ĐẶT VẤN ĐỀ
Hình ảnh bên giúp chúng ta liên tưởng
đến điều gì? Đó là một doanh nghiệp
thuê một phần mặt trước của ngôi nhà để
treo tấm biển quảng cáo, sau đó thu về
một số tiền do hoạt động này phát sinh.
Vậy đó có được coi là quyền hưởng
dụng hay không?
Ảnh minh họa: Cho thuê biển quảng cáo
Con người từ khi sơ khai, khi mà ý thức xã hội vẫn còn có những hạn chế nhất
định thì người nguyên thuỷ đã biết chiếm giữ những vật chất trong tự nhiên như hoa
quả, săn bắt thú rừng, sáng tạo ra công cụ lao động tham gia vào quá trình sản xuất, tạo
ra của cải vật chất, để phục vụ cho nhu cầu cơ bản nhất của con người. Xã hội loài
người không ngừng phát triển, Nhà nước ra đời cùng với đó là một thiết chế pháp lí
được đặt ra. Cùng với đó là sự điều chỉnh bằng pháp luật. Hàng ngày trong cuộc sống
bắt gặp những quan hệ dân sự mang tính chất cho người khác hưởng dụng giá trị của
tài sản do mình đang làm chủ sở hữu. Để tìm hiểu kĩ hơn về vấn đề này, em xin lựa
chọn Đề bài số 13: Đánh giá quy định pháp luật về quyền và nghĩa vụ của người
hưởng dụng, làm nội dung bài tập học kì của mình.
GIẢI QUYẾT VẤN ĐỀ
1. Khái niệm về quyền hưởng dụng
Theo quy định tại điều 257 BLDS 2015 quy định: Quyền hưởng dụng là quyền
của chủ thể được khai thác công dụng và hưởng hoa lợi lợi tức đối với tài sản thuộc
quyền sở hữu của chủ thể khác trong một thời hạn nhất định1.
Bộ luật dân sự 2005 chưa ghi nhận quyền này và cũng không có quy định nào
liên quan đến vấn đề này cả. Đến BLDS 2015 quy định về quyền hưởng dụng là một
điểm đột phá, mới mẻ, quyền này về bản chất là không làm thay đổi tính chất, chức
năng sử dụng của vật đó.
Từ đây có thể định nghĩa: Quyền hưởng dụng là quyền của chủ thể trên tài sản
thuộc sở hữu của người khác. Chủ thể được chủ sở hữu cấp quyền hưởng dụng trên tài
1 Xem điều 257 BLDS 2015
1
1
sản ( là đối tượng của quyền hưởng dụng) được cho phép sử dụng, khai thác và hưởng
lợi từ tài sản của chủ sở hữu trong một thời hạn nhất định và phải hoàn trả lại cho chủ
sở hữu tài sản sau khi hết thời hạn hưởng dụng( trừu trường hợp pháp luật có quy định
khác hoặc các bên có thỏa thuận khác).
Ví dụ:
Anh A nhà ở quận Đống Đa, anh cho một người bạn của mình quyền hưởng
dụng căn nhà của mình trong thời gian anh A đi công tác ở nước ngoài 1 năm. Thực tế
A chính là chủ sở hữu đích thực của căn nhà. Anh bạn của anh A chỉ là người hưởng
dụng. Trong thời gian quản lí này thì anh bạn của anh A có quyền hưởng dụng ( khai
thác công dụng của căn nhà, cho thuê gắn biển quảng cáo để đáp ứng nhu cầu của
người bạn này. Nhưng anh bạn này lại không có quyền được bán, tặng cho căn nhà đó.
Phải trả lại cho anh A khi anh A về nước. Trừ trường hợp 2 bên có thỏa thuận anh bạn
này vẫn tiếp tục được hưởng dụng căn nhà.
2. Bình luận về quyền và nghĩa vụ của người hưởng dụng theo quy định
pháp luật hiện hành
2.1. Căn cứ xác lập Quyền hưởng dụng
a) Theo quy định pháp luật
Trong quá trình phát triển của lịch sử nhân loại, cùng với Nhà nước pháp luật ra
đời nhằm điều chỉnh các mối quan hệ. Bên cạnh đạo đức và dư luận xã hội, pháp luật
là công cụ quan trọng chủ yếu để quản lí Nhà nước.
Nhà nước trao cho một người có quyền hưởng dụng trên tài sản của một người
khác tạo sự bình ổn trong mối quan hệ dân sự. Việc xác lập căn cứ hưởng dụng theo
quy định pháp luật tức là: Trường hợp luật quy định một chủ thể trong những điều kiện
nhất định có quyền hưởng dụng đối với tài sản của người khác. Bằng quy định của
Pháp luật nàh nước đã dành những điều kiện để bảo đảm quyền hưởng dụng được thực
hiện, tạo điều kiệnq quản lí, tránh lãng phí được tài sản2.
Ví dụ: Theo quy định tại khoản 2 điều 618 BLDS 2015: người đang chiếm hữu,
sử dụng quản lí di sản có quyền tiếp tục được sử dụng di sản theo thỏa thuận trong hợp
đồng với người để lại di sản hoặc được sự đồng ý của những người thừa kế. Bên cạnh
đó, người đang chiếm hữu, sử dụng, quản lí di sản có nghĩa vụ: bảo quản di sản, không
được quyết định định đoạt đối với di sản; phải trả lại theo thỏa thuận trong hợp đồng.
2 Nguyễn Minh Tuấn (chủ biên), Bình luận khoa học Bộ luật dân sự của nước Cộng hoà xã hội chủ nghĩa Việt
Nam, Nxb. Tư pháp, Hà Nội, 2014.
2
2
Đây là trong trường hợp di chúc chỉ định người quản lí di sản và những người
thừa kế chưa được cử làm người quản lí di sản. Và người quản lí vẫn tiếp tục sử dụng
và quản lí di sản đó cho đến khi có những người thừa kế được quản lí di sản.
b) Theo thỏa thuận của các bên
Trong BLDS năm 2015 quy định quyền hưởng dụng được xác lập thông qua sự
thỏa thuận giữa chủ sở hữu tài sản và bên được cấp quyền hưởng dụng đối với tài sản
là đối tượng của quyền hưởng dụng. Chủ sở hữu và người hưởng dụng được tự do thỏa
thuận thể hiện ý chí, mong muốn của mình về việc xác lập quyền hưởng dụng. Trong
thực tế, có rất nhiều trường hợp chủ sở hữu cấp quyền hưởng dụng cho người khác để
cho họ hưởng dụng tài sản của mình. Việc cấp quyền hưởng dụng cho người khác có
thể thông qua thoả thuận nhưng thoả thuận đó được xác lập thông qua lời nói hay
thông qua văn bản thì pháp luật chưa có quy định cụ thể đối với từng loại tài sản khác
nhau3.
Ví dụ trong trường hợp A cho quyền hưởng dụng đối với B tài sản là một căn
nhà 2 tầng bằng một thỏa thuận miệng trong thời hạn 03 năm, nhưng khi B mới sử
dụng căn nhà này chưa đến 1 năm thì A đòi lại với lý do chỉ cho mượn, chứ không phải
cho quyền hưởng dụng. Vậy trong trường hợp này thì thỏa thuận miệng có thể là căn
cứ xác lập quyền hưởng dụng cho B đối với chiếc xe ô tô hay không? Thỏa thuận
miệng có đủ mạnh để giải quyết khi có tranh chấp xảy ra? Và hậu quả pháp lý lúc này
là B sẽ phải trả lại nhà cho A, hay B sẽ được sử dụng tiếp cho đến khi hết thời hạn 03
năm?
BLDS năm 2015 chỉ dừng lại ở việc quy định quyền hưởng dụng thông qua thỏa
thuận, còn thoả thuận đó có thể được xác lập thông qua lời nói hay bằng văn bản. Do
vậy cũng rất khó đảm bảo được các quyền lợi của các bên nếu như có tranh chấp xảy
ra.
c) Theo di chúc
Di chúc là sự thể hiện ý chí của cá nhân, được hình thành bằng ý chí đơn
phương của người để lại di sản thừa kế, là một bên chủ thể trong giao dịch dân sự về
thừa kế, qua đó người lập di chúc định đoạt một phần hoặc toàn bộ tài sản của mình
cho người hưởng di sản để xác lập quyền sở hữu cho họ mà không cần biết những
3 PGS. Nguyễn Văn Cừ- PGS. Trần Thị Huệ, “Bình luận khoa học Bộ luật Dân sự của nước CHXHCN Việt
Nam năm 2015”, NXB Công an nhân dân, 2017.
3
3
người này có nhận di sản hay không. Người lập di chúc có thể định đoạt tài sản cho
một người thừa kế và để lại quyền hưởng dụng di sản cho một người khác.
Ví dụ: Ông A lập di chúc để lại tài sản là một mảnh đất cho con trai là anh B,
nhưng vì người con còn nhỏ, chưa có đủ khả năng khai thác và sử dụng mảnh đất vào
mục đích sản xuất được, do đó, để tránh việc để mảnh đất bỏ không trong nhiều năm,
ông A đã để lại quyền hưởng dụng mảnh đất đó cho bà X là em gái của ông A trong
thời hạn 05 năm.
Quyền hưởng dụng được xác lập từ thời điểm nhận chuyển giao tài sản vì để
thực hiện được việc khai thác công dụng của tài sản thì chủ thể thực hiện phải thực tế
chiếm hữu nó. Tuy nhiên nếu các bên có thỏa thuận khác hoặc luật liên quan có quy
định khác thì thời điểm xác lập quyền hưởng dụng sẽ phụ thuộc vào những sự kiện
tương xứng đó. Quyển hưởng dụng đã được xác lập sẽ có hiệu lực đối với mọi cá
nhân, pháp nhân, trừ trường hợp luật liên quan có quy định khác.
2.2. Hiệu lực quyền hưởng dụng
Theo điều 259 BLDS Việt Nam năm 2013 quy định quyền hưởng dụng được
xác lập từ thời điểm nhận chuyển giao tài sản, trừ trường hợp có thoả thuận khác hoặc
luật liên quan khác. Quyển hưởng dụng đã được xác lập có hiệu lực đối với mọi cá
nhân, pháp nhân, trừ trường hợp luật liên quan có quy định khác.
Quyền hưởng dụng được xác lập từ thời điểm nhận chuyển giao tài sản. Về
nguyên tắc, quyền hưởng dụng được xác lập từ thời điểm nhận chuyển giao tài sản, dù
hai bên đã có sự thỏa thuận cụ thể về đối tượng của quyền hưởng dụng, điều kiện và
thời hạn, quyền và nghĩa vụ của các bên..nhưng nếu chủ sở hữu chưa giao và người
hưởng đụng chưa nhận được tài sản thì chưa phát sinh hiệu lực của quyền hưởng dụng.
Như vậy, việc chiếm hữu tải sản thực tế là cơ sở để thực hiện quyền hưởng dụng.
Khỉ chủ sở hữu chuyển giao tài sản và bên hưởng dụng đã nhận thi hiệu lực củ
quyền thưởng dụng mới phát sinh. Từ thời điểm này, người hưởng dụng có quyền sử
dụng, hương hoa lợi, lợi tức từ sản hưởng dụng kể từ thời điểm nhận chuyển giao tài
sản hưởng dụng.
Theo thỏa thuận của các bên: Chủ sở hữu tài sản và người hưởng dụng có
quyền thỏa thuận về thời điểm xác lập quyển hưởng dụng, thời điểm này phụ thuộc
vào ý chí của các bên phù hợp với điều kiện của mỗi bên.
Về nguyên tắc, sự thỏa thuận là hợp đồng có hiệu lực tại thời điểm giao kết,
nhưng các bên có thể thỏa thuận hợp đồng phát sinh hiệu lực tại một thời điểm khác,
Qui định này dựa trên cơ sở nguyên tắc tự do giao dịch. Vì các bên có quyền tự do
4
4
thỏa thuận nội dung, nên cũng có quyền tự do lựa chọn thời điểm có hiệu lực của sự
thỏa thuận. Tất nhiên, các bên có thể thỏa thuận thời điểm có hiệu lực của sự thỏa
thuận khác với qui định của pháp luật, nhưng không được trái pháp luật hoặc trái với
bản chất của sự thỏa thuận.
2.3. Thời hạn hưởng quyền hưởng dụng
Theo Điều 260 BLDS năm 2015, thời hạn của quyền hưởng dụng được quy
định như sau:"1. Thời hạn của quyển hưởng dụng do các bên thỏa thuận hoặc cho luật
quy định nhưng tối đa đến hết cuộc đời của người hưởng đụng đầu tiên nếu người
khuyởng đựng cá nhân và đến khi pháp nhân thi đất tồn tại nhưng tối đa 30 năm nếu
người hưởng dụng đầu tiên là pháp nhân.2. Người hưởng dụng có quyền cho thuê
quyển hưởng đụng trong thời hạn quy định tại khoản 1 Điều này.”
Theo quy định tại Điều 144 Bộ luật dân sự 2015: Thời hạn là một khoảng thời
gian được xác định từ thời điểm này đến thời điểm khác. Giới hạn thời gian này để các
bên thực hiện nghĩa vụ của mình thông thường do các bên chủ thể thỏa thuận. Tuy
nhiên, trong trường hợp pháp luật quy định hoặc quyết định của cơ quan có thẩm
quyền ấn định khoảng thời gian này các bên chủ thể sẽ phải thực hiện
2.4. Quyền và nghĩa vụ của người hưởng dụng
Quyền
Nghĩa vụ
Thứ nhất: có quyền tự mình hoặc cho Thứ nhất: Tiếp nhận tài sản theo hiện
phép người khác khai thác, sử dụng thu trạng hoặc thực hiện đăng lý nếu có:
hoa lợi, lợi tức từ đối tượng hưởng + xuất phát từ bản chất của quyền hưởng
quyền hưởng dụng
dụng là quyền tạm thời và hướng lợi từ
+ Hoa lợi bao gồm bất cứ loại hàng hóa tài sản của người khác mà không thay
nào có thể tái tạo trên mảnh đất bao gồm đổi đặc tính của tài sản.
trái cây thực tế, vật nuôi và thậm chí là + Đăng ký nếu thấy cần thiết liên quan
cả tiền thuê được từ mảnh đất.
để nhằm bảo vệ quyền lợi người hưởng
+ Lợi tức là khoản lợi thu được từ việc dụng.
khai thác tài sản, khoản tiền lãi thu được Thứ hai: Khai thác sử dụng tài sản phù
từ cho vay...
hợp với mục đích sử dụng
Thứ hai: Yêu cầu chủ sở hữu thực hiện Thứ ba: Giữ gìn, bảo quản tài sản như tài
nghãi vụ sửa chữa đối với tài sản theo sản của mình.
quy định tại khoản 4 điều 263 BLDS Thứ tư: Bảo dưỡng, sửa chữa tài sản
2015
theo định kì để đảm bảo cho việc sử
Thứ ba: Cho thuê quyền hưởng dụng đối dụng bình thường; khôi phục tình trạng
5
5
với tài sản
của tài sản và khắc phục những hậu quả
Có quyền cho người khác thuê lại quyền xấu đối với tài sản.
hưởng dụng mà không cần sự đồng ý Thứ năm: Hoàn trả lại tài sản khi đã hết
của chủ sở hữu.
thời hạn hưởng dụng.
2.5. Chấm dứt quyền hưởng dụng
Theo điều 265 BLDS năm 2015 quyển hưởng dụng có thể chấm dứt khi hết thời
hạn hưởng dụng, theo thoả thuận của các bên ; người hưởng dụng trở thành chủ tài
sản, người hưởng dụng từ bỏ quyển hưởng dụng trong thời hạn do luật định; tài sản
hưởng dụng không còn, theo quyết định của toà án và các quy định khác của pháp luật.
Sau khi chấm dứt quyền hưởng dụng tài sản phải được hoàn trả cho chủ sở hữu,
trừ trường hợp có thoả thuận khác, hoặc theo quy định khác cuả pháp luật. Trường hợp
quyền hưởng dụng chấm dứt mà chưa đến kỳ hạn thu hoa lợi, lợi tức thì khi đến kỳ
hạn thu hoa lợi, lợi tức, người hưởng dụng được hưởng giá trị của hoa lợi, lợi tức thu
được tương ứng với thời gian người đó được quyền hưởng dụng.
Nhận xét: Mặc dù người hưởng dụng bị hạn chế về thời hạn hưởng dụng,mục
đích nội dung hưởng dụng, phải hoàn trả tài sản sau khi hết thời hạn hưởng dụng cho
chủ sở hữu. Nhưng người hưởng dụng lại được hưởng hai quyền năng rất lớn đó là
được quyền khai thác công dụng và hưởng hoa lợi, lợi tức từ tài sản đó, ngoài ra người
hưởng dụng còn được cho thuê lại quyền hưởng dụng trong thời hạn hưởng dụng mà
không cần sự đồng ý của chủ sở hữu.
Bên cạnh đó, trong thời hạn người hưởng dụng được hưởng quyền, chủ sở hữu
cũng bị hạn chế quyền rất nhiều, họ phải tạo điều kiện, không được gây cản trở cho
người hưởng dụng, thậm chí chủ sở hữu tài sản chỉ được yêu cầu Tòa án truất quyền
của người hưởng dụng khi người này vi phạm nghiêm trọng nghĩa vụ.
3. Đánh giá cá nhân về quyền và nghĩa vụ người hưởng dụng
3.1. Những nhận định chung
Việc áp dụng quyền hưởng dụng trong thực tiễn vẫn còn chưa được cụ thể, chưa
đồng bộ do điều kiện ở thời điểm hiện tại quyền này cũng chưa được vận dụng nhiều
trong đời sống dân sự. Nó chỉ được ghi nhận rất ít trong một số trường hợp sau:
Về quy định trong Bộ Luật dân sự 2015: Như đã phân tích ở phần căn cứ xác
lập quyền hưởng dụng theo quy định pháp luật thì có thể thấy được, điều luật vẫn chưa
quy định rõ ràng bởi bản chất của quyền hưởng dụng. Nếu mà cho rằng quy định tại
điều 618 là quyền hưởng dụng thì có lẽ nó còn mang tính " khiên cưỡng". Bởi lẽ về
thời hạn người quản lí, sử dụng di sản được tiếp tục sử dụng cho đến khi hết thời hạn
6
6
trong hợp đồng với người để lại di sản hoặcd dược sự đồng ý của những người thừa
kế. Điều kiện này sẽ phù hợp nếu người quản lí di sản là cá nhân. Trong trường hợp
nếu là tổ chức thì liệu rằng có đảm bảo được tối đa là 30 năm không? Bởi vì tổ chức
pháp nhân có thể giải thể hoặc bị tuyên bố là phá sản. vậy lúc đó phải giải quyết như
thế nào? Vì vậy em nhận định rằng cần có quy định chi tiết và rõ ràng hơn về vấn đề
có hay không coi quyền của người quản lí di sản là quyền hưởng dụng.
3.2. Đánh giá những ưu điểm, hạn chế quyền và nghĩa vụ của người hưởng
dụng theo quy định pháp luật hiện hành
a) Ưu điểm
Bên cạnh kế thừa có sửa đổi quy định về quyền sở hữu, BLDS năm 2015 đã bổ
sung chế định quyền khác đối với tài sản với nội hàm là quyền của chủ thể trực tiếp
nắm giữ, chi phối tài sản thuộc quyền sở hữu của chủ thể khác, bao gồm 3 quyển:
Quyền đối với bất động sản liên kể; Quyển hưởng dụng, và Quyền bề mặt.
Nhiều quy định của BLDS năm 2005 bị đánh giá là chưa thực sự tạo điều kiện
thuận lợi cho công cuộc xây dựng và phát triển của nền kinh tế thị trường định hướng
XHCN, trong đó phải kể đến BLDS năm 2015 dành rất nhiều quy định về quyền sở
hữu, trong khi đó lại có rất ít quy định về các loại quyền khác đối với tài sản (quyền
của người không phải là chủ sở hữu tài sản). Thực trạng này đã dẫn đến hậu quả là,
pháp luật dân sự Việt Nam nói chung và BLDS nói riêng chưa tạo cơ sở pháp lý đầy
đủ và thuận lợi cho việc khai thác, sử dụng một cách tiết kiệm và hiệu quả các tài sản
và các nguồn tài nguyên thiên nhiên khác của đất nước. Do đó, việc BLDS năm 2015
bổ sung các quy định mới về quyền khác đối với tài sản, đặc biệt là quyền hưởng dụng
có ý nghĩa tích cực trong việc tạo cơ sở pháp lý để có thể khai thác một cách hiệu quả
hơn tài sản trong bối cảnh mới.
Việc quy định về hiệu lực của quyền hưởng dụng như tại Điều 259 BLDS năm
2015 đã bảo đảm tính minh bạch, an toàn trong giao dịch dân sự, phân định rõ phạm vi
quyền, nghĩa vụ của quyền hưởng dụng với các quyền khác trong hợp đồng (như hợp
đồng thuê, hợp đồng ủy quyền quản lý...). Có thể thấy một trong những điểm khác biệt
cơ bản của quyền hưởng dụng so với các quyền khác đối với tài sản xác lập trên cơ sở
hợp đồng là “chủ sở hữu tài sản có quyền định đoạt tài sản nhưng không được làm hay
đổi quyển hưởng dụng đã được xác lập". Chủ sở hữu tài sản không thể đơn phương
chấm dứt hay hủy bỏ hợp đồng hưởng dụng mà chỉ được yêu cầu tòa án truất quyền
hưởng dụng trong trường hợp người hưởng dụng vi phạm nghiêm trọng nghĩa vụ của
mình" (Khoản 2 Điều 263). Như vậy, nếu người thứ ba xác lập giao dịch chuyển quyền
7
7
sở hữu với chủ sở hữu tài sản thì cũng không thể tước bỏ quyền hưởng dụng đã được
xác lập trước đó”.
Quy định về thời hạn của quyền hưởng dụng: quy định này đã thể hiện sự kế
thừa học hỏi kinh nghiệm lập pháp của các nước trên thế giới về quyền hưởng dụng.
Hầu hết luật dân sự của các nước đều quy định thời hạn được hưởng quyền hưởng
dụng của cá nhân tối đa đến hết cuộc đời của người đó (tức là đến khi người hưởng
dụng đầu tiên chết) hoặc khoảng thời gian sau 30 năm đối với pháp nhân.
Quy định quyền hưởng dụng là vật quyền độc lập với vật và phải được tôn
trọng là quy định nên, cơ bản chứng minh rõ nhất bản chất vật quyền của quyền hưởng
dụng (gắn với vật và không phụ thuộc ai là chủ sở hữu). Bản chất của vật quyền của
quyền này cũng được các nhà làm luật La Mã ghi nhận từ xa xưa khi xây dựng khái
niệm về quyền hưởng dụng
Việc ghi nhận quyền hưởng dụng trong BLDS 2015 có vai trò quan trọng trong
việc thúc đẩy giao lưu dân sự trên cơ sở tôn trọng các quy luật thị trường, tạo cơ sở
pháp lý giải quyết các tranh chấp trong trường hợp quyền khác đối với tài sản là quyền
của chủ thể trực tiếp nắm giữ, chi phối tài sản thuộc quyền sở hữu của chủ thể khác.
Qua đó, bảo đảm tốt hơn cho tài sản trong giao lưu dân sự được tối đa hóa giá trị
không chỉ bởi chủ sở hữu mà còn bởi cả người không phải là chủ sở hữu.
b) Những hạn chế
Thứ nhất, hiện nay với cách quy định của Điều 257 về quyền hưởng dụng
tương đối dễ hiểu, và đã tiệm cận với các quy định về quyền hưởng dụng của nhiều
quốc gia trên thế giới, song đặt trong tương quan với quy định về Quyền sử dụng
(Điều 189) trong BLDS năm 2015 lại không tạo nên sự khác biệt rõ nét, mà một trong
những nguyên nhân hàng đầu là nội hàm định nghĩa các khái niệm trong BLDS Việt
Nam còn chưa thực sự rõ ràng.
Điều 189 BLDS năm 2015 quy định: “Quyền sử dụng là quyền khai thác công
dụng, hương hoa lợi, lợi tức từ tài sản. Quyền sử dụng có thể được chuyển giao cho
người khác theo thỏa thuận hoặc theo quy định của pháp luật". Điều 257 BLDS năm
2015 quy định: “Quyền hưởng dụng là quyền của chủ thể được khai thác công dụng
và hưởng hoa lợi, lợi tức đối với tài sản thuộc quyền sở hữu của chủ thể khác trong
một thời hạn nhất định”.
Như vậy, có thể thấy theo cách quy định của BLDS năm 2015 thì nội | hàm của
quyền sử dụng và quyền hưởng dụng là hoàn toàn giống nhau. Như vậy theo cách quy
định có này có thể hiểu quyền hưởng dụng là quyền hưởng dụng hay không? Đây có lẽ
8
8
là một trong những nguyên nhân khiến cho nhiều người tưởng lầm hai quyển này là
một, và không thấy được sự khác biệt giữa hai quyển này.
Thứ hai, về đối tượng của quyền hưởng dụng: Theo quy định của BLDS năm
2015 thì: Tài sản là đối tượng của quyền hưởng dụng phải được hoàn trả cho chủ sở
hữu khi chấm dứt quyền hưởng dụng, trừ trường hợp có thỏa thuận khác hoặc luật có
quy định khác.
Tuy nhiên cách quy định này lại gây nhiều cách hiểu hiện nay về đối tượng của
quyền hưởng dụng là vật tiêu hao hay vật không tiêu hao hoặc là cả hai, Pháp luật Dân
sự Việt Nam chưa có quy định rõ ràng về vấn đề này.
Mục đích của hợp đồng thuê tài sản là bên thuê được sử dụng tài sản thuế trong
một thời hạn nhất định, khi hết thời hạn đó bên thuê phải trả lại cho bên cho thuê chính
tài sản đà thuế nên đối tượng của hợp đồng thuê tài sản phải là vật đặc định và không
tiêu hao. Khi hết kỳ hạn thuê, người thuê tài sản phải trả lại bên cho thuê chính tài sản
đã thuê. Trong trường hợp tài sản thuê bị mất mát hoặc tiêu hủy, thì bên thuê tài sản
phải bồi thường bằng tiền đối với giá trị của tài sản thuê. Khi muốn đưa vật cùng loại
vào cho thuê thì bên cho thuê phải đặc định hóa vật cùng loại đó.
Như vậy, theo logic thì có thể hiểu muốn cho thuê được quyền hưởng dụng thì
tài sản là đối tượng của quyền hưởng dụng phải là vật đặc định và không tiêu hao.
Đồng thời, Điều 266 BLDS 2015 quy định: “Tài sản là đối tượng của quyền hưởng
dụng phải được hoàn trả cho chủ sở hữu khi chấm dứt quyền, trừ trường hợp có thỏa
thuận khác hoặc luật có quy định khác”.
Do đó, đối tượng của quyền hưởng dụng theo quy định của BLDS 2015 phải là
vật không tiêu hao. Nhưng nếu đối tượng của quyền hưởng dụng chỉ được hiểu là vật
không tiêu hao thì có phải vẫn còn thiếu sót? Bởi lẽ bởi đối tượng của vật quyền là tài
sản mà bao gồm nhiều loại tài sản khác nhau có thể là vật tiêu hao, vật không tiêu hao,
có thể là tài sản hữu hình hoặc tài sản vô hình. Do vậy, để thực hiện được quyền hưởng
dụng đối với những vật mang tính chất hữu hình và không tiêu hao thì việc thực hiện
quyền hưởng dụng rất dễ dàng. Nhưng đối với các loại tài sản khác (vật tiêu hao, tài
sản vô hình...) thì có thể thực hiện được quyền hưởng dụng hay không thi pháp luật
chưa có những quy định cụ thể.
9
9
Để giải quyết vấn đề này, pháp luật nhiều nước trên thế giới đã có những quy
định bổ sung về việc cấp quyền hưởng dụng đối với tài sản là vật tiêu hao, do trong
quá trình hưởng quyền đối với một số tài sản buộc phải gắn với việc tiêu dùng, để giúp
cho chủ sở hữu tài sản có thể cấp quyền hưởng dụng của mình nhưng vẫn có thể thu
hồi được tài sản sau khi kết thúc thời gian hưởng dụng.
Tuy nhiên, Điều 587 BLDS Pháp cũng quy định: “Nếu quyền hưởng dụng đối
với tài sản mà khi sử dụng nó thì phải đi cùng với việc tiêu dùng nó (vật tiêu hao như
tiền, thóc gạo, ngũ cốc, rượu...thì người hưởng dụng có quyền sử dụng tài sản đó,
nhưng phải có trách nhiệm hoàn trả tài sản này bằng vật có cùng chủng loại hoặc
hoàn trả bằng giá trị của tài sản tại thời điểm hoàn trả sau khi hưởng dụng.
Như vậy, trong trường hợp, khi hưởng dụng đối với tài sản là vật tiêu hao, thì
việc hoàn trả nguyên trạng tài sản như lúc ban đầu là không thể, do đó, quy định của
pháp luật đã tạo cơ sở pháp lý giải quyết cho trường hợp khi tài sản hưởng dụng bị tiêu
hao, mất đi giá trị ban đầu sử dụng, thì người hưởng dụng phải có nghĩa vụ hoàn trả
bằng hình thức “dùng vật cùng chủng loại” hoặc “hoàn trả bằng giá trị của tài sản tại
thời điểm hoàn trả sau khi hưởng dụng”.
Như vậy, cần phải có những quy định sửa đổi, bổ sung quy định để làm rõ và
cụ thể hơn về đối tượng của quyền hưởng dụng, để tạo cơ sở pháp lý để chủ sở hữu có
thể thu hồi được tài sản sau khi hết thời hạn hưởng dụng.
Thứ ba, về căn cứ xác lập quyền hưởng dụng: theo quy định tại Điều 258
BLDS 2015 thì căn cứ xác lập quyền hưởng dụng theo quy định của luật, | theo thoả
thuận, theo di chúc. Tuy nhiên, căn cứ về xác lập quyền hưởng dụng theo quy định của
pháp luật vẫn đang bị bỏ ngỏ vì chưa có những quy định của pháp luật cụ thể nào cho
phép người nào đó được quyền hưởng dụng tài sản. Cần có các văn bản hướng dẫn cụ
thể vấn đề này trong thời gian tới.
Thứ tư, về xác định thời điểm có hiệu lực của quyền hưởng dụng. Theo quy
định của pháp luật, quyền hưởng dụng được xác lập từ thời điểm nhận chuyển giao tài
sản, trừ trường hợp có thoả thuận khác hoặc luật liên quan có quy định khác.
Như vậy, việc chuyển giao các loại tài sản là đối tượng của quyền hưởng dụng
là động sản thì có thể dễ dàng xác định được thời điểm có hiệu lực của quyền hưởng
dụng. Còn đối với tài sản là bất động sản thì quyền hưởng dụng được xác lập khi nào?
10
10
Theo Khoản 1, 2 Điều 106 BLDS 2015 thì quyền hưởng dụng đối với tài sản là bất
động sản phải được đăng ký theo quy định của pháp luật dân sự và pháp luật về đăng
ký tài sản. Quyền hưởng dụng đối với tài sản là động sản không phải đăng ký, trừ
trường hợp pháp luật về đăng ký tài sản có quy định khác.
Thứ năm, về quy định phương thức ghi nhận quyền hưởng dụng.
Theo quy định tại Điều 262 BLDS năm 2015 thì người hưởng dụng có nghĩa vụ
đăng ký. Tuy nhiên, nghĩa vụ đăng ký này chủ yếu chỉ đặt ra với bất động sản. Còn đối
với đối tượng của quyền hưởng dụng là động sản thì không phải đăng ký, trừ trường
hợp pháp luật về đăng ký tài sản có quy định khác. Nhìn dưới góc độ để tránh rườm rà
trong thủ tục đăng ký tài sản thì quy định này tương đối phù hợp. Song, liên quan đến
quy trình, thủ tục đăng ký quyền hưởng dụng, cũng như việc xác định cơ quan có thẩm
quyền nào có trách nhiệm cấp quyền hưởng dụng vẫn chưa được quy định cụ thể. Cơ
quan nào sẽ là đơn vị chủ trì thực hiện việc đăng ký tài sản và đăng ký quyền tài sản
(Bộ | Tư pháp hay Bộ Tài nguyên môi trường?).
Bên cạnh đó, một vấn đề đặt ra là làm thế nào để bảo vệ quyền lợi của các chủ
thể trong trường hợp đối tượng của quyền hưởng dụng là tài sản không phải đăng kí và
trong trường hợp giao dịch xác lập bằng lời nói, hành vi mà không phải bằng văn bản
thi khi xảy ra tranh chấp đâu sẽ được coi là căn cứ để giải quyết tranh chấp?
Ví dụ: ông A là chủ sở hữu của một đàn gà 10 con, ông A đồng ý cho bà B – là
hàng xóm - được phép hưởng dụng đàn gà này trong 01 năm bằng thỏa thuận miệng.
Nhưng sau khi bà B nhận đàn gà và chăm đàn gà được 03 tháng thì ông A đòi lại đàn
gà, và nói rằng chỉ cho bà B mượn đàn gà chứ không phải cho bà B quyền hưởng dụng
với đàn gà đó. Vậy trong trường hợp này căn cứ để bảo vệ quyền lợi cho bà B rất yếu,
và có thể bà B buộc phải trả lại đàn gả và cũng như lãng phí công chăm sóc đàn gà 03
tháng qua.
Vì quyền hưởng dụng lần đầu được quy định trong BLDS năm 2015 nên vẫn
cần một thời gian áp dụng vào thực tiễn mới có thể có cái nhìn cụ thể và tổng quát hơn
về việc áp dụng quyển này trong các quan hệ xã hội Việt Nam. Song với quy định về
quyền hưởng dụng đã được phân tích, có thể thấy trước được quyền hưởng dụng trong
tương lai sẽ có vị trí rất quan trọng và được sử dụng rất nhiều trong thực tiễn. Đảm bảo
tài sản là hàng hóa trong giao lưu dân sự được lưu thông không ngừng dưới nhiều hình
thức, được khai thác lợi ích bởi không chỉ chủ sở hữu mà còn bởi người không phải
chủ sở hữu.
11
11
Trên đây là những ý kiến cá nhân về việc áp dụng quyền hưởng dụng trên thực
tế. Và khi xảy ra trên thực tế, nó rất phức tạp và khó lường trước được những tình
huống có thể phát sinh. Do vậy, để đảm bảo được quyền lợi của đôi bên thì cần phải có
những quy định cụ thể cho vấn đề quyền hưởng dụng.
KẾT THÚC VẤN ĐỀ
Trong xã hội hiện đại, trước yêu cầu phải khai thác tiết kiệm và hiệu quả mọi tài
sản trong xã hội, nên các vật quyền khác ngoài quyền sở hữu nói chung và quyền
hưởng dụng nói riêng được pháp luật của nhiều quốc gia trên thế giới quan tâm, ghi
nhận và bảo vệ. Đặc biệt, ở Việt Nam ta, xuất phát từ các đặc thù của chế độ chính trị,
kinh tế, đặc biệt là chế độ sở hữu toàn dân về một số tài sản đặc biệt nên đã xuất hiện
các tiền đề kinh tế - xã hội cho việc hình thành các loại vật quyền khác và BLDS cũng
như các luật chuyên ngành khác có trách nhiệm ghi nhận và bảo vệ chúng. Mặc dù
việc quy định quyền hưởng dụng trong BLDS năm 2015 vẫn còn nhiều vấn đề gây
tranh cãi và cần có thực tiễn áp dụng để phản ảnh một cách khách quan nhất thì việc
đưa quyền hưởng dụng vào trong BLDS năm 2015 là một bước đi táo bạo và đáng ghi
nhận.
DANH MỤC TÀI LIỆU THAM KHẢO
1. Giáo trình Luật dân sự, tập 1, Trường Đại học Luật Hà Nội, Nxb CAND, 2014
2. Hướng dẫn học môn Luật dân sự 1, TS. Phạm Văn Tuyết, Trường Đại học Luật
Hà Nội, 2017
3. Bình Luận khoa học Bộ luật dân sự 2015, PGS.TS Nguyễn Văn Cừ, PGS.TS
Trần Thị Huệ, Nxb Công an nhân dân.
4. Bộ luật dân sự 2015.
5. Luận Văn thạc sĩ luật học: Quyền hưởng dụng theo quy định pháp luật hiện
hành, Đào Thị Tú Uyên, trường đại học Luật Hà Nội.
6. Trường Đại học Luật Hà Nội, Các biện pháp bảo vệ quyền sở hữu trong
pháp luật dân sự Việt Nam, Đề tài nghiên cứu khoa học cấp trường, Hà Nội,
2007.
12
12
MỤC LỤC
Trang
MỤC TÀI LIỆU THAM KHẢO
13
13