chính, kéo theo sự đổ vỡ và nguy cơ đổ vỡ của nhiều
tập đoàn lớn đã khiến thị trường chứng khoán thế giới liên tục rung chuyển
trong năm 2008. Theo số liệu thống kê của Bloomberg, tính tới ngày 19/12,
thị trường chứng khoán thế giới đã sụt giảm 46% giá trị so với hồi đầu năm,
còn 32.000 tỷ USD.
Riêng tại thị trường Mỹ, tính tới ngày 17/12, chỉ số Dow Jones đã giảm
33,47%, chỉ số S&P 500 giảm 38,4%, còn chỉ số Nasdaq giảm 40.45%.
III. Các kế hoạch nhằm giải cứu và kích thích kinh tế
Tính nghiêm trọng của cuộc khủng hoảng tài chính toàn cầu đã khiến chính
phủ các nước không thể không can thiệp. Nhiều “đại gia” tài chính của nước
Mỹ và châu Âu có lẽ đã đổ vỡ nếu không có sự can thiệp kịp thời của chính
phủ.
Tại Mỹ, Chính phủ nước này năm qua đã phải tiếp quản hai tập đoàn tài
chính nhà đất khổng lồ là cặp “sinh đôi” Fannie Mae và Freddie Mac, hãng
bảo hiểm AIG, và ngân hàng Citigroup.
Tại châu Âu, danh sách các ngân hàng được các nhà chức trách can thiệp
cũng tương đối dài. Nhiều ngân hàng lớn của châu lục này đã bị quốc hữu
hóa một phần hoặc toàn bộ như Northern Rock và Bradford & Bingley của
Anh, Fortis và Dexia của Bỉ, Hypo Real Estate của Đức; Kaupthing,
Landsbanki và Glitnir của Iceland…
Nói về các kế hoạch giải cứu quy mô lớn của Mỹ, cần nhắc tới kế hoạch 700
tỷ USD dành cho ngành tài chính, kế hoạch 800 tỷ USD để “phá băng” thị
trường tín dụng, kế hoạch mua thương phiếu để tăng tính thanh khoản cho
các doanh nghiệp không thuộc ngành ngân hàng, kế hoạch cứu các con nợ
địa ốc khỏi mất nhà… Hiện Chính phủ Mỹ cũng đang tìm biện pháp để cứu
ngành công nghiệp xe hơi của nước này sau khi một kế hoạch hỗ trợ 14 tỷ
USD dành cho các hãng ôtô bị Thượng viện bác bỏ.
Bên kia bờ Đại Tây Dương, sau nhiều tranh cãi, các nước sử dụng chung
đồng Euro cũng đi tới một kế hoạch giải cứu tập thể cho ngành ngân hàng;
nước Anh cũng tung ra một gói giải cứu trị giá 85 tỷ USD cho hệ thống tài
chính của mình.
Cùng với đó, thế giới cũng chứng kiến sự ra đời của những kế hoạch kích
thích kinh tế lớn chưa từng có. Mở màn là gói kích thích kinh tế thông qua
hoạt động hoàn thuế cho người dân và doanh nghiệp trị giá hơn 150 tỷ USD
của Mỹ. Tổng thống đắc cử Barack Obama của Mỹ hiện đang có ý định đưa
ra một gói kích thích kinh tế nữa, với trị giá có thể lên tới hơn 1.000 tỷ USD.
Nền kinh tế tăng trưởng nhanh nhất thế giới Trung Quốc cũng đã tung ra gói
kích thích kinh tế trị giá 586 tỷ USD. Gần đây nhất, hôm 12/12, Nhật Bản đã
công bố kế hoạch kích thích kinh tế trị giá 255 tỷ USD. Cùng thời điểm, EU
cũng đưa ra một kế hoạch tương tự trị giá khoảng 267 tỷ USD