Tải bản đầy đủ (.docx) (27 trang)

LÝ LUẬN CHUNG VỀ LỢI NHUẬN CỦA DOANH NGHIỆP

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (139.35 KB, 27 trang )

LÝ LUẬN CHUNG VỀ LỢI NHUẬN CỦA DOANH NGHIỆP
TRONG NỀN KINH TẾ THỊ TRƯỜNG
I- VAI TRÒ CỦA LỢI NHUẬN ĐỐI VỚI DOANH NGHIỆPTRONG NỀN KINH TẾ THỊ
TRƯỜNG
1. Khái niệm và nguồn gốc của lợi nhuận:
Trước khi nghlên cứu, tìm hiểu nguồn gốc, bản chất của lợi nhuận ta
phải tìm hiều lợi nhuận là gì?
1.1. Khái niệm lợi nhuận:
Lợi nhuận là một khái niệm tưởng chừng đơn giản nhưng lại phức tạp.
Nói một cách ước lệ tổng thu được từ các hoạt động sản xuất kinh đoanh trừ
đi tổng chi phí cho quá trình hoạt động sản xuất kinh doanh đó gọi là lợi
nhuận. Cách hiểu như vậy thật đơn giản. Nhưng bản thân khái niệm và trong
thực tế hình thành nên 1ãi suất không đơn giản chút nào. Khái niệm lợi nhuận
là khái niệm mục đích, là khái niệm trọng tâm và là khái niệm phức tạp nhất
của kinh doanh. Lợi nhuận chủ yếu là thông qua kinh doanh, nhưng ở mức độ
nào đó lợi nhuận cũng có thể không phải từ kinh doanh mà ra; nhưng đó là để
chỉ tính trực tiếp hoặc gián tiếp, còn trong tổng thể xã hội thì lợi nhuận chủ
yếu được sinh ra trong kinh doanh.
Khái niệm lợi nhuận khá phức tạp, để có một khái niệm lợi nhuận như
ngày nay chính là sự đấu tranh, nghiên cứu giữa các nhà kinh tế học qua các
thời đại. Bởi vậy khi xem xét đánh giá ở các góc độ khác nhau, các thời đại
khác nhau mà mỗi nhà kinh tế lại có một cách hiểu khác nhau.
Từ xa xưa các nhà kinh tế học cổ điển trước Mác khi nhìn nhận lợi
nhuận họ đều cho rằng '' cái phần trội lên nằm trong giá bán so với chi phí sản
xuất'' là lợi nhuận. Họ chưa hiểu được nguồn gốc và bản chất của lợi nhuận
được sinh ra từ đâu, mà họ chỉ hiểu được về mặt lượng, chưa hiểu được về
mặt chất của 1ợi nhuận.
- Theo C. Mác, người có một cái nhìn tinh tế hơn về lợi nhuận dưới góc
độ khoa học hơn, ''thì lợi nhuận được hiểu'' là giá trị thặng dư hay cái phần
trội 1ên trong toàn bộ giá trị của hàng hoá, trong đó lao động thặng dư hay
1ao động không được trả lương của công nhân đã được vật hoá. Ông đã nhìn


lợi nhuận, hiểu được nguồn gốc cũng như bản chất của lợi nhuận.
- Các nhà kinh tế học hiện đại như Samuesdson và V.D.Nordhous cho rằng
''Lợi nhuận là một khoản thu nhập dôi ra bằng tổng thu về trừ đi tổng chi ra"
hay cụ thể hơn "Lợi nhuận được định nghĩa 1à sự chênh lệch giữa tổng thu
nhập của doanh nghiệp và tổng chi phí".
- Theo David Begg, Ftaniey Fisher và RudigewDoven Bush thì "Lợi nhuận
là lượng dôi ra của doanh thu so với chi phí".
Đối với nước ta hiện nay đứng trên góc độ đoanh nghiệp có thể thấy
rằng lợi nhuận của quá trình kinh doanh là khơản tiền chênh lệch giữa thu
nhập và chi phí mà đoanh nghiệp bỏ ra để đạt được thu nhập đó từ các hoạt
động của doanh nghiệp đưa lại trong khuôn khổ pháp luật quy định.
Như vậy đứng về mặt lượng mà xét, thì tất cả các định nghĩa trên đều
thống nhất ở một quan điểm "Lợi nhuận là số thu dôi ra so với số chi phí bỏ ra".
Lợi nhuận là kết quả tài chính cuối cùng của các hoạt động sản xuất kinh
doanh, 1à chỉ tiêu quan trọng để đánh giá chất lượng hoạt động sản xuất kinh
doanh của doanh nghiệp.
1.2. Nguồn gốc của lợi nhuận:
Các nhà kinh tế học thuộc nhiều trường phái khác nhau đã đưa ra nhiều
ý kiến tranh luận khác nhau về nguồn gốc của lợi nhuận ở các góc độ và quan
điểm riêng của họ.
- Theo phái trọng thương họ cho rằng ''Lợi nhuận được tạo ra trong lĩnh
vực lưu thông".
- Theo phái trọng nông mà đại biểu nổi tiếng là Kênê lại cho rằng ''Giá
trị thặng dư hay sản phẩm thuần túy là quà tặng vật chất của thiên nhiên và
ngành nông nghiệp là ngành duy nhất tạo ra sản phẩm thuần tuý".
- Theo phái cổ điển, nổi tiếng như Adam Smith là người đầu tiên tuyên
bố rằng "lao động là nguồn gốc sinh ra giá trị và giá trị thặng dư'' và chính
ông lại khẳng định "Giá trị thặng dư bao gồm tiền công, lợi nhuận và địa tô".
Còn David Ricarddo thì 1ại cho rằng ''Giá trị do lao động của công nhân tạo ra
là nguồn gốc sinh ra tiền lương cũng như 1ợi nhuận và địa tô". Như vậy cả

Smith và Ricarđđo đều nhầm lẫn giữa giá trị thặng dư với lợi nhuận.
Kế thừa những gì tinh tế nhất do các nhà kinh tế học tư sản để lại, kết
hợp với việc nghiên cứu sâu sắc nền kinh tế sản xuất tư bản chủ nghĩa, đặc biệt
1à nhờ có lý luận vô giá về giá trị hàng hoá sức lao động nên C. Mác đã đưa ra
một số kết luận một cách đứng đắn và khoa học: ông cho rằng "Giá trị thặng
dư được quan niệm là con đẻ của toàn bộ tư bản ứng trước, như vậy mang
hình thái biến tướng là lợi nhuận thuần tuý".
Dựa vào lý luận về lợi nhuận của C.Mác, kinh tế học hiện đại đã phân
tích khá sâu sắc về nguồn 1ợi nhuận của doanh nghiệp. Lợi nhuận luôn là mục
tiêu, 1à cái đích mà các nhà doanh nghiệp phải có chiến lược và mục tiêu cụ
thể trong từng giai đoạn cụ thể. Doanh nghiệp nào cũng luôn hướng tới làm
sao thu được lợi nhuận cao nhất nếu có thể trong điều kiện cho phép. Do vậy
đòi hỏi các doanh nghiệp phải biết nhìn nhận mình, phải nhìn thấy những cơ
hội mà người khác bỏ qua, phải luôn có chiến lược chính sách nghiên cứu phát
hiện ra sản phẩm mới, tìm ra phương pháp sản xuất mới tốt hơn để có chi phí
thấp nhất hoặc phải liều lĩnh mạo hiểm. Nói chung tiến hành tốt tất cả các
hoạt động, các khâu trong quá trình sản xuất kinh doanh, nhằm tối thiểu hoá
chi phí, tối đa hóa lợi nhuận, chính là góp phần nâng cao hiệu quả sản xuất
kinh doanh của doanh nghiệp. Nhưng thực tế lợi nhuận kinh tế còn được xem
như một phần thưởng dành cho các doanh nghiệp có khả năng và sẵn sàng
tiến hành các hoạt động sáng tạo, đổi mới và mạo hiểm để tổ chức kinh doanh
những thứ mà thị trường cần và đáp ứng được nhu cầu của người tiêu dùng.
Ngoài ra, cũng có những doanh nghiệp thu được lợi nhuận cao hơn nhờ kiểm
sơát, tổ chức và quản lý tốt các quá trình, các sản phẩm hoặc các thị trường
đặc biệt, tình hình về một loại hàng hoá và dịch vụ thuộc thế mạnh của hãng.
Như vậy nguồn gốc của lợi nhuận trong doanh nghiệp bao gồm:
- Thu nhập mặc nhiên của các nguồn 1ực mà các doanh nghiệp đã đầu
tư kinh doanh;
- Phần thưởng cho sự mạo hiểm, sáng tạo đổi mới trong doanh nghiệp
- Thu nhập độc quyền.

2. Vai trò của lợi nhuận trong doanh nghiệp
Các doanh nghiệp tiến hành hàng loạt các hoạt động sản xuất kinh
doanh là để kiếm lợi nhuận. Trong nền kinh tế thị trường, lợi nhuận là mục
tiêu của kinh doanh, là thước đo hiệu quả hoạt động sản xuất kinh đoanh, là
động 1ực kinh tế thúc đẩy các đoanh nghiệp cũng như mỗi người lao động
không ngừng sử đụng hợp lý, tiết kiệm các nguồn lực, nâng cao năng suất, chất
lượng và hiệu quả của quá trình sản xuất kinh doanh. Để tiến hành hoạt động
kinh doanh, cung cấp hàng hoá địch vụ đáp ứng nhu cầu của thị trường và
người tiêu dùng thì nhà sản xuất phải bỏ ra những chi phí nhất định để phục
vụ cho quá trình kinh doanh. Họ phải thuê đất đai, lao động và tiền vốn để mua
các nguồn lực cho sản xuất kinh doanh hàng hoá dịch vụ. Họ mong muốn hàng
hóa dịch vụ của họ được mua với giá ít nhất là đủ để bù đắp lại phần chi phí
mà họ bỏ ra, có nghĩa là giá bán thấp nhất là tại điểm hoà vốn. Ngoài ra người
sản xuất kinh doanh nào mà chẳng muốn có phần thừa ra để mở rộng và phát
triển sản xuất kinh doanh, nộp thuế, trả cổ tức, thưởng cho các nhà quản lý,
cho công nhân viên và cho cổ động. Ngược lại khi tiến hành các hoạt động sản
xuất kinh doanh mà không có lợi nhuận thì họ cũng không sẵn sàng cung cấp
hàng hoá, dịch vụ cho thị trường và người tiêu dùng như họ mong muốn. Do
đó lợi nhuận đóng một vai trò khá quan trong đối với tất cả các doanh nghiệp
sản xuất kinh doanh trong nền kinh tế thị trường. Trong mỗi giai đoạn khác
nhau, trong từng điều kiện cụ thể của từng đoanh nghiệp mà đặt ra mục tiêu
lợi nhuận khác nhau, nhưng cuối cùng đều hướng tới mục tiêu đó là lợi nhuận.
Chính vì vậy động cơ lợi nhuận là một bộ phận hợp thành quyết định tạo ra sự
thắng lợi của thị trường sản phẩm.
Lợi nhuận là chỉ tiêu kinh tế tổng hợp phản ánh toàn bộ kết quả của quy
trình sản xuất kinh doanh của doanh nghiệp, kể từ khi bắt đầu tìm kiếm nhu
cầu thị trường, nghiên cứu thị trường, phân đoạn thị trường, cho đến khi
chuẩn bị sản xuất kinh doanh, tổ chức bán hàng hoá, dịch vụ theo giá cả thị
trường. Nó phản ánh cả về mặt lượng và mặt chất của quá trình kinh doanh.
Kinh doanh tốt sẽ cho lợi nhuận nhiều; khi có 1ợi nhuận nhiều sẽ tạo khả năng

tái đầu tư, tái sản xuất mở rộng, phát triển quy mô sản xuất kinh doanh cả về
chiều rộng và chiều sâu, tiếp tục phát triển quá trình sản xuất có hiệu quả cao
hơn.
Ngược 1ại, làm ăn kém tất yếu sẽ dẫn đến thua lỗ và phá sản. Vì vậy có
thể nói lợi nhuận tối đa là mục tiêu hàng đầu trong hoạt động sản xuất kinh
đoanh của mọi doanh nghiệp hoạt động trong nền kinh tế thị trường cạnh
tranh khắc nghiệt. Muốn tồn tại và phát triển được thì hoạt động sản xuất kinh
doanh phải có lợi nhuận, có nghĩa là phải sinh lời.
Lợi nhuận của doanh nghiệp 1à bộ phận quan trọng của thu nhập thuần
tuý của doanh nghiệp, là nguồn thu quan trọng của ngân sách Nhà nước và 1à
cơ sở để tăng thu nhập quốc dân của mỗi nước. Như vậy ở khía cạnh này ta lại
thấy được vai trò của lợi nhuận không những quan trọng đối với bản thân
doanh nghiệp- có lợi nhuận thì mới tái sản xuất, mở rộng quy mô sản xuất,
phát triển đầu tư máy móc thiết bị, công nghệ, khoa học kỹ thuật tiên tiến, để
luôn tạo ra được sản phẩm mới đáp ứng nhu cầu, cũng như thị hiếu của người
tiêu dùng, tăng sức cạnh tranh, tạo uy tín thương mại, đồng thời bổ sung các
nguồn quỹ phúc lợi khen thưởng, quỹ nguồn vốn kinh doanh, nâng cao đời
sống của người lao động- mà nó còn giữ vai trò quan trọng đối với xã hội. Lợi
nhuận góp phần vào việc nộp thuế thu nhập cho ngân sách nhà nước thông
qua việc doanh nghiệp nộp thuế thu nhập doanh nghiệp, là nguồn tích luỹ cơ
bản để phát triển nền kinh tế xã hội.
Lợi nhuận của doanh nghiệp có quan hệ chặt chẽ với các chỉ tiêu kinh tế
kỹ thuật khác như chỉ tiêu về đầu tư, sản xuất, sử dụng các đầu vào, chỉ tiêu chi
phí và giá thành, chỉ tiêu các đầu ra và các chính sách tài chính quốc gia. ..
Trong những năm vừa qua từ khi chuyển đổi nền kinh tế từ tập trung
quan liêu bao cấp sang nền kinh tế hàng hoá nhiều thành phần dưới sự quản lý
vĩ mô của Nhà nước, môi trường hoạt động của các doanh nghiệp có nhiều
thay đổi. Nhà nước đã đưa ra nhiều chính sách, chủ chương nhằm tạo hành
lang pháp lý, tạo sân chơi bình đẳng, khuyến khích các doanh nghiệp sản xuất
kinh doanh. Nhà nước đã buộc các doanh nghiệp thực hiện nguyên tắc hạch

toán kinh tế độc lập, lấy thu bù chi và có lãi theo chế độ chính sách và pháp luật
hiện hành. Thực tế cho thấy khi chuyển đổi nền kinh tế, có rất nhiều doanh
nghiệp đã năng động, linh hoạt, kịp thời thích nghi với điều kiện môi trường
kinh doanh mới, tự khẳng định mình và đứng vững trong nền kinh tế thị
trường cạnh tranh khốc liệt. Các doanh nghiệp này luôn quan tâm đến hiệu
quả sản xuất, tìm kiếm lợi nhuận ngạch, lấy lợi nhuận làm mục tiêu và động
lực cho sự tồn tại và phát triển của mình. Ngược lại có nhiều các doanh nghiệp
từ nhỏ đến lớn biến mất trọng cuộc cạnh tranh trên thương trường do không
tìm được phương án sản xuất kinh doanh đầu tư thích hợp, không có hiệu quả,
lúng túng trong việc tháo gỡ khó khăn, khó thích nghi với cơ chế thị trường, do
ảnh hưởng nhiều của phong cách kinh đoanh cũ, tâm lý ỷ 1ại, trông chờ vào
Nhà nước, kém năng động, linh hoạt trước những biến đổi của thị trường. Hậu
quả làm cho các doanh nghiệp này làm ăn kém hiệu quả, thua lỗ kéo dài triền
miên, thậm chí cờn đẫn đến phải ngừng sản xuất, giải thể doanh nghiệp. Điều
này gây rất nhiều khó khăn cho xã hội- người lao động không có việc 1àm, đời
sống gặp nhiều khó khăn nảy sinh nhiều tệ nạn xã hội.
Như vậy trong điều kiện hiện nay đối với các doanh nghiệp vấn đề lợi
nhuận không chỉ là mục tiêu hàng đầu mà còn là điều kiện quyết định sự tồn
tại, phát triển của doanh nghiệp mà là cơ sở phát triển nền kinh tế xã hội.
3. Kết cấu của lợi nhuận trong doanh nghiệp
Như chúng ta đã biết, trong nền kinh tế thị trường để tồn tại và phát
triển, tối đa hoá lợi nhuận thì các doanh nghiệp không chỉ tiến hành sản xuất
kinh doanh một loại hàng hoá nhất định mà các doanh nghiệp luôn đa dạng
hoá các hoạt động sản xuất kinh doanh của mình. Điều đó có nghĩa là hoạt
động của các doanh nghiệp rất phong phú và đa dạng. Các doanh nghiệp
không chỉ tiến hành hoạt động sản xuất kinh doanh các loại hàng hoá, dịch vụ
theo đúng ngành nghề kinh doanh mà với nguồn vốn có hạn doanh nghiệp phải
sử dụng tối đa nguồn vốn và đem lại hiệu quả cao nhất. Vì thế mà các doanh
nghiệp còn tiến hành nhiều hoạt động khác mang tính chất không thường
xuyên và không chủ yếu. Đó là các hoạt động tài chính và các hoạt động bất

thường. Để xác định được hiệu quả của từng hoạt động, doanh nghiệp phải xác
định được các chỉ tiêu thu nhập và chi phí của từng mảng tương ứng. Tổng lợi
nhuận của doanh nghiệp sẽ 1à tổng của các bộ phận lợi nhuận theo từng mảng
hoạt động.
Lợi nhuận của doanh nghiệp thường được cấu thành bởi ba bộ phận lợi
nhuận sau đây:
- Lợi nhuận từ hoạt động sản xuất kinh đoanh.
- Lợi nhuận từ hoạt động tài chính
- Lợi nhuận bất thường.
Tỷ trọng của mỗi bộ phận lợi nhuận trong tổng 1ợi nhuận doanh nghiệp
có sự khác nhau glữạ các doanh nghiệp thuộc các lĩnh vực kmh doanh khác
nhau và thuộc môi trường kinh tế khác nhau. Điều này được thể hiện như sau:
Thứ nhất: Cơ cấu 1ợi nhuận của các doanh nghiệp kinh doanh thông
thường khác với doanh nghiệp kinh doanh trong lĩnh vực tài chính, tín dụng,
ngân hàng. Với các doanh nghiệp thông thường hoạt động tài chính tách biệt
với hoạt động sản xuất kinh doanh. Trong cơ cấu của lợi nhuận doanh nghiệp
thông thường thì lợi nhuận từ hoạt động sản xuất kinh doanh là bộ phận lợi
nhuận chiếm tỷ trọng lớn trong toàn bộ lợi nhuận. Khác với các doanh nghiệp
thông thường thì các doanh nghiệp hoạt động trên lĩnh vực tài chính, tín dụng
ngân hàng chỉ gồm hai bộ phận lợi nhuận- đó là lợi nhuận từ hoạt động tài
chính và lợi nhuận từ hoạt động bất thường. ở các doanh nghiệp này hoạt
động tài chính cũng là hoạt động tái sản xuất kinh đoanh của họ, bởi lẽ họ thực
hiện chức năng kinh doanh mặt hàng đặc biệt- kinh doanh tiền tệ.
Thứ hai: Trong môi trường kinh tế khác nhau, các doanh nghiệp cùng
loại có sự khác biệt về tỷ trọng trong các bộ phận 1ợi nhuận trong tổng lợi
nhuận của mình. Điều này phụ thuộc rất lớn vào sự phát triển của nền kinh tế
thị trường, hay môi trường kinh doanh của đoanh nghiệp. Mặt khác nó còn
biểu hiện ở chức năng, nhiệm vụ của doanh nghiệp hoạt động theo phạm vi
ngành nghề hoạt động của mình hay không, có đủ uy tín cũng như nguồn vốn
để đầu tư vào từng lĩnh vực hay không. Những lĩnh vực khác nhau đem lại hiệu

quả sẽ dẫn đến cơ cấu lợi nhuận của doanh nghiệp khác nhau.
Nhưng trong nền kinh tế thị trường phát triển ở trình độ cao với thị
trường vốn phát triển ở trình độ cao và hoàn chỉnh, các hoạt động tài chính
năng động, hiệu quả thì hoạt động tài chính của doanh nghiệp cũng sẽ phát
triển với các hoạt động đa dạng về đầu tư tài chính. Khi đó lợi nhuận đem lại
từ hoạt động tài chính sẽ chiếm tỷ trọng đáng kể không kém gì lợi nhuận đem
lại từ hoạt động sản xuất kinh doanh. Ngược lại trong một nền kinh tế thị
trường phát triển ở trình độ thấp, thị trường vốn chưa phát triển hoàn hảo,
hoạt động của thị trường tài chính, thị trường chứng khoán chưa hơàn thiện,
chưa phát triển và phổ biến trong các doanh nghiệp thì mảng hoạt động tài
chính trong doanh nghiệp còn hạn chế. Doanh nghiệp không có cơ hội đầu tư
tài chính, thậm chí không có khả năng về vốn để thực hiện các hoạt động đầu
tư tài chính đó.
Trong trường hợp này, 1ợi nhuận hoạt động kinh doanh 1uôn từ hoạt
động sản xuất kinh doanh có ý nghĩa quyết định đến tính hiệu quả trong hoạt
động của toàn doanh nghiệp.
Tóm lại, cơ cấu lợi nhuận của dơanh nghiệp thông thường được cấu
thành từ ba bộ phận 1ợi nhuận bao gồm lợi nhuận từ hoạt động kinh doanh,
từ hoạt động tài chính và từ hoạt động bất thường.
Nhưng nhìn chung lợi nhuận từ hoạt động sản xuất kinh doanh (đối với
các ngân hàng tổ chức tín dụng là lợi nhuận từ hoạt động tài chính) luôn luôn
chiếm một tỷ trọng 1ớn và có ý nghĩa quyết định trơng tổng 1ợi nhuận doanh
nghiệp.
Về nguyên tắc, khi phân tích lợi nhuận của đoanh nghiệp, chúng ta phải
phân tích một cách chính xác khách quan từng bộ phận cấu thành 1ợi nhuận
của doanh nghiệp, từ đó mới đánh giá một cách chính xác tình hình tăng giảm
1ợi nhuận của công ty trong từng mảng, lĩnh vực kinh doanh, đồng thời mới
thấy được các nhân tố ảnh hưởng tới 1ợi nhuận của doanh nghiệp; giúp nhà
doanh nghiệp đánh giá được tình hình sử dụng vốn cũng như hiệu quả sử dụng
vốn của doanh nghiệp vào lĩnh vực nào là có hiệu quả nhất, lĩnh vực nào nên

đầu tư mở rộng hay không nên đầu tư để tối đa hoá lợi nhuận. Nhưng trong
điều kiện đặc thù, đôi khi nguyên tắc đó có thể bị phá vỡ. Điều kiện đó 1à phân
tích lợi nhuận thực hiện với doanh nghiệp kinh doanh thông thường trong điều
kiện kinh tế thị trường phát triển ở trình độ thấp thì hoạt động của doanh
nghiệp trong lĩnh vực tài chính còn rất hạn chế, cũng như ở phạm vi hẹp với lợi
nhuận ít. Còn lợi nhuận ở hoạt động bất thường thì ít quan trọng, giống như
bản chất của nó. Hoạt động sản xuất kinh doanh là hoạt động chủ đạo, lợi
nhuận hoạt động kinh doanh là lợi nhuận cơ bản của doanh nghiệp chiếm tỷ
trọng lớn, cấu thành của lợi nhuận, là nguồn thu nhập chủ yếu của doanh
nghiệp. Trong điều kiện đó, sẽ thiết thực khi tiến hành phân tích lợi nhuận
doanh nghiệp chủ yếu dựa trên bộ phận 1ợi nhuận kinh doanh nhằm tìm ra
giải pháp tăng lợi nhuận cho doanh nghiệp.
Đó chính là một 1ý do lợi nhuận từ hoạt động kinh doanh được quan
tâm hơn trong đề tài này.
II. PHƯƠNG PHÁP XÁC ĐỊNH LỢI NHUẬN
Vậy lợi nhuận thực hiện trong kỳ là kết quả kinh doanh của doanh
nghiệp bao gồm lợi nhuận hoạt động kinh doanh, lợi nhuận hoạt động tài
chính, lợi nhuận hoạt động bất thường.
Lợi nhuận doanh nghiệp = LN HĐ KD + LN HĐ TC + LN BT
Muốn xác định được lợi nhuận của doanh nghiệp chính xác và đầy đủ ta
phải xác định được đầy đủ và chính xác doanh thu và chi phí của doanh nghiệp
theo từng hoạt động kinh doanh thì mới cho ta được một kết quả hoạt động
kinh doanh trong kỳ chính xác. Nếu không xác định chính xác và đầy đủ các
khoản chi phí mà doanh nghiệp đã bỏ ra phục vụ quá trình sản xuất kinh
đoanh trong kỳ thì có thể dẫn đến tình trạng lãi giả, lỗ thật. Nhưng chi phí lại
là một phạm trù phức tạp, nó đòi hỏi phải có phương pháp tập hợp một cách
khoa học và chính xác để không dẫn đến tính nhầm hay bỏ sót. Do vậy có thể

×