Tải bản đầy đủ (.pdf) (149 trang)

Tư duy xã hội học của chủ tịch hồ chí minh về tổ chức xã hội và xã hội hoá cá nhân

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (11.61 MB, 149 trang )

______
ĐẠI HỌC QUỐC GIẠ.HÀ.NÔÌ
TRUỒNG ĐẠI HỌC K h o a h ọ c x a h ộ i V a


nhân vãn

T ư DUY XÃ HỘI HỌC
CỦA CHỦ TỊCH Hồ CHÍ MINH
VỀ T ổ CHỨC XÃ HỘI
VÀ XÃ HỘI HOÁ CÁ NHÂN
(ĐỀ TÀI NGHIÊN c ú ư c ơ BẢN)

MÃ SỐ: CB 04 18
CHỦ TRÌ ĐỀ TÀI: TS PHẠM VĂN QUYẾT
ĐAI H Ọ C Q U O C G IA HÀ NỘ'
TRUNG TÂM ĨH Ổ N G TIN ĨHƯ VIÊN

or/coĩxỉ
HÀ NỘI, THÁNG 7 NÁM 2006


MỤC LỤC
PHẦNI. MỞ ĐẦU .................................................................................................. 3
1. Đặt vấn đề..........................................................................................................3
2. Ý nghĩa khoa học của đề tà i......................................................................... 5
3. Mục tiêu nghiên cứu ......................................................................................6
4. Phương pháp nghiên cứu.................................................................................. 6
4.1. Cơ sở phương pháp luận ............................................................................. 6
4.2. Các phương pháp cụ thể ..............................................................................7
5. Các khái niệm cơ s ở ........................................................................................7


5.1. Tư duy xã hội h ọ c......................................................................................... 7
5.2. Tổ chức xã h ộ i..............................................................................................11
5.3. Xã hội hoá cá nhân..................................................................................... 17
PHẦN II.

NỘI D U N G ...................................................................................................................... 2 4

Chương 1. Quá trình hình thành tư duy xã hội học của Chủ tịch
Hổ Chí M inh........................................................................................................24
Chương 2. Tư duy XHH của Chủ tịch Hổ Chí Minh về tổ chức
xã hội..................................................................................................................... 33
2.1. Tư duy của Chủ tịch Hồ Chí Minh về mối quan hệ giữa
tổ chức và xã hội.................................................................................................. 33
2.1.1. Vai trò của tổ chức xã hội đối với sự phát triển của xã hội................ 34
2.1.2. Tính quyết định của xã hội với tổ chức..................................................42
2.2. Tư duy của chủ tịch Hổ Chủ tịch về cấu trúc và các nguyên tắc
cấu trúc, hoạt động của tổ chức..........................................................................61
2.2.1. Về cấu trúc của tổ chức............................................................................ 61
2.2.2. Các nguyên tắc cơ bản cho cấu trúc và hoạt động của tổ
chức........................................................................................................................ 66
- Vấn đề đoàn kết trong tổ chức.......................................................................66
- Nguyên tắc tập trung dân chủ ........................................................................ 71
- Nguyên tắc tự phê bình và phê bình..............................................................77
2.2.3. Hồ Chí Minh với vấn đề cán bộ trong tổ chức...................................... 86
1


- Vai trò của cán bộ trong tổ chức....................................................................87
- Nhũng yêu cầu với người cán bộ................................................................... 90
- Tuyển chọn và sử dụng cán bộ.......................................................................99

Chương 3. Tư duy XHH của Chủ tịch Hồ Chí Minh về quá trình
xã hội hoá........................................................................................................... 105
3.1. Quan điểm của Chủ tịch Hồ Chí Minh về bản chất của
xã hội hoá cá nhân.............................................................................................105
3.1.1. Về cá nhân con người và nội dung của khái niệm xã hội hoá........ 105
3.1.2. Các đặc trưng của quá trình xã hội hoá ...............................................114
3.2. Các giai đoạn của quá trình xã hội hoá.................................................121
3.3. Các môi trường xã hội hoá......................................................................133
K Ế T LUẬN V À K IẾN NGHỊ.............................................................................................................1 3 9

Tài liệu tham khảo............................................................................................ 147

2


PHĂN I

MỞ ĐẦU

1) ĐẶT VẤN ĐỂ
Trong lịch sử hàng nghìn năm dựng nước và giữ nước của dân tộc
ta, thời kỳ nào cũng có những anh hùng, hào kiệt làm rạng rỡ non sông đất
nước. Chủ tịch Hồ Chí Minh là một trong những vị anh hùng lớn nhất trong
lịch sử đấu tranh giành độc lập tự do của dân tộc. Không những chỉ là một
anh hùng, một lãnh tụ kiột suất của dân tộc, Người còn là một nhà tư tưởng
lớn, một hiện thân sáng ngời về đạo đức cách mạng, một nhà văn hoá lớn.
Khi nhận xét về Người, TS. A. Met, giám đốc UNESCO khu vực
châu Á Thái Bình Dương đã viết: “Chỉ có ít nhân vật trong lịch sử trở thành
một bộ phận của huyền thoại ngay khi còn sống và rõ ràng Hồ Chí Minh là
một trong số đó. Người sẽ được ghi nhớ không phải chỉ ỉà người giải phóng

cho tổ quốc và nhân dân bị đô hộ, mà còn là một nhà hiền triết hiện đại
mang lại một viễn cảnh và hy vọng mới cho những người đang đấu tranh
không khoan nhượng để loại bỏ bất công, bất bình đẳng khỏi trái đất” (Theo
Đinh Xuân Lâm - Bùi Đình Phụng, 2001, v ề danh nhân văn hoá Hổ Chí
Minh, tr. 8). Trong suốt cuộc đòi hoạt động của minh, Người đã để lại cho
nhân dân ta và nhân loại một kho tri thức lớn, một di sản tinh thần vô giá: tư
tưởng Hổ Chí Minh.
Biết kết hợp chặt chẽ giữa truyền thống của dân tộc với tinh hoa của
nhân loại, giữa chủ nghĩa yêu nước chân chính với chủ nghĩa Mác-Lê nin,
Người đã tìm ra con đường cứu nước đúng đắn, đưa cách mạng Việt Nam đi
từ thắng lợi này đến thắng lợi khác. Từ một xã hội thuộc địa nửa phong
kiến, nước ta đã trở thành một quốc gia độc lập, có uy tín và vị thế ngày
càng cao trên trường quốc tế. Nhân dân ta từ thân phận tôi đòi, nô lệ, đã
bước lên làm chủ đất nước, làm chủ vận mệnh của mình. Đất nước ta từ một
nền kinh tế nghèo nàn, lạc hậu đã, đang bước vào xây dựng nền kinh tế phát
triển với mục tiêu công nghiệp hoá, hiện đại hoá theo định hướng xã hội
chủ nghĩa. Tư tưởng của Người, mơ ước của Người ngày càng được hiện
3


thực hoá trẽn đất nước ta. Không chỉ là hiện thân của tinh thần dân tộc,
Người và tư tưởĩig của Người còn là hiện thân sinh động, là niềm tin cho
cuộc đấu tranh giải phóng của các dân tộc bị áp bức trên toàn thế giơí.
Là một bộ phận cấu thành trong tư tưởng Hồ Chí Minh, quan điểm, tư
duy của Người về các chiều cạnh khác nhau trong đời sống của xã hội, của
cộng đổng, của con người cũng đã đang được hiện thực hoá. Điểu đố cho
thấy trong tư duy xã hội của Người tính lý luận, tính thực tiễn luôn luôn
được gắn kết chặt chẽ với nhau.
Với việc vận dụng một cách sáng tạo những quy luật khách quan do
Mác, Anghen, Lê nin chỉ ra trong việc giải quyết thành công các vấn đề

thực tế của xã hội Việt Nam càng cho thấy tính khoa học sâu sắc trong tư
duy của Người. Rõ ràng, đó không phải là những tư duy mang tính kinh
nghiệm chủ nghĩa, hoặc máy móc, giáo điều. Không những thế từ thực tế
của cách mạng Việt Nam và nhiểu nước trên thế giới mà Người đã được
chứng kiến, lý luận của khoa học Mác Lê nin cũng đã được Người và các
đồng chí của Người bổ xung và làm cho ngày càng phong phú và hoàn thiện
hơn.
Như vậy, có thể nói rằng tư duy mang đặc tính xã hội học của Người
vể hàng loạt những vấn đề khác nhau của đời sống xã hội càng chứng tỏ
tính khoa học sâu sắc trong tư tưởng Hồ Chí Minh.
Đã có rất nhiều công trình nghiên cứu về những khía cạnh khác nhau
trong tư tưởng Hồ Chí Minh và những đóng góp của người với sự phát triển
của khoa học xã hội ở Việt Nam. Đối với lĩnh vực xã hội học những nghiên
cứu tương tự còn khá khiêm tốn, mặc dù Chủ tịch Hồ Chí Minh là người
đầu tiên truyền bá tư tưởng xã hội học Mác xít vào nước ta (Vũ Khiêu,
1972).
Đề tài mà chúng tôi lựa chọn, muốn đi sâu phân tích một cách có hệ
thống những tư duy mang tính xã hội học của người về hai ỉĩnh vực cơ bản
của đời sống xã hội: tổ chức xã hội và xã hội hoá cá nhân. Đó cũng là hai
vấn đề trọng tâm của xã hội học và rất có ý nghĩa đối với mục tiêu cơ bản
cùa Đảng và nhân dân ta hiện nay là xây dựng một xã hội công nghiệp, hiện


đại, đồng then nâng cao hơn nữa chất lượng nguồn nhân lực ở nước ta cho
tương lai. Nghiên cứu cũng không chỉ cho thấy những đống góp to lớn của
Hồ Chí Minh với sự hình thành và phát triển xã hội học Mác xít ở Việt
Nam, mà còn giúp cho việc khẳng định hơn nữa về tính khoa học trong tư
tưởng của Người.

2) Ý NGHĨA KHOA HỌC VÀ THựC TIEN c ủ a đ ể t à i .


4.1. Ý nghĩa khoa hoc của đề tài
Đế tài sẽ là sự bổ xung kiến thức quan trọng cho môn lịch sử xã hội
học, trong phần sự hình thành và phát triển của xã hội học ở Việt Nam, nhất
là ở khía cạnh về sự xâm nhập của tư tưởng xã hội học Mác xít vào Việt
Nam. Đề tài cũng là sự bổ xung có ý nghĩa đối với sự phát triển lý thuyết xã
hội học liên quan đến các lĩnh vực: tổ chức xã hội và xã hội hoá con người.
Ngoài ra, đề tài còn là sự đóng góp đáng kể với sự phát triển của bộ môn tư
tưởng Hồ Chí Minh, khi đưa ra các bằng chứng về tính lý luận và tính thực
tiễn trong tư duy, quan điểm của Người về một số vấn đề xã hội quan trọng.
Qua nghiên cứu đề tài chúng ta không những chỉ thấy được sự vĩ đại,
tính khoa học trong tư tưởng Hồ Chí Minh, mà điều quan trọng còn cho
chúng ta những bài học, những kinh nghiệm quý báu trong việc thực hiện
và triển khai tư tưởng của Người trong cuộc đấu tranh nhằm xây dựng một
xã hội công bằng, dân chủ, văn minh và giàu mạnh.
Tư tưởng Hổ Chí Minh đã và sẽ là ngọn cờ, là nền tảng tư tưởng, là
kim chỉ nam cho mọi hành động của Đảng và nhân dân ta, vì vậy với việc
làm phong phú hơn, đa dạng hơn, khẳng định thêm tính khoa học trong đó,
càng làm cho chúng ta vững tin hơn vào sự thắng lợi tất yếu của công cuộc
đổi mới, công nghiệp hoá và hiện đại hóa đất nước, vào con đường mà Đảng
và nhân dân ta đã lựa chọn.
4 . 1. Ý nshĩa thưc tiễn của đề tài

Nghiên cứu cung cấp tài liệu học tập, tham khảo cho sinh viên ngành
xã hội học và một số ngành khoa học xã hội nhân văn khác. Đề tài còn
5


cung cấp tài liệu tham khảo cho cán bộ giảng dạy, cán bộ nghiên cứu về
lịch sử xã hội học, xã hội học tổ chức xã hội, quá trình xã hội hoá cá nhân,

cũng như các vấn đề khác liên quan đến tư tưởng Hồ Chí Minh.

3) MỤC TIÊU NGHIÊN cứ u .

Thông qua các tác phẩm, các bài báo, các bài phát biểu, các bức thư
của chủ tịch HỒ Chí Minh, cũng như các sự kiện liên quan đến hoạt động
của Người, thông qua những lời kể, những tác phẩm, những bài báo, những
công trình khoa học của nhiều cá nhân, tác giả khác về Hồ Chủ tịch, về tư
tưởng của Người, chúng tôi muốn phân tích, tìm hiểu rõ hơn hai vấn đề cơ
bản sau:
1. Tư duy xã hội học của Hồ Chủ tịch về vấn đề tổ chức xã hội
2. Tư duy xã hội học của Hồ Chủ tịch về quá trình xã hội hoá cá nhân

4) PHƯƠNG PHÁP NGHIÊN CÚƯ.

4.1. Cơ sở phương pháp luân
Cơ sở triết học Mác xít cho việc xem xét một vấn đề của thực tiễn
hoặc nhận thức cần xuất phát từ chính cái mà chúng tồn tại trong thực tế,
chứ không phải như cái mà ta mong muốn và một số cơ sở triết học khác
được chúng tôi vận dụng đầy đủ trong suốt quá trình hình thành khung phân
tích cũng như khi tiến hành phân tích các công trình của Chủ tịch Hồ Chí
Minh và các tác giả khác.
Lý thuyết xã hội học ở các mức độ nhận thức khác nhau được coi như
cơ sở phương pháp luận quan trọng để giúp chúng tôi hình thành khung
phân tích và tiến hành phân tích những vấn đề được nêu ra trong đề tài.
Trước hết, ở phạm vi lý thuyết xã hội học chung nhất, việc xác định lĩnh
vực đối tượng nghiên cứu của xã hội học, đặc biệt cách thức mà xã hội học
sử dụng để tiếp cận, giải thích, phân tích đối tượng nghiên cứu của mình
được chúng tôi áp dụng triệt để trong suốt quá trình nghiên cứu, phân tích
các vấn đề của để tài. Ở phạm vi xã hội học chuyên biột, lý thuyết xã hội

6


học về tổ chức xã hội và quá trình xã hội hoá cá nhân được chúng tôi coi là
cơ sở quan trọng để hình thành khung phân tích cho việc tìm kiếm, phát
hiện và lý giải các vấn đề .

4.2.

Các phươns pháp cu thể

Với một khối lượng đồ sộ các công trình, sách báo, các đồ vật mà Hồ
Chủ tịch để lại thể hiện tư duy sắc sảo của Người, cũng như với khối lượng
rất lớn các công trình nghiên cứu, sách báo của các tác giả khác viết về
Người thì phương pháp được chúng tôi sử dụng chủ yếu ở đây là phương
pháp phân tích tài liệu. Để phù hợp với mục tiêu là tìm kiếm, phát hiộn
những chiều cạnh khác nhau trong tư duy xã hội học của Hổ Chủ tịch về hai
vấn đề xã hội cơ bản đã nêu, việc phân tích tài liộu chủ yếu sẽ là phân tích
định tính.
Phương pháp phỏng vấn cũng được thực hiện với một số nhân vật đã
từng có những kỷ niệm nhất định với Hồ Chủ tịch, một số tác giả đã có
những công trình nghiên cứu về Người, một số cá nhân đã đang làm việc
trong các bảo tàng, nhà lưu niệm Hồ Chí Minh để giúp hiểu sâu hơn về thân
thế và sự nghiệp của Người.
Ngoài ra các phương pháp phân tích thứ cấp, nghiên cứu tiểu sử, so
sánh lịch sử cũng được chúng tôi sử dụng trong nghiên cứu này.
5) CÁC KHÁI NIỆM C ơ SỞ.

5.1. Tưduv xã hôi hoc.
Để làm rõ khái niệm quan trọng này, trước hết chúng ta cần lý giải

cụm từ xứ hội học và những cách hiểu biết khác nhau về nó. Tuy nhiên, cần
thừa nhận trong hẩu hết các cách hiểu biết sơ lược nhất thì xã hội học là
khoa học về xã hội. Điều đó cũng có nghĩa xã hội học không bao giờ được
quên “cái xã hội” trong đối tượng nghiên cứu của mình. Như một môn khoa
học, xã hội học ra đời trên cơ sở đáp ứng những nhu cầu khách quan trong
hiểu biết của con người về những quy luật tất yếu trong đời sống xã hội.
Với tư cách là một khoa học xã hội, Xã hội học được thể hiện trước
hết trong lĩnh vực đối tượng nghiên cứu đặc thù của mình. Ngoài ra nó còn
7


được thể hiện như một cách thức cho quá trình nhận thức và giải thích về xã
hội của con người.
“Xã hội học ià gì ?”, hơn một thế kỷ nay nó luôn là vấn để mà các
nhà xã hội học cố gắng tìm câu trả lời rõ ràng, nhưng lại không dễ dàng
chút nào. Trong cuốn sách X ã hội học khái luận của các tác giả ở Đại học
Bắc Kinh đã giới thiệu hệ thống 9 kiểu định nghĩa về xã hội học của các
học giả tờ giữa thế kỷ XIX đến đầu những năm 30 thế kỷ XX. Theo đó xã
hội học là khoa học nghiên cứu: (1) hiện tượng xã hội, (2) hình thức xã hội,
(3) tổ chức xã hội, (4) văn hóa nhân loại, (5) tiến bộ xã hội, (6) quan hệ xã
hội, (7) quá trình xã hội, (8) quan hệ giữa các hiện tượng xã hội, (9) hành vi
xã hội.
Có nhà xã hội học Mĩ đã thống kê ở Mỹ trong 20 năm (1951- 1971),
16 cuốn sách giáo khoa xã hội học xuất bản ở Mĩ đã đưa ra 8 nội dung về
đối tượng nghiên cứu của xã hội học, đó là : (1) tương tác xã hội, (2) quan
hệ xã hội, (3) cấu trúc xã hội, (4) hành vi xã hội, (5) đời sống xã hội, (6)
quá trình xã hội, (7) hiện tượng xã hội, (8) con người trong xã hội. (Theo
Xã hội học khái luận, bản dịch của Trung tâm Trung Quốc học)
Có thể thấy định nghĩa xã hội học tuy nhiều nhưng chủ yếu được
phân làm ba loại lớn:


Một là, lấy xã hội và hiện tượng xã hội làm đối tượng nghiên cứu.
Đại diện tiêu biểu cho quan điểm này trong xã hội học là A. Comte, H.
Spencer, E. Durkheim.. từ đó hình thành nên Chủ nghĩa thực chứng trong
xã hội học. E. Durkheim đã xác định xã hội học là khoa học nghiên cứu các
sự kiện xã hội (Social facts) và các sự kiện xã hội cần được xem xét như các
sự vật. Có như vậy xã hội học mới thực sự tách ra khỏi triết học. Từ loại
định nghĩa này, một số tác giả khái quát về một trong các cách tiếp cận đến
đối tượng nghiên cứu của xã hội học: tiếp cận vĩ mô, hoặc tiếp cận từ góc
độ “xã hội” trong mối quan hệ: con người và xã hội.

Hai là, lấy cá nhân và hành động xã hội làm đối tượng nghiên cứu.
Từ đây hình thành nên Chủ nghĩa phản thực chứng trong xã hội học. Đại
điện tiêu biểu cho quan điểm này là nhà xã hội học người Đức Max


Weber... Khi xem xét ở góc độ vi mô M. Weber cho rằng xã hội học là
“một ngành khoa học muốn hiểu biết một cách có giải thích hành động xã
hội, tức là qua đó giải thích tận gốc tiến triển và tác dụng của nó”. Từ cách
định nghĩa này, một số tác giả khái quát về một cách tiếp cận khác đến đối
tượng nghiên cứu của xã hội học: tiếp cận vi mô, hoặc tiếp cận từ góc độ
“con người” trong mối quan hệ: con người và xã hội.
Hai quan điểm này có ảnh hưởng rất sâu sắc tới các tác giả, rất nhiều
định nghĩa sau này là sự biến dạng hoặc kết hợp lẫn lộn của hai quan điểm
trên. T. Parson tuy là đại diện tiêu biểu cho trường phái lý thuyết cơ cấu-

chức năng, song ông cũng rất tiêu biểu cho việc giải quyết mối quan hệ
giữa hành động xã hội và cơ cấu xã hội. R. Merton cũng là một trong những
nhà xã hội học rất quan tâm đến việc xem xét hành động xã hội trong mối
liên hệ chặt chẽ với cơ cấu xã hội và hê thống xã hội. Một số nhà xã hội học

của xã hội học Mác xít vừa chủ trương quan điểm thứ nhất, vừa tán thành
quan điểm thứ hai. Nhưng họ đều lấy sự thống nhất giữa cá nhân và xã hội
làm chỉ đạo, đều tán thành với quan điểm sau đây của Mác: cá nhân là vật
tồn tại của xã hội, không nên coi xã hội là cái đó gì trừu tượng đối lập với
cá nhân; trái lại, xã hội lại là sản phẩm của sự tác dụng qua lại giữa mọi
người, là tổng hòa quan hệ xã hội của các cá nhân để sản xuất.

Thứ ba, là các loại định nghĩa xã hội học khác không thuộc hai cách
định nghĩa trên, trong đó có một số quan điểm có ảnh hưởng không nhỏ,
nhưng đều chưa trở thành dòng chảy chính của phát triển xã hội học (Xã hội

học khái luận - Sđd).
Ở nước ta, trong một số sách về xã hội học cho sinh viên vẫn phổ
biến cách tiếp cận mang tính “tích hợp” giữa quan điểm thứ nhất và quan
điểm thứ hai. Họ trích đẫn quan điểm của các nhà xã hội học Nga trước
đây: “xã hội học là khoa học về những quy luật, tính quy luật xã hội chung,
đặc thù của sự phát triển và vận hành của các hệ thống xã hội xác định về
mặt lịch sử, ỉà khoa học về các cơ chế tác động và các hình thức biểu hiện
của các quy luật đó trong hoạt động của các cá nhân, các nhóm xã hội, các


giai cấp và các dân tộc” (Theo G. Osipov, 1992, Xã hội học và thời đại, t.3,
số 23/1992, trang 8).
Xét ở góc độ các đối tượng nghiên cứu thì xã hội học là khoa học xã
hội đề cập tới chủ thể xã hội, các quá trình xấ hội và các chất xúc tác xã
hội. Nó là ngành khoa học xã hội thực nghiệm về hiện thực cuộc sống. Gốc
rễ của nó luôn chỉ là hiện thực (G. Endruweit và G Trommsdorff, Từ điển
xã hội học, NXB Thế giới, 2002, Tr. 580, 581).
V. Dovrenkov, A.Kravshenco cho rằng đối tượng của xã hội học là
tổng thể những khái niệm cơ bản và những vấn đề mà với sự giúp đỡ của

chúng hiộn thực xã hội được mô tả và hình thành được các đề tài cho nghiên
cứu thực nghiệm (V. Dovrenkov, A.Kravshenco, Xã hội học-Phương pháp

luận và lịch sử, tl, M. 2000, tr.70)
Những cách tiếp cận khác nhau cho những lý giải khác nhau về đối
tượng nghiên cứu của xã hội học. Song một cách chung nhất vẫn nhấn
mạnh: đối tượng của xã hội học là hiện thực xã hội. Lý thuyết xã hội học
phản ánh quy luật, tính quy luật của các hiện tượng, các quá trình, các mối
quan hệ xã hội. Xã hội học nghiên cứu hiện thực xã hội, từ đó khái quát lên
các quy luật của xã hội.
Như mỗi một khoa học xã hội, xã hội học cho chúng ta một cách giải
thích, một cách nhìn về xã hội, mà qua đó ta có thể phân biệt nó với các
khoa học khác. Xã hội học là “sự giải thích khoa học về xã hội bằng xã
hội”. Theo đó sự giải thích xã hội cần phải có căn cứ khoa học, phải sử
dụng các phương pháp thực nghiệm để quan sát các hiện tượng xã hội và
phải xuất phát từ chính xã hội. Hay nói theo cách khác là giải thích một
hiện tượng xã hội bàng một hiện tượng xã hội trên cơ sở phương pháp quan

Như vậy, để giải thích hiện tương xã hội và cao hơn là hình thành cơ sở
lý thuyết về nó, nhà xã hội học cần phải xuất phát từ việc quan sát nó và
mối quan hệ phụ thuộc của nó với hiện tượng xã hội khác, nghĩa là quan sát
hiện thực xã hội. Lý thuyết xã hội học, như thế, đã được xây dựng, được
xuất phát từ chính hiện thực xã hội. Lý thuyết xã hội học khi đã được hình


thành lại quay trở lại hướng dẫn cho việc quan sát, cho nghiên cứu thực
nghiệm, cho việc giải thích và dự báo xu hướng của các hiện tượng xã hội
trong thực tế. Quá trình nhận thức xã hội học là một quá trình liên tục,
trong đố các quy luật xã hội được khái quát lên từ các quan sát hiện thực xã
hội, sau đó quay trở lại giúp cho viộc lý giải hiện thực và được làm sáng tỏ

hơn trên đó (Phạm Văn Quyết, Nguyễn Quý Thanh, 2001, Phương pháp
nghiên cứu xã hội học, Nxb Đại học Quốc gia, Hà Nội).
Tư duy xã hội học, đó là tư duy manh tính khoa học về đời sống xã hội,
về các hiện tượng và các quá trình xã hội. Đó không phải là những tư duy
giáo điều hoặc kinh nghiêm chủ nghĩa, mà là tư duy phản ánh những quy
luật, tính quy luật tất yếu của các hiên tượng, các quá trình xã hội. Điều đó
có nghĩa những lý thuyết xã hội học về xã hội, về các quan hệ xã hội, về sự
ứng xử của con người với con người, con người với xã hội, vể sự tồn tại và
phát triển của các nhóm, các tổ chức, các thiết chế xã hội... đều được thể
hiện trong quan điểm, trong suy nghĩ, trong hoạt động của chủ thể tư duy.
Tư duy xã hội học là tư duy không chỉ phản ánh những quan điém của
lý thuyết xã hội học về đời sống xã hội của con người, mà đó là tư duy gắn
trực tiếp với hiện thực xã hội, phản ánh tính tất yếu trong quá trình nhận
thức xã hội học. Những vấn đề, những hiện tượng xảy ra trong thực tế xã
hội phải được lý giải theo quan điểm xã hội học, phải được xem xét trong
mối quan hệ biện chứng với những vấn đề, những hiện tượng xã hội khác,
phải có bằng chứng khoa học từ chính xã hội.

5.2. T ổ chức xã hôi.
Thuật ngữ tổ chức thường được các tác giả sử dụng theo ba cách:
1) Tổ chức như là hoạt động (công việc tổ chức);
2) Tổ chức như là tính chất của hình thể xã hội (tính tổ chức);
3) Tổ chức như là kết quả của việc tổ chức, tức là một loại hình thể nhất
định
(G. Endruweit và G Trommsdorff, Từ điển xã hội học, NXB Thế giới,
2002, Tr. 835).
1]


Ở đây, chúng tôi quan tâm nhiều hơn đến nghĩa thứ 3 trong các cách

sử dụng của thuật ngữ. Điều đó cố nghĩa tổ chức xã hội được coi như hệ
thống xã hội nhất định, nhóm xã hội đặc thù trong cơ cấu xã hội. Trong
nghĩa này cũng có thể có 2 cách lý giải: thứ nhất, theo nghĩa rộng là chỉ tất
cả các quẩn thể con người cùng chung sống, bao gồm cả các quần thể sơ
cấp như gia đình, làng, gia tộc...; thứ hai, theo nghĩa hẹp là hình thức quần
thể thứ cấp, là đoàn thể xã hội được hình thành do sự kết hợp hài hoà hành
vi của mọi người vói nhau để đạt mục tiêu chung nào đó. Cụ thể tổ chức
bao gồm: có mục tiêu chung; có sự tác động qua lại giữa các thành viên, từ
đó tạo nên cấu trúc tâm lý nhất định; có hoạt động theo cấu trúc của hệ
thống, nghĩa là các thành viên phải hoạt động theo quy tắc và nhiệm vụ của
tổ chức. Trong phạm vi đề tài này chúng tôi quan tâm hơn đến cách lý giải
theo nghĩa hẹp của khái niệm.
TỔ chức đó là hộ thống của các quan hộ xã hội được xếp đặt một cách
trật tự, nhằm tập hợp, liên kết các chủ thể xã hội để đạt đến mục tiêu nhất
định của hệ thống. Đó là cấu trúc nhằm phối hợp hoạt động của hai hay
nhiều người qua sự phân công lao động và thứ bậc quyền lực cho sự đạt
được mục tiêu chung (V. Dovrenkov, A.Kravshev, Xã hội học - Các thiết
chế và các quá trình xã h ộ i, 3, Mos. 2000, tr. 165-tiếng Nga).
Để làm rõ hơn khái niệm tổ chức xã hội, chúng ta cần phân biệt tổ
chức xã hội với nhóm xã hội. Vì cả tổ chức xã hội và nhóm xã hội đều là
những tập hợp người nhất định, có chung hành động nhằm đạt đến mục tiêu
chung của nhóm. Tuy nhiên, tổ chức xã hội theo cách hiểu này là nhóm xã
hội, nhưng không phải bất kỳ nhóm xã hội nào cũng là tổ chức xã hội.
Nhóm xã hội chỉ trở thành tổ chức xã hội khi nó đáp ứng những điêù kiện
sau:

Thứ nhất, trong nhóm xã hội đó tồn tại mối quan hệ quyền lực xã hội
theo trục quan hệ trên-dưới, cao-thấp, lãnh đạo-phục tùng. Nấc thang quyền
lực đó xác định trong cơ cấu nhóm có vị trí nhiều quyền lực hơn và có vị trí
ít quyền lực hơn.



Thứ hai, hộ thống các vị trí đó cũng tạo nên tập hợp các vị thế và các
vai trò. Mỗi thành viên của tổ chức đều có vị thế nhất định, từ đó xác định
một vai trò tương ứng.

Thứ ba, trong mỗi tổ chức luôn xác định những nguyên tắc, quy tắc phù
hợp nhằm để điểu chỉnh mối quan hệ giữa các vị thế và các vai trò. Những
nguyên tắc, quy tắc này quy định và phối hợp hành động của các thành viên
trong nhốm, tạo nên sự nhịp nhàng, ngăn nắp trong nhóm, làm cho nhóm có
tính tổ chức để hướng đến mục tiêu chung. Ba điều kiện trên đồng thời cũng
là ba đặc trưng cơ bản của tổ chức xã hội.
Khái niệm “tổ chức” có gốc gác từ Pháp đã rất nhanh chóng được hiện
thực ở Đức và nhiều nơi khác. Lúc đầu chỉ vận dụng cho cơ cấu các đoàn
thể có tính tổ chức, sau đó được mở rộng cho các hình thể xã hội như cơ
quan quản lý, trường học, hiệp hội... Chủ nghĩa tư bản hiện đại đòi hỏi tháo
bỏ những quan niệm truyền thống đối với đoàn thể, thay vào đó là tự đo liên
kết qua hợp đổng (G. Endruweit và G Trommsdorff, Sđd, tr. 834).
Trong các nghiên cứu lý thuyết về tổ chức và các loại tổ chức xã hội
trong lịch sử, người ta cũng đã chỉ ra khá nhiều dạng tổ chức.
Theo mối quan hệ trong tổ chức, có thể nói về ba dạng tổ chức sau:
Trong các tổ chức quyền uy toàn bộ mọi quyền lực đều tập trung
trong tay thủ lĩnh. Thủ lĩnh toàn quyền quyết định các vấn đề liên quan đến
tổ chức, không cần tham khảo ý kiến của các thành viên. Vai trò của các
thành viên không được xác lập theo các quy tắc khách quan mà chủ yếu
theo mối quan hệ cá nhân với thủ lĩnh. Do vậy những ràng buộc này thường
kém bền vững, cấu trúc tổ chức lỏng lẻo, dễ tan vỡ.
Trong tổ chức khu biệt thường đặt ra rất nhiều luật lệ, quy tắc và
thường cùng các hình phạt nghiêm khắc để duy trì trật tự, đồng thời tạo ra
sự phụ thuộc lẫn nhau giữa các thành viên. Quan hệ quyền lực trên - dưới

được phần hoá chặt chẽ (Nguyễn Quý Thanh, Tổ chức xã hội và thiết chế xã
hội, trong Xã hội học, Sđd, tr. 173, 174)..
Tổ chức quan liêu dựa trên sự phân công lao động và chuyên môn hoá
cao; các thành viên thường hiểu rõ và nắm chắc vị trí công viộc và nhiệm vụ


của mình. Địa vị, vai trò và mối quan hệ của họ trong tổ chức đựơc xác lập
một cách khách quan và được thiết chế hoá. Trong mối quan hệ quyển lực
tổ chức quan liêu có thể đặt các thành viên vào các vị trí đa dạng trong bậc
thang quyền lực với nhiều cấp độ khác nhau. Trong xã hội hiện đại các cá
nhân được đặt ở các vị trí đó đều phải có tri thức và mức độ đào taọ tương
ứng (Nguyễn Quý Thanh, Tổ chức xã hội và thiết chế xã hội, trong Xã hội
học, Sđd, tr. 177,178).
Ở góc độ quản lí, có thể phân ra 2 kiểu cấu trúc sau:
(1)- TỔ chức theo chế độ gia trưởng. Nó nảy sinh trong xã hội nồng
nghiệp, là sản phẩm của kinh tế tiểu nông, có quan hệ rất chặt chẽ với quần
thể xã hội sơ cấp (gia đình, dòng họ). Phương thức quản lí này có các đặc
trưng sau:

Thứ nhất, quyền lực trong tổ chức tập trung trong tay người lãnh đạo
cao nhất. Tất cả mọi hoạt động của tổ chức đều do một mình người lãnh đạo
quyết định.

Thứ hai, phân công không rõ ràng, trách nhiệm cũng không rõ ràng
giữa các thành viên của tổ chức. Thường có hiện tượng hễ gặp chuyện là
đùn đẩy trách nhiệm, không chịu trách nhiệm, cãi vã nhau, và không có quy
tắc nào để xác định rõ sự phân công và trách nhiệm.

Thứ ba, dùng người chỉ căn cứ vào quan hệ thân cận, vì người mà đặt
ra chức vị. Lấy người lãnh đạo làm trung tâm hình thành vòng tròn quyền

lực, những ai gần với người quyền lực trung tâm thì thường có quyền lực
tương đối lớn. Đây là nguyên nhân chính tạo thành cơ cấu tổ chức cồng
kềnh, chức vị đan chéo.

Thứ tư, làm việc không có quy tắc, pháp luật. Khi giải quyết sự việc
hàng ngày, thành viên tổ chức chỉ có thể dựa vào tập quán trước kia dựa
vào trực giác, kinh nghiệm và tình cảm cá nhân, mang tính chủ quan rất
lớn.

Thứ năm, chế độ suốt đời. Việc giữa chức vị của người lãnh đạo
không dựa theo nhu cầu quản lí tổ chức, mà dựa theo nhu cầu của thành
14


viên trong quẩn thể lợi ích. Đây chính là nguyên nhân tạo thành chế độ suốt
đởi của người quản lí theo chế độ gia trưởng.
(2)" TỔ chức theo chế độ quan liêu là một dạng tổ chức lấy quy tắc
chính thức làm chủ thể, tổ chức này có sự phân công lớn và hệ thống chế độ
quy tắc phức tạp. Đây là kiểu tổ chức điển hình của quản lí tổ chức xã hội
hiện đại. Nó có những đặc trưng chủ yếu là:

Một là, sự phân công rõ ràng. Chức trách được quy định chính thức
cho thành viên, tức là xác định rõ quyền lực và trách nhiệm của mỗi người,
đồng thời coi quyền lực và trách nhiệm đó là chức vị chính thức, hợp pháp
hóa chúng.

Hai là, có sự quy định đẳng cấp chức quyền rõ ràng và tuân theo
nguyên tắc cấp bậc thứ tự.

Ba là, hệ thống chế độ quy tắc rõ ràng, ổn định. Ở đây, chế độ quy

tắc của tổ chức có quyền uy cao nhất, nó quy định trình tự quyền lực, trách
nhiộm và hoạt động... của thành viên.

Bốn là, tách biệt quan hệ cá nhân và quan hệ công việc. Trong khi xử
lí công việc, thành viên phải làm việc theo quy tắc, tức là theo tinh thần phi
nhân cách hóa nghiêm túc và chặt chẽ, không lẫn lộn với yêu ghét tốt xấu
của cá nhân.

Năm là, tùy tài năng mà dùng người, Dạng tổ chức này tuyển dụng
nhân viên theo trình độ kỹ thuật, tùy tài năng mà sử dụng và phải qua huấn
luyện chuyên môn, nhân viên gánh vác một chức vụ nào đó, cần bảo đảm
tính ổn định và tính lâu dài của công tác đó.

Sấu là, quyền lực quản lí phụ thuộc vào chức vị, không phụ thuộc
vào cá nhân. Có chức ắt có quyền, không chức thì không quyền. Điều này
khiến cho quá trình thay đổi người quản lí tổ chức sẽ không ảnh hưởng đến
sự vận hành bình thường của tổ chức, bảo đảm tính lâu dài và tính ổn định
cho chính sách của tổ chức (Xã hội học khái luận - Sđd).
Ưu điểm của kiểu tổ chức này là sự phân công rõ ràng, trách nhiệm rõ
ràng, dùng người căn cứ vào tài, có thể nâng cao hiệu suất công việc, bảo
15


đảm sự phát triển của hoạt động tổ chức. Do đó, các tổ chức xã hội hiện đại
áp dụng dạng tổ chức này.
Dạng tổ chức xã hội được nhận thức khá sâu sắc trong xã hội học tổ
chức và ngày càng được vận dụng rộng rãi là một hình thể xã hội tương đối
mới. Nó ra đời trong xã hội tư bản và đuợc xác định qua ba đặc điểm quyết
định: 1) nguyên tắc tự do gia nhập và từ bỏ tổ chức của các thành viên; 2)
nguyên tắc có thể tổ chức tự do các cơ cấu và quá trình trong phạm vi của tổ

chức tuỳ theo cơ hội và hoàn cảnh; 3) nguyên tắc tự do đề ra mục tiêu định
hướng theo một đặc thù chức năng. Ba đặc điểm đó được đặc trưng bởi tính
tập trung của các quá trình quyết định. Điều này cho phép tính hợp lý của
các tổ chức cũng như quan hệ giữa tổ chức và môi trường (G. Endruweit và
G Trommsdorff, Sđd, tr. 832).
Các lý thuyết xã hội học về tổ chức đã hướng đến xem xét hai khía
cạnh chủ yếu: phân tích cấu trúc của tổ chức và mối quan hệ của tổ chức
với xã hội. Trong hướng thứ nhất, bên cạnh nghiên cứu xuất sắc của
Michels về những xu thế thiểu quyền hoá trong tổ chức, lý thuyết của Max
Weber về chủ nghĩa quan liêu đã tạo thành đỉnh cao của lý luận tổ chức xã
hội học (G. Endruweit và G Trommsdorff, Sđd, tr. 834). Còn ở hướng khác,
sự chú ý tập trung chủ yếu vào việc phân tích chức năng xã hội của tổ chức,
sự tác động của xã hội đến tổ chức và mối quan hệ giữa cơ cấu, mục tiêu,
phương thức của tổ chức với điều kiện môi trường bên ngoài.
Trong xu hướng “tiếp cận tình huống” người ta thường xem xét tổ chức
như các mối liên hệ về hành động được xây dựng theo thế giới của cuộc
sống với những nền văn hoá và tiểu văn hoá đặc thù riêng. Các tổ chức
không có hay không chỉ có một cách sơ đẳng một cấu trúc được vật thể hoá.
Các tổ chức không ổn định lâu dài mà chủ yếu chúng luôn luôn vận động;
chúng thay đổi từng ngày, thông qua thay đổi các đòi hỏi xây dựng mới
hoặc đặt lại vấn đề quyền lực. Các tổ chức không phải là những khối mục
tiêu, nguyên khối được kế hoạch, mà là các hệ thống tự nhiên, trong đó các
quy tắc tổ chức nguồn lực và các giơí hạn được cung cấp cho những trò chơi
16


quyền lực. Các tổ chức không đựơc đặc trưng bởi tính hợp lý (G. Endruweit
và G Trommsdorff, Sđd, tr. 839).
Như vậy, trong lý thuyết xã hội học về tổ chức xã hội, các nhà xã hội
học thường hướng đến nghiên cứu các chiều cạnh chủ yếu sau: mối quan hệ

giữa tổ chức với xã hội (tính quyết định xã hội với tổ chức và vai trò của tổ
chức với xã hội); mối quan hệ trong tổ chức (mối quan hệ dọc và mối quan
hệ ngang trong tổ chức, quan hệ quyền lực của tổ chức, các các nguyên tắc
cấu trúc, vấn đề nhân sự của tổ chức).
Từ các quan niêm trên có thể hình thành một cách khái quát sơ đồ

khung phân tích cho nội dung tư duy xã hội học về tổ chức xã hội như sau:

5.3. Xã hôi hoá cá nhân.
Khái niệm cá nhân. Dưới góc độ xã hội học cá nhân được xem xét
như những con người-những thành viên riêng biệt đơn lẻ của cộng đồng,
của nhóm, của xã hội. Khi mới được sinh ra mỗi con người riêng biệt chỉ là
“con người tự nhiên”, “con người sinh vật”, không phải là người xã hội; nó
không có các kỹ năng xã hội, hành vi của nó thuần túy mang tính bản năng
sinh lý cơ bản. Con người chỉ có thuộc tính tự nhiên và bản năng sinh vật
thì không thể tồn tại trong xã hội. Để tổn tại con người phải học các kỹ
nâng xã hội, phải hòa nhập vào xã hội và trở thành con người xã hội. Con
OAI H O C Q U Ò C G IA HẠ NO
TRUNG TÂM THÕNG TIN THƯ VIÊN

j)r /005 £3


người xã hội lrhflng chỉ mang thuộc tính tự nhiên, mà còn có cả thuộc tính
xã hội.
Các tác giả trong cuốn Xã hội học khái luận (Sđd) cho rằng mỗi một
con người trước hết phải thông qua con đường xã hội hóa để tiếp thu văn
hóa xã hội, học tập và nắm bắt các kỹ năng, phương thức sống của xã hội
mới có thể thích ứng với xã hội, tồn tại trong môi trường xã hội. Nếu mỗi
con người không tải qua giáo dục xã hội hóa cần thiết, không nắm được các

kỹ năng, quy phạm cần thiết của cuộc sống xã hội thì không thể tổn tại
trong xã hội. Cá nhân muốn trở thành một thành viên của xã hội, sống bình
thường trong xã hội thì nhất thiết phải qua quá trình xã hội hóa.
Mỗi cá nhân đều mang trong mình đặc trưng tâm lý tổng hợp và ổn
định được thể hiện qua tính cách, còn gọi là nhân cách. Nó do hai phương
diện cấu thành: thứ nhất là khuynh hướng cá tính, nghĩa là đặc trưng tính
tích cực của hanh vi và thái độ của con người với môi trường xã hội như nhu
cầu, động cơ, hứng thú, quan niệm, thái độ thói quen... ; thứ hai là đặc trưng
tâm lý cá tính, thể hiện đặc điểm tâm lý con người như tính cách, khí chất,
năng lực ... Sự hình thành và phát triển của cá tính được thực hiện thông qua
quá trình xã hội hóa. Nó là sản phẩm của quá trình xã hội hóa, vì vậy nếu
cá tính có xu hướng thống nhất với tiêu chuẩn xã hội và giúp con người
tham gia đời sống xã hội có hiệu quả hơn thì được gọi là cá tính điều hòa
thích hợp. Nếu cá tính tách rời tiêu chuẩn xã hội, không giúp con người
tham gia đời sống xã hội hiệu quả, thì có thể coi nhân cách “giải thể”.
Nội dung trọng tâm và tiêu chí của sự hình thành, trình độ phát triển
cá tính là cái tôi. Cái tôi còn gọi là quan niệm cái tôi hay ý thức về cái tôi,
nó là sự phát giác của cá thể về sự tồn tại hay trạng thái tồn tại của bản
thân, là sự nhận thức của bản thân về tình trạng tâm lí, sinh lí và đặc trưng
con người thuộc về mình, trong đó bao gồm một loạt những hoạt động nội
tâm liên quan đến nhận thức bản thân như tự phê bình, tự cảm giác, lòng tự
trọng, lòng tin, khả năng kiểm chế, tính độc lập, tính tự ti... Cái tôi không
có nghĩa là ích kỷ, ích kỷ là quan niệm giá trị và thái độ của chủ nghĩa cá

nhân. Việc hình thành và phát triển cái tôi không phải là chuyện của đơn


thuẩn cá nhân. Cái tôi là trạng thái tâm lí cá thể tồn tại khách quan, hình
thành thông qua sự tác động lẫn nhau giữa chủ thể và người khác trong môi
trường văn hoá xã hội nhất định, là kết quả tất yếu của quá trình xã hội hoá.


Xã hội hóa cá nhân. Trước hết thuật ngữ xã hội hoá trong đa số các
trường hợp được hiểu là quá trình iàm tãng dần sự phụ thuộc vào xã hội của
đối tượng được xã hội hoá. Trên thực tế người ta hay sử dụng theo hai nội
dung sau: Thứ nhất, chỉ sự tăng cường chú ý quan tâm nhiều hơn nữa của xã
hội đến những vấn đề cụ thể nào đó trong đời sống xã hội mà trước đây chỉ
một nhóm, một thiết chế hoặc một bộ phận nhất định của xã hội quan tâm,
đảm trách theo chức năng. Thứ hai, chỉ quá trình chuyển biến từ chỉnh thể
sinh vật có bản chất xã hội với các tiền đề tự nhiên đến một chỉnh thể đại
diên của xã hội loài người. Đây là quá trình xã hội hoá các nhân (Nguyễn
Quý Thanh, Xã hội hoá, trong Xã hội học (Phạm Tất Dong, Lê Ngọc Hùng,
chủ biên, Nxb đại học quốc gia, Hà nội, tr. 257)
Trong lĩnh vực xã hội học, việc giải thích khái niệm xã hội hóa đã
trải qua quá trình phát triển từ nghĩa hẹp đến nghĩa rộng. Nhìn chung, việc
nghiên cứu xã hội hóa trước những năm 50 chủ yếu theo nghĩa hẹp, tức là
lấy đối tượng nghiên cứu chỉ trong phạm vi thiếu niên nhi đổng. Bắt đầu từ
những năm 50, việc nghiên cứu vấn đề xã hội hóa đã mở rộng. Nó nghiên
cứu không chỉ trong phạm vi thời kỳ còn nhỏ mà còn bao gồm tất cả các
quá trình học đóng các vai trò. Xã hội hóa là quá trình thống nhất giữa nội
hóa, học tập các vai trò và các chuẩn mực giá tri giành được.
Việc nghiên cứu xã hội hoá ở nghĩa rộng phát triển toàn diện vào
những năm 60. Thúc đẩy trực tiếp việc nghiên cứu này là thuyết cấu trúcchức năng trong xã hội học với đại diện là T. Parson. Trong khi đưa ra quan
điểm xã hội hoá là học đóng vai trò, ông đã nghiên cứu xã hội hóa nhi đồng
và xã hội hóa thành niên, tức là xã hội hoá sơ cấp và xã hội hoá thứ cấp.
Theo ông, quá trình xã hội hoá sơ cấp không có tính đặc thù, chỉ là giai
đoạn quá độ của việc đóng vai trò, quá trình sau mới là giai đoạn thực sự có
ích cho toàn hệ thống xã hội.
Về vấn đề này, nhà xã hội học nổi tiếng A. Inkers cho rằng việc
nghiên cứu xã hội hoá phải được cải tiến trên 2 mặt: thứ nhất, việc tăng
19



cường vai trò tương hỗ giữa cha mẹ và con cái, xem xét kỹ càng những ảnh
hưởng của nhan tố xã hội. Thứ hai, khi nghiên cứu sự hình thành cá tính ở
trẻ em và nguời lớn phải nghiên cứu nội dung người trưởng thành đóng các
vai trò xã hội quan trọng.
A. Inkers còn phân tích cụ thể ảnh hưởng của bốn phương diện cấu
trúc xã hội đối với quá trình xã hội hoá. Đó là ảnh hưởng của tổ chức kinh
tế, chính trị xã hội; ảnh hưởng của sự phân chia tầng cấp xã hội theo kinh
tế, quyến lực và địa vị đối vói qua niệm cái tôi của con người và ảnh hưởng
thông qua sự khác biệt văn hóa và địa vị nghề nghiệp đối với quá trình xã
hội hóa của con người; ảnh hưởng của “nhân tố sinh thái” như loại hình và
qui mô gia đình, xã khu và hoàn cảnh bên trong, bên ngoài của gia đình.
Các quan điểm này đã nhận được sự ủng hộ rộng rãi, nghĩa là nghiên
cứu xã hội hoá không chỉ liên quan đến các vấn đề xã hội hoá trong thòi kì
còn nhỏ và thiếu niên, mà cả trong thời kì thanh niên, trưởng thành thậm chí
về già, quá trình xã hội hóa xuyên suốt cả đời người. Chính vì sự biến đổi
này, hàm nghĩa xã hội hoá cũng mở rộng hơn, nó không chỉ chỉ quá trình

người sinh vật trở thành ' người xã hội

, mà đổng thời còn bao gồm toàn

bộ qúa trình cá nhân thích ứng với cuộc sống xã hội (Xã hội học khái luận -

Sđd).
Các tác giả trong cuốn Xã hội học khái luận (Sđd) cũng đã chỉ ra rằng
trong lĩnh vực nghiên cứu xã hội học hiện nay, sự giải thích quá trình xã hội
hóa với nghĩa rộng đã xuất hiện hai quan điểm m ớ i:
Thứ nhất, đa số mọi người cho rằng, xã hội hoá cần nghiên cứu vấn

đề có ý nghĩa xã hội. Điều đó có nghĩa là, cho dù nghiên cứu xã hội hóa là
nghiên cứu quá trình trưởng thành của cá thể, song việc nghiên cứu cần chú
trọng vào mối quan hệ giữa sự trưởng thành của cá thể vói sự phát triển hài
hoà của xã hội, đặc biệt là trong giai đoạn xã hội hiện đại biến đổi và phát
triển khá nhanh.
Thứ hai, sự mở rộng khái niệm cá thể. Để tạo thuận lợi hơn cho việc
nghiên cứu vấn để xã hội hoá mang ý nghĩa xã hội, những lý giải của mọi
người về việc cá thể bước vào và trải qua quá trình xã hội hóa đã có những
thay đổi. Việc giải thích và sử dụng khái niệm cá thể hiện nay vừa chỉ cá
nhân, vừa chỉ cá thể xã hội và nhóm mang ý nghĩa xã hội. Ví dụ như một
20


thế hệ người, một cộng đổng văn hoá, truyền thống văn hóa trong trình độ
phát triển nào đó đểu có thể coi là đơn nguyên xã hội mang ý nghĩa xã hội.
Như vậy, một cách chung nhất có thể thấy xã hội hoá quá trình thích
ứng và cọ sát của cá nhân với các giá trị, chuẩn mực và các khuôn mẫu
hành vi xã hội, qua đó cá nhân duy trì được khả năng hoạt động xã hội. Đó
là quá trình “xẩy ra qua sự chuyển giao các vai trò xã hội”. Xã hội hoá là
quá trình cá thể ngưcd sinh vật trưởng thành thành người xã hội và dần dần
thích ứng với cuộc sống xã hội. Nhờ có quá trình này, văn hoá xã hội được
tích luỹ, cấu trúc xã hội được duy trì và phát triển, cá tính con người được
hình thành và hoàn thiộn.
Tuy nhiên, trên thực tế có khá nhiổu cách nhìn nhận khác nhau vể
khái niệm này. Căn cứ vào quan niệm về vai trò chủ thể - khách thể giữa hai
đối tượng chủ yếu của quá trình xã hội hoá: cá nhân và xã hội, người ta
thường nói về ba nhóm định nghĩa chủ yếu như sau: thứ nhất, nhấn mạnh
vai trò chủ động của cá nhân trong quá trình xã hội hoá; thứ hai, nhấn mạnh
vai trò chủ động của xã hội trong quá trình này; thứ ba, nhấn mạnh vai trò
chủ động của cả cá nhân và của cả xã hội trong xã hội hoá.

Cách phát biểu của nhóm thứ ba được đông đảo các nhà xã hội học
ủng hội hơn. Theo đó, xã hội hoá là quá trình tương tác giữa cá nhân và xã
hội, trong đó cá nhân con người lĩnh hội một hệ thống nhất định những giá
trị, chuẩn mực, quy tắc xã hội, nhờ đó cá nhân có thể hội nhập được vào xã
hội, trở thành thành viên của xã hội. Đó là quá trình con người tiếp nhận
nền văn hoá xã hội, là quá trình con người học cách đóng vai trò của mình.
Theo quan niệm này, xã hội hóa là quá trình diễn ra thường xuyên
liên tục trong suốt cuộc đời của một con người từ khi sinh ra cho đến khi
chết đi. Trong quá trình đó cá nhân vừa là khách thể vừa là chủ thể. Là chủ
thể khi cá nhân tự sàng lọc, tự học hỏi lấy những gì được cho là cần thiết,
phù hợp để hội nhập vào xã hội. Bên cạnh đó cá nhân còn tham gia tích cực
vào việc sáng tạo ra các kinh nghiệm xã hội. Là khách thể khi cá nhân bị
chi phối bởi những giá trị, chuẩn mực xã hội, cá nhân buộc phải tiếp nhận
chúng, bởi chỉ vậy cá nhân mới có thể hội nhập được vào cộng đồng, mới
được cộng đồng chấp nhận. Quá trình xã hội hoá diễn ra nhanh hơn nếu có


sự Ichfianh vùng, hạn chế sự lựa chọn, đưa vào một số sự lựa chọn nhất định,
nghĩa là qua sự giáo dục cố định hướng.
Chứng ta cũng cần phân biệt khái niệm xã hội hoá vói khái niệm giáo
dục. TTiông thơờng khái niệm giáo dục được hiểu theo hai nghiã: theo nghĩa
hẹp, giáo dục là quá trình tác động có định hướng đến cá nhân từ chủ thể
giáo dục nhất định như gia đình, nhà trường, hệ thống thông tin đại chúng...
Các chủ thể này có mục đích truyền đạt cho cá nhân các giá tri, chuẩn mực
và những kinh nghiệm xã hội mà hoàn toàn phù hợp với nền văn hoá chung
của xã hội.
Theo G. Endraweit và G. Trommsdorff (Sđd) giáo dục là các hành vi
và biện pháp mà qua đó con người cố gắng ảnh hưởng đến sự phát triển
nhân cách của người khác, để thúc đẩy nó phát triển theo những thước đo
giá trị nhất định. Giáo dục chỉ là một phần của ảnh hưởng mà xã hội tác

động lên sự phát triển nhân cách, tức là ảnh hưởng có ý thức, có hoạch định.
Hiện nay khái niệm xã hội hoá trong một vài trường hợp đã được sử dụng
thay thế cho khái niệm giáo đục. Xét về mặt logic khái niệm thì giáo dục
xếp dưới khái niệm xã hội hoá, nó là các hành vi và biện pháp mà qua đó
con người cố gắng ảnh hưởng đến sự phát triển nhân cách của người khác.
Theo nghĩa rộng thì giáo dục là sự tác động đến cá nhân từ toàn bộ hệ
thống các quan hệ xã hội. Cá nhân có thể tiếp nhận những giá trị, chuẩn
mực và những kinh nghiêm xã hội ở mọi nơi, trong mọi nhóm xã hội khác
nhau. Nếu theo nghĩa hẹp thì giáo dục chỉ là một một bộ phận của quá trình
xã hội hoá hay như một số tác giả cho rằng đó là quá trình xã hội hoá chính
thức. Còn theo nghĩa rộng thì giáo dục đồng nhất với quá trình xã hội
hoá.cá nhân (Nguyễn Quý Thanh, Xã hội hoá, trong Xã hội học (Phạm Tất
Dong, Lê Ngọc Hùng, chủ biên) sđd, tr. 259).
Quá trình xã hội hoá được thực hiện chủ yếu thông qua các môi
trường vi mô như gia đình, nhà trường, các cơ quan đoàn thể, các tổ chức xã
hội và các nhóm thành viên khác. Đó là những môi trường mà cá nhân thực
hiện những giao tiếp trực tiếp thường xuyên. Trong những môi trường này
gia đình, nhà trường như những môi trường xã hội hoá chính thức có một


vai trò đặc biệt quan trong, nhất là trong xã hội hiện đại với nền sản xuất
phát triển đã đạt ra những yêu cầu cao cho sự hội nhập về nghề nghiệp của
các nhân. Ngoài ra, các môi trường khác như hệ thống thông tin đại chúng,
chế độ chính trị xã hội.v.v. cũng có một ý nghĩa đặc biệt trong quá trình xã
hội hoá cá nhân.
Mỗi một thời kỳ trong quá trình trưởng thành của cá nhân thích ứng
với một giai đoạn nhất định của quá trình xã hội hóa. G. Andreeva đã dựa
vào những hoạt động chủ đạo của các nhân trong những thòi kỳ nhất định
để chia quá trình xã hội hoá thành ba giai đoạn chủ yếu như sau: giai đoạn
thơ ấu ứng với hoạt động chủ đạo của cá nhân là vui chơi và học tập; giai

đoạn trưởng thành ứng với hoạt động chủ đạo là lao động đé tạo ra của cải
vật chất và tinh thẩn cho xã hội; giai đoạn sau lao động ứng với quá trình
nghỉ ngơi, hưu trí.
Từ những phân tích trên có thể hình thành sơ đồ khung phân tích cho
nội dung tư duy xã hội học về quá trình xã hội hoá cá nhân như sau:

23


PHẦN II

NỘI DUNG

CHUƠNG 1.

QUÁ TRÌNH HÌNH THÀNH T ư DUY XÃ HỘI HỌC
CỦA CHỦ TỊCH HỔ CHÍ MINH.

Ngày 1 tháng chín năm 1858 với những phát súng đại bác đầu tiên từ
tầu chiến bắn vào Đà Nẩng, người Pháp đã công khai tuyên bố ý đồ cũng
như quá trình xâm lược Việt Nam mà họ đã ngấm ngầm chuẩn bị từ nhiều
thế kỷ trước. Kể từ đó nhân dân ta cũng như nhiều dân tộc thuộc địa, nửa
thuộc địa khác phải chịu hai tầng áp bức bóc lột: vừa của chủ nghĩa thực
dân xâm lược Pháp, vừa của bọn phong kiến, địa chủ bản xứ.
Sinh ra và lớn lên trong cảnh nước mất nhà tan “đời nô lệ”, cậu bé
Nguyễn Tất Thành đã phải tận mắt chứng kiến cảnh sống đen tối của người
dân Việt Nam trong bóng đêm nô lệ do bọn thực dân và phong kiến gây lên
bằng rượu cồn, thuốc phiện và các chính sách ngu dân. Sau này, đã có lúc
Người phải thốt lên trong lỗi nghẹn ngào đầy bức xúc:


Lúc đó, trong

1000 làng đã có 1500 đại lý rượu và thuốc phiện, mà trường học chỉ vẻn vẹn
có 10 cái” {Đông Dương tập đoàn kẻ cướp, trong Hồ Chí Minh toàn tập, tập
1, tr. 385) và “Người dân Việt Nam chúng tôi là những người nông dân bị
nhấn chìm trong bóng đêm hết sức tối tăm. Không một tờ báo nào, không ai
hiểu bầy giờ trên thế giới đương diễn ra những gì, đêm tối, thực sự là đêm
tối” (Thăm một chiến sỹ Quốc tế Cộng sản, trong Hồ Chí Minh toàn tập, tập
1, tr. 477).
Tác phẩm Bản án c h ế độ thực dân Pháp nổi tiếng mà Người đã viết
trong nhũng ngày đầu sống và hoạt động cách mạng trên đất Pháp đã nói
lên tất cả những gì vể sự áp bức bóc lột dã man, sự bất công tàn bạo đến
mất hết tính người của bọn thực dân da trắng, cũng như bao cảnh lầm than
khổ cực đến nghẹt thở của người dân Đông Dương và các dân tộc thuộc địa
khác mà Người đã từng được chứng kiến.
24


×