Tải bản đầy đủ (.doc) (13 trang)

NHÀ TRẦN

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (217.81 KB, 13 trang )

Nhà Trần
Nhà Trần hoặc Trần triều (Hán-Nôm: 家陳・陳朝—nhà Trần・Trần triều) là triều đại phong
kiến trong lịch sử Việt Nam, bắt đầu khi vua Thái Tông lên ngôi năm 1225 sau khi giành được
quyền lực từ tay nhà Lý và chấm dứt khi vua Thiếu Đế, khi đó mới có 5 tuổi bị ép thoái vị vào
năm 1400 để nhường ngôi cho ông ngoại là Hồ Quý Ly tức Lê Quý Ly – tổng cộng là 175 năm.
Lịch sử
Khi nhà Lý bắt đầu suy yếu, người đứng đầu dòng họ Trần ở đây là Trần Cảnh (Trần Thái Tông)
nhưng người đặt nền móng cho sự ra đời chính thức của nhà Trần là Trần Thủ Độ. Nhà Lý suy vi,
quyền lực rơi hết vào tay Trần Thủ Độ. Sau khi ép Lý Chiêu Hoàng (7 tuổi) nhường ngôi cho
chồng là Trần Cảnh (8 tuổi; 1218 - 1277) thì thời đại của nhà Trần chính thức bắt đầu năm 1225.
Trong khoảng 175 năm trị vì, nhà Trần đã lãnh đạo nhân dân Đại Việt ba lần kháng chiến chống
quân Nguyên thành công vào các năm 1258, 1285 và 1288, nhưng trong những năm sau này, kể từ
đời vua Dụ Tông thì triều đại nhà Trần đã suy yếu đi vì nhiều lý do, chủ yếu là do sự mục nát và
yếu kém của hệ thống quan lại. Cuối cùng vào năm 1400, Hồ Quý Ly đã cướp ngôi nhà Trần,
chấm dứt 175 năm trị vì của dòng họ này.
Nguồn gốc
Tổ tiên của dòng dõi nhà Trần có nguồn gốc dân tộc Mân ở quận Tần Châu, tỉnh Phúc Kiến, Trung
Hoa. Ông Trần Quốc Kinh từ Phúc Kiến sang Việt Nam vào khoảng năm 1110, thời vua Lý Nhân
Tông (1072-1127), lúc đầu cư trú tại xã An Sinh, huyện Đông Triều, tỉnh Quảng Ninh ngày nay;
sống bằng nghề chài lưới trên sông nước, trên đường làm ăn chuyển dần vào hương Tức Mạc,
huyện Thiên Trường, nay là vùng đất thuộc Thái Bình - Nam Định. Trần Quốc Kinh lấy vợ ở Tức
Mạc, sinh ra Trần Hấp. Trần Hấp sinh ra Trần Lý và Trần Hoằng Nghi. Trần Lý sinh ra Trần Tự
Khánh và Trần Thừa - sau được tôn là Trần Thái Tổ. Trần Hoằng Nghi sinh được ba người con
trai: Trần An Quốc, Trần An Bang và Trần Thủ Độ
[1]
.
Nguồn gốc tên
Các nhà lãnh đạo thuộc những thế hệ đầu tiên thường mang tên các loài cá, do nguồn gốc xuất
thân chài lưới của họ Trần. Tổ họ Trần vốn tên là Chép, được dịch sang tiếng Hán là 鯉, phiên âm
là "Lý", nghĩa là cá chép. Con ông là Trần Thừa vốn có tên là Dưa (cá dưa). Hai con trai Trần
Thừa vốn có tên là Leo (cá leo), được phiên theo chữ Hán là Liễu (cha của Trần Quốc Tuấn),


người con thứ hai có tên là Lành Canh (cá lành canh), phiên sang chữ Cảnh (vua Thái Tông). Trần
Thị Dung cũng vốn có tên là Ngừ (cá ngừ), khi làm hoàng hậu của Lý Huệ Tông mới đổi gọi là
Dung. Về sau dân địa phương lập đền thờ bà vẫn gọi là "Bà chúa Ngừ".
Từ thế hệ thứ hai, nhà Trần nắm quyền cai trị nên mới đặt theo các tên đời sau thường biết tới.
Thay ngôi nhà Lý, củng cố chính quyền
Thay ngôi nhà Lý
Vốn sống bằng nghề đánh cá, họ Trần thường sinh sống làm ăn ở những vùng cửa sông ven biển,
đến đời Trần Lý (ông nội của vua Trần Thái Tông) đã trở thành một cự tộc có thế lực vùng Hải Ấp
(nay là xã Lưu Xá, huyện Hưng Hà, tỉnh Thái Bình).
Năm 1209, khi trong triều có biến loạn, vua Lý Cao Tông phải chạy lên Quy Hoá, Thái tử Sảm
chạy về Hải Ấp đã được gia đình Trần Lý giúp đỡ. Hoàng tử Sảm đã kết duyên cùng Trần Thị
Dung, con gái thứ hai của Trần Lý. Họ Trần đã tập hợp hương binh giúp nhà Lý dẹp loạn, diệt trừ
Quách Bốc (thuộc tướng của Phạm Bỉnh Di), đưa vua Lý trở lại kinh đô. Cậu ruột Trần Thị Dung
là Tô Trung Từ làm Điện tiền chỉ huy sứ
Uy thế họ Trần bắt đầu được đề cao từ khi hoàng tử Sảm lên ngôi vào năm 1211, tức là vua Lý
Huệ Tông. Ông cho đón vợ là Trần Thị Dung về cung lập làm nguyên phi. Lúc này, Tô Trung Từ
được phong Thái uý phụ chính.
Huệ Tông là người yếu đuối, lại bị Thái hậu họ Đàm khống chế, nên mọi việc đều phó thác cho
Đàm Dĩ Mông, người chức cao, quyền lớn nhưng "không có học thức, không có mưu thuật, lại nhu
nhược không quyết đoán, chính sự ngày một đổ nát". Lợi dụng tình hình đó, Đoàn Thượng làm
phản, tụ tập bè đảng ở Hồng Châu thả sức cướp bóc, khiến triều đình không chế ngự nổi. Năm
1216, trước tình thế bức bách của Đàm thái hậu, Lý Huệ Tông đã bí mật rời bỏ hoàng cung, cùng
với Trần thị Dung trốn đến nơi đóng quân của Trần Tự Khánh. Từ đó, vua Lý hoàn toàn phụ thuộc
vào thế lực anh em họ Trần.
Năm 1223, Trần Tự Khánh chết, mọi việc đều uỷ quyền cho Trần Thủ Độ (em họ Trần Thừa và
Tự Khánh) khi ấy là chỉ huy sứ, quản lĩnh cấm quân.
Là người cơ mưu, quyết đoán, Trần Thủ Độ đã sắp xếp để vua Huệ Tông nhường ngôi cho công
chúa Chiêu Thánh, rồi cắt tóc đi tu ở chùa Chân Giáo. Liền sau đó, Trần Thủ Độ lại thu xếp cho
Lý Chiêu Hoàng lên 7 tuổi lấy con trai thứ của Trần Thừa là Trần Cảnh lên 6 tuổi. Một năm sau,
vào tháng 12 âm lịch năm 1225, Trần Thủ Độ ép Chiêu Hoàng nhường ngôi cho chồng, nhà Trần

bắt đầu nắm quyền cai trị.
Khi lên ngôi, Trần Cảnh (Trần Thái Tông) còn nhỏ, mọi việc triều chính đều trong tay Thái sư
Trần Thủ Độ và cha là Nhiếp chính Trần Thừa.
Dẹp nội loạn
Từ năm 1211 trong nước Đại Việt đã hình thành ba thế lực phân cát lớn là:
• Họ Đoàn (Hải Dương và Hải Phòng).
• Họ Trần (Thái Bình, Nam Định và nam Hưng Yên).
• Họ Nguyễn (Quốc Oai, Hà Tây)
Triều đình nhà Lý chỉ kiểm soát vùng xung quanh Thăng Long. Trong quá trình nắm quyền bính
trong triều cho tới khi thay ngôi nhà Lý, nhà Trần tiếp tục phải đối phó với các lực lượng cát cứ từ
thời Lý.
Do thế lực chưa đủ mạnh để trấn áp tất cả các lực lượng nổi dậy, họ Trần phải dùng chiến thuật
khi đánh khi hoà, thậm chí cả biện pháp hôn nhân; và tận dụng sự xung đột của chính các thế lực
này tự làm yếu nhau.
Sau khi nhà Trần thành lập, Nguyễn Nộn đánh bại giết chết Đoàn Thượng năm 1228. Nhưng
không lâu sau, cuối năm 1229, Nguyễn Nộn ốm chết, lực lượng của Nộn tự tan rã. Nhà Trần chấm
dứt được cục diện chia cắt, tập trung củng cố nội chính sau nhiều năm nghiêng ngả dưới thời Lý.
Chống Nguyên Mông
Ở phương Bắc, người Mông Cổ dần dà xâm chiếm Trung Quốc. Sau khi tiêu diệt nhà Kim phía
bắc, các vua Mông Cổ tiến xuống phía nam để diệt nước Nam Tống vốn đã suy yếu khi bị nhà
Kim của người Nữ Chân xâm lấn từ đầu thế kỷ 12. Để tạo thế bao vây Nam Tống, vua Mông Cổ
đánh chiếm nước Đại Lý (Vân Nam (1254) và sau đó đánh sang Đại Việt.
Cuối năm 1257 âm lịch, tướng Mông Cổ là Ngột Lương Hợp Thai (Uriyangqadai hay 兀良合台)
mang 3 vạn quân tiến vào nước Đại Việt qua đường Vân Nam. Vua Trần Thái Tông đích thân ra
chiến trận. Quân Trần cố gắng chặn nhưng quân Mông Cổ vẫn tiến vào được Thăng Long. Nhân
dân Thăng Long theo lệnh của triều đình đã thực hiện "vườn không nhà trống", rút về Thiên Mạc
(Hà Nam). Ngột Lương Hợp Thai kéo quân vào Thăng Long chưa đầy 1 tháng thì bị thiếu lương
thực. Nhân cơ hội đó quân Đại Việt phản công ở Đông Bộ Đầu (Từ Liêm-Hà Nội). Quân Mông
Cổ thua phải rút khỏi Thăng Long, đến vùng Quy Hóa (Yên Bái) bị quân của tộc trưởng Hà Bổng
đánh tan tác, quân Mông Cổ rút chạy về Vân Nam.

Năm 1279, quân Mông diệt được Nam Tống. Từ năm 1260, vua Mông Cổ là Hốt Tất Liệt đã lập ra
nhà Nguyên. Để lấy cớ đánh Đại Việt, nhà Nguyên cho Toa Đô mượn đường đánh Chiêm Thành
(Champa). Sau nhiều hoạt động ngoại giao hòa hoãn bất thành, cuối cùng chiến tranh bùng phát.
Cuối năm 1284, nhà Nguyên liền phái hoàng tử Thoát Hoan và tướng Toa Đô mang quân đánh hai
đường nam, bắc kẹp lại để chiếm Đại Việt. Thoát Hoan đi từ Quảng Tây còn Toa Đô đi đường
biển từ cảng Quảng Châu, trước hết đánh vào Chiêm Thành rồi đánh "gọng kìm" thốc lên từ phía
nam Đại Việt.
Đây là lần xâm lược Đại Việt với quy mô lớn nhất của nhà Nguyên (huy động hơn 50 vạn quân)
và cũng là cuộc kháng chiến gian khổ nhất của nhà Trần chống phương Bắc, quyết định sự tồn
vong của Đại Việt lúc đó.
Sau nhiều đợt rút lui để tránh thế mạnh của các đạo quân Mông, dùng chiến thuật vườn không nhà
trống để quân địch không có lương ăn và bị bệnh dịch do không hợp thủy thổ bản địa, nhà Trần tổ
chức phản công vào cuối xuân, đầu hè năm 1285. Với những chiến thắng ở Tây Kết, Hàm Tử,
Chương Dương, quân Trần đại thắng, bắt giết được Toa Đô. Thoát Hoan thu tàn quân chạy về bắc.
Thắng lợi năm 1285 cơ bản xác định sự tồn tại của Đại Việt và củng cố lòng tin của người Việt có
thể đương đầu được với đạo quân hùng mạnh của Mông Nguyên liền kề phía bắc. Bởi vậy trong
lần kháng chiến thứ 3 chống Mông Nguyên năm 1287, Hưng Đạo Vương Trần Quốc Tuấn nói với
vua Trần: "...Quân ta đã quen việc chiến trận, mà quân nó thì sợ phải đi xa... Theo như thần thấy,
phá được chúng là điều chắc chắn". Nhà Trần tiếp tục chủ động áp dụng chiến thuật tránh thế
mạnh, triệt lương thảo. Cuối cùng quân Trần đại phá quân Nguyên ở sông Bạch Đằng tháng 4 năm
1288, bắt sống Nguyên soái Ô Mã Nhi, Phàn Tiếp, Tích Lệ Cơ. Thoát Hoan một lần nữa chạy trốn
về bắc.
Sau thất bại lần thứ ba ở Đại Việt, Nguyên Thế Tổ Hốt Tất Liệt vẫn chưa muốn đình chiến. Sang
các năm sau, vua Nguyên tiếp tục muốn điều binh sang nhưng chưa gặp thời cơ thuận tiện. Tới
năm 1294 lại định điều binh lần nữa thì chính Hốt Tất Liệt băng hà. Cháu nội là Nguyên Thành
Tông lên ngôi không muốn gây chiến với Đại Việt nữa. Việc chiến tranh với nhà Nguyên từ đó
mới chấm dứt.
Đối ngoại
Trong triều đại nhà Trần, ngoài những cuộc chiến tranh với quân Nguyên Mông ở phía Bắc thì Đại
Việt cũng có những sự liên hệ với các nước láng giềng phía tây và phía nam là Ai Lao và Chiêm

Thành.
Với Chiêm Thành
Có thể nói trong các triều đại Việt Nam, Chiêm Thành không lúc nào không quấy phá và cuộc
chiến tranh giữa hai nước vẫn thường xuyên xảy ra. Lúc nhà Trần lên ngôi, nước Chiêm Thành
vẫn giữ lệ triều cống và giao hòa. Trong đời vua Trần Nhân Tông, sau khi chinh phạt Chiêm
Thành, thì giữa Đại Việt và nước Chiêm Thành có sự giao hảo tốt đẹp. Đến đời vua Trần Anh
Tông, lúc bấy giờ Trần Nhân Tông đã lên làm thái thượng hoàng và trong lúc sang thăm vãn cảnh
nước Chiêm và để cho tình giao hảo của hai nước trở nên bền vững hơn, nhà Trần đã gả công chúa
Huyền Trân cho vua Chiêm Thành là Chế Mân năm 1306. Chế Mân dâng châu Ô và châu Rí cho
Đại Việt. Vua Trần Anh Tông đổi tên là Thuận Châu và Hóa Châu rồi đặt quan cai trị cũng như
cho di dân sang ở. Một năm sau, Chế Mân chết. Theo tục lệ Chiêm Thành thì hoàng hậu phải bị
hỏa thiêu chết theo. Vua Trần Anh Tông sai tướng Trần Khắc Chung giả tiếng vào thăm rồi tìm kế
rước về.
Chế Mân chết thì Chế Chỉ lên thay và đòi lại hai châu mà Chế Mân đã dâng cho Đại Việt. Vua
Trần Anh Tông sai quân sang bắt Chế Chỉ đem về trị tội và phong cho em của Chế Chỉ là Chế Đà
A Bà lên thay làm vua nước Chiêm Thành. Đến đời vua Trần Dụ Tông, con và rể của vua Chiêm
Thành tranh giành nhau ngôi vua, quân nhà Trần sang can thiệp nhưng bị quân Chiêm Thành đánh
bại cả hai lần.
Năm 1370, các hoàng tử con vua Minh Tông lật đổ Dương Nhật Lễ (xem phần "Thời kỳ suy tàn"
bên dưới) lập Trần Nghệ Tông. Mẹ Nhật Lễ chạy sang Chiêm Thành xui vua Chiêm đánh Đại
Việt. Lúc đó thế lực nhà Trần suy yếu, Chiêm Thành có ý khởi binh đánh đòi lại hai châu đã mất.
Đến đời vua Trần Duệ Tông, vua Chiêm Thành là Chế Bồng Nga quấy rối biên giới, vua Duệ
Tông sai Đỗ Tử Bình đem quân trấn giữ Hóa Châu. Bồng Nga đem 10 mâm vàng dâng lên. Tử
Bình ỉm đi, cướp làm của mình, nối dối là Bồng Nga ngạo mạn vô lễ, nên đem quân đánh. Duệ
Tông giận lắm, quyết ý thân chinh. Cuối năm 1376, quân Trần xuất phát. Năm 1377, quân Trần
chiếm cửa Thị Nại (Quy Nhơn ngày nay) rồi tiến đánh kinh thành là Đồ Bàn. Lúc đó Chế Bồng
Nga, một ông vua có tài thao lược, dùng kế dụ quân Trần vào ổ mai phục đánh tan. Vua Trần Duệ
Tông bị tử trận, Hồ Quý Ly, Đỗ Tử Bình rút quân bỏ chạy về nước. Thừa thắng xông lên, Chế
Bồng Nga nhiều lần mang quân sang đánh phá Đại Việt, Hồ Quý Ly nhiều lần ra trận bị thua, quân
Chiêm ba lần chiếm được kinh thành Thăng Long, vua tôi nhà Trần phải bỏ thành chạy. Quân

Chiêm cướp phá kinh thành rồi rút về. Đỗ Tử Bình chỉ bị đồ làm lính 1 năm rồi sau đó lại được
nhấc lên địa vị cao hơn.
Năm 1390, Chế Bồng Nga lại đem quân sang đánh. Tướng trẻ Trần Khát Chân được lệnh đem
binh dàn trận ở sông Hải Triều (sông Luộc ở vùng Hưng Yên ngày nay). Nhờ có hàng tướng bên
Chiêm sang chỉ chỗ, Khát Chân sai chĩa hỏa pháo nhằm cả vào thuyền Chế Bồng Nga mà bắn. Vua
Chiêm trúng đạn tử trận, quân Chiêm bỏ chạy và sau đó con của Chế Bồng Nga hàng phục Đại
Việt. Kể từ đó trong thời gian dài Chiêm Thành không dám đánh Đại Việt nữa.
Với Ai Lao
Vào đời nhà Trần, quân của Ai Lao thường sang quấy phá cướp bóc ở vùng Nghệ An và Thanh
Hóa. Vì thế triều đình đã phải sai quân lính đi đánh dẹp mãi và chính các vị vua phải thân chinh đi
dẹp giặc, trong đó nhiều nhất phải kể đến vua Trần Nhân Tông. Mỗi lần bị thua thì quân Ai Lao
rút về, nhưng sau đó thì lại sang quấy phá. Trong đời vua Trần Anh Tông, ông cũng nhiều lần thân
chinh đi dẹp giặc nhưng ông cũng đã ra lệnh cho Phạm Ngũ Lão hơn ba, bốn phen đi dẹp giặc.
Vua Trần Minh Tông cũng nhiều phen thân chinh đi dẹp giặc. Trong triều đại nhà Trần, mục đích
của Đại Việt là dẹp các cuộc đánh phá và quấy nhiễu của quân Ai Lao chứ không có mục đích
đánh chiếm lấy đất nước này.
Tổ chức quân đội
Quân chủ lực nhà Trần gồm cấm quân và quân các lộ. Quân các lộ ở đồng bằng gọi là chính binh,
ở miền núi gọi là phiên binh. Cấm quân được gọi là quân túc vệ.
Các đơn vị quân đội được gọi là quân. Đứng đầu mỗi quân là một đại tướng quân. Mỗi quân có 30
đô, chỉ huy mỗi đô có chánh phó đại đội. Mỗi đô có 5 ngũ, đứng đầu mỗi ngũ là đầu ngũ.
Cấm quân là lực lượng nòng cốt trong chiến tranh chống ngoại xâm, có thể được điều động đi các
lộ để tác chiến.
Nhằm có lực lượng đông đảo cần thiết khi chống xâm lược, nhà Trần kế tục chính sách ngụ binh ư
nông (giữ quân lính ở nhà nông) của nhà Lý, vừa đảm bảo số quân cần thiết phòng khi có chiến
tranh xảy tới. Quân cấm vệ và các lộ có khoảng 10 vạn người.
Hành chính
Đời nhà Trần, Việt Nam chia ra làm 12 lộ, Đại Việt sử ký toàn thư (ĐVSKTT) chép như sau:
Nhâm Dần, Thiên Ứng Chính Bình năm thứ 11 1242: Mùa xuân, tháng 2, chia nước làm
12 lộ. Đặt chức an phủ, trấn phủ, có 2 viên chánh, phó để cai trị. Các xã, sách thì đặt chức

đại tư xã, tiểu tư xã. Từ ngũ phẩm trở lên là đại tư xã, từ lục phẩm trở xuống là tiểu tư xã.
Có người làm kiêm cả 2-4 xã, cùng xã chính, xã sử, xã giám gọi là xã quan.
Mỗi lộ đều có quyền dân tịch để kiểm soát dân số trong lộ. Dân chúng trong nước được chia ra
làm 3 hạng: hạng tiểu hoàng nam (từ 18 tuổi đến 20 tuổi), hạng đại hoàng nam (từ 20 tuổi đến 60
tuổi) và hạng lão (trên 60 tuổi). Lúc đầu chỉ có những người trong hoàng tộc mới được giữ các
chức quan nhưng từ đời vua Anh Tông, những người tài đức cũng được tuyển dụng vào giữ các
chức vụ quan trọng này. Sách Khâm định Việt sử Thông giám Cương mục, phần chính biên, có
ghi lại 12 lộ như sau: Thiên Trường, Long Hưng, Quốc Oai, Bắc Giang, Hải Đông, Trường Yên,
Kiến Xương, Hồng Khoái, Thanh Hoá, Hoàng Giang, Diễn Châu.
Luật pháp
Vua Thái Tông cho sửa lại luật pháp rất nghiêm minh. Đại Việt sử ký toàn thư có chép lại như sau:
Canh Dần, Kiến Trung năm thứ 5 1230: Mùa xuân, tháng 3, khảo xét các luật lệ của triều
trước, soạn thành Quốc triều thống chế và sửa đổi hình luật lễ nghi, gồm 20 quyển.
Định bị đồ có mức độ khác nhau:
• Loại bị đồ làm Cảo điền hoành thì thích vào mặt 6 chữ, cho ở Cảo xã (nay là xã
Nhật Cảo), cày ruộng côn, mỗi người 3 mẫu, mỗi năm phải nộp 300 thăng thóc.
• Loại bị đồ làm Lao thành binh thì thích vào cổ 4 chữ, bắt dọn cỏ ở Phượng Thành,
thành Thăng Long, lệ vào quân Tứ sương.
Đặt ty bình bạc là cơ quan hành chính và tư pháp ở kinh đô Thăng Long lúc đó với chức quan kinh
doãn, chuyên xét đoán việc kiện tụng ở kinh thành. Năm 1265 đổi thành Đại an phủ sứ, sau lại đổi
thành Kinh sư đại doãn.
Kinh tế

Tài liệu bạn tìm kiếm đã sẵn sàng tải về

Tải bản đầy đủ ngay
×