1
MỤC LỤC
MỞ
ĐẦU........................................................................................................1
Chương 1: MỘT SỐ VẤN ĐỀ LÝ LUẬN VỀ QUẢN LÝ CÁN BỘ,
CÔNG CHỨC CẤP XÃ...............................................................................
.........................................................................................................................
9
1.1. Một số khái
niệm............................................................................
.........................................................................................................................
9
1.2. Nội dung, đặc điểm của hoạt động quản lý cán bộ, công
chức cấp xã..........................................................................................
.........................................................................................................................
17
1.3. Sự cần thiết phải quản lý cán bộ, công chức cấp
xã.......................
Chương 2: QUẢN LÝ CÁN BỘ, CÔNG CHỨC CẤP XÃ Ở HUYỆN
PHÚC THỌ, THÀNH PHỐ HÀ NỘI - THỰC TRẠNG, NGUYÊN
NHÂN VÀ BÀI HỌC KINH NGHIỆM.....................................................
.........................................................................................................................
41
2.1. Một số nét khái quát về đặc điểm và những yếu tố tác động đến
quản lý cán bộ, công chức cấp xã ở huyện Phúc Thọ, thành phố Hà Nội.......
.........................................................................................................................
41
2.2. Thực trạng về quản lý đội ngũ cán bộ, công chức cấp xã ở huyện
Phúc Thọ, thành phố Hà Nội thời gian qua.....................................................
.........................................................................................................................
49
2.3. Bài học kinh nghiệm......................................................................
.........................................................................................................................
72
Chương 3: PHƯƠNG HƯƠNG, GIẢI PHÁP NÂNG CAO VIỆC
QUẢN LÝ CÁN BỘ, CÔNG CHỨC CẤP XÃ Ở HUYỆN PHÚC THỌ,
THÀNH PHỐ HÀ NỘI HIỆN
NAY...........................................................................
.........................................................................................................................
76
3.1. Phương hướng nâng cao quản lý đội ngũ cán bộ, công chức cấp
xã ở huyện Phúc Thọ, thành phố Hà
2
Nội.............................................................
.........................................................................................................................
76
3.2. Một số giải pháp cơ bản nâng cao hiệu quả quản lý đội ngũ cán
bộ, công chức cấp xã ở huyện Phúc Thọ, thành phố Hà
Nội...............................
.........................................................................................................................
85
KẾT LUẬN
.......................................................................................................................
106
TÀI LIỆU THAM KHẢO
PHỤ LỤC
3
DANH MỤC BẢNG, BIỂU ĐỒ
Bảng 2.1. Tổng hợp kết quả tuyển dụng công chức cấp xã từ năm
2010 - 2014.............................................................................................................
50
Bảng 2.2. Tổng hợp kết quả đào tạo, bồi dưỡng cán bộ, công chức
cấp xã từ năm 2010 - Quý I/2015 tại Trung tâm Bồi dưỡng chính trị huyện
Phúc Thọ.................................................................................................................
55
Biểu đồ 2.1. So sánh sử dụng cán bộ, công chức cấp xã là nữ, trẻ năm
2010 và 2014...........................................................................................................
52
Biểu đồ 2.2. Kết quả công tác quy hoạch ủy viên ban chấp hành, ban
thường vụ đảng ủy xã, thị trấn năm 2014 (nhiệm kỳ 2015 - 2020).........................
53
Biểu đồ 2.3. So sánh trình độ cán bộ, công chức cấp xã năm 2010
và 2014....................................................................................................................
56
Biểu đồ 2.4. So sánh kết quả đánh giá, phân loại cán bộ, công chức
cấp xã......................................................................................................................
57
Biểu đồ 2.5. Số lượng cán bộ, công chức cấp xã năm 2014.
.................................................................................................................................
63
4
Biểu đồ 2.6. Thống kê số cán bộ, công chức cấp xã có trình độ học vấn
trung học cơ sở và chưa qua đào tạo năm 2014.......................................................
67
5
MỞ ĐẦU
1. Lý do chọn đề tài
Đội ngũ cán bộ, công chức nói chung và đội ngũ cán bộ, công chức ở
cấp xã nói riêng có vị trí, vai trò đặc biệt quan trọng, là nhân tố quan trọng
góp phần vào những thắng lợi của phong trào cách mạng trước đây, hiện nay
và kể cả sau này. Nghị quyết Hội nghị lần thứ 3 Ban Chấp hành Trung ương
Đảng khóa VIII về Chiến lược cán bộ thời kỳ đẩy mạnh công nghiệp hóa,
hiện đại hóa đất nước đã khẳng định: “Cán bộ là nhân tố quyết định sự thành
bại của cách mạng gắn liền với vận mệnh của đất nước và của chế độ, là
khâu then chốt trong công tác xây dựng Đảng” [8, tr.66].
Trong giai đoạn hiện nay, đất nước ta đang bước vào thời kỳ đẩy mạnh
công nghiệp hóa, hiện đại hóa và mở rộng hội nhập quốc tế, sự phát triển
mạnh mẽ của khoa học, công nghệ...Tình hình mới đó đưa đến những nhiệm
vụ chính trị mới rất nặng nề, khó khăn và phức tạp, đòi hỏi công tác quản lý
đội ngũ cán bộ, công chức, đặc biệt là quản lý cán bộ, công chức ở cấp xã
phải được nâng cao đáp ứng yêu cầu nhiệm vụ cách mạng mới. Mặt khác, cấp
xã là cấp hành chính cuối cùng trong hệ thống hành chính bốn cấp, là địa bàn
triển khai những chủ trương, chính sách của Đảng và Nhà nước trên các lĩnh
vực kinh tế - xã hội đến với nhân dân. Do đó, sự nghiệp đổi mới đất nước
muốn thành công phải tạo được sự chuyển biến tích cực từ cơ sở, mà sự
chuyển biến ở cơ sở lại phụ thuộc rất lớn vào công tác quản lý và sử dụng đội
ngũ cán bộ, công chức cấp xã.
Phúc Thọ là huyện ngoại thành của thành phố Hà Nội, trong những
năm qua, huyện đã đạt được những thành tựu to lớn và toàn diện. Để có được
những thành tựu trên là nhờ có sự đóng góp to lớn của đội ngũ cán bộ, công
chức ở cấp xã. Họ thực sự là lực lượng nòng cốt trong các phong trào ở cơ sở,
thúc đẩy các hoạt động ở cơ sở phát triển. Tuy vậy, trước yêu cầu nhiệm vụ
6
cách mạng mới, công tác quản lý đội ngũ cán bộ, công chức ở cấp xã trên địa
bàn huyện đã bộc lộ những bất cập, hạn chế như: Công tác quản lý còn thiếu
sự phối hợp, gắn kết giữa các đơn vị; việc quản lý ở một số nơi còn buông
lỏng, thực hiện chưa đồng bộ, chồng chéo …Vì vậy, công tác quản lý đội ngũ
cán bộ, công chức ở cấp xã đang được đặt ra bức thiết nhằm đáp ứng yêu cầu
sự nghiệp công nghiệp hóa, hiện đại hóa nông nghiệp, nông thôn trên địa bàn
huyện Phúc Thọ, thành phố Hà Nội hiện nay.
Nhận thức rõ được tầm quan trọng của vấn đề trên và để góp phần cùng
với Đảng bộ, chính quyền địa phương nâng cao hiệu quả công tác quản lý đội
ngũ cán bộ, công chức ở cấp xã trên địa bàn huyện Phúc Thọ đáp ứng yêu cầu
tình hình mới, tác giả chọn đề tài: “Quản lý cán bộ, công chức ở cấp xã trên
địa bàn huyện Phúc Thọ, thành phố Hà Nội hiện nay” để làm luận văn tốt
nghiệp thạc sĩ xây dựng Đảng và chính quyền Nhà nước.
2. Tình hình nghiên cứu liên quan đến đề tài
Quản lý đội ngũ cán bộ, công chức ở cấp xã đáp ứng yêu cầu của quá
trình đổi mới đất nước là vấn đề quan trọng, luôn nhận được sự quan tâm của
Đảng, Nhà nước và các nhà nghiên cứu. Đặc biệt, khi Trung ương Đảng ban
hành Nghị quyết Trung ương 3 khóa VIII về Chiến lược cán bộ thời kỳ đẩy
mạnh công nghiệp hóa, hiện đại hóa đất nước đã có rất nhiều công trình
nghiên cứu của các nhà khoa học nghiên cứu về vấn đề này cụ thể như:
- Các đề tài khoa học, sách:
Nguyễn Phú Trọng, Trần Xuân Sầm (đồng chủ biên): “Luận cứ khoa
học cho việc nâng cao chất lượng đội ngũ cán bộ trong thời kỳ đẩy mạnh công
nghiệp hóa, hiện đại hóa đất nước”, Nhà xuất bản Chính trị quốc gia, Hà Nội,
2003. Các tác giả đã đưa ra những cơ sở lý luận của việc sử dụng tiêu chuẩn
cán bộ trong công tác cán bộ; những kinh nghiệm xây dựng tiêu chuẩn cán bộ
của Đảng phù hợp với từng giai đoạn cách mạng; đưa ra những quan điểm,
phương hướng chung để nâng cao chất lượng công tác cán bộ. Những luận cứ
7
khoa học của đề tài là cơ sở để luận văn tiếp thu chọn lọc, làm căn cứ để đánh
giá công tác quản lý đội ngũ cán bộ, công chức cấp xã ở địa phương hiện nay.
Nguyễn Văn Sáu, Hồ Văn Thông (chủ biên): “Thực hiện quy chế dân
chủ và xây dựng chính quyền cấp xã ở nước ta hiện nay”, Nhà xuất bản Chính
trị quốc gia, Hà Nội, 2003. Đề tài làm rõ những vấn đề lý luận về dân chủ, quy
chế dân chủ và xây dựng chính quyền cấp xã; từ thực trạng thực hiện quy chế
và xây dựng chính quyền cấp xã ở nước ta trong thời gian vừa qua; đưa ra giải
pháp thực hiện quy chế dân chủ và xây dựng chính quyền cấp xã ở nước ta hiện
nay. Những lý luận về chính quyền cấp xã của đề tài được luận văn tiếp thu để
làm rõ những căn cứ lý luận quản lý tốt đội ngũ cán bộ, công chức cấp xã.
Thang Văn Phúc (chủ nhiệm đề tài): “Xây dựng đội ngũ cán bộ, công
chức đáp ứng đòi hỏi của nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa của dân, do
dân, vì dân”, Học viện Chính trị quốc gia Hồ Chí Minh, Hà Nội, 2004. Trên
cơ sở lý luận và thực tiễn của việc xây dựng đội ngũ cán bộ, công chức đáp
ứng đòi hỏi của Nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa; tác giả đã khảo sát
thực trạng đội ngũ cán bộ, công chức và thể chế quản lý cán bộ, công chức
hiện nay; từ đó tập trung vào các biện pháp nhằm xây dựng đội ngũ cán bộ,
công chức vững mạnh. Luận văn có sự kế thừa và phát triển những luận cứ về
tính tất yếu phải xây dựng đội ngũ cán bộ, công chức đáp ứng yêu cầu giai
đoạn hiện nay.
Vũ Văn Phúc, Nguyễn Duy Hùng (đồng chủ biên): “Phát triển nguồn
nhân lực đáp ứng yêu cầu công nghiệp hóa, hiện đại hóa và hội nhập quốc
tế”, Nhà xuất bản Chính trị quốc gia, Hà Nội, 2012. Cuốn sách đã trình bày
một số khái niệm cơ bản về nhân lực, nguồn nhân lực, phân tích đặc điểm của
nguồn nhân lực Việt Nam, những vấn đề cơ bản để phát triển nguồn nhân lực
đáp ứng yêu cầu công nghiệp hóa, hiện đại hóa và hội nhập quốc tế. Trong đó
các tác giả có đề cập đến vai trò của nguồn nhân lực chất lượng cao mà Luận
8
văn có sự kế thừa và phát triển thêm để làm sáng tỏ vai trò của đội ngũ cán
bộ, công chức cấp xã hiện nay.
- Các luận án tiến sĩ, luận văn thạc sĩ:
Trần Duy Hưng: “Xây dựng đội ngũ cán bộ chủ chốt của hệ thống
chính trị cấp huyện ở thành phố Hà Nội trong giai đoạn hiện nay”, Luận văn
thạc sĩ Lịch sử, 2002. Tác giả đưa ra những cơ sở lý luận, thực tiễn của việc
xây dựng đội ngũ cán bộ chủ chốt của hệ thống chính trị cấp huyện; phân tích
thực trạng, nguyên nhân và những kinh nghiệm của quá trình xây dựng đội
ngũ cán bộ chủ chốt của hệ thống chính trị cấp huyện ở thành phố Hà Nội
trong thời gian qua; đưa ra phương hướng và giải pháp chủ yếu nhằm xây
dựng đội ngũ cán bộ chủ chốt của hệ thống chính trị cấp huyện ở thành phố
Hà Nội hiện nay trong đó có những giải pháp được luận văn sử dụng và phát
triển cho phù hợp.
Dương Hương Sơn: “Nâng cao chất lượng đội ngũ cán bộ, công chức
chính quyền cấp xã ở tỉnh Quảng Trị hiện nay”, Luận văn thạc sĩ Luật học,
Học viện Chính trị quốc gia Hồ Chí Minh, 2004. Tác giả làm rõ cơ sở lý luận
của việc nâng cao chất lượng đội ngũ cán bộ, công chức chính quyền cấp xã;
từ đó đánh giá thực trạng chất lượng đội ngũ cán bộ, công chức chính quyền
cấp xã ở tỉnh Quảng Trị trong những năm qua; đưa ra các quan điểm, giải
pháp chủ yếu nâng cao chất lượng đội ngũ cán bộ, công chức chính quyền cấp
xã ở tỉnh Quảng Trị những năm tiếp theo. Tuy có góc độ nghiên cứu khác
nhau, nhưng những luận cứ mà đề tài đưa ra là cơ sở quan trọng để luận văn
tiếp thu, hoàn thiện luận văn, nhất là các luận cứ trong phần giải pháp.
Trần Anh Tuấn: “Hoàn thiện thể chế quản lý công chức ở Việt Nam
trong điều kiện phát triển và hội nhập quốc tế”, Luận án tiến sĩ kinh tế, Đại
học Kinh tế quốc dân, 2007. Luận án đã hệ thống hoá lý luận cơ bản về công
chức, các nội dung quản lý công chức và hệ thống thể chế quản lý đội ngũ
công chức đáp ứng yêu cầu của thời kỳ phát triển và hội nhập quốc tế. Đánh
9
giá thực trạng của hệ thống thể chế quản lý đội ngũ công chức hiện nay. Từ
đó, đưa ra những quan điểm, đề xuất phương hướng và một số giải pháp để
hoàn thiện thể chế quản lý đội ngũ công chức đáp ứng yêu cầu hiện nay.
Những đánh giá về công tác quản lý công chức chính là căn cứ để luận văn
đưa ra những nội dung quản lý cán bộ, công chức cấp xã.
Trần Thị Kim Dung: “cán bộ, công chức cấp xã ở tỉnh Bắc Giang trong
giai đoạn hiện nay”, Luận văn thạc sĩ Luật học, 2011. Luân văn đã làm rõ
những vấn đề lý luận về cấp xã, về đội ngũ cán bộ, công chức cấp xã. Trên cơ
sở phân tích thực trạng đội ngũ cán bộ, công chức cấp xã ở tỉnh Bắc Giang,
luận văn đã nêu ra các quan điểm, phương hướng và giải pháp cơ bản nhằm
nâng cao chất lượng đội ngũ cán bộ, công chức cấp xã đáp ứng yêu cầu cải
cách hành chính Nhà nước phù hợp với điều kiện phát triển của tỉnh Bắc
Giang trong giai đoạn hiện nay.
Phạm Trọng La: “Quản lý và sử dụng cán bộ, công chức trẻ ở cấp xã
của thành phố Hà Nội (Từ thực tiễn huyện Đông Anh)”, Luận văn thạc sĩ
Quản lý hành chính công, Học viện Hành chính quốc gia, 2011. Trên cơ sở lý
luận và thực tiễn về quản lý và sử dụng đội ngũ cán bộ, công chức trẻ ở cấp
xã thuộc các huyện ngoại thành ở Hà Nội (Từ thực tiễn huyện Đông Anh),
luận văn đã phân tích đánh giá tình hình, tìm ra những nguyên nhân của
những tồn tại, bất cập trong các khâu của quản lý và sử dụng đội ngũ cán bộ,
công chức nói chung, cán bộ, công chức trẻ cấp xã nói riêng và đề xuất những
giải pháp nhằm nâng cao hiệu quả sử dụng đội ngũ này trong quản lý Nhà
nước. Đây là đề tài có góc độ nghiên cứu tương đối gần so với luận văn, có
nhiều nội dung có liên quan. Là cơ sở để triển khai luận văn, nhất là phần cơ
sở lý luận và thực tiễn.
Đỗ Thị Diệp: “Chất lượng đội ngũ cán bộ chủ chốt các xã ở tỉnh Sơn
La hiện nay”, Luận văn thạc sĩ Xây dựng Đảng và chính quyền Nhà nước,
Học viện Báo chí và Tuyên truyền, 2012. Luận văn làm sáng tỏ những vấn đề
10
lý luận và thực tiễn của chất lượng đội ngũ cán bộ chủ chốt cấp xã hiện nay;
khảo sát, đánh giá thực trạng chất lượng đội ngũ cán bộ chủ chốt các xã ở tỉnh
Sơn La; nêu ra các phương hướng và giải pháp chủ yếu để nâng cao chất
lượng đội ngũ ngũ cán bộ chủ chốt các xã ở tỉnh Sơn La giai đoạn hiện nay.
Đặc biệt, những vấn đề đặt ra trong đề tài có liên quan mật thiết đối với
hướng nghiên cứu của luận văn.
- Các bài viết trên báo, tạp chí: Vũ Huy Từ: “Một số giải pháp tăng
cường năng lực đội ngũ cán bộ cơ sở”, Tạp chí Quản lý nhà nước, số 5/2002;
Trần Văn Phòng: “Tiêu chuẩn đạo đức của người cán bộ lãnh đạo chính trị
hiện nay”, Tạp chí Lý luận chính trị, số 5/2003; Mai Đức Ngọc: “Vai trò của
cán bộ lãnh đạo chủ chốt cấp xã trong thời kỳ đổi mới”, Tạp chí Báo chí và
Tuyên truyền, số 1/2004; Lê Hương: “Đảng bộ thành phố Hà Nội: Đột phá
mới trong công tác cán bộ”, Báo Hà Nội mới, 2013. Dưới các góc độ
nghiên cứu, các bài viết trên đã đề cập đến nhiều nội dung trong công tác
cán bộ, nhất là có nhiều bài viết đã đề cập đến đội ngũ cán bộ, công chức
cấp xã. Những nội dung của các bài viết ở một góc độ nào đó có liên hệ
chặt chẽ với luận văn như giải pháp xây dựng người cán bộ cơ sở, tiêu
chuẩn, vai trò của người cán bộ cơ sở…
Tóm lại, các công trình nghiên cứu trên đều đã đề cập đến đội ngũ cán
bộ, công chức cấp xã ở các góc độ khác nhau, hoặc là ở dạng chung nhất hoặc
đặt nó nằm trong phạm vi nghiên cứu tổ chức hoạt động của bộ máy chính
quyền cấp xã nói chung; các công trình nghiên cứu trên đã có những đóng góp
về mặt lý luận và thực tiễn. Tuy vậy, cho đến nay, chưa có công trình, đề tài
nghiên cứu nào đi sâu nghiên cứu có hệ thống dưới góc độ một luận văn khoa
học ngành xây dựng Đảng về quản lý đội ngũ cán bộ, công chức ở cấp xã trên
địa bàn huyện Phúc Thọ đáp ứng yêu cầu của giai đoạn hiện nay.
Trong quá trình nghiên cứu, tác giả luận văn có tham khảo, tiếp thu có
chọn lọc, có sự kế thừa những kết quả của các công trình khoa học đã được
11
công bố, đề tài luận văn tập trung nghiên cứu vấn đề: “Quản lý cán bộ, công
chức ở cấp xã trên địa bàn huyện Phúc Thọ, thành phố Hà Nội hiện nay”.
3. Mục đích và nhiệm vụ nghiên cứu của luận văn
3.1. Mục đích nghiên cứu
Đề tài nghiên cứu góp phần làm sáng tỏ cơ sở lý luận của việc quản lý
cán bộ, công chức ở cấp xã; từ đó, phân tích, đánh giá thực trạng và đề xuất
các phương hướng, giải pháp chủ yếu nhằm nâng cao việc quản lý đội ngũ
cán bộ, công chức ở cấp xã trên địa bàn huyện Phúc Thọ, thành phố Hà Nội
trong giai đoạn hiện nay.
3.2. Nhiệm vụ nghiên cứu
- Làm rõ cơ sở lý luận và thực tiễn của việc quản lý đội ngũ cán bộ,
công chức cấp xã hiện nay;
- Phân tích, đánh giá đúng thực trạng, đưa ra những nguyên nhân và
những bài học kinh nghiệm về quản lý đội ngũ cán bộ, công chức ở cấp xã
trên địa bàn huyện Phúc Thọ, thành phố Hà Nội hiện nay;
- Đề xuất phương hướng và giải pháp chủ yếu nhằm nâng cao hiệu quả
quản lý đội ngũ cán bộ, công chức ở cấp xã trên địa bàn huyện Phúc Thọ,
thành phố Hà Nội trong thời gian tới.
4. Đối tượng và phạm vi nghiên cứu
4.1. Đối tượng nghiên cứu
Đối tượng nghiên cứu của đề tài là công tác quản lý đội ngũ cán bộ,
công chức ở cấp xã trên địa bàn huyện Phúc Thọ, thành phố Hà Nội hiện nay.
4.2. Phạm vi nghiên cứu
- Về không gian: Các xã, thị trấn trên địa bàn huyện Phúc Thọ, thành
phố Hà Nội.
- Về thời gian: Từ năm 2010 đến nay (từ khi bắt đầu nhiệm kỳ Đại hội
đại biểu Đảng bộ huyện Phúc Thọ lần thứ XIX trở lại đây).
12
5. Cơ sở lý luận và phương pháp nghiên cứu
- Cơ sở lý luận: Đề tài nghiên cứu dựa trên cơ sở lý luận của chủ nghĩa
Mác - Lênin, tư tưởng Hồ Chí Minh và hệ thống quan điểm của Đảng Cộng
sản Việt Nam về cán bộ, công chức, công tác cán bộ.
- Phương pháp nghiên cứu: Đề tài sử dụng phương pháp luận của chủ
nghĩa Mác - Lênin, tác giả sử dụng kết hợp các phương pháp phân tích - tổng
hợp, khái quát hóa, lôgic - lịch sử, thống kê, so sánh, khảo sát thực tế…
6. Những đóng góp mới và ý nghĩa thực tiễn của luận văn
6.1. Những đóng góp mới
- Làm rõ các quan niệm, phân tích tính tất yếu phải nâng cao chất lượng
công tác quản lý đội ngũ cán bộ, công chức ở cấp xã; làm rõ các yếu tố tác
động đến hoạt động quản lý đội ngũ cán bộ, công chức ở cấp xã.
- Đánh giá chính xác về thực trạng quản lý cán bộ, công chức cấp xã ở
huyện Phúc Thọ, thành phố Hà Nội hiện nay.
- Đề xuất các giải pháp chủ yếu có tính khả thi góp phần nâng cao hiệu
quả công tác quản lý đội ngũ cán bộ, công chức cấp xã ở huyện Phúc Thọ,
thành phố Hà Nội đáp ứng yêu cầu trong giai đoạn hiện nay.
6.2. Ý nghĩa thực tiễn của luận văn
- Kết quả nghiên cứu của đề tài góp phần đưa ra những căn cứ, cơ sở
khoa học giúp các cơ quan chức năng, các cấp lãnh đạo của huyện Phúc Thọ,
thành phố Hà Nội tiếp tục thực hiện có hiệu quả công tác quản lý đội ngũ cán
bộ, công chức cấp xã trên địa bàn huyện.
- Luận văn có thể được sử dụng làm tài liệu tham khảo cho việc nghiên
cứu và giảng dạy ở các trường chính trị, các trung tâm chính trị, các trường
đại học, cao đẳng và các cơ quan nghiên cứu về cán bộ, công chức.
7. Cấu trúc của luận văn
Ngoài phần mở đầu, kết luận, tài liệu tham khảo và phụ lục, luận văn
gồm 3 chương và 8 tiết.
13
Chương 1
MỘT SỐ VẤN ĐỀ LÝ LUẬN VỀ QUẢN LÝ CÁN BỘ,
CÔNG CHỨC CẤP XÃ
1.1. Một số khái niệm
1.1.1. Khái niệm cán bộ, công chức cấp xã
- Khái niệm cán bộ.
Mỗi quốc gia, dân tộc khác nhau có các quan niệm khác nhau về cán
bộ. Điều đó xuất phát từ đặc điểm của chế độ chính trị, truyền thống cũng như
lịch sử phát triển của các nước. Chính vì thế, ở các nước xã hội chủ nghĩa và
ở các nước theo phong trào cộng sản và công nhân quốc tế, thuật ngữ cán bộ
thường được dùng phổ biến hơn ở các nước tư bản chủ nghĩa, nhất là trong
giai đoạn hiện nay.
Đối với nước ta, thuật ngữ cán bộ được du nhập và sử dụng khá sớm từ
trong kháng chiến chống Pháp và cho đến nay thuật ngữ cán bộ tiếp tục được
sử dụng khá phổ biến, đặc biệt trong các quan hệ công tác xã hội. Tuy vậy,
hiện nay ở nước ta, thuật ngữ cán bộ vẫn còn có nhiều cách hiểu khác nhau,
chưa thống nhất.
Theo Đại từ điển tiếng Việt, Nhà xuất bản Văn hóa - Thông tin xuất bản
năm 1998, cán bộ được hiểu theo hai nghĩa:
1. Người làm việc trong cơ quan nhà nước.
2. Người giữ chức vụ, phân biệt với người bình thường không
giữ chức vụ trong các cơ quan tổ chức nhà nước [12, tr.249].
Với nghĩa thứ nhất, cán bộ không chỉ bao gồm những người làm công
tác có nghiệp vụ chuyên môn trong các cơ quan Nhà nước mà trong cả hệ
thống chính trị. Bộ phận nghiệp vụ chuyên môn trên đây thường được hình
14
thành thông qua con đường đào tạo, bồi dưỡng từ nhà trường, có trình độ.
Đây là bộ phận đông đảo và ổn định nhất.
Với nghĩa thứ hai, người làm công tác có chức vụ trong một cơ quan, tổ
chức của cả hệ thống chính trị. Đây chính là đội ngũ lãnh đạo, quản lý; những
người có chức vụ để phân biệt với người thường, người không có chức vụ; bộ
phận này được hình thành thông qua con đường bầu cử dân chủ hoặc thông
qua đề bạt, bổ nhiệm.
Sinh thời, Chủ tịch Hồ Chí Minh gọi “cán bộ là công bộc của nhân
dân”, trong tác phẩm “Sửa đổi lối làm việc”, Bác viết: Cán bộ là những người
đem chính sách của Đảng, của Chính phủ giải thích cho dân chúng hiểu rõ và
thi hành. Đồng thời đem tình hình của dân chúng báo cáo cho Đảng, cho
Chính phủ rõ, để đặt chính sách cho đúng” [31, tr.296].
Hội nghị lần thứ 9 Ban Chấp hành Trung ương Đảng khóa X nêu rõ:
“Cán bộ được hiểu một cách tổng thể, theo nghĩa rộng là cán bộ, công
chức, viên chức; không phân biệt cán bộ và công chức theo Luật Cán bộ,
công chức” [10, tr.197].
Dưới góc độ pháp lý, Luật Cán bộ, công chức năm 2008 đưa ra khái
niệm cán bộ như sau:
Cán bộ là công dân Việt Nam, được bầu cử, phê chuẩn, bổ nhiệm
giữ chức vụ, chức danh theo nhiệm kỳ trong cơ quan của Đảng Cộng
sản Việt Nam, Nhà nước, tổ chức chính trị - xã hội ở trung ương, ở tỉnh,
thành phố trực thuộc trung ương (sau đây gọi chung là cấp tỉnh), ở
huyện, quận, thị xã, thành phố thuộc tỉnh (sau đây gọi chung là cấp
huyện), trong biên chế và hưởng lương từ ngân sách nhà nước [27].
Còn dưới góc độ khoa học quản lý, Sách: “Luận cứ khoa học cho việc
nâng cao chất lượng đội ngũ cán bộ trong thời kỳ đẩy mạnh công nghiệp hóa,
hiện đại hóa đất nước” đưa ra khái niệm chung nhất:
15
Cán bộ là khái niệm chỉ những người có chức vụ, vai trò và cương
vị nòng cốt trong một tổ chức và có tác động ảnh hưởng đến hoạt động
của tổ chức và các quan hệ trong lãnh đạo, chỉ huy, quản lý, điều hành,
góp phần định hướng cho sự phát triển của tổ chức. [43, tr.18].
Như vậy, tổng hợp các quan niệm trên có thể khái quát khái niệm “cán
bộ” theo hai nghĩa cơ bản sau: Trước hết, hiểu theo nghĩa hẹp: Cán bộ được
hiểu là người làm công tác chuyên môn, nghiệp vụ trong một cơ quan, tổ chức
của hệ thống chính trị và cán bộ là người làm công tác có chức vụ, để phân
biệt với người bình thường không có chức vụ trong cơ quan, tổ chức của hệ
thống chính trị. Còn hiểu theo nghĩa rộng: Cán bộ được hiểu là một phạm trù để
chỉ tất cả những người công tác ở các cơ quan, tổ chức trong hệ thống chính trị,
trong lực lượng vũ trang, trong biên chế, kể cả những người giữ chức vụ lẫn
những người làm chuyên môn, nghiệp vụ không giữ chức vụ.
- Khái niệm công chức.
Trên thế giới, lịch sử ra đời và phát triển của nền công vụ cho thấy, bất cứ
một quốc gia nào, dù là nước đi theo con đường tư bản chủ nghĩa hay là nước đi
theo con đường xã hội chủ nghĩa muốn tổ chức và quản lý tốt xã hội thì Chính
phủ đều phải coi trọng việc xây dựng và quản lý tốt đội ngũ công chức có đủ
phẩm chất và năng lực, đáp ứng được yêu cầu phát triển của xã hội và thời đại.
Công chức là thuật ngữ được dùng phổ biến trên thế giới. Mỗi quốc gia có các
điều kiện, hoàn cảnh khác nhau, do đó mỗi nước đều xây dựng những khái niệm
riêng về công chức cho phù hợp với điều kiện, hoàn cảnh thực tế của nước mình.
Đối với nước ta, ngay từ thời kỳ đầu thành lập nước, khái niệm công chức
đã được Đảng và Nhà nước ta quan tâm xây dựng, hoàn thiện. Nhưng trong mỗi
giai đoạn lịch sử khác nhau để phù hợp với quan niệm về hoạt động công vụ, chế
độ chính trị, văn hóa và lịch sử phát triển đất nước thì nước ta cũng có các khái
niệm về công chức tương ứng. Do đó, quan niệm, phạm vi công chức có lịch sử
phát triển phong phú.
16
Nhìn chung, thuật ngữ công chức ở nước ta qua các giai đoạn đều đã có
sự kế thừa và phát triển phù hợp với yêu cầu của từng giai đoạn lịch sử cụ thể, từ
đó, làm cho khái niệm công chức ngày càng hoàn thiện.
Những năm mới giành chính quyền, Sắc lệnh 76/SL, ngày 20/5/1950 do
Chủ tịch Hồ Chí Minh ký về “Quy chế công chức” được xem là văn bản pháp
luật đầu tiên có liên quan trực tiếp đến khái niệm công chức. Quy chế xác định
rõ nghĩa vụ, quyền lợi của công chức, cùng các thể lệ về tổ chức, quản trị và sử
dụng các ngạch công chức trong toàn quốc, theo đó công chức là những công
dân Việt Nam được chính quyền nhân dân tuyển dụng để giữ một chức vụ
thường xuyên trong các cơ quan của Chính phủ ở trong hay ngoài nước, trừ
những trường hợp riêng biệt do Chính phủ quy định. Như vậy, công chức Việt
Nam giai đoạn này bao gồm những người làm trong cơ quan hành chính nhà
nước Trung ương do chính quyền và nhân dân tuyển.
Khi đất nước bước vào thời kỳ đổi mới, Nghị định 169/HĐBT, ngày
20/5/1991 của Hội đồng Bộ trưởng (nay là Chính phủ) tại Điều 1 quy định:
Công chức là công dân Việt Nam được tuyển dụng và bổ nhiệm giữ công vụ
thường xuyên trong một công sở của Nhà nước ở Trung ương hay địa phương, ở
trong nước hay nước ngoài đã được xếp vào một ngạch, hưởng lương từ ngân
sách Nhà nước.
Pháp lệnh Cán bộ, công chức năm 2003 đã phân biệt và quy định tương
đối rõ công chức làm việc trong khu vực hành chính và công chức làm việc
trong khu vực sự nghiệp. Sau đó, các đối tượng này đã được cụ thể hóa trong các
nghị định của Chính phủ.
Hiện nay, để đáp ứng yêu cầu phát triển của nền công vụ Nhà nước, Quốc
hội khóa XII đã thông qua Luật Cán bộ, công chức năm 2008. Tại khoản 2, Điều
4 Luật Cán bộ, công chức quy định:
Công chức là công dân Việt Nam, được tuyển dụng, bổ nhiệm vào
ngạch, chức vụ, chức danh trong cơ quan của Đảng Cộng sản Việt Nam,
17
Nhà nước, tổ chức chính trị- xã hội ở trung ương, cấp tỉnh, cấp huyện;
trong cơ quan, đơn vị thuộc Quân đội nhân dân mà không phải là sĩ quan
quân nhân chuyên nghiệp, công nhân quốc phòng; trong cơ quan, đơn vị
thuộc Công an nhân dân mà không phải là sĩ quan, hạ sĩ quan chuyên
nghiệp và trong bộ máy lãnh đạo, quản lý của đơn vị sự nghiệp công lập,
trong biên chế, hưởng lương từ ngân sách nhà nước; đối với công chức
trong bộ máy lãnh đạo, quản lý của đơn vị sự nghiệp công lập thì lương
được bảo đảm từ quỹ lương của đơn vị sự nghiệp công lập theo quy định
của pháp luật [27].
Nghị định số 06/2010/NĐ-CP của Chính phủ xác định rõ công chức theo
các tiêu chí sau: Là công dân Việt Nam, được tuyển dụng, bổ nhiệm vào ngạch,
chức vụ, chức danh, trong biên chế, hưởng lương từ ngân sách Nhà nước hoặc
được bảo đảm từ quỹ lương của đơn vị sự nghiệp công lập theo quy định của
pháp luật, làm việc trong các cơ quan, tổ chức, đơn vị của Đảng, Nhà nước, tổ
chức chính trị - xã hội và bộ máy lãnh đạo, quản lý của đơn vị sự nghiệp công
lập.
Tóm lại, dù phạm vi của khái niệm công chức rộng hay hẹp, thì tầm quan
trọng của đội ngũ công chức đối với sự phát triển đất nước nói chung và của nền
công vụ nói riêng là không thể phủ nhận. Ở nước ta do lịch sử hình thành đội
ngũ công chức có đặc điểm khác so với các nước trên thế giới; toàn bộ những
người làm việc ở các cơ quan, tổ chức trong hệ thống chính trị nước ta là một
khối thống nhất do Đảng lãnh đạo, vì vậy, mặc dù phạm vi khái niệm công chức
có thể mở rộng hơn so với các nước trên thế giới nhưng nhìn chung khái niệm
công chức vẫn thể hiện được sự thống nhất với quan niệm chung của các nước
trên thế giới.
- Khái niệm cán bộ, công chức cấp xã.
Trong giai đoạn hiện nay, có nhiều quan niệm khác nhau về cán bộ, công
chức cấp xã, tuy nhiên có thể khái quát lại thành hai quan điểm nổi bật sau: Theo
18
nghĩa rộng, cán bộ, công chức cấp xã bao gồm cả các đối tượng: Cán bộ chuyên
trách cấp xã, công chức cấp xã, những người hoạt động không chuyên trách cấp
xã. Theo nghĩa hẹp, cán bộ, công chức cấp xã là thuật ngữ để chỉ những người
làm việc cho các cơ quan quản lý Nhà nước ở cấp xã bao gồm cán bộ cấp xã và
công chức cấp xã.
Còn dưới góc độ pháp lý, tại khoản 3, Điều 4, Luật Cán bộ, công chức
năm 2008 quy định rõ:
Cán bộ xã, phường, thị trấn (sau đây gọi chung là cấp xã) là công
dân Việt Nam được bầu cử giữ chức vụ theo nhiệm kỳ trong Thường trực
hội đồng nhân dân, ủy ban nhân dân, Bí thư, Phó Bí thư Đảng ủy, người
đứng đầu các tổ chức chính trị - xã hội; công chức cấp xã là công dân Việt
Nam được tuyển dụng giữ một chức danh chuyên môn, nghiệp vụ thuộc
ủy ban nhân dân xã trong biên chế và hương lương từ ngân sách nhà
nước. [27]
Cán bộ, công chức cấp xã quy định tại Luật Cán bộ, công chức bao gồm
cán bộ cấp xã và công chức cấp xã. Cán bộ cấp xã có các chức vụ sau đây: Bí
thư, Phó Bí thư Đảng uỷ; Chủ tịch, Phó Chủ tịch Hội đồng nhân dân; Chủ tịch,
Phó Chủ tịch Uỷ ban nhân dân; Chủ tịch Uỷ ban Mặt trận Tổ quốc Việt Nam; Bí
thư Đoàn Thanh niên Cộng sản Hồ Chí Minh; Chủ tịch Hội Liên hiệp Phụ nữ
Việt Nam; Chủ tịch Hội Nông dân Việt Nam (áp dụng đối với xã, phường, thị
trấn có hoạt động nông, lâm, ngư, diêm nghiệp và có tổ chức Hội Nông dân Việt
Nam); Chủ tịch Hội Cựu chiến binh Việt Nam.
Công chức cấp xã có các chức danh sau đây: Trưởng Công an; Chỉ huy
trưởng Quân sự; Văn phòng - thống kê; Địa chính - xây dựng - đô thị và môi
trường (đối với phường, thị trấn) hoặc địa chính - nông nghiệp - xây dựng và
môi trường (đối với xã); Tài chính - kế toán; Tư pháp - hộ tịch; Văn hóa - xã hội.
Như vậy, cán bộ, công chức cấp xã bao gồm nhiều các chức vụ, chức
danh khác nhau. Mỗi cán bộ, công chức cấp xã được giao những thẩm quyền,
19
trách nhiệm nhất định trong tổ chức gắn với chức vụ, chức danh mà người cán
bộ, công chức cấp xã đảm nhiệm. Phạm vi tác động và trách nhiệm công việc
của mỗi cán bộ, công chức cấp xã là khác nhau nhưng đều có mục đích chung là
đảm bảo cho hệ thống chính trị cơ sở đạt hiệu quả. Thực tế cho thấy, đội ngũ cán
bộ, công chức cấp xã rất đông đảo về số lượng, đa dạng về chất lượng, phức tạp
về đặc điểm, tính chất. Do đó, việc xác định đúng đắn các đối tượng cán bộ,
công chức cấp xã có ý nghĩa quan trọng đối với việc hoạch định các chủ trương,
giải pháp xây dựng, kiện toàn đội ngũ cán bộ, công chức cấp xã đáp ứng yêu cầu
của thời kỳ mới.
Tóm lại, khái niệm cán bộ, công chức cấp xã là một khái niệm có tính tập
hợp. Để có quan niệm chính xác về cán bộ, công chức cấp xã, trước hết phải tiếp
cận nó như một bộ phận cấu thành của hệ thống cán bộ, công chức Nhà nước.
Từ đó mới có cơ sở để nhận thức đúng đắn về cán bộ, công chức cấp xã. Trong
luận văn, để đảm bảo theo đúng mục tiêu và phạm vi nghiên cứu của luận văn,
tác giả tiếp cận theo nghĩa hẹp của khái niệm cán bộ, công chức cấp xã, tức là
cán bộ, công chức cấp xã để chỉ những người làm việc cho các cơ quan quản lý
Nhà nước ở cấp xã bao gồm cán bộ cấp xã và công chức cấp xã.
1.1.2. Khái niệm quản lý cán bộ, công chức cấp xã
Có nhiều cách tiếp cận khác nhau về quản lý, do đó, cũng có nhiều cách
định nghĩa khác nhau về quản lý. Tiêu biểu nhất phải kể đến các quan niệm của
các tác giả nghiên cứu về khoa học quản lý nổi tiếng của phương Tây như:
F.W.Tailor (Mỹ) cho rằng: “Quản lý là biết chính xác điều bạn muốn người khác
làm sau đó biết rằng họ đã hoàn thành công việc một cách tốt và rẻ nhất” [48,
tr.34]. H.Fayol (Pháp) định nghĩa: “Quản lý tức là lập kế hoạch, tổ chức, chỉ
huy, phối hợp và kiểm tra” [48, tr.59]. M.Folett (Mỹ) cho rằng, quản lý là nghệ
thuật khiến công việc được làm bởi người khác.
20
Theo giáo trình Khoa học quản lý của Học viện Chính trị quốc gia Hồ Chí
Minh: “Quản lý là sự tác động có tổ chức, có hướng đích của chủ thể quản lý tới
đối tượng quản lý nhằm đạt mục tiêu đã đề ra” [17, tr.12].
Như vậy, về bản chất thuật ngữ quản lý hiện nay thường được hiểu như
sau: Quản lý là sự tác động có ý thức, tổ chức và bằng quyền lực của chủ thể
quản lý lên đối tượng quản lý nhằm thực hiện những mục tiêu quản lý mà chủ
thể quản lý đã đặt ra. Chẳng hạn như: Quản lý trong doanh nghiệp, quản lý trong
nhà trường, quản lý trong Đảng… đều phải có ý thức, tổ chức; phải dựa vào
quyền lực của chủ thể quản lý và việc quản lý phải hướng đến những mục tiêu
đã xác định từ trước.
Quản lý cán bộ, công chức cấp xã đều nằm trong nguyên lý chung của
quản lý. Vì thế, từ cách tiếp cận trên, luận văn đưa ra quan niệm sau:
Quản lý cán bộ, công chức cấp xã là hoạt động của các tổ chức đảng, cơ
quan nhà nước có thẩm quyền, theo phân cấp quản lý tác động có ý thức, tổ
chức vào đội ngũ cán bộ, công chức cấp xã và từng cán bộ, công chức cấp xã
bằng một loạt các khâu công tác để sử dụng, bồi dưỡng, rèn luyện, phát huy khả
năng của cả đội ngũ và từng người cán bộ, công chức cấp xã làm cho tổ chức
ngày càng vững mạnh, đáp ứng yêu cầu nhiệm vụ được giao nhằm thực hiện các
mục tiêu quản lý cán bộ, công chức cấp xã mà Đảng, Nhà nước đặt ra.
Qua khái niệm trên có thể rút ra những nội dung chủ yếu sau:
Thứ nhất, quản lý cán bộ, công chức là một hoạt động có mục đích, tác
động có định hướng thường xuyên và chủ động của chủ thể quản lý đến đối
tượng quản lý.
Thứ hai, chủ thể của hoạt động quản lý cán bộ, công chức cấp xã là các tổ
chức đảng, cơ quan nhà nước được phân cấp về quản lý và có thẩm quyền về
công tác cán bộ, công chức. Theo phân cấp quản lý cán bộ, công chức: Chủ thể
của hoạt động quản lý cán bộ, công chức cấp xã là các tổ chức đảng, cơ quan nhà
21
nước có thẩm quyền, những cá nhân có trách nhiệm trong công tác quản lý cán
bộ, công chức cấp xã.
Thứ ba, đối tượng của công tác quản lý cán bộ, công chức cấp xã là toàn
thể đội ngũ cán bộ, công chức cấp xã; cá nhân người cán bộ, công chức vừa là
chủ thể nhưng đồng thời vừa là đối tượng của công tác quản lý cán bộ, công
chức cấp xã. Trong mối quan hệ này theo phân cấp quản lý họ là chủ thể quản lý
đối với đối tượng thuộc quyền nhưng trong mối quan hệ với cấp trên họ là đối
tượng của công tác quản lý.
Thứ tư, nội dung của hoạt động quản lý rất phong phú, đa dạng, bao gồm
nhiều khâu có liên quan mật thiết với nhau như: Tuyển chọn, sử dụng cán bộ,
công chức cấp xã; quy hoạch, đào tạo, bồi dưỡng cán bộ, công chức cấp xã; nhận
xét, đánh giá cán bộ, công chức cấp xã; thực hiện chế độ, chính sách; kiểm tra,
giám sát, khen thưởng, kỷ luật cán bộ, công chức cấp xã. Những khâu trong
quản lý cán bộ, công chức cấp xã gắn bó chặt chẽ với nhau, khâu này làm tiền
đề, điều kiện cho khâu khác.
Thứ năm, mục tiêu quản lý cán bộ, công chức cấp xã nhằm bảo đảm cho
các quy định về cán bộ, công chức, công vụ của Nhà nước được thực hiện thống
nhất trong mọi cơ quan công sở; tạo điều kiện thuận lợi cho công tác quy hoạch,
đào tạo, bồi dưỡng, rèn luyện, phát huy khả năng của đội ngũ cán bộ, công chức
cấp xã; làm cho đội ngũ cán bộ, công chức cấp xã không ngừng lớn mạnh đáp
ứng yêu cầu ngày càng cao của sự nghiệp đổi mới toàn diện đất nước; hạn chế sự
tùy tiện trong công tác tuyển dụng, bổ nhiệm, điều động cán bộ, công chức cấp
xã, tạo mọi điều kiện để cán bộ, công chức cấp xã hết lòng phục vụ Tổ quốc,
nhân dân.
1.2. Nội dung, đặc điểm của hoạt động quản lý cán
bộ, công chức cấp xã
1.2.1. Nội dung quản lý cán bộ, công chức cấp xã
22
Hiện nay, nội dung quản lý cán bộ, công chức cấp xã là vấn đề chung
được xem xét dưới nhiều các góc độ khác nhau; từ mỗi góc độ xem xét có thể
rút ra những nội dung quản lý cán bộ, công chức cấp xã tương ứng. Tuy vậy,
nội dung quản lý cán bộ, công chức cấp xã có thể được khái quát theo hai góc
độ tiếp cận chủ yếu sau:
- Dưới góc độ pháp lý:
Nội dung quản lý cán bộ, công chức được quy định rõ trong Luật Cán
bộ, công chức năm 2008 bao gồm các nội dung quản lý chung như: Ban hành
các văn bản pháp luật, pháp quy, điều lệ, quy chế về cán bộ, công chức; lập
quy hoạch, kế hoạch xây dựng đội ngũ cán bộ, công chức trong cả nước;
quyết định biên chế cán bộ, công chức, tổ chức thực hiện việc quản lý, sử
dụng và phân cấp quản lý cán bộ, công chức; đào tạo, bồi dưỡng, đánh giá cán
bộ, công chức, tổ chức chỉ đạo thực hiện các chính sách đãi ngộ, khen thưởng,
kỷ luật đối với cán bộ, công chức; thực hiện thống kê cán bộ, công chức;
thanh tra, kiểm tra việc thực hiện các quy định của pháp luật về cán bộ, công
chức, chỉ đạo, tổ chức giải quyết khiếu nại, tố cáo cán bộ, công chức cấp xã.
Điều 24, 25, 26, 27 của Luật Cán bộ, công chức năm 2008 quy định rõ
thẩm quyền quản lý cán bộ, công chức cấp xã như sau:
Nội dung quản lý cán bộ, công chức cấp xã của Bộ Nội vụ gồm: Trình
Chính phủ ban hành các quy phạm pháp luật về cán bộ, công chức; hướng dẫn
thực hiện các quy định của pháp luật đối với cán bộ, công chức cấp xã, ví dụ
như tiền lương, chế độ đãi ngộ, quy định về số lượng, hướng dẫn việc quản lý
và phân cấp quản lý cán bộ, công chức; hướng dẫn việc xây dựng quy chế
tuyển dụng, sử dụng cán bộ, công chức, thanh kiểm tra việc thực hiện các quy
định của pháp luật về cán bộ, công chức, thống kê tổng hợp số lượng cán bộ,
công chức cấp xã.
Nội dung quản lý cán bộ, công chức cấp xã của ủy ban nhân dân cấp
tỉnh gồm: Quyết định cụ thể số lượng cán bộ, công chức cấp xã theo hướng
23
dẫn của Bộ Nội vụ, xây dựng các văn bản pháp quy về cán bộ, công chức
như xây dựng quy chế tuyển dụng, điều động, miễn nhiệm; xây dựng nội
dung, chương trình đào tạo, bồi dưỡng cán bộ, công chức cấp xã, hướng
dẫn việc tổ chức thực hiện các quy định về cán bộ, công chức cấp xã, thanh
tra, kiểm tra việc thực hiện các quy định đối với cán bộ, công chức cấp xã,
chỉ đạo việc giải quyết khiếu nại, tố cáo đối với cán bộ, công chức, thống
kê số lượng cán bộ, công chức cấp xã.
Nội dung quản lý cán bộ, công chức cấp xã của ủy ban nhân dân cấp
huyện gồm: Lập quy hoạch, kế hoạch xây dựng đội ngũ cán bộ, công chức; tổ
chức thi tuyển, xét duyệt, tuyển dụng, điều động bổ nhiệm, miễn nhiệm, cho
thôi việc công chức cấp xã, quản lý công chức và hồ sơ công chức; tổ chức
thực hiện các chế độ chính sách đối với cán bộ, công chức, tổ chức bồi dưỡng
cán bộ, công chức, thanh kiểm tra việc thực hiện các quy định về cán bộ, công
chức, giải quyết khiếu nại, tố cáo đối với cán bộ, công chức, thống kê đánh
giá số lượng, chất lượng cán bộ, công chức cấp xã trên địa bàn cấp huyện.
Nội dung quản lý cán bộ, công chức cấp xã của ủy ban nhân dân cấp
xã gồm: Trực tiếp quản lý đội ngũ cán bộ, công chức cấp xã, thực hiện các
quy định của pháp luật về cán bộ, công chức cấp xã, thực hiện kế hoạch đào
tạo, bồi dưỡng cán bộ, công chức; đề nghị cơ quan có thẩm quyền khen
thưởng cán bộ, công chức, đề nghị cơ quan có thẩm quyền của cấp huyện kỷ
luật và xử lý vi phạm đối với cán bộ, công chức, thống kê đánh giá chất
lượng cán bộ, công chức cấp xã.
Như vậy, tiếp cận dưới góc độ này nội dung quản lý cán bộ, công chức
cấp xã bao gồm một hệ thống các quy phạm pháp luật, bao quát toàn bộ các
công việc, cách thức, biện pháp quản lý cán bộ, công chức cấp xã từ Trung
ương đến cơ sở, là căn cứ pháp lý để các cơ quan, tổ chức, cá nhân có thẩm
quyền thực hiện nội dung quản lý cán bộ, công chức cấp xã theo sự phân cấp
quản lý.
24
- Dưới góc độ xây dựng Đảng (các khâu của công tác cán bộ):
Theo Quy định số 67-QĐ/TW, ngày 04/7/2007 của Bộ Chính trị (khóa
X), về ban hành Quy định về phân cấp quản lý cán bộ. Theo quy định này,
việc định ra đường lối, chính sách, quan điểm, tiêu chuẩn chung về cán bộ và
công tác cán bộ thuộc thẩm quyền của Đại hội đại biểu toàn quốc và Ban
Chấp hành Trung ương Đảng, các khâu còn lại của công tác cán bộ thuộc
phạm vi quản lý cán bộ do Bộ Chính trị xác định nội dung và tiến hành phân
cấp quản lý. Việc phân cấp quản lý cán bộ thực chất là xác định trách nhiệm,
quyền hạn quản lý cán bộ cho từng cấp trong hệ thống tổ chức của Đảng.
Góc độ nghiên cứu này cũng chính là hướng tiếp cận mà đề tài lựa
chọn, tập trung nghiên cứu làm sáng tỏ nội dung quản lý cán bộ, công chức
cấp xã đáp ứng yêu cầu mới của công tác xây dựng Đảng trong điều kiện hiện
nay. Theo hướng tiếp cận này, nội dung quản lý cán bộ, công chức cấp xã bao
gồm các khâu của công tác cán bộ có tác động qua lại với nhau góp phần thực
hiện tốt việc xây dựng đội ngũ cán bộ, công chức cấp xã. Do đó, quản lý cán
bộ, công chức cấp xã gồm các nội dung chủ yếu sau:
1.2.2.1. Tuyển chọn, sử dụng
- Tuyển chọn cán bộ, công chức cấp xã.
Tuyển chọn cán bộ, công chức cấp xã là hoạt động của tổ chức đảng, cơ
quan nhà nước có thẩm quyền nhằm tìm kiếm, lựa chọn những người có đủ
phẩm chất và năng lực theo những tiêu chuẩn nhất định để tuyển dụng, bố trí
sử dụng hoặc dự nguồn sử dụng cho một tổ chức trong hệ thống chính trị ở cơ
sở, đáp ứng yêu cầu, nhiệm vụ của vị trí công tác và của tổ chức đó. Đây là
nội dung quan trọng, là khâu then chốt có ý nghĩa đặc biệt quan trọng; tuyển
chọn đúng là cơ sở, là tiền đề để bổ nhiệm và sử dụng đúng cán bộ, công chức
cấp xã.
Chủ thể tuyển chọn cán bộ, công chức cấp xã chính là các cấp ủy đảng,
cơ quan nhà nước có thẩm quyền (trong đó có cả sự tham gia của nhân dân);
25
tuyển chọn cán bộ, công chức cấp xã thực chất là việc Đảng, Nhà nước tìm
kiếm, lựa chọn những con người vừa có đức, vừa có tài để sử dụng hoặc
chuẩn bị sử dụng cho công việc và tổ chức nhất định nhằm phục vụ thực hiện
các nhiệm vụ chính trị ở cơ sở. Tuyển chọn cán bộ, công chức cấp xã là hoạt
động có tính nghiệp vụ chuyên sâu của công tác cán bộ, công chức cấp xã đòi
hỏi người tham gia hoạt động này phải có tâm và có tài. Mặt khác, tuyển chọn
cán bộ, công chức cấp xã phải vì nhiệm vụ của tổ chức, vì công việc chứ
không phải vì cá nhân cán bộ, công chức cấp xã mà đặt ra tổ chức, đặt ra công
việc.
Trong tuyển chọn cán bộ, công chức cấp xã phải bảo đảm chế độ dân
chủ, công khai, chọn đúng người có đủ điều kiện và tiêu chuẩn theo từng chức
danh đã được Đảng và Nhà nước quy định. Xây dựng và thực hiện quy trình
tuyển chọn một cách chặt chẽ, thống nhất.
Tuyển chọn cán bộ, công chức cấp xã hiện nay được thực hiện thông
qua hai hình thức cơ bản là: Bầu cử cán bộ chuyên trách và tuyển dụng công
chức cấp xã:
Bầu cử cán bộ chuyên trách cấp xã vào cơ quan lãnh đạo của Đảng ở cơ
sở được thực hiện theo Điều lệ Đảng, cụ thể hơn là Quy chế bầu cử trong
Đảng; việc bầu cử cán bộ chuyên trách cấp xã của hội đồng nhân dân và ủy
ban nhân dân xã được thực hiện theo Luật Tổ chức hội đồng nhân dân và ủy
ban nhân dân; việc bầu cử cán bộ chuyên trách cấp xã trong các tổ chức chính
trị - xã hội thực hiện theo điều lệ của các tổ chức chính trị - xã hội.
Tuyển dụng công chức cấp xã là quá trình bổ sung những người đủ tiêu
chuẩn, điều kiện vào đội ngũ công chức Nhà nước. Đây là một quá trình
thường xuyên và cần thiết để xây dựng và phát triển đội ngũ công chức cấp
xã. Theo tinh thần đổi mới, việc tuyển dụng công chức phải căn cứ vào nhiệm
vụ, vị trí việc làm và chỉ tiêu biên chế.
- Sử dụng cán bộ, công chức cấp xã.