MỞ ĐẦU
1. Lý do chọn đề tài
Trật tự an toàn giao thông là trạng thái xã hội có trật tự được hình thành
và điều chỉnh bởi các quy phạm pháp luật trong lĩnh vực giao thông vận tải
công cộng, nhằm đảm bảo cho hoạt động giao thông thông suốt, trật tự, an
toàn, hạn chế đến mức thấp nhất tai nạn giao thông. Đảm bảo trật tự an toàn
giao thông là một yêu cầu và nhiệm vụ cơ bản của mọi quốc gia và xem đó là
điều kiện cần thiết để phát triển kinh tế-xã hội , củng cố an ninh quốc phòng
và ổn định trật tự xã hội. Để hoàn thành được nhiệm vụ quan trọng này, công
tác quản lý nhà nước đóng một vai trò vô cùng quan trọng.
Ban Bí thư Trung ương Đảng, Quốc Hội, Chính phủ, các Bộ, ngành đã
ban hành các Nghị quyết, Chỉ thị, Thông tư và Quyết định cùng nhiều văn bản
quy phạm pháp luật khác nhằm thiết lập lại trật tự kỷ cương và từng bước ổn
định tình hình trật tự an toàn giao thông trên phạm vi cả nước. Tuy nhiên,
trong điều kiện kết cấu hạ tầng giao thông còn yếu kém, công tác quản lý trật
tự an toàn giao thông còn nhiều bất cập dẫn đến tình trạng mất trật tự an toàn
giao thông, ảnh hưởng không nhỏ đối với sự nghiệp công nghiệp hóa và hiện
đại hóa đất nước.
Trong thời gian qua, với vai trò là lực lượng nòng cốt trong công tác
Quản lý nhà nước về trật tự an toàn giao thông đường bộ, các Bộ, ban, ngành
và lực lượng Cảnh sát giao thông đã tăng cường triển khai các biện pháp
nghiệp vụ và chủ động trong việc phối hợp với các ban ngành góp phần đảm
bảo trật tự an toàn giao thông đường bộ và trật tự an toàn xã hội. Song bên
cạnh đó vẫn tiềm ẩn những diễn biến hết sức phức tạp, tai nạn giao thông tuy
đã được kiềm chế nhưng mức độ nghiêm trọng ngày càng tăng; tình hình vi
phạm pháp luật giao thông đường bộ ngày càng phổ biến; mặc dù số vụ ùn tắc
giao thông giảm nhưng số điểm có nguy cơ ùn tắc có chiều hướng gia tăng;
đặc biệt là tình hình tội phạm hoạt động trên các tuyến giao thông vẫn diễn
1
biến hết sức phức tạp. Để hạn chế tình trạng vi phạm pháp luật giao thông,
hạn chế hư hại tài sản, thiệt hại về tính mạng của nhân dân, các cấp, các ban
ngành ở thành phố Hà Nội đã có nhiều giải pháp để tăng cường quản lý. Tuy
nhiên, tình hình vi phạm pháp luật giao thông, các vụ tai nạn giao thông
nghiêm trọng vẫn còn xảy ra ở mức độ cao so với các tỉnh, thành phố trong cả
nước. Nguyên nhân của tình trạng này được kể đến như sau: Hệ thống văn
bản pháp luật hiện nay có liên quan đến bảo đảm trật tự an toàn giao thông
đang trong quá trình hoàn thiện; trình độ hiểu biết, vận dụng của cán bộ quản
lý các cấp hạn chế, dẫn đến có nhiều yếu kém trong tuyên truyền giáo dục,
trong cònứng xử và xử lý các hành vi vi phạm pháp luật giao thông. Ví dụ
như cùng một hành vi vi phạm pháp luật giao thông nhưng ý kiến xử lý không
thống nhất, nhiều cơ quan chỉ đạo, nhiều đơn vị cùng tham gia xử lý.
Hành vi thiếu văn hóa của người sử dụng phương tiện và tham gia giao
thông diễn ra khá phổ biến: sử dụng rượu bia trước khi điều khiển phương
tiện giao thông, đi không đúng phần đường, đi ngược chiều, láng vạch, vượt
xe, chuyển làn trái với quy định, không chấp hành hiệu lệnh của đèn tín hiệu
giao thông; đang điều khiển xe mô tô, xe gắn máy, xe máy điện lại sử dụng
điện thoại di động, tai nghe hoặc chở quá người theo quy định; người điều
khiển xe mô tô, không đội mũ bảo hiểm điều khiển xe chạy quá tốc độ gây tai
nạn giao thông; lấn chiếm lòng lề đường, hè phố để đặt bảng hiệu, buôn bán,
sửa chữa xe đạp, xe mô tô, làm mái che hoặc các hoạt động dịch vụ khác…
Những hành vi thiếu văn hóa liên quan đến hè phố, lòng lề đường, lối
đi công cộng của một số người, như tiểu tiện, đại tiện; vứt rác, xác động vật,
đổ nước thải ra vỉa hè, lòng lề đường gây mất vệ sinh, ô nhiễm môi trường; đổ
chất thải làm bẩn nơi cơ quan, trụ sở làm việc; tự ý tháo dỡ, di chuyển, treo
đặt, làm sai mục đích sử dụng, làm sai lệch biển báo hiệu, đèn tín hiệu giao
thông, rào chắn, dải phân cách, cấu kiện, phụ kiện của công trình đường bộ…
đặc biệt là những hạn chế trong văn hóa ứng xử của người điều khiển các
phương tiện giao thông kể cả phương tiện giao thông cá nhân và công cộng.
2
Những hành vi này chỉ được xử lý bằng các biện pháp mang tính cưỡng chế
do Công an, do thanh tra giao thông thực hiện… các biện pháp này thường
thiếu đồng bộ và hiệu quả giáo dục chưa cao.
Sự phân cấp sử dụng, quản lý các phương tiện giao thông và hệ thống
cầu đường; sử dụng và quản lý sửa chữa đường không đồng bộ, gây ách tắc
giao thông, mất mỹ quan của thành phố.
Mật độ dân cư thành phố quá đông, nhất là dân nhập cư các tỉnh đến
làm việc mang theo nhiều phương tiện cùng tham gia lưu thông. Số dân cư
nhập cư này đa số không được quản lý chặt chẽ nơi cư trú, nhiều người mang
theo tư tưởng, văn hóa địa phương, không chấp hành quy định chung, thường
xuyên gây khó khăn cho công tác quản lý, xử phạt.
Một phần nguyên nhân gây nên tình trạng mất an toàn trật tự trên địa
bàn thành phố Hà Nội hiện nay xuất phát từ khâu quản lý nhà nước. Là người
công tác tại lĩnh vực liên quan trực tiếp đến an toàn trật tự giao thông trên địa
bàn Hà Nội, nhận thức được những vướng mắc, khó khăn trong công tác đảm
bảo an toàn trật tự giao thông trên địa bàn, nhận thức được tầm quan trọng
của công tác này trong đời sống xã hội và trong an ninh quốc gia, tác giả lựa
chọn đề tài “Công tác quản lý nhà nước đảm bảo an toàn trật tự giao thông
tại thủ đô hiện nay” để thực hiện luận văn thạc sĩ ngành Xây dựng Đảng và
Chính quyền nhà nước, với mong muốn tìm ra những thành công, hạn chế
trong công tác quản lý nhà nước về trật tự an toàn giao thông trên địa bàn thủ
đô và tìm ra các giải pháp nâng cao hiệu quả của quản lý nhà nước trên lĩnh
vực này.
2. Tình hình nghiên cứu liên quan đến đề tài
Nghiên cứu về công tác quản lý nhà nước về an toàn trật tự giao thông
trong thời gian qua cũng có rất nhiều tác giả tiếp cận từ nhiều góc độ nghiên
cứu với các cấp độ khác nhau, đáng chú ý có một số công trình sau:
- Cuốn Quản lý xã hội về quốc phòng, an ninh trật tự an toàn xã hội,
Học viện Báo chí và Tuyên truyền, PGS,TS. Nguyễn Vũ Tiến chủ biên. Cuốn
3
sách đề cập đến những vấn đề cơ bản về quản lý xã hội về quốc phòng, an
ninh trật tự an toàn xã hội: mục tiêu, tính chất, đặc điểm những nội dung chủ
yếu, tính chất đặc thù của chủ thể quản lý về an ninh trật tự an toàn xã hội.
Tuy nhiên, cuốn sách không đề cập trực tiếp đến các vấn đề về an toàn trật tự
giao thông đô thị.
- Cuốn : Quản lý nhà nước về an ninh trật tự, Giáo trình lưu hành nội
bộ, Học viện An ninh Nhân dân, bàn về quản lý nhà nước về an ninh trật tự
nói chung chứ không nói riêng về quản lý nhà nước về an toàn trật tự giao
thông đô thị.
Cuốn : “Trật tự an toàn giao thông đường bộ trên địa bàn 5 thành phố
trực thuộc Trung ương -Thực trạng và giải pháp” trong giai đoạn 2011-2013”
do Trung tâm Nghiên cứu an toàn giao thông đã tập trung nghiên cứu và biên
soạn. Cuốn sách chủ yếu bàn về tình hình đặc điểm liên quan đến trật tự an
toàn giao thông đường bộ trên địa bàn 5 thành phố trực thuộc Trung ương;
Tình hình trật tự an toàn giao thông đường bộ và công tác đảm bảo trật tự an
toàn giao thông đường bộ trên địa bàn 5 thành phố trực thuộc Trung ương và
đưa ra dự báo tình hình và giải pháp góp phần đảm bảo trật tự an toàn giao
thông đường bộ trên địa bàn 5 thành phố trực thuộc Trung ương. Cuốn sách
cũng đề cập đến giải pháp tăng cường quản lý nhà nước về an toàn trật tự giao
thông tuy nhiên cũng là các giải pháp chung cho cả 5 thành phố chưa phải là
các giải pháp đặc thù và hiệu quả cho thủ đô.
- Trần Đào: “Tai nạn giao thông đường bộ, thực trạng, nguyên nhân và
giải pháp phòng ngừa của lực lượng cảnh sát giao thông” - Đề tài nghiên cứu
khoa học cấp Bộ, năm 1998. Đề tài chỉ tập trung nghiên cứu một vấn đề về tai
nạn giao thông, như: Khái niệm, nguyên nhân, đánh giá thực trạng tai nạn
đường bộ; từ đó đề xuất những giải pháp phòng ngừa tai nạn đường bộ của
lực lượng cảnh sát giao thông. Trong phần nguyên nhân về tai nạn giao thông
đường bộ và các giải pháp phòng ngừa tai nạn giao thông đường bộ tác giả có
đề cập đến vai trò của quản lý nhà nước và giải pháp về vấn đề quản lý nhà
4
nước về giao thông nhằm phòng ngừa tai nạn giao thông đường bộ. Tuy
nhiên, đề tài chưa đề cập sâu về vấn đề quản lý nhà nước về an toàn trật tự
giao thông trên địa bàn thủ đô.
- Luận văn thạc sĩ Khoa học- Kỹ thuật, năm 2000 của Mai Văn Đức:
“Nghiên cứu tình hình an toàn giao thông đường bộ và các biện pháp khắc
phục” tập trung nghiên cứu về an toàn giao thông đường bộ dưới góc độ ứng
dụng những thành tựu của khoa học kỹ thuật để quản lý, duy trì và khắc phục
những hạn chế trong lĩnh vực giao thông đường bộ. Trong luận văn có một
phần nói đến quản lý nhà nước về vấn nghiên cứu và ứng dụng những thành
tựu khoa học kĩ thuật để khắc phục những hạn chế trong lĩnh vực giao thông
đường bộ chứ chưa nói nhiều đến vấn đề quản lý nhà nước về an toàn trật tự
giao thông.
- Nguyễn Huy Bằng: “Tăng cường pháp chế xã hội chủ nghĩa trong
lĩnh vực giao thông đường bộ ở nước ta hiện nay”, Luận văn thạc sĩ Luật học,
năm 2001. Luận văn đã làm rõ lịch sử phát triển tư tưởng pháp chế; khái niệm
pháp chế, quan niệm pháp chế trong lĩnh vực giao thông đường bộ; tỉnh tất
yếu phải tăng cường pháp chế xã hội chủ nghĩa trong lĩnh vực giao thông
đường bộ; thực trạng, phương hướng và giải pháp tăng cường pháp chế trong
lĩnh vực giao thông đường bộ. Trong luận văn, tác giả đã không đề đến mục
tiêu khảo sát đánh giá quản lý nhà nước về an toàn trật tự giao thông hiện nay.
- Nguyễn Thị Thanh Thuỷ: “Hoàn thiện quản lý nhà nước đối với giao
thông đô thị tại thành phố Hà Nội”, Luận văn thạc sĩ Quản lý hành chính
công, năm 2003. Luận văn tập trung xây dựng hệ thống lý thuyết tổng quan
về quản lý nhà nước đối với giao thông đô thị; phân tích thực trạng quản lý
nhà nước về giao thông đô thị tại Hà Nội; từ đó kiến nghị những giải pháp
quản lý nhà nước về giao thông đô thị tại Hà Nội. Tuy cùng bàn về quản lý
nhà nước về vấn đề giao thông nhưng luận văn của Nguyễn Thị Thanh Thuỷ
tập trung khảo sát thực trạng quản lý nhà nước về giao thông đô thị. Luận văn
Quản lý nhà nước về an toàn trật tự giao thông trên địa bàn Hà Nội có mục
5
đích và nhiệm vụ tập trung chủ yếu vào vấn đề quản lý nhà nước về an toàn
trật tự giao thông chứ không mở rộng; Cứ liệu để nghiên cứu của luận văn
Nguyễn Thị Thanh Thuỷ từ năm 2003 nên đề tài tác giả lựa chọn không hề
trùng với đề tài của tác giả Nguyễn Thị Thanh Thuỷ.
- Trần Văn Quan: “Tăng cường quản lý nhà nước về vận tải đường bộ từ thực tiễn tỉnh Đồng Nai”, Luận văn thạc sĩ Quản lý hành chính công, năm
2004. Luận văn tập trung nghiên cứu những vấn đề lý luận chung của quản lý
nhà nước về vận tải đường bộ trong nền kinh tế thị trường; phân tích và đánh
giá thực trạng quản lý nhà nước về vận tải đường bộ trên địa bàn tỉnh Đồng
Nai; từ đó đề xuất phương hướng và giải pháp nhằm tăng cường quản lý nhà
nước về vận tải đường bộ. Như vậy, luận văn chỉ nghiên cứu một vấn đề quản
lý nhà nước về vận tải đường bộ ở Đồng Nai.
- Thạch Như Sỹ: “Phối hợp dịch vụ công cộng và trật tự công cộng
trong quản lý nhà nước về giao thông đô thị trên địa bàn thành phố Hà Nội”,
Luận văn thạc sĩ Quản lý hành chính công, năm 2009. Luận văn chỉ tập trung
nghiên cứu cơ sở lý luận, đánh giá thực trạng và đề xuất một số giải pháp về
công tác phối hợp giữa dịch vụ công và trật tự công cộng trong quản lý nhà
nước về giao thông đô thị trên địa bàn thành phố Hà Nội mà không đề cập về
an toàn trật tự giao thông trên địa bàn Hà Nội.
Ngoài ra, còn một số bài viết đăng trên các tạp chí chuyên ngành như:
Lý Huy Tuấn: “Quản lý nhà nước trong lĩnh vực giao thông đô thị”, Tạp chí
Quản lý nhà nước, số 3/2003; Nguyễn Thúy Anh: “Đổi mới quản lý nhà nước
về giao thông công cộng trong đô thị lớn ở nước ta”, Tạp chí Quản lý nhà
nước, số 5/2003; Lê Ngọc Tiến: “Giáo dục pháp luật- biện pháp quan trọng
giảm thiểu tai nạn giao thông đường bộ”, Tạp chí Giao thông vận tải, số
7/2004, v.v.. Nhìn chung, những bài viết này chỉ đề cập đến vấn đề của quản
lý nhà nước về giao thông đường bộ một cách chung chung chứ không khảo
sát ở một địa phương nào cụ thể.
Tình hình nghiên cứu trên cho thấy, các đề tài, luận văn và bài báo
6
trong chừng mực nhất định đã góp phần làm sáng tỏ một số vấn đề lý luận và
thực tiễn quan trọng về quản lý nhà nước về giao thông và bảo đảm an toàn
trật tự giao thông trên địa bàn thành phố Hà Nội.
Luận văn của tác giả Lê Quang Ngọc “Quản lý nhà nước trong bảo đảm
trật tự an toàn giao thông đường bộ trên địa bàn thành phố Hà Nội hiện nay”
năm 2011 dưới góc độ Quản lý hành chính công cũng đã đề cập nhiều đến vấn
đề quản lý nhà nước trong bảo đảm an toàn trật tự giao thông trên địa bàn
thành phố Hà Nội năm 2011 một cách khá toàn diện. Với mục đích: làm sáng
tỏ cơ sở lý luận và thực trạng quản lý nhà nước trong bảo đảm trật tự an toàn
giao thông trên địa bàn thành phố Hà Nội hiện nay để đưa ra phương hướng
và giải pháp cơ bản nhằm tăng cường quản lý nhà nước trong bảo đảm trật
tự an toàn giao thông đường bộ trên địa bàn thành phố Hà Nội trong thời
gian tới, luận văn cũng đã phân tích, khảo sát thực trạng công tác quản lý
nhà nước về an toàn trật tự giao thông trên địa bàn Hà Nội và đưa ra
phương hướng và đề xuất hệ thống giải pháp cơ bản nhằm tăng cường quản lý
nhà nước trong bảo đảm trật tự an toàn giao thông trên địa bàn Hà Nội trong
thời gian tới. Tuy nhiên, phạm vi khảo sát và nghiên cứu của tác giả cũng như
kết quả khảo sát của tác giả dừng lại năm 2011, từ đó đến nay, Hà Nội đã có rất
nhiều thay đổi về kinh tế, văn hóa, xã hội, dân số và về vấn đề quản lý nhà
nước trong các lĩnh vực trọng yếu. Thêm vào đó, vấn đề an toàn trật tự giao
thông tại thủ đô hiện nay vẫn là vấn đề nóng, quản lý nhà nước vẫn còn bộc lộ
nhiều yếu kém và bất cập, vì vậy cần có những nghiên cứu đánh giá toàn diện
nhằm tìm ra các giải pháp về quản lý nhà nước để đảm bảo an toàn trật tự giao
thông trên địa bàn thủ đô hiện nay. Luận văn Quản lý nhà nước về an toàn trật
tự giao thông đô thị trên địa bàn thủ đô từ góc độ nghiên cứu của khoa học Xây
dựng Đảng và Chính quyền nhà nước của tác giả là đề tài có tính cấp thiết và
cần được triển khai nghiên cứu trong giai đoạn hiện nay.
3. Mục đích, nhiệm vụ nghiên cứu
3.1. Mục đích
7
Trên cơ sở nghiên cứu lý luận và thực tiễn của vấn đề quản lý nhà nước
về an toàn trật tự giao thông, luận văn đề xuất các giải pháp nâng cao chất
lượng công tác quản lý nhà nước về an toàn trật tự giao thông trên địa bàn thủ
đô đáp ứng yêu cầu của giai đoạn hiện nay.
3.2. Nhiệm vụ nghiên cứu
Để thực hiện mục đích nêu trên, luận văn cần hoàn thành những nhiệm
vụ cụ thể sau :
- Hệ thống hóa các vấn đề cơ sở lý luận quản lý nhà nước về an toàn
trật tự giao thông: mục tiêu, tính chất, đặc điểm những nội dung chủ yếu, tính
chất đặc thù của chủ thể quản lý về an toàn trật tự giao thông;
- Khảo sát, đánh giá đúng thực trạng công tác quản lý nhà nước về an
toàn trật tự giao thông trên địa bàn thủ đô hiện nay; đánh giá ưu điểm, hạn chế
và tìm ra nguyên nhân của những ưu điểm, hạn chế đó;
- Đề xuất các giải pháp nâng cao chất lượng công tác quản lý nhà nước
về an toàn trật tự giao thông trên địa bàn thủ đô hiện nay.
4. Đối tượng, phạm vi nghiên cứu
- Đối tượng nghiên cứu: Công tác quản lý nhà nước về an toàn trật tự
giao thông trên địa bàn thủ đô;
- Phạm vi nghiên cứu: Trong phạm vi đề tài luận văn tốt nghiệp chúng
tôi chỉ tập trung nghiên cứu quản lý nhà nước về an toàn trật tự giao thông
đường bộ trên địa bàn thành phố Hà Nội năm 2014.
5. Phương pháp luận và phương pháp nghiên cứu
- Phương pháp luận: Đề tài bám sát, vận dụng các nguyên lý, quy luật,
phạm trù cơ bản của chủ nghĩa duy vật biện chứng và chủ nghĩa duy vật lịch
sử để phân tích, đánh giá thực trạng và đề xuất các giải pháp nâng cao chất
lượng công tác quản lý nhà nước về an toàn trật tự giao thông trên địa bàn thủ
đô hiện nay.
- Phương pháp nghiên cứu: kết hợp giữa phương pháp nghiên cứu lý
luận (hồi cứu các tác phẩm kinh điển, Văn kiện Đảng, các báo cáo tổng kết
8
công tác Đảng…) và phương pháp nghiên cứu thực tiễn (điều tra xã hội học,
thống kê, so sánh, phân tích, tổng hợp...).
6. Ý nghĩa thực tiễn của đề tài
- Đề tài đánh giá đúng thực trạng công tác quản lý nhà nước về an toàn
trật tự giao thông phục vụ cho công tác tổng kết thực tiễn, rút ra những bài
học kinh nghiệm cho công tác quản lý nhà nước về an toàn trật tự giao thông
trong thời gian tới;
- Đề xuất các giải pháp nâng cao chất lượng công tác quản lý nhà nước
về an toàn trật tự giao thông trên địa bàn thủ đô hiện nay.
- Đề tài có thể làm tài liệu nghiên cứu, tham khảo cho sinh viên ngành
Xây dựng Đảng và Chính quyền nhà nước, cho cán bộ quản lý lãnh đạo cũng
như những người làm công tác quản lý nhà nước về an toàn trật tự giao thông
đô thị hiện nay.
7. Kết cấu đề tài
Ngoài phần mở đầu, phần kết luận, danh mục tài liệu tham khảo, phụ
lục, đề tài gồm 3 chương 11 tiết.
CHƯƠNG 1
QUẢN LÝ NHÀ NƯỚC ĐẢM BẢO AN TOÀN TRẬT TỰ GIAO
THÔNG ĐƯỜNG BỘ: MỘT SỐ VẤN ĐỀ LÝ LUẬN CHUNG
1.1. Một số vấn đề lý luận chung về quản lý nhà nước trong lĩnh vực an
toàn giao thông đường bộ
1.1.1.
Khái niệm
1.1.1.3. Khái niệm quản lý nhà nước
9
Theo nghĩa rộng, quản lý nhà nước được thực hiện bởi tất cả các cơ
quan nhà nước, có thể do các tổ chức chính trị - xã hội, đoàn thể quần chúng
và nhân dân trực tiếp thực hiện nếu được Nhà nước ủy quyền, trao quyền thực
hiện chức năng của Nhà nước theo quy định của pháp luật. Theo nghĩa hẹp,
hoạt động QLNN là hoạt động chấp hành và điều hành của Nhà nước hay còn
gọi là hoạt động quản lý theo ý nghĩa vốn có của nó. Hiểu theo nghĩa hành pháp,
hoạt động QLNN chủ yếu được thực hiện bởi hệ thống cơ quan hành chính nhà
nước, đó là Chính phủ, các bộ, cơ quan thuộc Chính phủ và Ủy ban nhân dân
(UBND) các cấp. Các cơ quan này thành lập để chuyên thực hiện hoạt động
quản lý hành chính nhà nước và trong thực tiễn được gọi là cơ quan quản lý
hành chính nhà nước.
Bản chất của hoạt động quản lý hành chính nhà nước được thể hiện
thông qua hoạt động lập quy và hành chính. Hoạt động lập quy thể hiện ở
việc cụ thể hóa luật, pháp lệnh, nghị quyết của Quốc hội. Hành chính là hoạt
động chỉ đạo, quản lý của chủ thể quản lý đối với đối tượng quản lý. Trong
hoạt động này, chủ thể quản lý áp dụng các biện pháp tổ chức- pháp lý bằng
việc ban hành các văn bản pháp quy và văn bản cá biệt. Hoạt động lập quy
và hành chính xuất phát từ đặc thù của hoạt động quản lý hành pháp nhằm
thực hiện quyền lực nhà nước trong quản lý xã hội.
Mỗi Nhà nước luôn gắn với một thiết chế xã hội nhất định theo phạm vi
không gian và thời gian, do vậy đặc tính QLNN sẽ thay đổi tùy theo bản chất
của chế độ chính trị và trình độ phát triển kinh tế - xã hội ở mỗi quốc gia
trong từng thời kỳ.
Từ những hiểu biết trên, có thể khái quát: Quản lý nhà nước là hoạt
động mang tính quyền lực nhà nước, được Nhà nước sử dụng để điều chỉnh
các quan hệ xã hội, các hành vi của cá nhân, tổ chức, có sức mạnh và hiệu
lực do các cơ quan nhà nước, công chức trong bộ máy nhà nước thực hiện,
nhằm phục vụ công, duy trì sự ổn định và phát triển bền vững xã hội.
Theo Giáo trình quản lý hành chính nhà nước:
10
Quản lý nhà nước là sự tác động có tổ chức và điều chỉnh
bằng quyền lực Nhà nước đối với các quá trình xã hội và hành vi
hoạt động của con người để duy trì và phát triển các mối quan hệ
xã hội và trật tự pháp luật nhằm thực hiện những chức năng và
nhiệm vụ của Nhà nước trong công cuộc xây dựng CNXH và bảo
vệ tổ quốc XHCN.[23, tr 407]
1.1.1.1. Khái niệm giao thông đường bộ
Giao thông là “việc đi lại từ nơi này đến nơi khác của người và phương
tiện chuyên chở” [15, tr.378].
Giao thông là yếu tố không thể thiếu trong quá trình phát triển đời sống
xã hội ở mỗi thời đại và mỗi quốc gia. Sự phát triển của giao thông phụ thuộc
vào trình độ phát triển của kinh tế, khoa học - công nghệ nhất định.
Từ thuở sơ khai, trong lịch sử phát triển của xã hội loài người hoạt
động giao thông gắn liền với sự phát triển của xã hội. Bắt đầu là sự xuất hiện
và phát triển của giao thông đường bộ sau đó, khoa học kĩ thuật ngày càng
phát triển và xuất hiện của các phương tiện và hình thức giao thông khác như
giao thông đường thủy, giao thông đường sắt và đường hàng không.
Luật Giao thông đường bộ năm 2008 có định nghĩa: “đường bộ gồm
đường, cầu đường bộ, hầm đường bộ, bến phà đường bộ”. Như vậy, giao
thông đường bộ được hiểu là việc đi lại từ nơi này đến nơi khác của người
và phương tiện chuyên chở trên đường, cầu đường bộ, hầm đường bộ, bến
phà qua sông, suối nối đường bộ.
1.1.1.2. An toàn trật tự giao thông đường bộ
Có ý kiến cho rằng: “an toàn trật tự giao thông đường bộ là việc chấp
hành triệt để những yêu cầu về kỹ thuật, quản lý đối với các công trình giao
thông và phương tiện giao thông, quy định đối với người tham gia giao thông
khi hoạt động trên đường bộ, là cho giao thông được trật tự, an toàn, thông
suốt, thuận tiện”[22, tr.6-7].
Theo Từ điển Bách khoa Công an nhân dân thì “an toàn giao thông
11
đường bộ là hệ thống các mối quan hệ xã hội được hình thành và điều chỉnh
bởi các quy phạm pháp luật trong lĩnh vực giao thông vận tải công cộng mà
mọi người tham gia giao thông phải tuân theo để đảm bảo hoạt động giao
thông thông suốt, trật tự an toàn, hạn chế thấp nhất tai nạn giao thông, gây
thiệt hại về người và tài sản” [22, tr.30].
Trong đề tài luận văn, chúng tôi sử dụng quan niệm: An toàn trật tự
giao thông đường bộ là sự bảo đảm cho mọi hoạt động giao thông đường bộ
được trật tự, an toàn, nhanh chóng, tiện lợi, thông suốt và mỹ quan môi
trường; hạn chế thấp nhất các vi phạm Luật Giao thông và các quy phạm
pháp luật về trật tự an toàn giao thông, kiềm chế tai nạn giao thông, ngăn
ngừa thiệt hại do tai nạn giao thông gây ra.
1.1.1.4. Quản lý nhà nước trong bảo đảm trật tự an toàn giao thông đường bộ
QLNN trong bảo đảm TTANGTĐB là hoạt động mang tính chất quyền
lực của cơ quan hành chính nhà nước, nhằm tạo ra các điều kiện để xác lập,
duy trì và ổn định các quan hệ về giao thông, theo quy định của pháp luật về
TTANGTĐB. Đây là một hoạt động có vai trò, vị trí rất quan trọng trong lĩnh
vực an ninh trật tự. Bởi vì, TNGT hàng ngày vẫn xảy ra đã và đang là một
hiểm họa không chỉ đối với nước ta mà còn là hiểm họa chung đối với tất cả
các quốc gia trên thế giới.
QLNN trong bảo đảm TTANGTĐB là hoạt động chấp hành và điều
hành của các cơ quan nhà nước, các tổ chức xã hội được Nhà nước ủy quyền,
được tiến hành trên cơ sở pháp luật, nhằm bảo vệ trật tự ATGT. QLNN trong
bảo đảm TTANGTĐB được tiến hành trên các lĩnh vực: ban hành các văn bản
quy phạm pháp luật về TTANGTĐB; tuyên truyền, phổ biến, giáo dục pháp
luật về GTĐB; quản lý quy tắc GTĐB; quản lý kết cấu hạ tầng GTĐB; quản
lý phương tiện tham gia GTĐB; quản lý người điều khiển phương tiện
GTĐB; quản lý vận tải đường bộ; tuần tra kiểm soát giao thông; chỉ huy điều
khiển giao thông; thanh tra, kiểm tra và xử lý TNGT.
Từ sự phân tích trên đây, có thể quan niệm: Quản lý nhà nước trong
12
bảo đảm trật tự an toàn giao thông đường bộ là toàn bộ hoạt động có tổ
chức, có định hướng, mang tính quyền lực của các cơ quan nhà nước có thẩm
quyền nhằm xác lập cơ sở pháp lý cho quản lý, tổ chức thực hiện và xử lý vi
phạm các quy định về quản lý nhà nước trong bảo đảm trật tự an toàn giao
thông đường bộ, thiết lập và duy trì trật tự an toàn giao thông đường bộ, bảo
đảm giao thông đường bộ thông suốt, an toàn và thúc đẩy phát triển kinh tế,
văn hóa - xã hội, tiến trình hội nhập khu vực và quốc tế.
1.1.2. Đặc điểm của quản lý nhà nước trong bảo đảm an toàn trật tự giao
thông đường bộ
1.1.2.1. QLNN trong bảo đảm ATTTGTĐB có ảnh hưởng trực tiếp và lâu dài đến an
toàn trật tự giao thông đường bộ và toàn xã hội
QLNN về ATTTGTĐB là một trong những nội dung quan trọng của
QLNN về GTĐB. Việc tổ chức, thực hiện những nội dung và yêu cầu QLNN
về ATTTGTĐB được tiến hành công khai, thống nhất, đồng bộ bởi các cơ
quan nhà nước. Tuy nhiên, khác với việc thực hiện quản lý nhà nước trong
các lĩnh vực khác, quản lý nhà nước trong bảo đảm an toàn trật tự giao thông
đường bộ có ảnh hưởng trực tiếp và lâu dài đến an toàn trật tự giao thông đường
bộ và toàn xã hội. Một chính sách không phù hợp, một kế hoạch đầu tư không hiệu
quả, sự điều chỉnh giờ giấc hay việc phân luồng giao thông không chính xác… tất cả
ảnh hưởng trực tiếp đến giao thông của cả một khu vực, nghiêm trọng hơn, gây ảnh
hưởng trực tiếp đến sự an toàn, ảnh hưởng đến sự phát triển kinh tế của xã hội.
Ví dụ, quyết định đổi giờ học của học sinh và giờ làm của công chức viên
chức nhằm giảm ách tắc giao thông năm 2012 đã khiến cho hàng loạt phụ huynh học
sinh gặp khó khăn trong việc thực hiện. Quyết định này đã không tính đến điều kiện
thực tế ở Việt Nam: các trường tiểu học và trường phổ thông ít có chế độ và dịch vụ
đưa đón học sinh đến lớp. Việc học sinh đến lớp muộn hơn giờ làm khiến phụ huynh
không thể đưa đón con mình đến trường. Mặc dù đã được triển khai rộng rãi và quyết
liệt từ Bộ Giáo dục và Đào tạo, từ Sở giáo dục Hà Nội và các trường phổ thông
nhưng Quyết định này gặp phải sự phản ứng mạnh mẽ của dư luận xã hội và đã phải
13
bãi bỏ khi thực hiện không lâu.
Thông tư 02 năm 2003 của Bộ Công an quy định mỗi người chỉ được đăng kí
1 xe máy trái với hiến pháp và pháp luật gây ảnh hưởng đến quyền lợi của nhân dân.
Gần 2 năm thực hiện, quy định này đã gây ảnh hưởng đến quyền lợi của người dân,
gây bức xúc trong dư luận xã hội. Thông tư này đã buộc phải bác bỏ vào 21/11/2005.
Việc phân luồng giao thông không hợp lý cũng đã khiến cho tai nạn giao
thông tăng nhanh chóng tại quận Tân Bình, thành phố Hồ Chí Minh. Chỉ tính riêng 6
tháng đầu năm 2015, đã có 9 vụ tai nạn giao thông làm chết người, 155 vụ va chạm
làm bị thương 103 người và gây hư hỏng cho 224 phương tiện tham gia giao thông.
Nguyên nhân chủ yếu được Ủy ban nhân dân quận nhận định là do việc tổ chức giao
thông còn nhiều bất cập, đường dành cho xe máy quá nhỏ trong khi đó lưu lượng xe
máy tham gia giao thông quá dông dẫn đến tình trạng người dân đi vào làn đường
dành cho ô tô và xảy ra tai nạn.
Ngoài ra, những chính sách đầu tư cho đường giao thông, cho cơ sở hạ tầng,
nếu không thực sự hiệu quả sẽ ảnh hưởng lớn đến thế hệ tương lai vì đầu tư cho giao
thông không phải là đầu tư cho khoảng thời gian tính bằng năm mà thời gian tính
bằng giai đoạn phát triển. Ngược lại, chính sách đầu tư hiệu quả sẽ kéo theo sự phát
triển của cả một khu vực, xóa nhòa ranh giới vùng miền, giúp giảm bớt khoảng cách
giàu nghèo, giúp cho xã hội phát triển ổn định và phồn vinh. QLNN trong bảo đảm
ATTTGTĐB còn có tác động rất lớn đến đời sống xã hội và phát triển kinh tế;
GTĐB thông suốt, an toàn, tiện lợi là tiền đề quan trọng để thúc đẩy sản xuất
phát triển, hàng hóa đỡ khan hiếm, đắt đỏ, nguyên, nhiên, vật liệu được cung
cấp đầy đủ, giao lưu kinh tế giữa các vùng được đẩy mạnh, v.v.. nhu cầu đi
lại, giao lưu văn hóa, giáo dục, y tế sẽ sôi động hơn.
Cũng có thể thấy rõ những phán đoán sai về tình hình phát triển của hệ thống
giao thông đô thị khiến xuất hiện những văn bản, những quyết sách không đúng sẽ
gây nên những hậu quả nghiêm trọng. Việc xóa bỏ hệ thống giao thông công cộng
một thời đã khiến cho các phương tiện cá nhân tăng lên nhanh chóng. Tình trạng ùn
tắc GTĐB và tai nạn GTĐB gây tổn thất về người và phương tiện xảy ra liên
14
tục gây tổn thất không hề nhỏ cho mỗi cá nhân và cho toàn xã hội. Ước tính
thiệt hại do ùn tắc giao thông tại Hà Nội và thành phố Hồ Chí Minh lên đến
hàng chục tỉ đồng mỗi năm.
1.1.2.2. QLNN trong bảo đảm ATTTGTĐB là hoạt động có tính chất liên kết phối
hợp với nhiều đơn vị, nhiều cơ quan và tổ chức xã hội
Quản lý nhà nước trong các lĩnh vực đảm bảo an toàn trật tự giao thông đường
bộ khác với việc quản lý nhà nước trong các lĩnh vực khác. Đối tượng quản lý nhà
nước trong lĩnh vực đảm bảo an toàn giao thông đa dạng và phức tạp nhất. Từ em bé
ba tuổi cho đến các cụ già, từ người nông dân đến các quan chức chính phủ, từ người
lao động tự do đến những công chức, viên chức… để có các giải pháp đảm bảo an
toàn cho người tham gia giao thông và tuyên truyền, hướng dẫn người tham gia giao
thông thực hiện tốt nghĩa vụ của mình cần có sự phối hợp của rất nhiều cơ quan, các
tổ chức đoàn thể vào cuộc.
Ví dụ, một bệnh viện ngoài việc cứu chữa bệnh nhân tưởng như chỉ liên quan
đến việc đảm bảo an toàn giao thông ở việc cán bộ nhân viên trong bệnh viện đảm
bảo chấp hành các luật giao thông. Tuy nhiên, bệnh viện đó đã có những giải pháp
hiệu quả giúp nâng cao ý thức người dân khi tham gia giao thông để phòng chống tai
nạn giao thông. Bệnh viện Việt Đức là một trường hợp như vậy. Trước một thực tế
người tham gia giao thông bị tai nạn và tử vong rất nhiều vì không đội mũ bảo hiểm,
bệnh viện Việt Đức đã công bố những hình ảnh những nạn nhân tai nạn giao thông bị
chấn thương sọ não do không đội mũ bảo hiểm; tương tự, bệnh viện cũng đã công bố
cho công chúng hình ảnh những nạn nhân bị tai nạn giao thông do uống rượu bia và
không làm chủ được tốc độ. Sau mỗi đợt công bố như vậy, tai nạn giao thông và số
nạn nhân bị chấn thương sọ não do không đội mũ bảo hiểm, do uống rượu bia nhập
viện đã giảm hẳn. Đó cũng là một trong những thực tế chứng minh sự tham gia của
một đơn vị ngoài chức năng vào lĩnh vực quản lý nhằm đảm bảo an toàn trật tự giao
thông đường bộ.
Sự phối hợp trong quản lý nhà nước về an toàn trật tự giao thông được
tiến hành bởi nhiều cơ quan nhà nước, với những thẩm quyền khác nhau cùng
15
tham gia bảo đảm ATTTGTĐB. Đó là Chính phủ, Bộ Giao thông vận tải, Bộ
Công an, Ủy ban nhân dân các cấp. Ngoài ra, còn có những cơ quan khác giữ
vai trò phối hợp như Mặt trận Tổ quốc Việt Nam, Bộ Y tế, Bộ Quốc phòng,
Bộ Xây dựng, Bộ Giáo dục và Đào tạo, cơ quan thông tin đại chúng, v.v.. Để
có được sự phối hợp này, Nhà nước phải là cơ quan chịu trách nhiệm trực
tiếp. Trên cơ sở đó, nhà nước cần có sự điều phối và sự chỉ đạo các tổ chức,
các cơ quan, ban ngành nhằm tạo hiệu quả trong quá trình phối hợp thực hiện.
1.1.2.3. QLNN trong bảo đảm ATTTGTĐB mang tính quyền lực nhà nước
Có thể thấy rõ một điều, việc điều chỉnh các quan hệ GTĐB không thể
hô hào chung chung hoặc chỉ dừng lại ở những chính sách, kế hoạch, v.v..
Pháp luật phải là công cụ chủ yếu để chỉ đạo hành vi của các chủ thể tham gia
giao thông và những chủ thể quản lý hành chính nhà nước trong lĩnh vực bảo
đảm ATTTGTĐB. Pháp luật phải có trước một bước và pháp luật phải quy
định về quy tắc GTĐB; hệ thống báo hiệu đường bộ; các điều kiện đảm bảo
an toàn GTĐB của kết cấu hạ tầng; phương tiên và người tham gia giao
thông; hoạt động vận tải đường bộ,v.v…
Tính quyền lực nhà nước trong bảo đảm ATTTGTĐB thể hiện ở chỗ các
cơ quan nhà nước có thẩm quyền trong bảo đảm ATTTGTĐB căn cứ vào các
quy định của pháp luật đề ra các quyết định, mệnh lệnh có tính chất bắt buộc
cho các đối tượng quản lý nhằm đảm bảo, duy trì thường xuyên ATTTGTĐB.
Vì thế, hoạt động phối hợp của các cơ quan nhà nước trong bảo đảm
ATTTGTĐB vừa là yêu cầu, vừa là phương thức để thực hiện mục tiêu
QLNN, đây chính là một trong những điều kiện tiên quyết để nâng cao hiệu
lực, hiệu quả QLNN.
QLNN trong bảo đảm ATTTGTĐB còn thể hiện và quy định người
tham gia giao thông không được làm những gì mà pháp luật cấm và được làm
tất cả những gì mà pháp luật không cấm, nhưng với những điều kiện được quy
định rất khắt khe đó là hàng loạt các điều kiện đảm bảo ATTTGTĐB.
QLNN về ATTTGTĐB là lĩnh vực quản lý hết sức phức tạp, bởi vì hoạt
16
động giao thông có tính xã hội rộng lớn, phổ biến nhất, phương tiện giao
thông rất đa dạng, người tham gia giao thông có đủ mọi thành phần, ở nhiều
lứa tuổi. Trong khi đó, trình độ nhận thức, ý thức chấp hành pháp luật nói
chung và pháp luật về ATTTGTĐB nói riêng của đại đa số người tham gia
giao thông còn thấp. Để đảm bảo ATTTGTĐB, tránh ùn tắc GTĐB, tai nạn
GTĐB và tổn thất do tai nạn GTĐB gây ra, pháp luật GTĐB quy định người
tham gia GTĐB không được làm những gì mà pháp luật cấm, hoặc nghiêm
cấm. Chẳng hạn, cấm vượt xe trên cầu hẹp có một làn xe, dưới gầm cầu vượt,
đường vòng, đường dốc, nơi đường giao nhau, đường bộ giao cắt đường sắt,
v.v.. hoặc những hành vi bị nghiêm cấm như phá hoại công trình đường bộ, sử
dụng lòng đường, hè phố trái phép; đua xe, tổ chức đua xe trái phép, lái xe mà
sử dụng chất ma túy, lái xe chạy quá tốc độ quy định, gây tai nạn rồi bỏ trốn
trách nhiệm, v.v..
Tuy vậy, người tham gia giao thông được làm tất cả những gì pháp luật
không cấm nhưng với những điều kiện hết sức khắt khe do pháp luật quy định
cụ thể. Chẳng hạn, pháp luật GTĐB không cấm người tập lái xe ôtô tham gia
GTĐB nhưng với điều kiện là phải thực hành trên xe tập lái và có giáo viên
bảo trợ tay lái.
Việc xử lý các vi phạm pháp luật dù ở mức độ xử lý vi phạm hành
chính hay truy cứu trách nhiệm hình sự đều phải được tiến hành trên cơ sở
pháp luật, theo pháp luật. Có như thế mới đảm bảo tính pháp chế trong xử lý
vi phạm pháp luật GTĐB, góp phần giữ vững trật tự, kỷ cương trong hoạt
động GTĐB, khắc phục được tình trạng tùy tiện, làm quyền, đùn đẩy, né tránh
bỏ sót vi phạm trong xử lý.
1.1.3. Nội dung quản lý nhà nước trong bảo đảm trật tự an toàn giao thông
đường bộ
1.1.3.1. Xây dựng và ban hành văn bản QLNN về ATTTGTĐB
Xây dựng và ban hành hệ thống văn bản quy phạm pháp luật là công
việc không thể thiếu trong lĩnh vực quản lý nhà nước. Đây cũng là một công
17
việc đầu tiên và bắt buộc của quy trình QLNN về ATTTGTĐB. Xây dựng và
ban hành văn bản quy phạm pháp luật về ATTTGTĐB tạo lập cơ sở pháp lý
cho việc tổ chức thực hiện pháp luật về ATTTGTĐB và xử lý vi phạm pháp
luật về ATGTGTĐB. Vì vậy, đây là khâu có tính chất quyết định đối với hai
nội dung còn lại của quy trình QLNN về ATTTGTĐB, đó là tổ chức thực hiện
văn bản quy phạm pháp luật về ATTTGTĐB và xử lý vi phạm pháp luật về
ATTTGTĐB.
Xây dựng và ban hành văn bản quy phạm pháp luật về ATTTGTĐB
trước hết là hoạt động lập quy của các cơ quan nhà nước có thẩm quyền. Nhà
nước quy định thẩm quyền cho từng cơ quan trong việc xây dựng và ban hành
các văn bản quy phạm pháp luật điều chỉnh các quan hệ xã hội phát sinh trong
lĩnh vực GTĐB. Các cơ quan này được trao những chức năng, nhiệm vụ và
quyền hạn cụ thể trong thực hiện những nội dung của QLNN về bảo đảm
ATTTGTĐB: như quy định quy tắc GTĐB, các điều kiện bảo đảm an toàn
GTĐB của kết cấu hạ tầng, phương tiện và người tham gia GTĐB, hoạt động
vận tải đường bộ; quy định cơ chế giám sát, thanh tra, kiểm tra, tuần tra, kiểm
soát, xử lý vi phạm trong việc chấp hành pháp Luật GTĐB; quy định về khiếu
nại; khởi kiện với những quyết định, biện pháp xử lý, tố cáo những hành vi vi
phạm pháp luật GTĐB…
Căn cứ pháp lý cho hoạt động này là Hiến pháp, Luật Tổ chức Chính
phủ, Luật Tổ chức Hội đồng nhân dân Ủy ban nhân dân và Luật Ban hành văn
bản quy phạm pháp luật, Luật GTĐB, v.v…
Chính phủ là cơ quan thống nhất QLNN về ATTTGTĐB có vai trò chủ
chốt trong xây dựng pháp luật về ATTTGTĐB, có thẩm quyền trình các dự án
luật, pháp lệnh có nội dung liên quan, cũng như ban hành các văn bản quy
định chi tiết thi hành Luật GTĐB để áp dụng thống nhất trên toàn lãnh thổ
Việt Nam.
Bên cạnh đó, có thể thấy rõ, xã hội luôn vận động phát triển; các quy
phạm pháp luật về ATTTGTĐB không theo kịp sự vận động, phát triển đó. Vì
18
vậy, hoàn thiện luật luôn là nhiệm vụ quan trọng và liên tục chỉnh sửa thay đổi
cho phù hợp với sự vận động và phát triển của xã hội.
Việc ban hành hệ thống văn bản pháp luật này còn phải dựa trên kết
quả của quá trình nhận thức sự vận động, phát triển các quan hệ GTĐB, của
nhu cầu điều chỉnh bằng pháp luật đối với các quan hệ GTĐB trong thực tiễn
quản lý. Trên cơ sở nhận thức đó, chủ thể quản lý cần điều chỉnh các thể chế
quản lý phù hợp, tạo lập hành lang pháp lý cho những quan hệ ấy phát triển
theo đúng định hướng của Nhà nước. Pháp luật về ATTTGTĐB hoàn thiện
mới có khả năng tạo lập được cơ sở pháp lý vững chắc cho toàn bộ sự vận
động phát triển của các quan hệ ATTTGTĐB. Hệ thống pháp luật về
ATTTGTĐB chỉ hoàn thiện khi đáp ứng được đầy đủ bốn tiêu chí, đó là tính
toàn diện, tính đồng bộ, tính phù hợp, có kỹ thuật pháp lý cao.
Tính toàn diện của pháp luật về ATTTGTĐB đòi hỏi phải có đầy đủ
các chế định, các quy phạm pháp luật điều chỉnh một cách bao quát toàn bộ
các quan hệ về ATTTGTĐB. Quan hệ ATTTGTĐB rất đa dạng, phong phú, để
điều chỉnh được một cách bao quát và toàn bộ đòi hỏi pháp luật về
ATTTGTĐB phải có nhiều chế định, nhiều quy phạm pháp luật để đảm bảo
sự tương ứng với sự đa dạng, phong phú của quan hệ về ATTTGTĐB. Tuy
vậy, không phải có nhiều chế định, nhiều quy phạm thì điều chỉnh có hiệu quả
quan hệ ATTTGTĐB mà còn đòi hỏi những chế định đó, những quy phạm đó
phải đảm bảo chất lượng điều chỉnh.
Chất lượng điều chỉnh làm nên tính phù hợp của những chế định,
những quy phạm pháp luật về ATTTGTĐB: phù hợp với sự vận động và
phát triển của các quan hệ về ATTTGTĐB Việt Nam cũng như xu thế phát
triển chung của ATTTGTĐB trong khu vực và trên thế giới. Do đó, pháp luật
về ATTTGTĐB phải xuất phát từ thực tiễn hoạt động GTĐB của Việt Nam
cũng như sự đòi hỏi của tiến trình mở rộng giao lưu hợp tác quốc tế về
GTĐB.
Pháp Luật GTĐB còn phải đảm bảo tính đồng bộ thể hiện ở sự thống
19
nhất, không mâu thuẫn nhau của các chế định, quy phạm pháp luật về
ATTTGTĐB cùng tập trung điều chỉnh một cách có hiệu quả các quan hệ về
ATTTGTĐB. Do quan hệ về ATTTGTĐB có liên quan đến nhiều quan hệ xã
hội khác thuộc đối tượng điều chỉnh của nhiều ngành luật khác nhau trong hệ
thống pháp luật Việt Nam nên tính đồng bộ của pháp luật giao thông đường
bộ còn phải thể hiện qua sự thống nhất, quan hệ khăng khít, không mâu thuẫn
của pháp luật về ATTTGTĐB với các bộ phận pháp luật khác, cũng như các
ngành luật khác trong hệ thống pháp luật Việt Nam.
Trong xây dựng và hoàn thiện pháp luật về ATTTGTĐB, công tác pháp
điểm hóa (rà soát, hệ thống hóa các văn bản quy phạm pháp luật trong lĩnh
vực ATTTGTĐB) có tầm quan trọng đặc biệt. Rà soát hệ thống văn bản quy
phạm pháp luật nhằm loại bỏ những quy phạm lỗi thời, mâu thuẫn, chế định
thêm những quy phạm mới nhằm thay thế cho những quy định bị loại bỏ và
khắc phục những chỗ trống được thực hiện trong quá trình tập hợp văn vản,
sửa đổi các quy phạm hiện hành nâng cao hiệu lực pháp lý của chúng. Pháp
điển hóa là hình thức cao nhất hoàn chỉnh nhất của công tác hệ thống hóa
pháp luật.
Các lĩnh vực ban hành văn bản quản lý nhà nước về đảm bảo an toàn
trật tự giao thông đường bộ bao gồm:
Ban hành văn bản về xây dựng quy hoạch, kế hoạch và chính sách phát
triển GTĐB; Ban hành ác văn bản về xây dựng và chỉ đạo thực hiện chương
trình quốc gia về ATTTGTĐB. ban hành các văn bản quy phạm pháp luật về
ATTTGTĐB; các văn bản về quy chuẩn, tiêu chuẩn về an toàn GTĐB, về
tuyên truyền, phổ biến, giáo dục pháp luật về ATTTGTĐB, về tổ chức quản
lý, bảo trì và bảo vệ kết cấu hạ tầng GTĐB; ban hành các văn bản về đăng ký,
cấp và thu hồi biển số phương tiện GTĐB; các văn bản hướng dẫn cấp và thu
hồi giấy chứng nhận về chất lượng, an toàn kỹ thuật và bảo vệ môi trường của
các loại phương tiện GTĐB. Ban hành các văn bản quy định và hướng dẫn về
quản lý đào tạo, sát hạch lái xe; cấp, đổi, thu hồi giấy phép lái xe và chứng chỉ
20
bồi dưỡng kiến thức pháp luật về GTĐB; ban hành các văn bản về quản lý
hoạt động giao thông vận tải, dịch vụ hỗ trợ vận tải và tổ chức cứu nạn
GTĐB, các văn bản về tổ chức nghiên cứu, ứng dụng khoa học và công nghệ
về GTĐB; đào tạo cán bộ và công nhân kỹ thuật về GTĐB; các văn bản về
thanh tra, kiểm tra, giải quyết khiếu nại, tố cáo và xử lý vi phạm pháp luật về
ATTTGTĐB; các văn bản quy định và hướng dẫn về hợp tác quốc tế về bảo
đảm ATTTGTĐB.
1.1.3.2. Tổ chức thực hiện pháp luật về ATTTGTĐB
Tổ chức thực hiện pháp luật về ATTTGTĐB là hoạt động đưa các quy
phạm pháp luật về ATTTGTĐB vào điều chỉnh các quan hệ GTĐB. Hoạt
động này bao gồm: triển khai thực hiện và áp dụng pháp luật về ATTTGTĐB.
Về triển khai thực hiện pháp luật ATTTGTĐB: các cơ quan QLNN
được giao thẩm quyền quản lý về an toàn trật tự giao thông tổ chức triển khai
các quy định trong các văn bản pháp luật về ATTTGTĐB bằng việc tập huấn,
hướng dẫn thực hiện tại các cơ quan, đơn vị cơ sở, tuyên truyền phổ biến giáo
dục cho các đối tượng quản lý bằng nhiều hình thức, biện pháp phù hợp. Đây
là một trong những nhiệm vụ hàng đầu và quan trọng mang tính cơ bản và lâu
dài nhằm hình thành nếp sống văn minh ý thức chấp hành pháp luật của nhân
dân khi tham gia giao thông đường bộ.
Kinh nghiệm của rất nhiều quốc gia trên thế giới về triển khai thực hiện
pháp luật an toàn trật tự an toàn giao thông đường bộ cho thấy, muốn thực
hiện quản lý tốt công tác an toàn trật tự giao thông đường bộ, cần có sự phối
hợp triển khai thực hiện pháp luật an toàn trật tự giao thông đường bộ một
cách hiệu quả đến tất cả các tổ chức, các cơ quan, các đối tượng tham gia giao
thông thì mới có thể tạo nên sự thống nhất và đồng thuận trong quá trình thực
hiện. Ví dụ: tại Việt Nam, để triển khai thực hiện pháp luật được thuận lợi,
ngay từ khi có cuộc họp chính phủ về dự thảo luật, tất cả các thông tin về
cuộc họp và về nội dung dự thảo luật đã được công bố rộng rãi trên các
phương tiện thông tin đại chúng để công chúng biết và tham gia xây dựng
21
luật. Bộ luật được hoàn thiện, việc hướng dẫn thực hiện pháp luật sẽ được tổ
chức một cách đồng bộ mà trước hết là trong đội ngũ những người làm công
tác quản lý nhà nước, sau đó được triển khai tuyên truyền rộng rãi đến toàn
thể nhân dân bằng các hình thức tuyên truyền trên các phương tiện truyền
thông đại chúng, tuyên truyền qua các tổ chức đoàn thể, tuyên truyền bằng tờ
rơi… Tất cả các biện pháp đó cần thực hiện đồng bộ để đạt được hiệu quả cao
nhất, nhằm nâng cao hiểu biết và ý thức chấp hành luật pháp của nhân dân.
Về áp dụng pháp luật ATTTGTĐB: Là việc tác động quản lý bằng
quyền lực nhà nước của các cơ quan có thẩm quyền và được ủy quyền trong
lĩnh vực ATTTGTĐB để thi hành pháp luật về ATTTGTĐB. Các hoạt động áp
dụng pháp luật an toàn trật tự giao thông đường bộ bao gồm: đào tạo lái xe
(cấp giấy phép lái xe), chứng thực, chứng nhận; cho phép (giao đất xây dựng
công trình giao thông, quyết định và cấp giấy phép các dự án giao thông, xây
dựng cầu đường, bến xe, bãi đỗ xe, xuất nhập các phương tiện giao thông,
kinh doanh vận tải đường bộ); bãi bỏ các quyết định sai trái; ban hành các
quyết định; thanh tra, kiểm tra, giám sát, cưỡng chế…
Hoạt động áp dụng pháp luật an toàn trật tự giao thông đường bộ là rất
cần thiết trong quá trình quản lý nhà nước bởi nhờ các hoạt động áp dụng luật
này, hệ thống quản lý nhà nước về an toàn giao thông được thực hiện một
cách khoa học và toàn diện về an toàn trật tự giao thông đường bộ. Khoa học
về cách thức quản lý, toàn diện về đối tượng quản lý.
1.1.3.3. Xử lý vi phạm pháp luật về ATTTGTĐB
Vi phạm pháp luật về ATTTGTĐB là hành vi có lỗi do cá nhân, tổ chức
thực hiện vi phạm quy định của pháp luật về quản lý nhà nước. Vi phạm pháp
luật về an toàn trật tự giao thông đường bộ là loại vi phạm xảy ra liên tục, với
nhiều đối tượng khác nhau và với nhiều biểu hiện khác nhau: Vi phạm trong
xây dựng kết cấu hạ tầng, vi phạm trong quá trình tham gia giao thông, vi
phạm trong quá trình vận tải… các hành vi vi phạm này tuy trong lĩnh vực
giao thông nhưng có thể phát sinh các loại vi phạm pháp luật như: vi phạm
22
pháp luật dân sự; vi phạm pháp luật hành chính; vi phạm kỷ luật nhà nước
(chủ yếu đổi với cán bộ, công chức, viên chức hành chính trực tiếp hoạt động
QLNN trong bảo đảm ATTTGTĐB); vi phạm pháp luật đất đai; vi phạm pháp
luật hình sự.
Đối tượng áp dụng của hoạt động xử lý vi phạm pháp luật về an toàn
trật tự giao thông đường bộ là toàn bộ cá nhân, tổ chức Việt Nam, cá nhân, tổ
chức nước ngoài có hành vi vi phạm pháp luật về giao thông đường bộ.
Xử lý vi phạm pháp luật về ATTTGTĐB là hoạt động của những chủ
thể có thẩm quyền QLNN trong bảo đảm ATTTGTĐB được tiến hành bằng
biện pháp cưỡng chế. Các biện pháp cưỡng chế hành chính gồm có: các biện
pháp cưỡng chế phòng ngừa, các biện pháp cưỡng chế ngăn chặn, các biện
pháp cưỡng chế đặc biệt và các biện pháp cưỡng chế phạt tiền - theo quy định
của pháp luật xử phạt vi phạm hành chính.
Xử lý vi phạm pháp luật về ATTTGTĐB được tiến hành ở hai mức độ:
xử lý vi phạm hành chính và truy cứu trách nhiệm hình sự đối với các hành vi
vi pham pháp luật về ATTTGTĐB đã đủ các yếu tố cấu thành tội phạm.
Xử lý vi phạm hành chính về ATTTGTĐB chủ yếu là áp dụng xử phạt
vi phạm hành chính về ATTTGTĐB được áp dụng đối với cá nhân và tổ chức
có hành vi cố ý hoặc vô ý vi phạm quy định về nguyên tắc ATTTGTĐB, các
điều kiện đảm bảo ATGT của kết cấu hạ tầng GTĐB, phương tiện và người
tham gia GTĐB, hoạt động vận tải đường bộ và các hành vi vi phạm khác về
ATTTGTĐB mà không phải là tội phạm và theo quy định của pháp luật phải
bị xử phạt hành chính.
Như vậy, có thể nhận diện nội dung của QLNN trong bảo đảm
ATTTGTĐB bao gồm: Một là, xây dựng quy hoạch, kế hoạch và chính sách
phát triển GTĐB; xây dựng và chỉ đạo thực hiện chương trình quốc gia về
ATTTGTĐB. Hai là, ban hành và tổ chức thực hiện các văn bản quy phạm
pháp luật về ATTTGTĐB; quy chuẩn, tiêu chuẩn về an toàn GTĐB. Ba là,
tuyên truyền, phổ biến, giáo dục pháp luật về ATTTGTĐB. Bốn là, tổ chức
23
quản lý, bảo trì và bảo vệ kết cấu hạ tầng GTĐB. Năm là, đăng ký, cấp và thu
hồi biển số phương tiện GTĐB; cấp và thu hồi giấy chứng nhận về chất
lượng, an toàn kỹ thuật và bảo vệ môi trường của các loại phương tiện GTĐB.
Sáu là, quản lý đào tạo, sát hạch lái xe; cấp, đổi, thu hồi giấy phép lái xe và
chứng chỉ bồi dưỡng kiến thức pháp luật về GTĐB. Bảy là, quản lý hoạt động
giao thông vận tải, dịch vụ hỗ trợ vận tải và tổ chức cứu nạn GTĐB. Tám là,
tổ chức nghiên cứu, ứng dụng khoa học và công nghệ về GTĐB; đào tạo cán
bộ và công nhân kỹ thuật về GTĐB. Chín là, thanh tra, kiểm tra, giải quyết
khiếu nại, tố cáo và xử lý vi phạm pháp luật về ATTTGTĐB. Mười là, hợp tác
quốc tế về bảo đảm ATTTGTĐB.
1.2. Những tiêu chí đánh giá hiệu quả của QLNN trong đảm bảo
ATTTGTĐB
1.2.1. Tiêu chí về cơ sở pháp lý
Tiêu chí về cơ sở pháp lý là tiêu chí đầu tiên đánh giá hiệu quả của
quản lý nhà nước trong bất cứ lĩnh vực nào. Không có cơ sở pháp lý, hoạt
động quản lý nhà nước sẽ không thực hiện được. Cơ sở pháp lý không hoàn
thiện hoặc không phù hợp sẽ khiến cho hoạt động quản lý nhà nước không
hiệu quả.
Cũng như tất cả các lĩnh vực khác, cơ sở pháp lý của hoạt động QLNN
trong đảm bảo ATTTGTĐB được tính đến ở hệ thống các văn bản quy phạm
pháp luật được công nhận và ban hành chính thức trên phạm vi toàn quốc. Hệ
thống văn bản này trước hết phải đảm bảo tính khoa học, chính xác, phải đầy
đủ, phù hợp với các đối tượng quản lý, phù hợp sự phát triển của khoa học kĩ
thuật, với sự phát triển của xã hội và phù hợp với điều kiện của đất nước... Hệ
thống đó cũng phải thường xuyên được pháp điển hóa để hoàn thiện.
Thêm vào đó, hệ thống văn bản quy phạm pháp luật trong đảm bảo
ATTTGTĐB phải tính quyền lực và hiệu lực của văn bản. Tính quyền lực và
hiệu lực của các văn bản quy phạm pháp luật thể hiện ở tính chất khoa học
đầy đủ và bao quát các nội dung cần có của văn bản. Trọng tâm của hệ thống
24
văn bản pháp luật về ATTTGTĐB thể hiện ở luật Giao thông đường bộ, tuy
nhiên, còn có hệ thống các văn bản quy phạm pháp luật khác trong quá trình
thực hiện quản lý. Hệ thống văn bản này không những cần có sự hoàn thiện
và đầy đủ về số lượng mà còn cần đến chất lượng của các văn bản. Chất
lượng của các văn bản này thể hiện ở tính đầy đủ, chặt chẽ và dễ hiểu, dễ thực
hiện và phù hợp, đảm bảo tính liên thông và nhất quán, tính khách quan, công
khai và minh bạch trong các loại văn bản. Tránh tình trạng các văn bản chồng
chéo, khó hiểu, hoặc chỉ mang tính nguyên tắc khiến người chấp hành khó
thực hiện được theo yêu cầu của văn bản hoặc tình trạng một văn bản có
nhiều cách hiểu để nảy sinh tình trạng lách luật, lợi dụng kẽ hở trong luật
định...
Đảm bảo ATTTGTĐB được quản lý bởi hệ thống pháp luật Việt Nam,
trong đó trực tiếp chịu sự chi phối của Luật giao thông đường bộ. Ngoài ra cơ
sở pháp lý của quản lý Đảm bảo ATTTGTĐB còn dựa trên cơ sở văn bản
quản lý theo ngành, theo lĩnh vực (quản lý theo chiều dọc từ Bộ Giao thông
vận tải xuống Sở Giao thông công chính các tỉnh, thành phố trực thuộc), Văn
bản quản lý theo chiều ngang (phối hợp giữa Bộ Giao thông vận tải với Bộ
Công an, Bộ Giáo dục, Bộ Y tế...); phối hợp chỉ đạo giữa các Bộ có liện quan
với các sở ban ngành theo chiều dọc... Ngoài ra còn các chương trình, mục
tiêu, đề án, dự án quốc gia ... mỗi hệ thống có một chức năng nhiệm vụ quản
lý riêng của mình trong từng lĩnh vực nhất định.
1.2.2. Năng lực tổ chức thực hiện pháp luật
Pháp luật là yếu tố quan trọng nhất trong quản lý nhà nước về tất cả
các lĩnh vực. Tuy nhiên, nếu bộ máy tổ chức công tác quản lý không thực
được tổ chức hiệu quả sẽ dẫn đến tình trạng lộn xộn không tuân thủ pháp luật
trong xã hội. Vì vậy, thực hiện đầy đủ, khoa học và chính xác kịp thời pháp
luật trong quản lý nhà nước chính là tiêu chí đánh giá hiệu quả công tác quản
lý nhà nước.
Năng lực thực hiện pháp luật được đánh giá dựa vào tính hợp lý của các
25