Tải bản đầy đủ (.pdf) (21 trang)

Khía cạnh kinh tế của cộng đồng tôn giáo trong bối cảnh xã hội đương đại: Nhìn từ bản hội đạo Mẫu

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (553.15 KB, 21 trang )

TẠP CHÍ KHOA HỌC ĐẠI HỌC SÀI GÒN

Số 12 (37) - Tháng 2/2016

Khía cạnh kinh tế của cộng đồng tơn giáo trong bối cảnh
xã hội đương đại: Nhìn từ bản hội đạo Mẫu
Economic aspect of religious community in current social background: From
Mother Goddess network
ThS. Mai Thị Hạnh,
Trường Đại học Sư phạm Hà Nội
M.A. Mai Thi Hanh,
Ha Noi National University of Education
Tóm tắt
Dựa trên những tư liệu thực địa của tác giả trong các năm từ 2012- 2015, bài viết sẽ mơ tả dân tộc học
kết hợp phân tích những khía cạnh kinh tế của cộng đồng tơn giáo trong xã hội Việt Nam đương đại qua
trường hợp cụ thể là một bản hội Đạo Mẫu có tên Phúc Minh Từ(1) . Bài viết sẽ nhìn nhận tính kinh tế
của bản hội khơng chỉ ở nội dung lời cầu xin của các tín đồ mà quan trọng là trong hành vi của họ, nhất
là ở việc họ kết hợp để làm ăn bn bán và ở việc họ tận dụng bản hội như một mơi trường cho sự phát
triển các dịch vụ tâm linh. Bài viết cũng sẽ đi tìm câu trả lời cho câu hỏi vì sao bản hội là mơi trường
tâm linh nhưng tính kinh tế của nó lại mạnh như vậy và mạnh hơn rất nhiều so với các cộng đồng tơn
giáo khác ở Việt Nam.
Từ khóa: cộng đồng, cộng đồng tơn giáo, bản hội Đạo Mẫu, kinh tế…
Abstract
Based on the realistic data of the authors in the years from 2012 - 2015, the article will describe
ethnographic analysis in combination with the economic aspects of religious communities in current
Vietnamese society through researching a specific case that is a mother goddess network called Phuc Minh
Tu1. The article will ackonowledge the economics of the network not only in the content of pleading of
the faithful but also in their behaviours, especially in the way they combine to do bussiness and in the way
they take advantage of network as the environment for the spirit service development. The article will also
find the answer for the question why the network is the spirit environment but its economic feature is
strong and even much stronger than other Vietnamese religious communities.


Keywords: commnunity, religious commnunity, mother goddess network, economy…

khơng gian cao rộng với những bức tường
được trang trí bởi các bức tranh mơ tả về
điển tích trong cuộc đời của Chúa Giê-su
và các thánh tơng đồ, các con chiên ngoan
đạo ngồi ngay ngắn trên những hàng ghế
dài, họ cùng nhau làm dấu Thánh giá, nghe
lời giảng trầm ấm của Cha đạo và cùng

1. Dẫn nhập
Có thể nhận thấy sự khác biệt trong
khơng gian thực hành nghi lễ của cộng
đồng tín đồ Đạo Mẫu và cộng đồng tín đồ
Cơng giáo: bản hội và nhà thờ xứ. Nếu đến
một nhà thờ xứ bất kì vào ngày chủ nhật,
cảnh tượng hiện ra trước mắt sẽ là: trong
40


tế của các tín đồ mà còn thể hiện qua hành
vi tín ngưỡng đã nhuốm màu lợi ích và đặc
biệt được thể hiện qua sự hợp tác giữa
những người đồng đạo trong làm ăn kinh tế.
2.1. Hoàn cảnh kinh tế của các
thành viên bản hội và nhu cầu tìm kiếm
sự phù trợ của Thánh Mẫu
Phải khẳng định rằng, các thành viên
bản hội có hoàn cảnh kinh tế rất khác nhau.
Một số người tôi gặp là những người có

cuộc sống đủ đầy sung túc, họ gia nhập bản
hội với suy nghĩ hiện sinh thờ phụng thánh
thần chu đáo, sẽ được thánh thần phù giúp
làm ăn phát đạt. Song, có thể dễ dàng nhận
thấy rằng, phần lớn các thành viên bản hội
là những người có cuộc sống kinh tế đã và
đang gặp nhiều khó khăn.
“Mất sạch sành sanh mới được manh
áo đỏ”
Một trong những điều làm tôi thực sự
thích thú khi tiếp xúc với các tín đồ đạo
Mẫu là nghe họ nói bằng những câu nói hết
sức vần điệu, vô cùng ngắn gọn, cô đọng
súc tích nhưng cũng thật đầy đủ và sâu sắc
để diễn tả một điều gì đó trong đời sống
tâm linh của họ. “Mất sạch sành sanh mới
được manh áo đỏ” là một trong những câu
nói như thế mà tôi đã nghe rất nhiều lần từ
các thành viên bản hội Phúc Minh từ và
một số bản hội tôi có cơ hội thâm nhập.
Câu nói này đúc kết về hoàn cảnh của
những số phận phải tìm đến với Thánh
Mẫu, với bản hội bằng cách trình đồng mở
phủ mà dấu hiệu đầu tiên là mặc chiếc áo
đỏ cộng đồng. Nguyên nhân thôi thúc họ
đến với Mẫu, với bản hội và mặc “manh áo
đỏ” ấy là do “mất sạch sành sanh”. Trong
quan niệm của các tín đồ Đạo Mẫu, “mất
sạch sành sanh” có thể là mất mát về kinh
tế, về sức khỏe, về hạnh phúc gia đình, có

thể là về sự nghiệp… nhưng cũng có thể là
mất tất cả những thứ đó. Câu nói này đã

nhau hát các bài Thánh ca - một không khí
thiêng liêng đến không chút bụi trần. Và
hãy đến một bản hội như Phúc Minh từ của
thầy đồng Xuyên: trong khói hương nghi
ngút, các con nhang đệ tử ngồi trước điện
thờ kính cẩn cầu xin thần thánh ban cho họ
những điều mong muốn, người ta cảm
nhận được không khí linh thiêng, song
trong cái không gian linh thiêng ấy lại diễn
ra những cảnh rất đời, rất trần tục: đó là
cuộc giao dịch mang tính tiền tệ giữa đồng
Thầy với người đến nhờ làm lễ, là việc
đồng Thầy bán hàng đa cấp công khai, là
việc các con nhang đệ tử bàn kế hoạch làm
ăn buôn bán… Rõ ràng, kinh tế đang
nhuốm màu trong không gian tâm linh. Bài
viết này sẽ đề cập đến khía cạnh kinh tế
của bản hội - một cộng đồng tín đồ thực
hành nghi lễ đạo Mẫu trong xã hội đương
đại qua nghiên cứu trường hợp bản hội
Phúc Minh từ. Tôi sẽ bắt đầu bài viết bằng
việc mô tả dân tộc học kết hợp phân tích
những khía cạnh kinh tế đang diễn ra trong
bản hội và nhìn nhận tính kinh tế của bản
hội không chỉ ở nội dung lời cầu xin của
các tín đồ mà quan trọng là trong hành vi
của họ nhất là ở việc họ kết hợp để làm ăn

buôn bán và ở việc họ tận dụng bản hội
như một môi trường cho sự phát triển các
dịch vụ tâm linh. Tôi cũng sẽ đi tìm câu trả
lời cho câu hỏi vì sao bản hội là môi trường
tâm linh nhưng tính kinh tế của nó lại mạnh
như vậy và mạnh hơn rất nhiều so với các
cộng đồng tôn giáo khác ở Việt Nam?
2. Màu sắc kinh tế của bản hội
đạo Mẫu: Những khía cạnh biểu hiện
Có thể nói, sau Đổi mới với sự phát
triển mạnh mẽ của kinh tế thị trường, màu
sắc kinh tế trong bản hội đạo Mẫu trở nên
đậm nét hơn. Điều đó không chỉ được thể
hiện trong niềm tin về mối liên hệ giữa sự
phù trợ của Thánh Mẫu với hoàn cảnh kinh
41


Minh… Mặc dù không rơi vào hoàn cảnh
mất trắng sau một đêm như các đại gia
chứng khoán hay xây dựng nhưng những
người này lại có một cuộc sống kinh tế què
quặt, lay lắt không lối thoát. Chị Thắm làm
nghề bán nước ở một con hẻm trên đường
Trường Chinh mà hàng quán của chị nơi
tôi đến phỏng vấn chỉ lèo tèo vài chai
Pepsi, đôi chai trà xanh không độ và một
bình nước trà mạn. Thu nhập hàng ngày
của chị chỉ được tính bằng đôi ba chục
ngàn cùng lắm là trăm ngàn nếu tính cả lời

lẫn vốn. Chị Nhàn làm nghề bán bún chả
mặc dù tự hào về khả năng làm bún chả rất
ngon nhưng quán bún chả của chị cũng
thường xuyên rơi vào tình trạng ế ẩm. Chị
Minh có cơ sở sản xuất khăn ướt thủ công
tại nhà nhưng phần vì chất lượng chưa có
khả năng cạnh tranh, phần vì không tìm
được mối đưa hàng nên khăn ướt của chị
chưa tìm được chỗ đứng và lưu thông trên
thị trường. “Nói chung rất là chán” là điệp
khúc chị Thắm, chị Minh, chị Nhàn nhắc đi
nhắc lại khi nói về đời sống kinh tế
của mình…
Nhóm 3: gồm các viên chức nhà nước
lương “ba cọc ba đồng” và những “nạn
nhân” của việc tinh giảm biên chế. Đã từng
có thời kỳ được coi là tầng lớp trung lưu có
cuộc sống bình an và ổn định. Tuy nhiên
vài năm trở lại đây, sự khủng hoảng kinh tế
và giá cả tăng vọt khiến họ lâm vào khó
khăn với đồng lương ít ỏi. Cùng với đó là
việc tinh giảm biên chế để giảm bớt sức
nặng của bộ máy hành chính cồng kềnh
khiến nhiều người rơi vào tình cảnh thất
nghiệp. Một số người may mắn vẫn giữ
được chân trong các cơ quan nhà nước
lương bổng cũng bị cắt giảm. Chị Thúy, chị
Hòa làm việc ở ngân hàng là thành viên của
Phúc Minh từ cho biết nếu trước đây họ có
hai lương thì hiện nay chỉ còn một, điều đó


kích thích sự tò mò trong tôi và tôi quyết
định tìm hiểu xem các thành viên đến với
bản hội mất sạch sành sanh như thế nào về
kinh tế thông qua phương pháp phỏng vấn
lịch sử nghề nghiệp.
Bên cạnh những vấn đề về sức khỏe,
sự nghiệp… thì hầu như những người đến
với bản hội đều là những người “có vấn
đề” về kinh tế dù họ là ai và ở tầng lớp nào.
Tất nhiên, mức độ và sắc thái “mất sạch
sành sanh” này khác nhau ở mỗi người.
Phỏng vấn các thành viên bản hội Phúc
Minh từ, tôi có thể chia mức độ và sắc thái
“mất sạch sành sanh” của họ thành ba nhóm
như sau:
Nhóm 1: bao gồm các đại gia và các
doanh nhân phá sản như vợ chồng chị Linh
anh Sính, em Hưng, anh Thoan…Họ là
những đại gia xây dựng, bất động sản,
những doanh nhân chứng khoán, giám đốc
các công ty, những người buôn bán
lớn…Hầu hết những người này trước đó có
một cuộc sống vàng son, với sự đủ đầy
viên mãn. Song bỗng chốc mọi thứ tan biến
như phù du. Em Hưng từ một thanh niên
trẻ quản lý các gian hàng ở chợ Hàng Da
với thu nhập tiền tỉ mỗi năm và “sờ vào
đâu cũng có tiền” bỗng nhiên “tụt dốc
không phanh”: nhà hàng bia, công ty bất

động sản đều bị phá sản, nợ nần chồng
chất… Vợ chồng chị Linh anh Sính từ
những đại gia bất động sản và xây dựng,
làm ăn nên nổi như diều gặp gió những
năm sốt đất 2009 - 2010 bỗng dưng sụp đổ
phải bán nhà và mọi tài sản để trả nợ(2).
Anh Thoan - một doanh nhân người Huế từ
chỗ sở hữu một chuỗi các cơ sở dược phẩm
lớn ở Hà Nội bỗng dưng tay trắng vì bị lừa
bởi đối tác làm ăn…
Nhóm 2: bao gồm những tiểu thương,
những người buôn bán nhỏ lẻ với cuộc
sống bấp bênh như chị Thắm, chị Nhàn, chị
42


gây khó khăn cho cuộc sống khiến họ phải
đôn đáo để tìm kiếm các cơ hội sống.
Không phải tất cả các thành viên bản
hội đều là những người “có vấn đề” về
kinh tế, một số khác tôi gặp và phỏng vấn
là những người có đời sống kinh tế vững
vàng. Song nhìn chung, đa phần những
người đến với bản hội là những người “mất
sạch sành sanh” và đang cần sự trợ giúp
nào đó của cộng đồng. Đây có thể xem là
một điểm khác biệt của bản hội đạo Mẫu so
với các cộng đồng tôn giáo khác xét trên
khía cạnh kinh tế. Bởi rõ ràng, hầu hết các
thành viên của cộng đồng Phật tử, Công

giáo… không phải là những người có vấn
đề về kinh tế như vậy.
“Mất sạch sành sanh” và những lý giải
từ tâm linh
Hưng kể với tôi: “từ năm 2008 em vừa
đi học vừa đi làm bên chủ đầu tư ở trên chợ
Hàng Da. Tầng 2,3,4,5 của cái chợ ấy là
thuộc quyền quản lý của công ty em làm
việc mà em là trưởng phòng kinh doanh ở
công ty đó, trong tay em quản lý hàng trăm
khách hàng... Em đi làm từ 2009 đến năm
2010 (lúc này bất động sản trong làm ăn là
đỉnh cao nhất) em đã có một tỉ. Lúc đó em
làm chứng khoán cũng ra tiền, bất động sản
cũng ra tiền, sờ vào cái gì cũng ra tiền. Lúc
đó nếu mà em ra khai phủ thì có phải là
tiền em đã giữ được. Khi ấy em là sinh
viên vừa đi học vừa đi làm, có tiền thì ăn
chơi, tính lại ham vui. Ngoài ra, em cũng
đầu tư vào các mối quan hệ để mong sự
nghiệp làm ăn phát triển. Sau đó bất động
sản đi xuống, em làm ăn không được. Trừ
tiền chi tiêu rồi em còn lại một ít, cố vay
mượn thêm bạn bè, em mở nhà hàng bia.
Vì không có tâm huyết và kinh nghiệm
kinh doanh nhà hàng nên em không thành
công. Sau đó em lại mở công ty bất động
sản và em làm giám đốc, lúc này em phải

vay nhiều tiền rồi, vay của gia đình họ

hàng và của cả bạn bè vì đâu còn nguồn lực
nữa. Nhưng rồi công ty cũng chỉ trụ được
vài tháng là phải đóng cửa, công ty phá
sản, em nợ nần chồng chất… Vợ con em
phải về Hà Giang sinh sống (Phỏng vấn
Hưng, nam, 30 tuổi)”.
Như một thói quen, người Việt khi
gặp khó khăn trong cuộc sống nói chung và
khó khăn về kinh tế nói riêng đều đưa ra
những lý giải đa chiều trong đó có những
lý giải xuất phát từ tâm linh. Việc phải duy
trì một cuộc sống lay lắt không lối thoát
trong suốt thời gian dài và cả việc phá sản
trong chốc lát… khiến các cá nhân băn
khoăn không hiểu vì sao họ lại rơi vào
hoàn cảnh như vậy? Không ít người đã lý
giải nguyên nhân của sự “mất sạch sành
sanh” ấy như là dấu hiệu của việc họ có
căn đồng số lính song vì không hiểu được
căn số và ra hầu thánh nên bị thánh phạt
thánh đầy như câu chuyện của em Hưng
mà tôi vừa trích dẫn ở trên. Một số khác
như chị Linh lại cho rằng việc “mất sạch
sành sanh” về kinh tế của vợ chồng chị là
dấu hiệu của việc thánh đã chọn chị làm
việc âm chứ không phải việc trần. Bởi vậy,
Người đã cho chị nghỉ việc ở Liên minh
Châu Âu, Người đã khiến chị phải phá sản
khi đầu tư vào bất động sản và xây dựng,
cuối cùng chị phải “dập đầu lạy Mẫu” và

chấp nhận gánh vác trách nhiệm tâm linh
mà nhà Ngài giao phó: lập điện và chữa
bệnh âm cho bách gia trăm họ.
Nói cách khác, theo chị Linh và em
Hưng thì có một mối liên hệ nào đó giữa
quyền năng của Thánh Mẫu với hoàn cảnh
kinh tế của họ. Việc họ bị phá sản hay làm
ăn thất bát là ý nguyện của thánh hoặc là
do sự trừng phạt của thánh. Và để chứng
minh cho việc hoàn cảnh kinh tế của họ bị
chi phối bởi các thế lực xa xôi, họ kể cho
43


tôi nghe những câu chuyện về căn quả của
họ và về việc họ bị bắt sát như thế nào(3).
Một số người khiến tôi cảm nhận họ khá
đơn giản trong việc tin vào mối liên hệ
giữa quyền năng của Thánh với hoàn cảnh
kinh tế của họ. Song có những người khác,
trong lý giải của họ về hoàn cảnh “mất
sạch sành sanh” khiến tôi cảm nhận được
sự vật vã và phức tạp trong suy nghĩ, hành
động. Có người tin tuyệt đối nhưng lại có
người nửa tin nửa ngờ. Có người tin ngay
lập tức nhưng lại có người từ không tin đến
tin là cả một quá trình lâu dài. Họ thường
lật đi lật lại vấn đề vì sao họ bị phá sản? Có
thật là có một thế lực vô hình xa xôi nào đó
chi phối tới cuộc sống của họ? Thậm chí

họ còn thử cả thần thánh, thử xem có đúng
là họ có duyên với thần thánh và có đúng là
thần thánh đã lựa chọn họ phục vụ “cửa
đình thần Tam Tứ phủ” hay không. Sự phá
sản trong việc làm ăn của vợ chồng chị
Linh lúc đầu được chồng chị lý giải là do
“kinh tế thị trường” nhưng rồi những sự
kiện diễn ra tiếp theo với gia đình chị như
ốm đau bệnh tật, con cái bị tai nạn… vợ
chồng chị cảm thấy lung lay và chênh vênh
với nguyên nhân kinh tế thị trường, bản
thân chị Linh đã tìm lối thoát bằng cách
quy y những mong được bình an vô sự.
Tuy nhiên, việc quy y vẫn không giúp chị
qua cơn bĩ cực, chị Linh phải ngẫm lại
những điều đồng Thầy phán trước đó “có
căn đồng, phải trình đồng mở phủ nếu
không nhanh thì vào mình cơm xác thịt thì
chết”. Chị sợ hãi và run rẩy hàng đêm với
lời phán đó và quyết định tìm lời giải bằng
cách đi đến những nơi thờ Mẫu nổi tiếng.
Cuối cùng, chị Linh tin vào mối lương
duyên của chị với Thánh Mẫu, chị “dập
đầu lạy Mẫu và nhất tâm theo Mẫu”
Như vậy, hầu hết những người đến với
bản hội là những người gặp những khó

khăn trong lĩnh vực kinh tế và cần đến một
sự giúp đỡ. Mặc dù ở các mức độ khác
nhau nhưng những người này đều tin hoặc

mơ hồ tin vào sự chi phối hoặc phù trợ của
Thánh Mẫu. Và những vấn đề kinh tế đó
khiến họ phải có những nỗ lực nhằm tìm
kiếm an toàn sinh kế.
“Mất sạch sành sanh” và việc tìm
kiếm an toàn sinh kế
Oscar Selamink trong một bài viết của
mình về “tìm kiếm an ninh tinh thần trong
xã hội Việt Nam đương đại” đã phác họa
bức tranh về con người Việt Nam đương
đại với đầy những lo âu cần đến sự cứu
chữa về tinh thần, đó là các vấn đề liên
quan đến thể chất và tinh thần, những bất
an về kinh tế và rủi ro thị trường, những
bất ổn hiện sinh liên quan đến cái chết…
Và để cứu chữa cho những bất ổn đó, con
người tìm đến các phương thức khác nhau
trong đó có phương thức văn hóa, cụ thể
hơn nữa là đến với lên đồng. Những ví dụ
trong nghiên cứu của tôi được nhắc đến ở
trên đã tái khẳng định những nhận định này
của Oscar Selamink. Việc nhiều đại gia bất
động sản, chứng khoán hay dược phẩm…
như vợ chồng chị Linh, em Hưng, anh
Thoan… trắng tay trong gang tấc; việc các
tiểu thương, những người buôn bán nhỏ lay
lắt trong một cuộc sống không lối thoát;
việc các công nhân viên chức mất việc vì
tinh giảm biên chế và sống bấp bênh bởi
đồng lương ít ỏi trong khi giá cả tiêu dùng

tăng vọt… đã cho thấy rõ ràng an toàn sinh
kế của họ đang bị đe dọa. Và để tìm kiếm
an toàn sinh kế, nhiều người đã đến với
Đạo Mẫu, gia nhập bản hội và lên đồng
như một phương thức văn hóa để đối mặt.
Bởi theo giải thích của họ thì việc gia nhập
bản hội có thể giúp họ xoa dịu cơn thịnh nộ
của thần thánh (vì họ có căn đồng mà
không chịu cắt tóc làm tôi con ông Thánh
44


nên bị Thánh trừng phạt chẳng hạn…), đối
với những người không có căn đồng thì
việc gia nhập bản hội, ra hầu thánh cũng
giúp họ nhận được sự phù trợ của thần linh
để làm ăn được mát mẻ và đặc biệt là có
thể cho họ một thứ “bảo hiểm” tuy vô hình
nhưng lại là điểm tựa vô cùng quan trọng
khiến họ tăng thêm sự quyết đoán trong các
đầu tư làm ăn.
Có một điều thú vị là, trong khi các cá
nhân tìm đến bản hội như một cách tìm
kiếm sự bảo hiểm của tâm linh cho đời
sống kinh tế (tất nhiên nguyên nhân gia
nhập bản hội thì phức tạp và đa dạng hơn
nhiều, bên cạnh những vấn đề về kinh tế
còn là các vấn đề khác trong cuộc sống đời
thường như sức khỏe, sự bất hạnh trong đời
sống gia đình, các vấn đề về giới và quyền

lực giới…) thì họ lại tìm thấy những cơ hội
mới trong hợp tác làm ăn với những người
đồng đạo. Và điều này tạo nên một nét đặc
sắc của bản hội: đây không chỉ là không
gian tâm linh với các nghi lễ thiêng liêng
mà còn là môi trường của hoạt động kinh
tế, phản ánh một trong những đặc trưng
quan trọng nhất của bản hội là tính tâm linh
và kinh tế không tách rời nhau.
2.2. Bản hội đạo Mẫu: Môi trường
kinh doanh và hợp tác làm ăn
Có vẻ như phi lý khi cho rằng bản hội
là môi trường kinh doanh và hợp tác làm
ăn bởi bản hội là không gian tâm linh - nơi
vẫn luôn dành cho các hoạt động nghi lễ
thờ phụng thánh thần thiêng liêng và huyền
bí, đối lập với những vấn đề trần tục. Song
điều này lại đang diễn ra một cách sống
động trong nhiều bản hội hiện nay, nhất là
các bản hội ở đô thị nơi kinh tế thị trường
phát triển mạnh, không riêng Phúc Minh
từ. Trong phần này, tôi sẽ làm rõ những
biểu hiện của hoạt động kinh doanh và hợp
tác làm ăn của các thành viên bản hội. Tôi

cũng sẽ tranh luận một vấn đề: bản hội là
môi trường như thế nào mà có thể tạo điều
kiện cho các thành viên hợp tác trong kinh
tế? Hoạt động kinh doanh, hợp tác làm ăn
có ảnh hưởng như thế nào tới mối quan hệ

giữa họ với nhau?
Lần đầu tiên tôi đến bản hội Phúc
Minh từ là tháng 4 năm 2012 và tôi phát
hiện ra trên điện thờ có bày đồ lễ là những
chai sữa tắm Amway - một sản phẩm của
hãng kinh doanh hàng đa cấp khá nổi tiếng
trên thế giới có mặt ở Việt Nam. Điều này
làm tôi hết sức ngạc nhiên và ngờ rằng bản
hội - cộng đồng tâm linh của các tín đồ
Đạo Mẫu nhưng đồng thời cũng là mạng
kinh doanh và tiêu thụ hàng đa cấp của
đồng Thầy. Những quan sát vào thời gian
sau đó cộng với những phỏng vấn của tôi
với đồng Thầy và các con nhang đệ tử
trong bản hội của đồng Thầy đã cho thấy
điều mà tôi ngờ vực là sự thật.
Bản hội vừa là không gian thực hành
nghi lễ đồng thời cũng là không gian trưng
bày các sản phẩm của Amway. Bên cạnh
điện thờ nguy nga tráng lệ, có một tủ kính
trưng bày các sản phẩm nước rửa bát, nước
lau kính, các thực phẩm chức năng… và
thầy đồng Xuyên vừa là người chủ của bản
hội lại vừa đứng đầu mạng lưới tiêu thụ sản
phẩm đa cấp. Đồng thầy Xuyên vừa hướng
dẫn các con nhang đệ tử thực hành nghi lễ,
soi bói, chữa bệnh âm cho bách gia trăm họ
lại vừa là người bán hàng. Xen kẽ trong
các buổi lễ lớn với sự có mặt đông đủ của
các thành viên, đồng Thầy vừa giáo huấn

các con nhang đệ tử để họ “nhất tâm cửa
Phật thật tâm cửa Thánh” vừa giới thiệu
quảng cáo chất lượng và công dụng của sản
phẩm Amway. Đây là một đoạn giới thiệu
của thầy đồng Xuyên về sản phẩm Amway
được ghi lại trong Nhật kí thực địa của tôi:

45


“Tôi gặp thầy Xuyên vào buổi sáng
sớm để đưa cho thầy Xuyên bản đánh máy
bài giảng mà Thầy Xuyên đã giảng cho con
nhang đệ tử hôm lễ nhập hạ. Khi tôi đến,
Thầy Xuyên đang ngồi uống thuốc. Một túi
thuốc để bên cạnh, tôi nhìn và phát hiện ra
rằng đây là các sản phẩm của Amway, cụ
thể là các sản phẩm Vitamin C, Canxi +
Magie;... Thầy nhiệt tình giới thiệu với tôi
các loại thuốc này và công dụng của nó:
nào là Canxi này rất tốt cho xương cốt phụ
nữ nhất là sau sinh, Vitamin B tổng hợp rất
tốt cho sức khỏe... Tôi nhìn thấy một lọ
Vitamin C và ngỏ ý muốn mua nhưng tôi
băn khoăn về việc tôi bị đau dạ dày thì có
loại Vitamin C nào phù hợp với bệnh của
tôi không? Thầy Xuyên giới thiệu rằng,
"thế thì lọ này rất phù hợp với mày, một
viên này bằng 10 quả chanh đấy; nếu
chồng mày mà uống rượu, trước khi uống

rượu chỉ cần uống 3 viên: Vitamin C,
Canxi + Magie... trước thì uống rượu vô tư,
không bao giờ say". Tôi trả tiền nhưng
Thầy Xuyên nói "không, tao biếu mày, đây
cả VitaminC, Canxi... 3 lọ; cứ uống thử đi
rồi nếu được sau đó lần sau mua thì tao sẽ
lấy tiền" (Trích nhật kí thực địa của tác giả)
Nhưng thầy đồng Xuyên kinh doanh
Amway bằng cách nào? Bên cạnh bán bán
hàng trực tiếp cho các con nhang đệ tử,
thầy Xuyên còn “nhồi” sản phẩm Amway
vào đồ dâng cúng thần linh và phát lộc khi
làm lễ cho đệ tử và tín chủ. Sản phẩm được
dùng để dâng cúng thần thánh và phát lộc
thường là chai sữa tắm của Amway. Thầy
đồng Xuyên lí giải về việc cúng sản phẩm
Amway là vì “đây là đồ dâng cúng cô Bơ.
Vì trong giá cô Bơ phải sử dụng nước cho
nó mát mẻ và việc sử dụng sữa tắm
Amway cũng không nằm ngoài mục đích
này”. Nhưng thực ra đây lại là một cách
bán hàng gián tiếp của đồng Thầy đã được

che đậy bằng tấm màn tâm linh. Anh Thú,
người làm chấp tác tại điện nhà Thầy
Xuyên từ những ngày đầu khi bản hội mới
thành lập nói cho tôi biết rằng: thông
thường khi con nhang đệ tử đến nhờ Thầy
làm lễ, họ đưa tiền cho Thầy một cục và
nhờ Thầy lo liệu tất cả. “Chẳng hạn, đưa

cho Thầy 45 triệu để làm lễ trình đồng nhé,
ngoài tiền sắm mã, tiền trả pháp sư, tiền trả
hầu dâng và cung văn, Thầy còn dành một
phần để mua đồ lễ trên các ban thờ nữa…
thế thì khi mua đồ lễ lẽ ra phải mua đường,
mua mì chính hay mua cái gì đó thì Thầy
không mua, Thầy chèn sữa tắm Amway
vào…”. Và như vậy, thầy Xuyên đã bán
được sản phẩm Amway thông qua làm lễ
mà không cần mất thời gian giới thiệu chia
sẻ về sản phẩm, không cần thuê cửa hàng
cửa hiệu để bán sản phẩm. Thông qua các
con nhang đệ tử, mạng lưới tiêu thụ sản
phẩm Amway còn vượt ra ngoài khuôn khổ
bản hội.
Bên cạnh hoạt động kinh doanh
Amway của đồng Thầy, một số thành viên
khác của bản hội còn hợp tác với nhau và
với đồng Thầy để làm ăn kinh tế. Tôi muốn
nhắc đến câu chuyện hợp tác trong một
chuỗi kế hoạch kinh doanh của vợ chồng
Anh Sính chị Linh, anh Thoan, anh Thà,
đồng Thầy và một dự án đã được “ra lò”:
một nhà hàng ăn. Để nhà hàng này ra đời
và vận hành, các thành viên trong nhóm đã
sử dụng tổng hợp các nguồn lực của nhau:
về vốn, anh Thà, anh Thoan, vợ chồng anh
Sính chị Linh đóng góp và lợi nhuận sẽ
được chia theo tỉ lệ góp nhiều ít, tổng số
vốn nhóm huy động được là gần 1 tỉ. Em

Trinh cũng không góp vốn, bản thân em
khi đến với bản hội đã “mất sạch sành
sanh”, và vì thế “em được các anh chị
thương cho đến làm quản lý nhân viên nhà
hàng”. Vấn đề sửa sang và trang trí nhà
46


hàng được giao cho anh Sính vì anh là chủ
thầu xây dựng và có mạng lưới quan hệ với
những người làm nghề này. Chị Linh vợ
anh Sính được giao nhiệm vụ là kế toán…
Mục tiêu chung của cả nhóm là nhà hàng đi
vào hoạt động và thu được lợi nhuận.
Muốn vậy cần phải có nhiều khách hàng
tới. Để làm được điều đó, cần phải có sự
phối hợp hành động chung trong việc
quảng cáo của cả nhóm. Bên cạnh việc giới
thiệu nhà hàng cho tất cả các thành viên
khác trong bản hội và nhờ những thành
viên đó giới thiệu nhà hàng với những
người quen biết của họ(4), những người
trong nhóm còn tận dụng mạng lưới xã hội
bên ngoài của mình để đưa khách về cho
nhà hàng.
Một câu hỏi đặt ra là điều gì giúp các
thành viên có thể hợp tác làm ăn cùng nhau
và phát triển kinh doanh?
Câu trả lời quan trọng ở chỗ: giữa các
thành viên bản hội có niềm tin vào nhau.

Chúng ta biết, niềm tin là yếu tố quan trọng
trong hợp tác kinh doanh. Tại sao người ta
hợp tác với người này mà không hợp tác
với người kia? Song điều đặc biệt là niềm
tin giữa các thành viên bản hội nhiều
trường hợp không phải bắt nguồn từ niềm
tin giữa họ với nhau mà lại bắt đầu từ niềm
tin giữa họ với thần thánh và chính cùng
niềm tin với thần thánh đã làm cho niềm
tin giữa họ với nhau thêm bền chặt. Bởi
niềm tin giữa họ luôn luôn được điều chỉnh
bởi tư tưởng họ cùng con Cha con Mẹ “mà
con Cha con Mẹ ai lại đi lừa nhau”. Họ
cũng luôn tin rằng Mẫu ở trên cao, vô hình
nhưng rất sáng suốt luôn dõi theo đàn con,
nếu có sự lừa lọc dối trá nhau thì sẽ bị
trừng phạt. Niềm tin giữa các thành viên
bản hội còn được hun đúc bởi niềm tin
giữa họ với đồng Thầy, tin tưởng vào uy
tín và danh dự của đồng Thầy. Đồng Thầy

trở thành người trung gian, người tạo nên
cam kết chắc chắn cho niềm tin giữa các
thành viên trong bản hội. Quay trở lại câu
chuyện hợp tác làm ăn giữa vợ chồng chị
Linh anh Sính, anh Thà và anh Thoan,
đồng Thầy Xuyên chính là người kết nối
họ và thúc đẩy họ cùng chung chiến lược
kinh doanh và kết quả là một nhà hàng đã
ra đời.

Mặt khác, để phát triển kinh doanh,
người ta cần phải có một môi trường với hệ
thống khách hàng tiêu thụ sản phẩm. Bản
hội chính là một không gian tốt cho điều
này, bởi bản hội là một cộng đồng đông
đảo mà bản thân người này có thể là khách
hàng của người kia. Hơn nữa, bản hội là
không gian quyền lực tâm linh của đồng
Thầy - thứ quyền lực còn mạnh mẽ và
khủng khiếp hơn cả quyền lực thế tục,
quyền lực này biến tất cả các con nhang đệ
tử trở thành khách hàng một cách tự
nguyện và vô điều kiện.Thầy đồng Xuyên
lại sử dụng quyền lực tâm linh, danh dự và
uy tín của mình để bán hàng cho các con
nhang đệ tử một cách công khai. Có thể
nói, câu chuyện về kinh doanh hàng đa cấp
và khai thác vốn xã hội của đồng Thầy
Xuyên trong kinh doanh sản phẩm Amway
là sự phản ánh sống động và chân thực
những vấn đề kinh tế cũng như về mối
quan hệ giữa người với người trong xã hội
Việt Nam đương đại. Để có thể thu được
lợi nhuận trong kinh doanh đa cấp, nhiều
người đã không ngần ngại lừa trên dối
dưới, lợi dụng chức quyền, địa vị của mình
và sự tin tưởng của người khác để dụ dỗ họ
tham gia mạng lưới kinh doanh đa cấp…
gây nên những thiệt hại về kinh tế, những
vấn đề nhức nhối trong quan hệ giữa người

với người, tạo nên sự thiếu thiện cảm của
xã hội khi nhìn nhận những người kinh
doanh đa cấp. Thầy đồng Xuyên quả thật
47


có ưu thế trong việc tận dụng các con
nhang đệ tử, tận dụng sự trung thành, niềm
tin của họ để phát triển mạng lưới tiêu thụ
sản phẩm Amway, việc kinh doanh Amway
của thầy đồng Xuyên đã được che đậy một
cách tinh vi bởi tấm màn tín ngưỡng chẳng
hạn sữa tắm làm đồ lễ trên ban thờ được
Thầy giải thích là lễ vật dâng cô Bơ. Trong
thực tế, có nhiều con nhang đệ tử biết được
mục đích của Thầy Xuyên, tuy nhiên, họ
vẫn mua sản phẩm phần vì cả nể, phần vì
để lấy lòng Thầy nên “nhiều khi mua về
mà chẳng dùng”.
Việc bản hội vừa là một không gian
tâm linh nhưng cũng vừa là một môi
trường tạo cơ hội cho việc kinh doanh và
hợp tác làm ăn ảnh hưởng như thế nào tới
quan hệ giữa các thành viên? Rõ ràng khi
không còn đơn thuần là không gian tâm
linh nữa thì quan hệ giữa các thành viên
bản hội không đơn thuần là tình đồng đạo.
Mối quan hệ giữa các thành viên bản hội sẽ
trở nên sinh động, phức tạp, đan cài các
mục đích khác nhau chứ không đơn giản

một chiều. Điều này, tất nhiên sẽ ảnh
hưởng lớn tới việc tạo lập và phát triển vốn
xã hội của họ.
2.3. Bản hội đạo Mẫu: Môi trường
phát triển các dịch vụ tâm linh
Tâm linh và dịch vụ: hai đường thẳng
song song nhưng gặp nhau
Nói đến “tâm linh”, người ta nghĩ
ngay đến khái niệm được dùng trong tôn
giáo, tín ngưỡng và các nghi lễ dùng để chỉ
về những điều linh thiêng, cao cả, không
nên và không thể mua bán bằng vật chất.
“Dịch vụ” là khái niệm dùng trong lĩnh vực
kinh tế học ra đời từ thời kỳ kinh tế thị
trường mà nội hàm của nó nhấn mạnh tới
sự phục vụ, sự đáp ứng các loại hàng hóa
và thu được lợi nhuận kinh tế. Như vậy,
“tâm linh” và “dịch vụ” là hai khái niệm

với nội hàm đối lập bởi một bên thì thiêng
liêng thoát tục, một bên lại rất trần tục, tôi
gọi chúng là “hai đường thẳng song song”.
Tuy nhiên, trong bối cảnh xã hội Việt Nam
đương đại, khi tâm linh đang bị vật chất
hóa và đang nhuốm dần màu của lợi ích
kinh tế thì “tâm linh” và “dịch vụ” đã vượt
qua quy luật của hình học để gặp nhau,
hình thành nên cái gọi là “dịch vụ tâm
linh” trong đời sống tôn giáo, tín ngưỡng ở
Việt Nam. Bản hội đạo Mẫu có thể nói là

một môi trường của sự phát triển các dịch
vụ tâm linh.
Dịch vụ quanh năm: trình đồng mở phủ.
Trong nền kinh tế thị trường hiện nay,
nhất là ở các thành phố lớn nơi kinh tế thị
trường phát triển mạnh thì trình đồng mở
phủ đã trở thành một dịch vụ. Vì sao tôi lại
khẳng định điều này? Nói đến dịch vụ,
người ta không thể không nhắc đến cung
và cầu. Có thể nói, chưa bao giờ như hiện
nay nhu cầu trình đồng mở phủ lại lớn đến
vậy. Nếu như trước đây, trình đồng mở phủ
chỉ dành cho những người có căn quả, ốm
đau bệnh tật cần đến sự chữa trị của liệu
pháp tâm linh thì đội quân gia nhập “làng
đồng” hiện nay đông đảo hơn nhiều, bao
gồm cả những người không căn quả, những
người gia đồng để được làm ăn mát mẻ, để
cầu tài cầu lộc, hoặc đơn giản là để giải trí,
giải tỏa những bức xúc, căng thẳng trong
cuộc sống công nghiệp với những áp lực
cao. Đội quân đông đảo này không phải
trình đồng mở phủ chui lủi như xưa kia mà
công khai tìm kiếm, lựa chọn những đồng
Thầy và những bản hội mà người ta ưa
thích để gia nhập giống như lựa chọn một
mặt hàng, một loại dịch vụ.
Xét về phía cung, chưa bao giờ hoạt
động trình đồng mở phủ cho con nhang đệ
tử lại diễn ra tấp nập, sôi động với sự cung

ứng đa dạng các gói dịch vụ như hiện nay.
48


Để “vận hành” dịch vụ trình đồng mở phủ
cần phải có “khách hàng”. Nhưng “khách
hàng” từ đâu mà có? Đối với nhiều bản hội
thì “hữu xạ tự nhiên hương”, tiếng tăm của
đền to phủ lớn hoặc đồng Thầy cao tay
khiến “khách hàng” ùn ùn kéo đến như bản
hội đền Hàng Bạc (Hà Nội), bản hội Phủ
Dầy (Nam Định)… Tuy nhiên, có những
bản hội không thuận lợi như vậy và điều
này khiến người ta cần phải có những
chiến lược tìm kiếm và giữ chân các
“khách hàng” riêng. Việc tìm kiếm và giữ
chân đó không chỉ phụ thuộc vào khả năng
của đồng Thầy mà còn dựa vào sự giới
thiệu, hỗ trợ của các con nhang đệ tử. Cách
mà thầy đồng Xuyên thường làm để tìm
kiếm con nhang mở phủ là phán truyền.
Dựa vào khả năng “soi lòng bóc vỏ” của
mình, thầy Xuyên phán truyền “bắt bệnh”
cho những người tìm đến nhờ Thầy soi bói.
Song theo quan sát của tôi, có một sự lạm
quyền nào đó trong phán truyền của đồng
thầy Xuyên bởi hầu như ai đến soi bói
cũng được Thầy phán rằng có căn đồng(5)
(dĩ nhiên mức độ của mỗi người khác
nhau: có người căn đồng nặng phải mở phủ

trình đồng, song có người chỉ cần làm lễ trả
nợ Tứ phủ). Không chỉ phán truyền ở bản
điện của mình, thầy đồng Xuyên còn đi
nhiều nơi, gặp gỡ nhiều người và tất nhiên
những kĩ năng soi bói giúp thầy đồng
Xuyên thu nạp về bản hội của mình không
ít con nhang đệ tử góp phần mở rộng mạng
lưới thành viên bản hội của mình ra các
tỉnh thành(6) trong cả nước. Bên cạnh đó,
công nghệ thông tin và việc sử dụng các
trang mạng xã hội như facebook cũng giúp
Thầy Xuyên nhiều trong việc “tư vấn” cho
những người đang cảm thấy hoang mang
về những điều đang diễn ra với họ và gợi ý
cho họ một lối thoát(7). Thầy đồng Xuyên
làm điều này một cách nhiệt tình bởi thầy

cho rằng đó là cách thầy vâng lệnh bề trên
giúp bách gia trăm họ, song, ẩn sau những
việc làm này ta vẫn nhìn thấy những mục
đích về lợi ích kinh tế. Qua các bình luận
(comments), thầy đồng Xuyên diễn giải
những giấc mơ kì lạ, những nguyên nhân
của các bất hạnh, những tai họa bất ngờ
của những người bạn trên mạng ảo như là
dấu hiệu của căn số. Tuy nhiên, từ mạng ảo
nhiều người đã bước ra đời thực tìm gặp
thầy Xuyên và nhờ trình đồng mở phủ.
Để giữ chân các “khách hàng” ở lại
với bản hội của mình, bản thân thầy đồng

Xuyên phải có những “chiến thuật” mà
“chiến thuật” dễ nhìn thấy nhất là việc thầy
đồng Xuyên không ngừng kể về những
“chiến công” tâm linh của thầy, đã mở phủ
cho bao nhiêu người, đã cứu vớt được bao
nhiêu con nhang đệ tử ra khỏi bể khổ trầm
luân,…nói tóm lại là “quảng cáo” về năng
lực đặc biệt của thầy và làm cho các tín chủ
cảm thấy yên tâm, tin tưởng nếu như nhờ
thầy mở phủ trình đồng.. Bên cạnh đó,
chiến thuật “lướt sóng”- một thuật ngữ mà
anh Thú người làm chấp tác 14 năm tại bản
điện Phúc Minh từ nói với tôi cũng là một
cách để thầy đồng Xuyên giữ chân “khách
hàng” ở lại với mình. “Lướt sóng” theo anh
Thú có nghĩa là mở phủ ngay sau khi thầy
đồng Xuyên soi bói, nếu để một thời gian
sau mới mở phủ thì các tín chủ có cơ hội đi
đến các bản hội khác, tìm các đồng Thầy
khác và điều đó có thể dẫn tới nguy cơ họ
không quay lại Phúc Minh từ để mở phủ(8).
Để có thể chiều lòng “khách hàng”,
các đồng Thầy của các bản hội sẽ đưa ra
“các gói mở phủ” với các giá cả khác nhau
để họ lựa chọn và tùy thuộc vào hoàn cảnh
của các khách hàng mà đồng Thầy Xuyên
sẽ tư vấn xem nên chọn gói nào. Với bản
hội Phúc Minh từ, trình đồng mở phủ có ba
gói với ba mức giá: 30 triệu (nếu mở bằng
49



Dù thầy đồng Xuyên cho rằng việc mở
phủ trình đồng cho con nhang đệ tử là hành
động cứu giúp bách gia trăm họ, một công
việc hoàn toàn thiêng liêng thì những tính
toán của thầy đồng Xuyên cho thấy nghi lễ
này đã trở thành một dịch vụ và đem lại
không ít lợi ích cho Thầy, dù nó được mở
bằng mã tiểu, trung hay mã đại(9). Nói cách
khác, việc thầy đồng Xuyên mở phủ chịu,
vay tiền lãi nóng …để mở phủ cho con
nhang đệ tử là một cách làm lãi. Điều này,
một lần nữa cho ta thấy tính song hành của
tâm linh và kinh tế trong bản hội Đạo Mẫu
hiện nay.
Dịch vụ đầu năm: đi lễ xa và cắt sao
giải hạn.
Tôi gọi đi lễ xa và cắt sao giải hạn là
dịch vụ mang tính thời vụ vì chúng chỉ
diễn ra duy nhất (giải hạn) hoặc tập trung
nhất vào dịp đầu năm (đi lễ xa). Nếu đến
các bản hội vào dịp đầu năm, người ta sẽ
được chứng kiến cảnh rộn ràng của các
dịch vụ, đặc biệt là cắt sao giải hạn và nghi
lễ này diễn ra trong suốt tháng 1 âm lịch.
Trong nghi ngút khói hương, rất nhiều con
nhang đệ tử, tín chủ đến đăng kí giải hạn,
người ta rộn rã đếm xem nhà mình năm
nay có bao nhiêu sao xấu, mỗi sao cắt bao

nhiêu tiền. Thầy đồng Xuyên có hẳn một
cuốn số ghi tên “khách hàng” và những
nguyện vọng của họ. Dường như mỗi
khách hàng với điều kiện kinh tế khác
nhau, quan niệm tâm linh khác nhau sẽ có
những nguyện vọng cắt sao giải hạn không
như nhau. Thông thường thầy Xuyên làm
lễ cắt sao giải hạn tập thể và thầy gọi là
“đóng bè tập phúc”, nhiều người cùng làm
thì số tiền phải nộp sẽ ít hơn(10). Tuy nhiên,
có những người không muốn chung đàn mà
muốn làm riêng, trong trường hợp này số
tiền phải nộp cao hơn vì tất cả chi phí cho
buổi lễ họ phải chịu. Nói chung, chỉ cần

mã tiểu), 40-45 triệu (mã trung) và 60-70
triệu (mã đại). Mức giá khác nhau này
không chỉ phụ thuộc vào chất lượng mã mà
còn phụ thuộc vào địa điểm mở phủ ở tại
bản điện hay tại các đền to phủ lớn (nếu
mở tại đền to phủ lớn đồng Thầy lại phải
liên hệ với chủ điện đó và các tín chủ phải
chi thêm một khoản tiền gọi là “giọt dầu”
cho điện đó).. Không những thế, thầy đồng
Xuyên còn mở phủ chịu cho các tín chủ có
nhu cầu. Nghĩa là, theo thông thường, các
tín chủ có nhu cầu mở phủ, trước khi lễ mở
phủ diễn ra, các tín chủ này phải thanh toán
toàn bộ chi phí cho đồng Thầy và đồng
Thầy sẽ lo toan chuẩn bị tất cả cho nghi lễ,

song có những tín chủ không có hoặc
không đủ tiền thì Thầy đồng Xuyên cho nợ
và trả dần. Điều này làm tăng số lượng
“khách hàng” mở phủ tại bản điện nhưng
đôi khi lại gây nên khó khăn về tài chính
cho đồng Thầy Xuyên và buộc thầy đồng
Xuyên phải vay nợ nóng để chi trả cho
nghi lễ mở phủ của tín chủ.
Một trong những điểm đặc biệt của
bản hội Phúc Minh từ mà tôi chưa thấy ở
các bản hội nào khác đó là việc mở phủ
bằng mã tranh, thứ mã mà người ta họa
(vẽ) trên giấy. Điều này bắt nguồn từ ý
tưởng của thầy đồng Xuyên về việc tạo
điều kiện tốt hơn cho những người sát căn
Tứ phủ nhưng không có điều kiện kinh tế
để ra hầu Thánh. Theo thầy đồng Xuyên thì
việc mở phủ bằng mã tranh sẽ giúp cho
những người mở phủ “vững tâm tu dưỡng
cho phải đạo làm tôi của mình với tâm lý
thoải mái, không phải suy nghĩ quá nhiều
về đồng ngân đồng xuyến”. Tuy nhiên,
theo quan sát của tác giả thì nghi lễ này
dường như dừng lại ở ý tưởng nhiều hơn,
bởi vì cho đến nay mới chỉ có 2 người
được mở phủ theo cách này.

50



nhìn vào đàn lễ to hay nhỏ, sang hay hèn
và nhìn vào vị pháp sư cúng cho đàn lễ đó
là ai người ta sẽ biết được khách hàng cắt
sao giải hạn giàu hay nghèo, có địa vị hay
không. Có những người không muốn làm lễ
tại bản điện mà muốn làm tại gia hoặc làm
tại chùa thì thầy đồng Xuyên cũng rất “vui
lòng khách đến không vừa lòng khách đi”.
Để có thể vận hành một công việc
mang tính “thời vụ” như vậy, thầy đồng
Xuyên phải huy động sự giúp sức hết công
suất của đội ngũ chấp tác của bản điện
đồng thời kết nối với những bạn nghề
nghiệp bên ngoài đặc biệt là các pháp sư…
Việc thuê pháp sư của thầy đồng Xuyên đã
cho thấy rõ tính dịch vụ của nghi lễ cắt sao
giải hạn. Thông thường thầy Xuyên không
cúng giải hạn, thầy thường “nhận việc”
(tức nhận đăng kí làm lễ của các “khách
hàng” có nhu cầu), “thuê” người làm và tổ
chức đội ngũ thực hiện, trả công cho họ và
thu được một khoản lợi cho mình.
Đi lễ xa được thầy đồng Xuyên cho là
một hoạt động nghi lễ vô cùng thiết yếu
trong đời sống tâm linh của các tín đồ
nhằm cầu xin tài lộc, nhất là đối với các
thanh đồng non- “những con chim non vừa
mới ra đời (tức những người vừa mới trình
đồng mở phủ) thì việc “mở tuyến” đi lễ này
giúp họ trình Cha trình Mẹ để “Cha biết

mặt Mẹ biết tên”. Hàng năm, bản hội của
thầy Xuyên thường tổ chức các tuyến đi lễ
xa như Hà Nội- Lạng Sơn- Tuyên QuangLào Cai (đi đến nhiều cửa đền khác nhau
như đền Bắc Lệ- cô Chín Mìu- Cô Suối
Ngang- cô Đèo Kẻng- Mẫu Đồng ĐăngQuan Tam Phủ- Chầu Mười- Đền TrầnĐền Ông Hoàng Bảy…); Hà Nội- Nam
Định- Thái Bình; Hà Nội- Thanh HóaNghệ An (qua đền Dâu Quán Cháo- Mẫu
Hoành Sơn- Cô Chín Sòng Sơn- đền Bà
Triệu- Phố Cát- ông Hoàng Mười…).

Trước mỗi chuyến đi, thầy đồng Xuyên
thông báo kế hoạch chi tiết về việc đi đâu,
đi vào thời gian nào, ở đâu, lễ gì cho các
nhóm trưởng của bản hội. Điều đặc biệt là
những thông tin này được thầy đồng Xuyên
loan báo trên trang facebook cá nhân. Vì
vậy, việc đăng kí đi lễ không chỉ diễn ra
dưới hình thức trực tiếp tại bản hội mà còn
diễn ra gián tiếp qua facebook ( ai muốn đi
lễ thì đăng kí với thầy qua hình thức
comment (bình luận) trên facebook). Mỗi
người đi lễ phải nộp một khoản tiền nhất
định tùy thuộc vào chuyến đi xa hay gần,
ngắn hay dài ngày(11), số tiền này có thể
nộp vào lúc đến đăng kí hoặc có thể vào
hôm xuất hành. Sau khi trừ chi phí xe cộ,
đồ lễ, thuê nơi ăn chốn ngủ…số còn lại là
lợi lộc của đồng Thầy. Như vậy, không phủ
nhận ý nghĩa tâm linh của việc mở tuyến,
cũng không phủ nhận tâm ý của đồng
Thầy, tuy nhiên, việc mở các tuyến đi lễ xa

đầu năm cũng đem lại cho đồng Thầy một
khoản lợi lộc. Nhiều đồng Thầy ở các bản
hội khác còn coi việc tổ chức đi lễ xa như
một hình thức kinh doanh. Biết điều đó
nhưng con nhang đệ tử vẫn chấp nhận bởi
việc bỏ tiền ra để đi lễ xa cũng đem đến
cho họ nhiều lợi ích như được đến gần
Thánh, được thăm quan du lịch ở những
miền đất mới, được gặp gỡ nhiều người và
hơn hết họ hiểu rằng “không ai làm không
công cả, việc thầy đồng tổ chức đi lễ xa
cũng thế thôi”.
Trong thực tế các dịch vụ tâm linh của
Đạo Mẫu được thể hiện trong bản hội
phong phú hơn nhiều: có cả những dịch vụ
cầu duyên cầu tình, cắt vong cắt duyên,
dịch vụ cầu thăng quan tiến chức, cầu thi
cử đỗ đạt, cầu buôn may bán đắt…nói
chung các dịch vụ này đều hướng tới
những nhu cầu cho một cuộc sống trần thế
tốt đẹp chứ không phải hướng tới cuộc
51


sống ở cõi xa xăm sau khi con người qua
đời. Tuy nhiên, với bản hội Phúc Minh từ,
trình đồng mở phủ, đi lễ xa và cắt sao giải
hạn đầu năm là những dịch vụ quan trọng
nhất, thu hút đông đảo con nhang đệ tử và
cũng đem lại nhiều lợi ích kinh tế nhất cho

đồng Thầy.
Sự phát triển của các dịch vụ này kéo
theo hàng loạt các dịch vụ “ăn theo” khác
như dịch vụ vận chuyển (xe cộ), cung cấp
khăn chầu áo ngự, cung cấp vàng mã…và
thậm chí cả dịch vụ cho vay nặng lãi.
Tóm lại, trong bối cảnh “thị trường
tôn giáo” hiện nay, những nghi lễ của Đạo
Mẫu đã có từ lâu đời đã nâng lên thành
dịch vụ trước những nhu cầu ngày càng
cao của một bộ phận tín đồ. Những dịch vụ
này nếu đặt trong tương quan so sánh với
các tôn giáo tín ngưỡng khác như Phật
giáo, Công giáo, hay Cao Đài, Hòa Hảo thì
thực sự rất độc đáo vì thế nó hấp dẫn và có
sức quyến rũ đối với đông đảo các tín đồ
đang mong cầu một cuộc sống hiện sinh tài
lộc, công danh và sức khỏe vẹn tròn. Sự
phát triển của các dịch vụ này càng được
lan tỏa hơn, nhanh gọn và tiện lợi hơn với
sự hỗ trợ của những thành tựu công nghệ
thông tin. Việc thầy đồng Xuyên sử dụng
diễn đàn Facebook để thu hút các khách
hàng mở phủ, những người đi lễ xa và cắt
sao giải hạn là một minh chứng cho điều
đó. Sự phát triển của các dịch vụ tâm linh
đã cho thấy thần Thánh dường như đến gần
hơn với con người, thậm chí trở thành một
đối tượng để họ mặc cả và giao dịch. Tâm
linh đang dần nhuốm màu lợi ích kinh tế,

chúng song hành với nhau thậm chí òa tan
vào nhau. Nhiều đồng Thầy giờ đây lóa
mắt trước sự xa hoa mà đánh mất đạo đức
tâm linh, quên đi nhiệm vụ nhà Ngài giao
phó cho mình, cứu giúp bách gia trăm họ
mà không màng đến việc so đo được gì lợi

gì. Nhiều đồng Thầy đã không ngần ngại
đưa ra các chiêu bài dụ dỗ, dọa nạt các con
nhang đệ tử để kiếm lời. Đây chính là mặt
trái của sự phát triển các dịch vụ tâm linh.
3. Sự sâu đậm của màu sắc kinh tế
trong bản hội đạo Mẫu: Những lý giải
3.1. Kinh tế thị trường và sự
“thâm nhập” của kinh tế vào tâm linh
Có một sự “tháo cũi sổ lồng” đối với
nền kinh tế Việt Nam khi nhà nước thực
hiện chính sách đổi mới chuyển từ nền
kinh tế kế hoạch hóa tập trung quan liêu
bao cấp sang nền kinh tế hàng hóa nhiều
thành phần có sự định hướng xã hội chủ
nghĩa. Sau bao năm khủng hoảng, kinh tế
Việt Nam được bung nở và người dân được
tự do buôn bán, tự do làm giàu. Kinh tế thị
trường lên ngôi và cùng với nó là hiện
tượng “thần linh lên ngôi” (Goddess in the
rise) ở Việt Nam (chữ dùng của Philip
Taylor). Dường như đang “có một sự bộc
phát về bói toán, lên đồng, thờ cúng và
hành hương (pilgrimages) diễn ra ở Việt

Nam khi các chính sách của chính phủ đưa
đất nước hội nhập sâu chưa từng thấy với
thế giới tư bản chủ nghĩa và khi các quan
hệ thị trường đã làm biến đổi bộ mặt của xã
hội ”(12). Điều này cũng tương tự như ở
Hàn Quốc, thông qua tiểu luận “Những
Thầy Saman Hàn Quốc và tinh thần của
chủ nghĩa tư bản”, Laurel Kendall (1996)
cho rằng có một sự “trở lại” trên quy mô
lớn của các thầy pháp Saman hiện nay ở
Hàn Quốc trong mối tương liên với sự phát
triển của chủ nghĩa tư bản ở nước này.
Nhưng kinh tế thị trường có ảnh
hưởng như thế nào tới mối quan hệ giữa
tâm linh và kinh tế? Thứ nhất, rõ ràng, kinh
tế thị trường với nhiều rủi ro và bất trắc
khiến con người đặc biệt là giới kinh doanh
buôn bán tìm kiếm đến sự phù trợ của tâm
linh nhiều hơn. Nghĩa là giới kinh doanh
52


dường như đang ngày càng phụ thuộc vào
tâm linh, họ đang tự cột chặt những hoạt
động kinh tế của họ vào quyền năng của
thánh thần. Không chỉ dừng lại ở lời cầu
xin, người ta còn dùng cả vật chất và tiền tệ
để trao đổi với thần linh trong hành vi tín
ngưỡng của họ. Trần Ngọc Thêm (1997)
cho rằng một trong những đặc trưng quan

trọng trong giao tiếp của người Việt là rất
tế nhị nên dường như người Việt hay
“vòng vo tam quốc” mà không nói thẳng
vào vấn đề, thế nhưng con người trong thời
kì kinh tế thị trường đang “đặt vấn đề” với
thánh thần một cách trực diện hơn, họ
không ngừng hối lộ thánh thần, giao dịch
với thánh thần để được phù hộ. Thế nên, họ
nhét tiền lẻ vào tay Phật dù bản thân Phật
không phải là thế lực tâm linh có đặc
quyền trong phù trợ phát triển kinh tế, họ
mua xiêm y lộng lẫy khoác cho tượng thần
những mong thần linh sẽ hiểu thấu sự chu
đáo của họ mà cũng “chu đáo” lại…Nói
chung, sự vụ lợi trong quan hệ giữa người
với người trong xã hội kinh tế thị trường đã
len lỏi vào mối quan hệ giữa con người với
thần linh.
Thứ hai, sự phát triển của kinh tế thị
trường với việc đề cao lợi nhuận đã làm
xuất hiện hàng vô số các dịch vụ, len lỏi
vào các khía cạnh khác nhau của đời sống
xã hội, tâm linh tôn giáo không là ngoại lệ
dẫn đến cái gọi là “dịch vụ tâm linh”... Có
thể nói, cùng với sự lên ngôi của thánh
thần là sự lên ngôi của các dịch vụ trong
không gian tâm linh: đổi tiền lẻ, khấn thuê,
sắp lễ thuê, cho thuê thang trèo tường với
mong muốn đến nhanh hơn với thần linh,
thậm chí cho thuê lợn quay để dâng cúng

bà Chúa Xứ...Chưa bao giờ như hiện nay,
người ta chứng kiến sự sôi động thậm chí
đến mức nhộn nhạo của hoạt động kinh
doanh dịch vụ trong không gian tín ngưỡng

lẽ ra phải thanh tịnh và thiêng liêng. Tuy
nhiên, mỗi tôn giáo tín ngưỡng khác nhau
đang cung cấp những dịch vụ khác nhau.
Muốn dâng sao giải hạn, cầu an…người ta
đến với dịch vụ Phật giáo; thậm chí có
những tín ngưỡng tưởng rằng không thể
dịch vụ hóa được như thờ cúng tổ tiên cũng
đang có những sản phẩm đáp ứng nhu cầu
của con người trong xã hội hiện đại như:
bán đất nghĩa trang, trang điểm cho người
chết, cúng giỗ online… Như vậy, dường
như tâm linh đang nhuốm màu kinh tế.
Trong bối cảnh kinh tế thị trường, mối
quan hệ giữa tâm linh và kinh tế cũng trở
nên khăng khít hơn. Kinh tế thị trường phụ
thuộc nhiều hơn vào sự phù trợ của tâm
linh và ngược lại tâm linh dựa vào kinh tế
để phát triển. Vì sao các đền, phủ, chùa
được sửa sang hoặc xây mới ngày một
nhiều và vì sao các lớp tượng ngày càng
đầy đặn hơn, khang trang hơn trong các
thiết chế tôn giáo tín ngưỡng,…? Ấy chính
là kết quả của sự phát triển và hỗ trợ của
kinh tế.
Tóm lại, kinh tế thị trường có ảnh

hưởng tới mối quan hệ giữa tâm linh và
yếu tố kinh tế, cụ thể là người ta thấy tâm
linh đang dần bị kinh tế hóa. Trong bối
cảnh đó, bản hội Đạo Mẫu không thể
không bị tác động. Nơi đây không chỉ là
không gian thiêng, nơi các tín đồ đến cầu
xin những vấn đề hiện sinh như sức khỏe,
công danh sự nghiệp và tài lộc mà nó còn
là không gian để các dịch vụ tâm linh vận
hành, là môi trường để những người đồng
đạo hợp tác làm ăn buôn bán…Song, nếu
so với các cộng đồng tôn giáo, tín ngưỡng
khác ở Việt Nam thì không có cộng đồng
nào ở đó yếu tố kinh tế lại mạnh như trong
bản hội Đạo Mẫu. Mặc dù cùng chịu tác
động của kinh tế thị trường nhưng tại sao
các dịch vụ tâm linh, các hoạt động kinh
53


doanh và hợp tác làm ăn trong bản hội lại
phát triển mạnh hơn so với cộng đồng thờ
Thành hoàng, cộng đồng Phật tử hay cộng
đồng con chiên Công giáo? Và tại sao khi
muốn cầu xin sự thịnh vượng cho kinh tế,
người ta lại không tìm đến Đức Phật,
không tìm đến Chúa…mà lại tìm đến
Thánh Mẫu? Đây có thể xem là đặc quyền
tâm linh của các Thánh Mẫu, nó xuất phát
từ căn tính thương mại của Đạo Mẫu được

thể hiện qua hoàn cảnh ra đời, vị thần chủ
và nghi lễ hầu đồng của nó. Căn tính này
được khơi lên, được đề cao trong bối cảnh
kinh tế thị trường khi mà con người cần
nhiều hơn nữa sự trợ giúp về tâm linh cho
những bảo hiểm về sự trắc trở, bất an trong
hoạt động kinh doanh. Như vậy, kinh tế thị
trường chỉ là một nhân tố, căn tính của Đạo
Mẫu mới là điều quan trọng khiến cho màu
sắc kinh tế trong cộng đồng bản hội mạnh
hơn rất nhiều so với các cộng đồng tôn
giáo, tín ngưỡng khác
3.2. Căn tính của đạo Mẫu
Ra đời trong hoàn cảnh kinh tế
thương mại phát triển thế kỉ XVI- XVIII và
nhu cầu tìm kiếm biểu tượng tâm linh của
tầng lớp thương nhân.
Đạo Mẫu có thể xem là một khái niệm
mang tính diễn ngôn, mới xuất hiện gần
đây trong bối cảnh nhà nước Việt Nam
thực hiện đổi mới toàn diện trong đó có đổi
mới về tự do tôn giáo tín ngưỡng; gắn liền
với những nỗ lực của các nhà nghiên cứu
của Viện văn hóa dân gian trong việc tạo
dựng và khẳng định bản sắc dân tộc trong
sự đối chọi với xu hướng khu vực hóa, toàn
cầu hóa về văn hóa mà người có công lao
to lớn trong việc định vị khái niệm này là
GS.TS Ngô Đức Thịnh. Theo đó, Đạo
Mẫu- một thứ tín ngưỡng đặc thù của Việt

Nam được hình thành trên cơ sở gốc rễ là
tục thờ nữ thần, Mẫu thần vốn có từ lâu đời

nhưng tản mạn và rời rạc, kết hợp với
những ảnh hưởng của Đạo giáo Trung Hoa.
Cái mốc đánh dấu sự ra đời của Đạo Mẫu
là sự xuất hiện của vị thần chủ Liễu Hạnh
vào thế kỉ XVI và những truyền thuyết về
sự sinh hóa, hiển Thánh của bà kéo dài tới
tận thế kỉ XVII, XVIII.
Nếu đem truyền thuyết về Thánh Mẫu
Liễu Hạnh mà soi vào bối cảnh kinh tế xã
hội Việt Nam thế kỉ XVI- XVIII thì có thể
thấy đây là giai đoạn kinh tế thương mại
phát triển nhất trong thời kỳ phong kiến cả
về ngoại thương lẫn nội thương.
Nhiều nhà nghiên cứu cho rằng, từ thế
kỉ XVI- XVIII chế độ phong kiến Việt
Nam sau một thời gian phát triển đỉnh cao
thời kì Lê Sơ đã bước vào con đường suy
tàn với sự kiện Mạc Đăng Dung cướp ngôi,
rồi sau đó là sự phân liệt Đàng Trong và
Đàng ngoài và nội chiến liên miên. Song,
phải thừa nhận rằng, đây cũng là thời kì có
nhiều thành tựu về kinh tế đáng quan tâm
mà sự “bung nở” của kinh tế hàng hóa là
một minh chứng rõ rệt. Thực sự mà nói,
trước đó ở thời kỳ Lê Sơ nền thương
nghiệp bị kìm hãm phát triển với quốc sách
“trọng nông ức thương”. Nhưng sau đó,

nhà Mạc không lên án thương nhân, không
coi thương nhân là người vô ích, ngược lại
thương nghiệp và thành thị lại được mở
mang thời kỳ này. Không “trọng nông ức
thương”, nhà Mạc cũng không “bế quan
tỏa cảng” như nhà Hậu Lê vì thế ngoại
thương buôn bán với nước ngoài thế kỉ
XVI khá phát triển.
Tiếp nối nhà Mạc, ở thời kỳ TrịnhNguyễn phân tranh, cả hai thế lực này
muốn tranh thủ sự ủng hộ của các nước
Phương Tây hòng loại bỏ lẫn nhau nên
cũng không “bế quan tỏa cảng”. Với sự
thông thoáng trong chính sách công thương
nghiệp của nhà nước phong kiến, từ thế kỷ
54


XVI-XVII nền kinh tế hàng hóa nước ta có
sự phát triển mạnh đưa tới sự trỗi dậy và
hồi sinh của các cảng thị (city-ports) như
Phố Hiến, Kẻ Chợ, Hội An…sự xuất hiện
dày đặc của hệ thống chợ quê, sự hình
thành của không ít làng buôn (trading
villages) với phạm vi hoạt động tương đối
lớn. Và điều đặc biệt nữa là không chỉ ở
các thành thị mà ngay trong chính các làng
quê cũng xuất hiện các thương nhân
chuyên nghiệp và đang trỗi dậy khẳng định
vai trò của mình trong hệ thống tứ dân. Các
hoạt động thương nghiệp của giới này giờ

đây không chỉ là buôn bán nhỏ lẻ ở đầu
chợ cuối xóm mà có thể là những chuyến
buôn dài ngày dọc theo những tuyến đường
sông biển dày đặc.
Có thể nói, sự lớn mạnh của kinh tế
thương mại, sự trỗi dậy của tầng lớp
thương nhân đã đặt ra một vấn đề là phải
xây dựng một biểu tượng thần linh đáp ứng
nhu cầu tâm linh của họ, bảo trợ cho những
chuyến buôn trên đường sông biển đầy trắc
trở của họ. Và trong rất nhiều thần linh
hiện có của người Việt lúc bấy giờ, kể cả
Quan Âm Nam Hải- một vị thần chủ của
nghề thương mại Trung Hoa giới thương
nhân cũng không lựa chọn mà họ đã sáng
tạo nên một biểu tượng mới- Thánh Mẫu
Liễu Hạnh (tất nhiên, sự xuất hiện của
Thánh Mẫu Liễu Hạnh không đơn thuần
chỉ là kết quả của việc xây dựng biểu tượng
bảo trợ cho giới thương nhân mà còn liên
quan tới các vấn đề về giới và quyền lực
giới cũng như những nhu cầu về sự che
chở của những người dân khổ cực trong
chế độ phong kiến suy tàn…). Từ những
phân tích bối cảnh kinh tế xã hội như trên
cho phép chúng ta khẳng định Mẫu Liễu
Hạnh là “con đẻ” của tư duy Việt vào các
thế kỉ XVI-XVIII. Thực sự bà không phải
là một nhân thần như truyền thuyết đã ghi


lại mà bà là sản phẩm của lịch sử gắn với
những thương thuyền. Yêu cầu của các
thương thuyền đương thời, không thể đem
tất cả thần linh Tứ phủ đi khắp nơi mà họ
có thể đến. Do đó, như một quy luật thông
thường, sự hội tụ của các thần linh của tín
ngưỡng này lại để trở thành một đấng độc
tôn đa quyền năng đã được hình thành. Và
Thánh Mẫu Liễu Hạnh xuất thế. Con
đường đi trong không gian văn hóa dân giã
của người Việt giờ đây được chia làm hai:
một là, theo các thương thuyền, men theo
các triền sông, ven biển và các đường thiên
lý để xuất hiện ở khắp nơi; hai là, bà nhập
vào thế giới nông nghiệp để trở thành một
tối thượng thần đa tài, đa năng…(13)
Như vậy, có thể thấy, sự phát triển của
kinh tế thương mại ở thế kỉ XVI- XVIII đã
góp phần chuyển hóa tín ngưỡng thờ Mẫu
sang hai chiều hướng khác nhau nhưng vẫn
nằm trong cặp phạm trù thống nhất với tục
thờ Mẫu Tứ phủ đã ăn sâu bén rễ trong các
làng quê. Và trong hoàn cảnh mới, để thích
hợp, người ta đã hội tụ các Thánh Mẫu lại
để tạo nên một Mẫu tổng hòa, tối thượng
và linh thiêng, đó là Thánh Mẫu Liễu
Hạnh. Từ chỗ nhiều thần hội tụ lại thành
một thần, đã thích ứng với yêu cầu của các
thương thuyền và người ta có thể chở bà đi
khắp nơi để bảo hộ sự bình yên cho

họ.Tóm lại, ngay từ bối cảnh ra đời đã cho
thấy sự không tách rời giữa Đạo Mẫu với
kinh tế, cụ thể là kinh tế thương nghiệp và
điều này ảnh hưởng không nhỏ tới bản chất
của Đạo Mẫu cũng như đặc trưng của bản
hội-một cộng đồng tín đồ của Đạo Mẫu.
Thần linh mang căn tính thương nghiệp
Hiếm có một tín ngưỡng nào ở Việt
Nam mà điện thần của nó lại được bài trí
một cách bài bản và lớp lang như điện thần
Đạo Mẫu, lại hiếm có một tín ngưỡng nào
mà lực lượng thần linh trên điện thờ của nó
55


lại “hùng hậu” đến vậy (bởi trên điện thần
của Đạo Mẫu có tất cả khoảng 10 hàng với
khoảng 80 vị thần thánh(14). Có hai điều
đáng nói về thần điện này : thứ nhất, không
phải ngay từ đầu điện thần Đạo Mẫu đã
“hùng hậu” như vậy mà nó là kết quả của
một quá trình hội tụ và kết tập lâu dài. Một
trong những nhân tố kết tập ấy chính là sự
phát triển của các con đường thương mại.
Có thể nói, vai trò của thương thuyền vô
cùng quan trọng với sự phát triển của Đạo
Mẫu, nó “kết nạp” các thần linh ở địa
phương vào hệ Tứ Phủ đã góp phần tích
cực về mặt tinh thần cho sự phát triển của
thương mại ở đương thời. Ông Hoàng Bảy

Bảo Hà, tức Nùng Trí Cao ở tận miền núi
xa xôi, rồi ông Hoàng Sáu- Trần Lựu, Chầu
Mười- Hoàng Ba; ở miền Trung có Hoàng
Chín – Lê Khôi, Hoàng Mười- Nguyễn
Xí… cũng gắn với thương mại mà hội
nhập về điện thần Đạo Mẫu(15). Hai là,
nhiều vị thần của Đạo Mẫu mang căn tính
thương nghiệp mà tiêu biểu nhất đó là
Thánh Mẫu Liễu Hạnh vị thần chủ của điện
thần này. Trong “Kho tàng truyện cổ tích
Việt Nam” của Nguyễn Đổng Chi, Liễu
Hạnh được miêu tả như một người phụ nữ
có tài buôn bán:
“Sau khi xuống trần (lần thứ nhấtTG), Liễu Hạnh hóa thân thành cô gái xinh
đẹp, dựng một cái quán ở chân núi Đèo
Ngang. Đây là núi rừng vắng vẻ nhưng
cũng là nơi con đường thiên lý từ Bắc vào
Nam vắt qua, nên hàng ngày không bao giờ
ngớt khách bộ hành đi lại. Từ xưa đến nay,
vì sợ giặc cướp và thú dữ, không một ái
dám đến đó mở quán bán hàng. Vì vậy,
ngôi hàng độc nhất của Liễu Hạnh ngày
nào cũng đông khách. Bất kì ai lên đèo
xuống đèo, đã đi qua quán không thể ghé
lại nghỉ chân, huống gì trong quán lại có
một cô gái tuyệt sắc”(16)

“Lần này (lần thứ hai xuống trần- TG)
Liễu Hạnh đến đèo Ba Dội cũng là nơi
vắng vẻ, rồi dựng lên đủ các thứ hoa thơm

cỏ lạ….Ở đây có quán xá và cũng như lần
trước, Liễu Hạnh thường hóa thân thành cô
giái bán hoa quả, quà bánh, trầu nước và đồ
chơi. Ai ăn uống mua bán rồi thì không
sao, nếu giở chuyện trộm cướp trăng hoa,
lập tức nàng bị trừng trị”(17)
Nguồn tư liệu thực địa của tác giả Ngô
Đức Thịnh cũng cho biết thêm, trong lần
xuống trần lần thứ ba, Liễu Hạnh hóa thân
thành người phụ nữ bán trầu và kết duyên
cùng với một nhà Nho(18).
Như vậy, truyền thuyết kể về Thánh
Mẫu Liễu Hạnh đã phản ánh tính chất
thương nghiệp trong bản thân vị Thánh
này. Một câu hỏi đặt ra là: tại sao trong ba
lần giáng trần, Liễu Hạnh đều hóa thân là
người phụ nữ bán hàng mà không phải là
người nông dân cày cấy? Phải chăng đây là
chủ đích của tác giả dân gian phản ánh thời
kỳ vươn lên của thương nghiệp Việt Nam
thế kỷ XVI- XVIII? Và phải chăng xuất
phát từ tính chất thương mại trong nguồn
gốc của Thánh Mẫu Liễu Hạnh mà những
đệ tử tìm đến Bà như tìm đến một sự cứu
tinh cho hoạt động kinh doanh buôn bán
của họ?
Nghi lễ Đạo Mẫu thiên về cầu tài lộc.
Một trong những nghi lễ quan trọng
nhất của Đạo Mẫu là lên đồng. Đây là nghi
lễ nhập hồn nhiều lần của các vị Thánh Tứ

phủ vào thân xác của các ông bà đồng
nhằm chữa bệnh, phán truyền và cầu tài
lộc…Điểm nhấn của nghi lễ này là thông
qua người lên đồng, con nhang đệ tử có thể
giao tiếp với thần linh để cầu xin điều
mong muốn trong đó có những cầu xin làm
ăn kinh tế được thuận buồm xuôi gió. Một
điểm đặc biệt của nghi lễ lên đồng thu hút
đông đảo các tín đồ chính là việc tung lộc
56


của ông bà đồng trong lúc hầu Thánh. Lộc
có nhiều loại từ bánh kẹo, gương lược, hoa
quả cho đến tiền…Các con nhang đệ tử
chen chúc thậm chí xô đẩy nhau để dành
lấy những đồng tiền lộc đó. Chúng ta thấy
tính kinh tế được thể hiện ngay trong hành
vi phát lộc của Thánh đầy thiêng liêng. Có
thể nói, không có một cộng đồng tôn giáo
nào được phát lộc nhiều và đặc biệt là phát
lộc bằng tiền như cộng đồng tín đồ Đạo
Mẫu. Lộc trong Phật giáo chỉ là vài miếng
oản, một ít xôi gấc…; lộc của công đồng
thờ cúng Thành Hoàng là một bữa ăn cộng
cảm tại đình; Công giáo thậm chí không có
khái niệm “lộc Chúa”, không bao giờ có
cảnh chen chúc nhau trong nhà thờ để xin
lộc Chúa. Tuy nhiên, điều này lại diễn ra
một cách sôi động đối với các con nhang

đệ tử của Mẫu. Và mặc dù những đồng tiền
lộc chỉ là những đồng tiền lẻ có mệnh giá
nhỏ song với các tín đồ Đạo Mẫu thì “một
tí lộc Thánh bằng một gánh lộc trần”. Đặc
biệt đối với giới làm ăn buôn bán, tiền lộc
ấy nó giống như một loại vốn mà Thánh
Mẫu ban cho, “cấy” vào họ một niềm tin
vốn Thánh Mẫu ban cho nhất định sẽ giúp
họ buôn bán phát đạt. Nói cách khác, tiền
lộc Thánh ban có sức biểu tượng, biểu
tượng cho sự phù trợ của Thánh Mẫu đối
với người trần. Như vậy, việc ngược dòng
lịch sử tìm hiểu hoàn cảnh ra đời của Đạo
Mẫu cho ta thấy đây là một thứ tín ngưỡng
“nước đôi”. Một mặt nó vẫn là tín ngưỡng
của nông nghiệp, phù trợ cho nông nghiệp
nhưng mặt khác nó lại đại diện cho sự đang
lên của tầng lớp thương nhân trong bối
cảnh kinh tế thương nghiệp phát triển thế
kỉ XVI- XVIII (đây là nét khác biệt của
Đạo Mẫu so với lớp thờ Nữ thần và Mẫu
thần trước đó). Vị thần chủ của tín ngưỡng
này – Liễu Hạnh mang căn tính thương
nghiệp, bản thân lại là người có tài buôn

bán; nghi lễ hầu đồng- nghi lễ chính của
Đạo Mẫu lại là nghi lễ cầu tài lộc. Tất cả
những lí do này cho thấy, ngay trong bản
chất của Đạo Mẫu đã có sự gắn bó đến
không tách rời giữa yếu tố tâm linh và kinh

tế. Bởi thế, một trong những lí do con
người tìm đến với Đạo Mẫu là tìm đến sự
phù trợ của vị thần mang căn tính thương
nghiệp những mong làm ăn mát mẻ. Bản
chất đó của Đạo Mẫu được dung dưỡng,
duy trì qua các thời kì lịch sử và rồi như
lửa được tiếp thêm dầu nó bùng phát vào
thời kì kinh tế trường.
4. Kết luận
Bản hội là một không gian tâm linh
mang đậm màu sắc kinh tế. Màu sắc kinh
tế ấy không chỉ được thể hiện qua sự diễn
giải về niềm tin vào mối liên hệ giữa quyền
năng của thánh thần với hoàn cảnh kinh tế,
qua lời cầu xin của họ đối với thần linh
Đạo Mẫu cho sự phù trợ phát triển hoạt
động kinh doanh buôn bán của các tín đồ
Đạo Mẫu; qua hành vi thực hành nghi lễ đã
và đang bị dịch vụ hóa vì lợi ích mà còn
được thể hiện qua sự hợp tác làm ăn giữa
các con nhang đệ tử với nhau. Có thể nói,
sự đậm nét của màu sắc kinh tế trong
không gian tâm linh của bản hội có nguồn
gốc từ căn tính của tín ngưỡng này và trở
nên mạnh mẽ hơn trong bối cảnh xã hội
Việt Nam đương đại khi kinh tế thị trường
phát triển mạnh mẽ. Đây chính là một
trong những điều làm nên sức quyến rũ của
Đạo Mẫu và bản hội hiện nay, thu hút đông
đảo các tín đồ đến với nó, nhất là tầng lớp

thương nhân. Thậm chí có những bản hội,
người ta thấy hầu hết các thành viên của nó
là giới kinh doanh buôn bán.
Khi màu sắc kinh tế đậm nét thì bản
hội không còn đơn thuần là không gian
mang tính tâm linh nữa. Và điều này ảnh
hưởng tới mối quan hệ giữa các thành viên
57


trong bản hội. Không đơn giản là mối quan
hệ của những người đồng đạo mà thuật ngữ
chuyên môn gọi là tình bằng hữu, giữa họ
giờ đây còn có cả quan hệ của những
người làm ăn với nhau. Quan hệ của bản
hội cũng không chỉ dừng lại ở các quan hệ
nội bộ như quan hệ giữa đồng thầy với các
đệ tử, quan hệ giữa các đệ tử với nhau mà
nó còn vượt khỏi không gian nhỏ hẹp ấy
vươn rộng ra môi trường bên ngoài. Rõ
ràng, để vận hành dịch vụ trình đồng mở
phủ đồng Thầy phải kết nối với các dịch vụ
đồ mã, thậm chí với cả dịch vụ cho vay
nặng lãi, kết nối với các đền phủ bản cảnh
khác; để có thể điều hành một đoàn đi lễ
xa, thầy đồng phải kết nối với dịch vụ cho
thuê xe ô tô, dịch vụ cung cấp nơi ăn chốn
ở…Nói chung, các thành viên trong bản
hội không tồn tại tách rời nhau mà gắn bó
với nhau thành một cộng đồng; mỗi bản

hội cũng không phải là một thực thể độc
lập, bản thân nó là một thực thể với sự kết
nối đa chiều, chằng chịt với các bản hội
khác ở nhiều địa phương trong cả nước và
kết nối với các mạng lưới xã hội không
thuộc lĩnh vực tâm linh.Sự đa dạng, chồng
chéo của các mối quan hệ này chắc chắn sẽ
ảnh hưởng tới việc tạo lập vốn xã hội của
các thành viên bản hội Đạo Mẫu.

3)

Chú thích
1)

2)

Để đảm bảo đạo đức trong nghiên cứu và
đảm bảo an toàn cho tất cả các thông tín
viên, tên bản hội, tên đồng Thầy và tên các
thành viên bản hội đã được thay đổi trong
luận án.
Trong một cuộc phỏng vấn chị Linh kể với
tôi về sự phá sản của gia đình chị: “Tháng
6.2010 nhà chị bắt đầu vào công trình nhưng
chưa có chuyện gì xảy ra với chị. Nhà chị cứ
lao vào công trình. Năm 2011, nghiệm thu
công trình chị mới thấy bắt đầu là công việc
bị gánh nặng sức ép lên, nhưng dừng thì
không dừng được. Công trình đầu tiên


58

không thanh toán được, thế là lại phải gối
công trình khác để lấy tiền, cứ thế theo cái
đà đấy, cứ làm công trình thì không lấy tiền
được. Việc này kéo dài đến năm 2012, lúc
này anh chị bắt đầu phải lo đến đồng tiền,
chứ trước đó là không phải lo nghĩ gì đến
tiền, tiền bây giờ đầu tư hết vào đó rồi. Chị
nói với anh nhà chị “ôi thôi chết rồi, mình
phải nghĩ cách thôi”, chồng chị bảo “đấy là
do kinh tế thị trường, cả xã hội bị chứ”
(Phỏng vấn chị Linh, 43 tuổi)
Em Hưng kể cho tôi nghe về việc mình bị
bắt sát: “đến các giá quan, bắt đầu là quan
đệ nhất mắt em cứ trợn lên, thở phì phò, đầu
cứ lắc lắc thế này, mở mắt ra thì nó chóng
mặt, chóng mặt như kiểu say xe ấy. Gồng
mình lên thì thấy chóng mặt, đảo như là cái
quạt quay. Đến quan Đệ Nhị- Quan giám
sát, nóng giận, em không thở được nhé,
nước mũi cứ chảy ra, hai mắt trợn ngược
lên, không thể nhắm được mắt vào, cảm giác
nó kinh khủng luôn. Đến giá quan Đệ Tam
thì nhẹ hơn một tí những vẫn đảo và thở phì
phò. Quan Đệ Tứ thì nhẹ hơn một tí nữa, chỉ
hơi lắc lắc nhưng mở mắt ra là chóng mặt.
Đến Quan Đệ Ngũ thì trong tâm trí của em
vẫn biết nhưng em cứ thấy trong lòng nó

buồn, nó rầu rầu, tủi thân như kiểu mình oan
ức…lại thả lỏng tiếp… chứ gồng mình lên
thì đau đầu, hai bên thái dương nó cứ nhói
nhói, giật giật như có người lấy cái đinh
đóng vào đầu ấy. Thôi thì thả lỏng… thả
lỏng thì cứ thế khóc nấc. Đến đoạn cao trào
của hát văn là “Sông Tranh ơi hỡi Sông
Tranh”… đấy thì thôi kệ, kệ mọi người suy
nghĩ gì thì suy nghĩ, mình cứ phải khóc cho
nó đã cái đã, thế là bung thành tiếng lên để
khóc, nước mắt chảy ròng ròng” (Phỏng vấn
em Hưng, nam, 30 tuổi).
Chị Linh cũng kể về câu chuyện mình bị bắt
sát: “Ngày đó đang sốt đất, chị và một vài
anh chị em cùng cơ quan mua đất ở Hòa
Bình và nhờ một thầy cúng đến đó làm lễ.
Thầy cúng mới bảo là ở đây có đền chúa
Thác Bờ thiêng lắm.”. “Khi vào đền lễ, chị
vào lễ ở ban Mẫu Thoải, chị dập đầu, chị
đang dập đầu thế này này, ôi giời ôi chị dập
đầu như kiểu bập bênh ấy… đầu thì dập liên
hồi nhưng mà không dập xuống đất đâu nhé


4)

5)

6)


7)

8)

9)

còn chân thì cứ chổng ngược lên trời. ..Lạ kì
chị dập đầu phải hàng trăm cái ấy nhưng lại
không dập xuống đất, chị mà dập xuống đất
nhé thì chị đã bị đau đầu vêu trán. Mọi
người đứng xung quanh cứ không hiểu vì
sao mà chị có thể làm được như thế. Thế là
cô thầy cúng đi cùng cô ấy nói “thôi chết rồi
bị ốp rồi”, cô ấy xin cho và chị dừng lại”
(Phỏng vấn chị Linh, nữ, 43 tuổi)
Bản thân tác giả đã được đồng Thầy đưa cho
một tập Card của nhà hàng và nhờ giới thiệu
nhà hàng với người thân bạn bè.
Bản thân tác giả cũng được đồng Thầy
Xuyên phán rằng có căn đồng và 4 người
bạn tác giả đưa đến nhờ Thầy Xuyên soi bói
cũng được phán có căn đồng.
Tác giả đã gặp đôi vợ chồng người Lào Cai
trong một buổi lễ vào hạ tại bản điện của
thầy Xuyên và đôi vợ chồng đã kể rằng họ
gặp thầy Xuyên tại đền ông Hoàng Bảy,
thầy đồng Xuyên nhìn thấy họ và phán
nhiều điều. Cảm thấy có duyên, họ mời thầy
đồng Xuyên về nhà chơi và thầy đồng
Xuyên lại mời họ về Hà Nội dự lễ vào hạ

của bản hội. Ít lâu sau, đôi vợ chồng này đã
nhờ thầy Xuyên mở phủ trình đồng. Tác giả
cũng đã gặp và nói chuyện với chị Là người
Sài Gòn, chị kể rằng đã gặp thầy Xuyên lần
đầu tiên khi đi du lịch ở đảo Phú Quốc và
được thầy Xuyên soi bói cho mình đến nỗi
“chuẩn không cần chỉnh”. Từ cơ duyên này,
chị Là bay ra Hà Nội nhờ Thầy đồng Xuyên
mở phủ ra đồng cho mình tại đền Dầm.
Bản thân tác giả là bạn facebook của thầy
đồng Xuyên nên tác giả có cơ hội để tìm
hiểu về điều này.
Trong một cuộc phỏng vấn, anh Thú đã tâm
sự với tôi về việc này như sau: “Có những
người tối nay đến sáng mai làm luôn. Bây
giờ toàn chớp các cô đồng. Nghĩa là vấn đề
chuẩn bị, có miếng nào (ý nói có khách hàng
nào- TG) là phải làm ngay nếu không sợ
người ta đi chỗ khác. Ví dụ, Thầy soi xong,
người ta hỏi mai có làm không, nếu không
làm sợ người ta đi chỗ khác, lại phải làm
ngay” (Phỏng vấn anh Thú, nam, 53 tuổi)
Nếu mở bằng mã tiểu, “khách hàng” phải trả
cho đồng Thầy 30 triệu. Trong số 30 triệu

10)

11)

12)


13)

14)

15)

16)
17)
18)

59

đó , đồng Thầy sẽ cho các khoản sau đây:
mã (3-4 triệu), tiền cung văn (đặt cọc 2 triệu
+ khoảng 4 triệu tiền thướng văn trong các
giá hầu), tiền trả pháp sư (1,5 triệu), tiền
tung lộc (5 triệu), tiền làm lễ mặn (1 triệu),
hoa (1,5 triệu), quả (2 triệu), tiền mua bánh
kẹo các loại để phát lộc (2 triệu), trả cho
chấp tác (khoảng 1 triệu cho 5 người), một
vài khoản lặt vặt khác, …Tính ra trong lễ
tiều này đồng Thầy thu về khoảng 8 triệu
đồng (tác giả tổng hợp qua tư liệu phỏng
vấn thầy đồng Xuyên và anh Thú)
Thông thường Thầy đồng Xuyên làm lễ cắt
sao giải hạn cho khoảng từ 15 đến 20 gia
đình. Cắt mỗi sao giá 150 ngàn, mỗi một gia
đình như vậy có thể có 2,3 sao thậm chí 4,5
sao cần phải cắt.

Chẳng hạn, theo đồng thầy Xuyên thì
chuyến đi Hà Nội – Tuyên Quang trong 2
ngày một đêm thì mỗi người phải đóng 1
triệu.
Dẫn theo Oscar Selamink (2007), Tìm kiếm
an toàn tinh thần trong xã hội Việt Nam
đương đại, in trong Hiện đại và động thái
của truyền thống ở VIệt Nam: những cách
tiếp cận nhân học (quyển 2),tr1
Trần Lâm, Nguyễn Đạt Thức (2013), Vai trò
của Mẫu Liễu, thần linh liên quan, ban thờ
và nghi thức thờ cúng, Tạp chí Di sản văn
hóa, số 3, tr75
Nguyễn Thị Hiền (2010), Bệnh âm: chẩn
đoán và chữa bệnh trong lên đồng của người
Việt, in trong Hiện đại và động thái của
truyền thống ở Việt Nam: Những cách tiếp
cận nhân học, quyển 2, Nxb Đại học quốc
gia TP HCM, tr43
Trần Lâm, Nguyễn Đạt Thức (2013), Vai trò
của Mẫu Liễu, thần linh liên quan, ban thờ
và nghi thức thờ cúng, Tạp chí Di sản văn
hóa, số 3, tr75
Nguyễn Đổng Chi (1984), Kho tàng truyện
cổ tích Việt Nam, Nxb KHXH, tr1575
Nguyễn Đổng Chi (1984), Kho tàng truyện
cổ tích Việt Nam, Nxb KHXH tr1579
Tác giả xin cảm tạ Giáo sư Ngô Đức Thịnh
về việc cung cấp tư liệu điền dã này



4. Trần Lâm, Nguyễn Đạt Thức (2013), “Tục
thờ Mẫu trên dòng chảy tín ngưỡng Việt”,
Tạp chí Di sản văn hóa, số 2, tr57-62.
5. Trần Lâm, Nguyễn Đạt Thức (2013), “Vai trò
của Mẫu Liễu, thần linh liên quan, ban thờ và
nghi thức thờ cúng”, Tạp chí Di sản văn hóa,
số 3, tr75-79.
6. Oscar Selamink (2007), “Tìm kiếm an toàn
tinh thần trong xã hội Việt Nam đương đại”,
in trong Hiện đại và động thái của truyền
thống ở Việt Nam: Những cách tiếp cận nhân
học, quyển 2, tr1-22.
7. Tư liệu phỏng vấn sâu của tác giả.

TÀI LIỆU THAM KHẢO
1. Claire Chauvet (2010), “Đi lễ trong tín
ngưỡng Tứ phủ: hình thành lại bản sắc địa
phương và quốc gia ở miền Bắc Việt Nam”,
in trong Hiện đại và động thái của truyền
thống ở Việt Nam: những cách tiếp cận nhân
học, quyển 2, tr23-36.
2. Nguyễn Đổng Chi (1984), Kho tàng truyện cổ
tích Việt Nam, Nxb KHXH.
3. Nguyễn Thị Hiền (2010), “Bệnh âm: Chẩn
đoán và chữa bệnh trong lên đồng của người
Việt”, in trong Hiện đại và động thái của
truyền thống ở Việt Nam: Những cách tiếp
cận nhân học, quyển 2, Nxb Đại học quốc gia
TP HCM, tr37-51.


Ngày nhận bài: 23/12/2015

Biên tập xong: 15/02/2016

60

Duyệt đăng: 20/02/2016



×