Tải bản đầy đủ (.pdf) (151 trang)

Chữ hán với triết lý nhân sinh của người trung quốc

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (13.66 MB, 151 trang )

Đ Ạ I HỌC QUỐC GIA HÀ NỘI
TR Ư Ờ N G ĐẠI HỌC NG O ẠI N G Ữ






ĐỀ TÀI NG H IÊN CỨU KHOA HỌC
CẤP Đ Ạ I HỌC QUÓC GIA ĐẶC BIỆT

CHỮ HÁN VỚI TRIẾT LÝ NHÂN SINH
CỦA NGƯỜI TRUNG QUÓC

M ẢSÓ:

Q.ữO$ỳ-0

CHUYÊN NGÀNH: LÝ LUẬN NGÔN NGỮ
Chủ nhiệm đề tài: PGS. TS. Phạm Ngọc Hàm
Những ngươi phối hợp thực hiện:

1. TS. Vũ Thị Hà (ĐHNN - ĐHQGHN)
2. Ths. Ngô Minh Nguyệt (ĐHNN - ĐHQGHN)
3. Ths Đinh Văn Hậu (ĐHNN - ĐHQGHN)
4 Ths Nguyễn Đình Hiền (ĐHNN - ĐHQGHN)
5. GV. Ngô Thanh Mai (ĐHNN - ĐHQGHN)
0AI HỌC QUỐC GIA HÀ NỘI
TRUNG TẤM THONG TIN THƯ VIỆN

0 0 0 6 0 0 0 0 0 ? !T


HÀ N Ộ I- 2 0 1 0


MỤC LỤC
M ở đ ầ u ............................................................................................................................................................... 1
ỉ .Tính bức thiết của đề tài.....................................................................................................................................1
2. Mục đích nghiên cứu........................................................................................................................................3
3. Đối tượng, phạm vi nghiên cứu.................................................................................................................. 3
4. Nhiệm vụ nghiên cứu........................................................................................................................................4
5. Phương pháp nghiên cứu................................................................................................................................ 4
6. Đóng góp của đề tài............................................................................................................................................5
7. Bố cục của đề tài..................................................................................................................................................5

Chương 1: Khái quát chung về chữ Hán ...................................................................................................6
1. Khái quát về chữ Hán...................................................................................................................................... 6
1.1. Khái niệm chữ Hán.......................................................................................................................................6
1.2. Tính chất tượng hình của chữ Hán..........................................................................................................7
1.3. Các nguyên tắc cấu tạo chữ Hán......................................................................................................... 8
2. Đôi nét về văn hóa- xã hội Trung Quốc .............................................................................................. 10
2.1. Đặc điểm về địa lý - khí hậu...................................................................................................................10
2.2. Đặc điểm dân tộc........................................................................................................................................12
2.3. Đặc điểm lịch sử......................................................................................................................................... 13
2.4. Tình hình văn hóa.......................................................................................................................................13
2.5. Đôi nét về triết học, tư tưởng................................................................................................................. 14
3. Mối liên hệ giữa văn hóa Hán và chữ Hán........................................................................................... 16
3.1. Những đặc trưng cơ bản của văn hóa truyền thống Trung Hoa............................................. 16
3.1.1. Vài nét về khái niệm văn hóa..............................................................................................................16
3.1.2. Vài nét về đặc trung văn hóa Trung Hoa.......................................................................................17
3.2. Đặc trưng văn hóa Trung Hóa thể hiện qua chữ Hán................................................................19
4. Diện mạo xã hội Trung Quốc cổ đại thể hiện qua chữ Hán ......................................................26


Tiểu kết.....................................................................................................................................

32

Chương 2: Chữ Hán với triết lỷ nhân sinh của người Trung Quốc......................................... 34
1. Quan niệm của người Trung Quốc về con người và quy luậtnhân s in h ............................. 34
1.1. Quan hệ giữa con người với tự nhiên và xã hội.....................................

34

1.1.1. Quan hệ giữa con người với tự nhiên...........................................

34


1.1.2. Quan hệ giữa con người với xã hội.................................................................................................36
1.2. Quan niệm của người Trung Quốc về con người...................................................................... 37
1.2.1 Khái niệm về con người........................................................................................................................37
1.2.2. Con người qua cách cấu tạo chữ À nhân
2. Chữ À nhân trong hệ thống văn tự Hán

................................................................................ 38

.......................................................................................... 39

2.1. V ị trí cùa chữ À nhân trong hệ thống văn tự Hán...................................................................... 39
2.2. Tính chất tượng hỉnh của chữ À n h ân .............................................................................................40
2.3. Mối liên hệ giữa À nhàn và \z n h ân ............................................................................................... 42
3. Quan hệ giữa con người giữa tự nhiên và xã hội thể hiện qua chữ Hán.............................. 46

3.1. Chữ Hán phản ánh quan quan hệ giữa con người với tự n h iên........................................... 46
3.2. Quan hệ giữa con người với xã hội thể hiện qua chữ Hán......................................................60
3.2.1. Chữ Hán với quan niệm đẳng cấp xã hội....................................................................................60
3.2.2. Chữ Hán với sự phân công lao động xã hội.............................................................................. 68
3.2.2.1. Chữ Hán với sự phân công lao động trong gia đình.............................................................. 68
3.2.2.2. Chữ Hán với sự phân công lao động trong xã hội...............................................................84 •
3.2.3. Chữ Hán với hoạt động thương mại..............................................................................................90
3.2.4. Chữ Hán quan niệm về pháp luật................................................................................................... 95
3.2.5. Chữ Hán với đạo lý làm người........................................................................................................ 99
3.2.5.1. Chữ Hán với đạo hiếu........................................................................................................ ; ............ 99
3.2.5.2. Chữ Hán với chuẩn mực đạo đức xã hội................................................................................ 112
3.2.6. Chữ Hán với tín ngưỡng. ..................................................................................................................116
3.2.7. Chữ Hán với khoa học kỹ thuật nguyên thủy.......................................................................... 113
Tiểu kết...................................................................................................................................................................130
Chương 3 : N hững hệ quả sư phạm qua nghiên c ứ u ................................................................... 132
1. Cơ sở lý luận cùa việc dạy học tiếng Hán với tư cách là ngôn ngữ thứ hai........................ 132
2. Một số khảo sát về việc học chữ Hán cùa sinh viên Việt Nam .................................................134
3. Những hệ quả sư phạm qua nghiên cứu.............................................................................................. 139
3.1. Đối với người học...................................................................................................................................... 139
3.2. Đổi với người dạy.......................................................................................................................................141
Kết lu ậ n .................................................................................................................................................................... 146
Phụ lụ c ......................................................................................................................................................................148
Tài liệu tham khảo.............................................................................................................................................150


PHÀN M Ở ĐÀU

1. Tính bức thiết của đề tài

Khác với phần lớn các ngôn ngữ trên thế giới, tiếng Hán ngoài nhừnỄ


nhân tố cấu thành như ngữ âm, từ vựng, ngữ pháp ra, văn tự cũng là vấn đề được

giới nghiên cứu ngôn ngữ đặc biệt quan tâm. Chữ Hán là một loại văn tự tượn£

hình có một không hai trên thế giới, hàm ý văn hoá của nó rất sâu sắc. Từ việc

phân tích cấu tạo chữ Hán, có thể hiểu được thể giới quan, nhân sinh quan cũn£

như đặc điểm nhận thức, phương thức tư duy của người Trung Quốc. Nghiêr

cứu hàm ý văn hoá của chữ Hán còn có tác dụng thiết thực đối với việc dạy họ(
chữ Hán nói riêng và ngôn ngữ văn hoá Hán nói chung. Kể từ khi cuốn Thuyế

văn giải tự của Hứa Thận ra đời đến nay, ngày càng có nhiều công trình nghiêr
cứu chữ Hán góp phần khẳng định tính chất cũng như chân-giá trị cùa thứ văn ụ
độc đáo này.

Dạy và học tiếng Hán phải quan tâm đúng mức đến vấn đề giáo dưỡnị

qua mỗi giờ học, nhất là dạy chữ Hán. Nếu không đi sâu tìm hiểu hàm ý văn hoí

của chừ Hán sẽ khó ghi nhớ chữ và nhớ không có căn cứ, giờ học sẽ đơn điệi
nếu không có sự liên hệ cần thiết giữa chữ và nghĩa trong tiếng Hán. Không phả

ngẫu nhiên mà ông cha ta từ xưa đã ước muốn cho con đi học, "kiếm dăm ba chí

để làm người". Nét chữ là nét người, học chữ để biết nghĩa, để biết cách đối nhâi

xử thế và điều chỉnh hành vi của mình cho phù hợp với các quan hệ xã hội v<

cùng đa dạng.

Trong quan niệm về vũ trụ và nhân sinh, người Trung Quốc từ xa xưa đ;
khẳng định, con người là trung tâm của vũ trụ. Quẻ Càn trong Chu Dịch đượ
thể hiện bằng ba nét ngang

Nét ngang trên cùng là tượng trời, nét ngang

CU C

cùng là tượng đất, nét ngang ở giữa là tượng con người. Tương ứng với qua

niệm về sự ra đời của vũ trụ và con người, trong kho tàng các truyền thuyết nc

tiêng của Trung Quôc, đáng chú nhất vẫn là truyện Bàn cổ khai thiên lập địa giể


thích về sự hình thành của trời đất, truyện Nữ Oa nặn ra người giải thích sự xuấl

hiện cùa loài người và khẳng định Hoàng Hà là một trong những cái nôi của loài

người. Có trời đất, có con người sẽ có được những yếu tố căn bản nhất cho sụ

vận hành hài hoà giữa vũ trụ và con người.Với vai trò là trung tâm của vũ trụ.

con người có ảnh hưởng rất lớn đến vạn vật trong giới tự nhiên, đồng thời cũng

chịu sự chi phối của tự nhiên. Điều đó thể hiện khá rõ nét trong ngôn ngữ Hán
nói chung và chữ Hán nói riêng. Chữ nhân với nhiều biến thể của nó có tần


SC

xuất hiện khá lớn trong vai trò làm bộ thủ cấu tạo chữ Hán.

Đi sâu tìm hiểu hàm ý văn hoá chữ Hán qua cách cấu tạo cũng như ý

nghĩa của các dạng chữ "nhân" và các chữ Hán có liên quan nhiều đến đời sống
của con người, từ đó chỉ ra triết lí nhân sinh của người Trung Quốc, một mặt

CC

thể góp phần vào việc làm nổi rồ lí luận văn tự Hán, vận dụng vào thực tiễn dạ>

học tiếng Hán, nhất là văn tự Hán. Mặt khác, có thể thấy được quan niệm truyền

thống của người Trung Quốc về vấn đề con người, đẳng cấp xã hội và vấn đề

phân công lao động xã hội... Từ góc độ ngôn ngữ học, đề tài còn mở ra hướng

nghiên cứu mới về văn hoá dân tộc Hán, góp phần khẳng định tính chất gắn bc

mật thiết giữa hai yếu tố ngôn ngữ và văn hoá nói chune và văn tự với văn \\ỒÍ

nói riêng. Trên cơ sở đó, đề tài sẽ làm cơ sở lí luận cho việc kết hợp các nhân tc
văn hoá vào trong giờ dạy học tiếng Hán, trước hết là góc độ văn tự học.
Trong lịch sừ, đã từng có một thời ki dài dưới chế độ khoa cử Phong kiến
chữ Hán được sử dụng ở nước ta như một thứ văn tự vay mượn. Vì vậy, đề tà

cũng góp phần dù nhỏ vào việc gợi mở cho những người chưa có cơ hội học


tiếng Hán và chữ Hán, hiểu được phần nào về thứ văn tự đã từng có ảnh hưởnị
không nhỏ trong quá trình phát triển văn hoá, xã hội của dần tộc ta trước đây.

Đề tài hoàn thành sẽ là tài liệu liệu tham khảo cần thiết cho các môn thự(

hành viết chữ Hán, dạy học từ mới, môn Văn tự học tiếng Hán cũng như Vãr

hoá văn minh, làm cho nội dung bài giảng sinh động hơn, do kết hợp được cá<
nhân tố văn hoá với ngôn ngữ.


2. Mục đích nghiên cứu
Đề tài góp phần khẳng định mối liên hệ khăng khít giữa ngôn ngữ và văn
hoá trong chữ Hán. Từ việc chỉ ra mối quan hệ giừa chữ và nghĩa, trước hết là
chữ À nhãn, liên hệ đến những chữ hữu quan, chỉ ra được quan niệm về con
người và lẽ sống của đân tộc Hán thể hiện qua chữ Hán, đề tài chỉ ra những đặc
trưng nhận thức của dân tộc Hán về con người và vũ trụ cũng như mối liên hệ
giữa con người với tự nhiên và xã hội. Từ đó vận dụng vào việc dạy học tiếng
Hán cho sinh viên Việt Nam trong các môn học liên quan như thực hành tiếng, lí
thuyết văn tự học, văn hoá văn minh, nhàm một mặt làm phong phú tri thức ngôn
ngữ văn tự Hán, mặt khác tạo điều kiện cho sinh viên tìm hiểu sâu hơn về đất
nước, con người Trung Hoa sau mỗi giờ lên lớp.
3. Đối tượng, phạm vi nghiên cứu
Đối tượng nghiên cứu của đề tài là chữ Hán, trước hết là chữ nhân và các
biến thể của nó, chữ nhân với vai trò làm tự tố biểu nghĩa cũng như những chữ
Hán có liên quan mật thiết với đời sống xã hội của con người. Chữ Hán được
khảo sát trên ba phương diện, phương thức cấu tạo chữ, quá trình phát triển
nghĩa và đặc biệt là mói liên hệ giữa chữ và nehĩa, yếu tố ngữ âm không được
coi là trọng điểm của đề tài này. Ngoài ra, đề tài còn lựa chọn đưa ra phân tích
mối liên hệ giữa chữ và nghĩa của các chữ Hán có liên quan đến quan niệm về

thế giới vật chất và quan hệ xã hội, ảnh hưởng trực tiếp đến tư tưởng truyền
thống của người Trung Quốc.
Để tránh bình luận chung chung, thiếu cân cứ, đề tài lựa chọn một số chữ
Hán tiêu biểu làm ví dụ cụ thể, phân tích, minh hoạ cho từng luận điểm.
Chữ Hán ngày nay sau quá trình cải cách chữ viết đã có rất nhiều chữ
khác xa với hình dạng cấu tạo ban đầu. Để tăng cường sức thuyết phục về mối
liên hệ giừa chữ và nghĩa cũng như mối liên hệ giữa đặc điểm nhận thức của
người Trung Quốc với việc hình thành chữ Hán, đề tài cố gẳng đưa ra những
dạng chữ ban đầu gần với vật thể như chữ kim, chữ triện, đồng thời cũng chú ý
đúng mức đến việc đối chiếu chữ Hán giản thể với chữ Hán phồn thể.
3


4. Nhiệm vụ nghiên cứu

Đề tài trên cơ sở khái quát lại những vấn đề liên quan đến lí thuyết văn tự
học tiếng Hán, tiến hành khảo sát sự hình thành và phát triển nghĩa của chữ À
nhân và các chữ Hán hữu quan, chỉ ra mối liên hệ giữa chữ và nghĩa trong tiếng
Hán. Từ đó làm sáng tỏ triết lí nhân sinh của người Trung Quốc thể hiện trên các
phương diện như đạo làm người, quan niệm đẳng cấp xã hội và phân công lao
động... ngay trong quá trình sáng tạo ra thứ văn tự tượng hình này. Trên cơ sở
kết quả nghiên cửu thu được, vận dụng vào quá trình dạy học tiếng Hán cho sinh
viên chuyên ngành tiếng Hán ở Việt Nam, góp phần làm cho giờ học sinh động,
có hiệu quả và mang đậm tính nhân văn.
5. Phương pháp nghiên cứu

Đề tài sử dụng phương pháp nghiên cứu văn tự học là chính. Cụ thể là sử
dụng các thủ pháp thống kê, miêu tả, phân tích, quy nạp.
Để có thể vận dụng kết quả nghiên cứu vào việc dạy học tiếng Hán cho
sinh viên Việt Nam, đề tài cũng tiến hành khảo sát đối tượng là sinh viên khoa

Ngôn ngữ * Văn hoá Trung Quốc các khối 1 và 4, nhằm góp phần khẳng định vai
trò của việc kết hợp giữa các yếu tố ngôn ngữ và văn hoá, giữa lí luận và thực
tiễn trong việc dạy học tiếng Hán nói chung và chữ Hán nói riêng ở từng giai
đoạn sơ cấp và cao cấp.

Trong đề tài này, chúng tôi kết hợp tra cứu tư liệu, tổng hợp thành quả

nghiên cứu của các học giả đi trước, đồng thời phát huy khả năng quan sát, liên

tưởng và kinh nghiệm học tập, nghiên cứu, giảng dạy chữ Hán nhiều năm, đưa ra

những nhận định về mối liên hệ giữa chữ và nghĩa trong những ví dụ tiêu biểu,

cụ thể. Trong phạm vi đề tài này, chúng tôi đưa ra hơn 100 chữ Hán làm ví dụ

minh họa. Trong đó có 75 chữ được phân tích khá thấu đáo mối quan hệ giữa

chừ và nghĩa, đồng thời dẫn ra hình dạng ban đầu từ chữ kim, chữ triện, đổi

chiếu với dạng chữ hành ngày nay. Dạng chữ ban đầu thường gần với vật thể,

Việc sử dụng phần mềm vi tính dẫn ra dạng chữ kim, chữ triện có tác dụng giúp

chúng ta thông qua trực quan để hình dung, liên tưởng và giúp cho việc phân tích


có sức thuyét phục hơn. Rất tiếc vì điều kiện khách quan, chúng tôi không thể
sưu tầm và dần ra dạng chữ giáp cót là dạng chữ Hán cổ xưa nhất. Tuy nhiên,
với việc phân tích chữ và nghĩa trong mối liên hệ với hai dạng chữ kim và chữ
triện, hy vọng đề tài có thể góp phần dù nhỏ vào việc giải mã chừ Hán, giúp cho

việc dạy học tiếng Hán trở nên thú vị và hiệu quả hơn.
6. Đóng góp của đề tài
Đề tài góp phần vào việc làm sáng tỏ hơn về lí luận văn tự học nói chung
và chữ Hán nói riêng: Chữ và nghĩa là hai mặt khăng khít như hai mặt của một tờ
giấy, đó là tính chất đặc thù của thứ văn tự tượng hình có một không hai trên thế
giới - văn tự Hán.
Mặt khác, đề tài cũng khẳng định mối quan hệ liên ngành giữa văn tự học
với đất nước- văn hoá học Trung Quốc. Qua đó gợi mở cho cả người dạy và
người học việc kết hợp các kiến thức văn tự với các kiến thức văn hoá xã hội nói
chung để nắm bắt được những tri thức mang tính tổng hợp qua mồi giờ dạy học
tiếng Hán, làm cho giờ dạy sinh động hơn, hiệu quả hơn.
Con người với vai trò là trung tâm của vũ trụ, con người từ khi sinh ra
đã phát huv tác dụng to lớn với thế giới tự nhiên, con người là tổng hoà các mối
quan hệ giữa bản thân với tự nhiên và xã hội, Nghiên cứu chữ nhân và những
chữ Hán có liên quan đến chữ nhân, còn chỉ ra đặc điểm tri nhận thế giới vật chất
của người Trung Quốc. Từ quan điểm nét chữ là nét người, góp phần giáo dục
tư tưởng nhận thức cho sinh viên, kết hợp dạy chữ với dạy đạo lí làm người.
7. Cấu trúc của đề tài
Đề tài ngoài phần mở đầu, phụ lục, tài liệu tham khảo ra, gồm ba chương:
Chương 1: Khái quát chung về chừ Hán
Chương 2: Chữ Hán với triết lí nhân sinh của người Trung Quốc
Chương 3: Những hệ quả sư phạm qua nghiên cứu

5


CHƯƠNG 1: KHÁI QUÁT CHUNG VỀ CH Ữ HÁN

1. Khái quát về chữ Hán
1.1. Khái niệm chữ Hán


Khác với các văn tự phiên âm bằng chữ cái La- tin trên thế giới, chữ Hán
là một loại văn tự do người Hán sáng tạo ra, có tính chất tượng hình, lịch sử hình
thành và phát triển lâu đời. Chữ Hán được cấu tạo bởi các bộ thủ, mỗi chữ viết
trong một ô vuông, được thể hiện bàng một âm tiết. "Khởi nguồn và sự phát triển
của chữ Hán có liên quan mật thiết với nền văn minh của dân tộc Trung Hoa. Nó
là phương tiện ghi chép cơ bản của nền văn hoá truyền thống, cũng là phương
tiện để kế thừa, truyền bá và giao lưu tư tưởng văn hoá dân tộc Trung Hoa." [7.1]
Chữ Hán từ khi hình thành đến nay đã trải qua nhiều thời kì phát triển, từ
dạng chữ cổ xưa nhất viết trên mai rùa và xương thú gọi là chừ giáp cốt, đến chữ
kim là thứ chữ viết trên kim loại, gắn liền với thời kì đồ đồng thay thế đồ đá. Sau
đó đến chữ triện, chữ lệ và hoàn thiện đến ngày nay. Trong quá trình phát triển
đó, chữ Hán đã dần dần chuyển biến từ hình hoạ rất gần với sự vật khách quan
đến những đường nét mang tính kí hiệu hoá và xa rời hình dạng vật thể ban đầu.
Chính vì vậy, nghiên cứu chữ Hán trong quá trình phát triển của nó, từ chữ giáp
cốt, chữ kim đến chữ triện, chữ lệ rồi chữ khải chữ hành càng có ý nghĩa đối với
việc học tập và nghiên cứu tiếng Hán. Mặt khác, trên cơ sở ý nghĩa của các bộ
thủ và các nguyên tắc kết hợp của nó để tạo ra chữ Hán, người dạy và người học
càng dễ tiếp cận và tiếp cận chữ Hán một cách có cơ sở khoa học. Nhờ đó mà
đồng thời nắm được chữ, nghĩa và nội hàm văn hoá của chữ Hán.
Cũng xuất phát từ tính chất tượng hình và lịch sử lâu đời của chữ Hán,
bản thân nó đã thể hiện một cách sinh động đặc điểm tri nhận của người Trung
Quốc cổ đại về tự nhiên, về con người và hơn thế nữa là nhận thức về mối quan
hệ giữa con người với tự nhiên, con người với xã hội. Nói cách khác, người
Trung Quóc xưa đã dựa trên cơ sở khám phá, tri nhận vạn vật và chính mình đã
gửi gẳm sự nhận thức đó vào chừ Hán - một sản phẩm tinh thần vô giá cùa mình.
6


Chữ Hán hàm chứa một nội dung tư tưởng, văn hóa sâu sắc mà không một văn

tự biểu âm nào trên thế giới có được, kể cà văn tự các nước chịu ảnh hưởng của
chữ Hán như Nhật Bản, Hàn Quốc... Chính vì vậy, nghiên cứu chữ Hán không
chi dừng lại ở góc độ ngôn ngữ, vãn tự mà còn vượt lên chính nó để đến với góc
văn hóa dân tộc. Giúp cho nghiên cứu có thể khám phá được những đặc trưng về
đất nước, con người qua ngay trong văn tự mà họ sáng tạo ra.
1.2. Tính chất tượng hình của chữ Hán

Quan điểm truyền thống cho rằng, chữ Hán cũng là hệ thống kí hiệu dùng
để ghi chép ngôn ngữ. Tuy nhiên, tác giả Đường Hán lại khẳng định, chữ Hán
không phải là kí hiệu ghi chép ngôn ngữ, mà là sự thể hiện các khái niệm tư duy
của đại não. Với tư cách là loại văn tự mang tính chất kí hiệu của thị giác, chữ
Hán là công cụ truyền tải cao hơn hẳn một bậc so với ngôn ngữ. Điều đó chứng
tỏ chữ Hán đã thể hiện rõ nét khả năng quan sát tinh tế thế giới vật chất của
người Hán, kết hợp với tư duy mang đậm tính dân tộc của mình, người Trung
Quốc đã ghi nhận lại thế giới vật chất muôn hình vạn trạng qua lăng kính chủ
quan của mình. Chính vì vậy, mỗi chừ Hán có thể coi là một sự gợi tả, một cách
định nghĩa khái quát nhất, đơn giản nhất về sự vật, hiện tượng khách quan.
Trong cuốn “Từ chữ nhân”, việc lí giải tính chất tượng hình, nguồn gốc,
cấu tạo và quá trình phát triển nghĩa của chữ Hán của tác giả Tiêu Khởi Hồng
chứng tỏ, chữ Hán không chỉ là kí hiệu ghi chép ngôn ngữ Hán thông thường
như những loại văn tự thường gặp khác trên thế giới, mà nó còn chứa đựng vô số
tiêu chí thông tin toàn diện về các mặt tri thức khoa học kĩ thuật và quan niệm
văn hoá dân tộc cổ đại Trung Quốc. Trong một chừng mực nào đó, nó có liên
quan đến các kí hiệu bát quái trong Chu Dịch, thể hiện năng lực quan sát thế giới
tinh tế trong quá trình vận động của nó.
Theo chúng tôi, chữ Hán là một loại chữ tượng hình có lịch sừ lâu đời của
dân tộc Hán. Chữ Hán ỉà sự tổ hợp hài hoà giữa ba yếu tố, hình thể, âm và nghĩa.
Trong đó, hình thể và ý nghĩa có quan hệ mật thiết nhất, thể hiện sinh động óc
quan sát và khả năng tư duy liên tưởng, đặc điểm tri nhận thế giới vật chất của


7


người Trung Quốc. Có thể nói, mỗi chữ Hán là một cách định nghĩa cô đọng, súc
tích nhất về một sự vật, hiện tượng trong thế giới tự nhiên và xã hội mà loài
người đã và đang chinh phục nó, sáng tạo và cải tạo nó.
1.3. Các nguyên tắc cấu tạo chữ Hán
Chữ Hán là một loại văn tự tượng hình, mỗi chữ Hán được cấu tạo bởi các
bộ thủ, mỗi bộ thủ lại có ý nghĩa riêng. Từ trước đến nay, nghiên cứu về cấu tạo
chữ Hán, các học giả thường gắn nó với khái niệm lục thư, gồm tượng hình, chỉ
sự, hội ý, hình thanh, giả tá và chuyển chú. Tuy nhiên, sau này, rất nhiều học giả
lại cho rằng, chữ Hán được cấu tạo dựa trên 4 nguyên tắc: tượng hình, chỉ sự, hội
ý và hình thanh. Giả tá và chuyển chú là hai nguyên tắc sừ dụng chữ Hán, chứ
không phải nguyên tắc cấu tạo chữ. Chúng tôi ủng hộ quan điểm thứ hai, cho
rằng chữ Hán cấu tạo dựa trên 4 nguyên tắc. Tính chất mỗi nguyên tắc cụ thể
như sau:
(1) Tượng hình, là nguyên tắc tạo chữ Hán bàng cách vẽ lại những sự vật
cụ thể có thể vẽ được một cách đơn giản nhất. Ví dụ: Uj sơn (núi), 7X thuỷ
(sông, nước), ỊEỊ nhật (mặt trời), R nguyệt (mặt trăng), ỷ: nữ (con gái),
điền (ruộng) , ^| mã (ngựa),

điểu (chim).......

(2) Chỉ sự, với những khái niệm trừu tượng, không thể vẽ được, người ta
đã dùng kí hiệu để thể hiện, nguyên tắc dùng kí hiệu thể hiện khái niệm trừu
tượng để tạo chữ gọi là nguyên tắc chỉ sự. Ví dụ: Ạ bản (gốc), trên nền chữ mộc
người ta thêm vào phía dưới một nét ngang đánh dấu lấy phần bên dưới của cây,
nhằm thể hiện ý nghĩa là gốc, ^ mạt (ngọn) thì ngược lại với chữ bản, nét
ngang trên cùng đánh dấu lấy phần trên của cây, biểu thị ý nghĩa là ngọn, _h
thượng (trên), nét ngang dưới cùng biểu thị ý nghĩa là mặt bằng, nét sổ phía trên

đánh dấu không gian trên mặt bằng, nét ngang bên phải đánh dấu phía trên mặt
bằng, biểu thị ý nghĩa là bên trên, T hạ (dưới), với ý nghĩa ngược lại với chữ
± thượng.

8


(3) Hội ý, là nguyên tắc dùng 2 hay nhiều bộ thủ cùng thể hiện một ý
nghĩa để tạo chữ mới. Ví dụ: Í&; an (bình yên), gồm hai bộ thủ tạo thành, phần
trên là bộ

(mái nhà), phần dưới là chữ n ữ (con gái)n cả hai bộ hội lại cùng

m iê n

thể hiện ý nghĩa là y ê n

ổn, a n to à n

(sẽ phân tích kỹ ở chương 2),

(rừng)

lâ m

gồm hai bộ mộc tạo thành, hai trở lên ỉà số nhiều, hai bộ mộc cùng thể hiện ý
nghĩa là r ừ n g - nơi có nhiều cây,
phần trên là bộ

(ruộng) và


đ iể n

nam
lự c

(đàn ông), gồm hai bộ thủ hợp thành,

ở dưới, cả hai cùng thể hiện ý nghĩa người

đàn ông có sức khoẻ cáng đáng công việc cày đồng (phân tích kỹ ở chương 2),
REJ p h ẩ m (hàng hoá, vật phẩm), gồm ba bộ k h ẩ u (miệng) cùng thể hiện ý nghĩa là
nhiều người nếm, thưởng thức một món ăn, fậ]
(miệng), cùng thể hiện ý nghĩa g h é

khẩu

vấn

(hỏi) gồm bộ

m ôn

(cừa),

m iệ n g v à o c ử a đ ể h ỏ i.

Với loại chữ này, có thể các bộ thủ tạo chữ là giống nhau, như hk
(theo) gồm hai chữ
xuẩ t


thể hiện ý nghĩa

n g ư ờ i đ i t rư ớ c , n g ư ờ i t h e o s a u ,

(ra) với hai bộ s ơ n (núi) cùng thể hiện ý nghĩa h a i

x u ấ t đ ầ u lộ d iệ n t

hiện ý nghĩa s o
nho

nhân

lÍj

n g ọ n n ú i c h ồ n g lè n n h a u ,

tỉ (so sánh) với hỉnh ảnh hai người ngồi cạnh nhau, thể

ít

sá n h \

(nho học), gồm

tò n g

cũng có thể là do các bộ thủ khác nhau hợp thành, như Í Ề


nhản

(người),

nhu

(nhu cầu), cùng thể hiện ý nghĩa là đ iề u

c ầ n c h o c o n n g ư ờ i t h ự c h iệ n đ ạ o ỉà m n g ư ờ i

(đạo Nho) w manh (mù) gồm v o n g

(mất) và m ụ c (mắt), cùng thể hiện ý nghĩa là h ỏ n g

m ắ t .........

(4) Hình thanh, là nguyên tắc tạo chữ bởi hai bộ phận, một bộ phận biểu
thị ỷ nghĩa, một bộ phận biểu thị âm thanh. Ví dụ:
(hô hoán),

hoán

(bừng sáng),

đều gồm hai bộ phận cấu thành, &
nghĩa.

hoán

hoán

hoán

hoán

(thay, đổi), Ạ&h o á n

(nước loang ra). Trong đó, mỗi chữ

biểu thị âm đọc, phần còn lại biểu thị ý

(thay đổi), là động tác liên quan đến tay. Chữ

hoán) là hành vi liên quan đến □

khẩu

(miệng)......

hoán

(gọi- hô


Trong các phương thức cấu tạo kể trên, số lượng chữ Hán cấu tạo theo
nguyên tắc hình thanh chiếm đại đa số. Nắm được các nguyên tắc cấu tạo này,
đồng thời nắm được ý nghĩa của các bộ thủ và vai trò của nó trong cấu tạo chữ sẽ
giúp người học dễ nhớ, nhớ lâu và nhớ chữ một cách cỏ cơ sở khoa học, đồng
thời biết được nghĩa gốc của chữ Hán, làm cơ sở đó nắm các nghĩa phái sinh.
Mặt khác, nếu kể về các nguyên tắc cấu tạo của chữ Hán, chúng ta cần sắp xếp
theo đúng thứ tự tượng hình - chỉ sự - hội ý - hình thanh, bởi vì cách sắp xếp đó

tuân theo thứ tự xuất hiện của từng tiểu loại.
2. Đôi nét về văn hoá xã hội Trung Quốc
2.1. Đặc điểm địa lý - khí hậu


*

V



Từ thế kỷ XVIII đến thế kỷ XI Trước Công nguyên, trên lưu vực phì nhiêu
của sông Hoàng Hà phía Bắc Trung Quốc đã xuất hiện một liên minh thị tộc
rộng lớn, với một nền nông nghiệp định cư khá phát triển. Chữ viết cũng từ đó
đã bắt đầu được sử dụng và những hình thức của một nhà nước phôi thai đã bắt
đầu xuất hiện. Thời kỳ đầu, trung tâm kinh tế cổ đại Trung Quốc ở đồng bằng,
hạ du sông Hoàng Hà. Thời kỳ sau chuyển xuống Giang Nam. Sự chuyển biến
mang tính khu vực này trải qua một quá trình phát triển khá dài, bước ngoặt của
nó vào thời kỳ Ngũ Đại - Bắc Tống (907- 1127). Chính điều này đã tạo nên
những thay đổi trên cả đất nước Trung Hoa rộng lớn, tạo nên một nền văn minh
sán lạn cho Trung Quốc. Nền văn hoá mang những nét riêng vô cùng độc đáo
vẫn đang thu hút sự quan tâm, nghiên cứu của những người muốn tìm hiểu về
đất nước có bề dày lịch sử hơn 5000 năm này.
Thời cổ đại, lãnh thổ Trung Quốc so với hiện nay nhỏ hơn rất nhiều. Trung
Quốc có đầy đủ các dạng địa hình, phía tây có nhiều núi và cao nguyên với khí
hậu khô hanh, phía đông có các bình nguyên châu thổ phì nhiêu, thuận lợi cho
việc sản xuất nông nghiệp. Trung Quốc có hàng ngàn con sông lớn nhò, nhưng
lớn nhất là Hoàng Hà và Dương Tử. Hai con sông này đều chảy theo hướng tây đông, hàng năm đều được bồi đắp bằng một lượng và phù sa rất lớn, đem lại

10



những vụ mùa bội thu cho người dân quanh lưu vực của hai con sông này. Đây
cũng là trung tâm xuất hiện các nền văn minh cổ đại rực rỡ của Trung Quốc.
Phía đông Trung Quốc, dọc theo bờ biển Hoàng Hải và Đông Hải là các
đồng bằng phù sa rất đông dân, miền nam có nhiều đồi núi và dãy núi thấp. Phía
tây, miền bắc có đồng bằng phù sa màu mỡ (bình nguyên Hoa Bắc), miền nam
có cao nguyên đá vôi mênh mông bao phủ bởi các ngọn núi tương đối cao. Phía
tây bắc cũng có các cao nguyên khá cao trong các vùng sa mạc khô cằn. Vào
mùa xuân thường có những cơn bão cát xảy ra do hạn hán kéo dài và do trình độ
kỹ thuật canh tác của người dân ở đây còn thấp kém. Các trận bão cát thường
thổi xuống tận phía nam Trung Quốc, Đài Loan và còn đến các miền xa hơn như
bờ tây Hoa Kỳ. Khí hậu phía tây thường khắc nghiệt hơn phía đông, vì vậy mà
kinh tế phía đông bao giờ cũng phát triển hơn phía tây.
Biên giới tây nam của Trung Quốc có nhiều núi cao và thung lũng sâu phân
cách với các nước láng giềng như Lào, Miến Điện và Việt Nam. Khí hậu cũng
rất đa dạng. Miền bắc mùa đông khắc nghiệt giống khí hậu ở Bắc cực. Miền
trung có khí hậu ôn đới. Miền nam lại có khí hậu tiểu nhiệt đới. Chính sự đa
dạng của khí hậu làm cho nền nông nghiệp của Trung Quốc rất đa dạng với
nhiều sản phẩm đặc trưng của từng vùng miền. Dân số đông và diện tích rộng đã
tạo điều kiện thuận lợi để Trung Quốc phát huy hết những thế mạnh của mình để
phát triển kinh tế. Có thể nhận thấy ngay từ thời cổ đại, Trung Quốc đã tận dụng
những ưu điểm của tự nhiên để phát triển nền nông nghiệp cả trong trồng trọt và
chăn nuôi.
Vào 5000 năm trước Công nguyên, các cộng đồng nông nghiệp đã trải dài
khắp trên đa phần lãnh thổ Trung Quốc hiện nay, và đã có những làng nông
nghiệp từ đồng bằng sông Vị chạy về phía đông, song song với dòng sông
Hoàng Hà, bắt đầu từ dãy Côn Lôn chảy về hướng vùng hoàng thổ nơi có cánh
rừng trụi lá ở đồng bằng phía bắc Trung Quốc. Khoảng 5500 năm trước Công
nguyên, người dân săn hươu nai và các loại thú khác, câu cá làm thức ăn. Họ đã

biết thuần hoá chó, lợn, gà. Họ đo đất để xây những ngôi nhà một phòng, với


'
'
«
mái băng đât sét hay rạ. Nhiêu ngôi nhà như vậy họp thành một làng. Trong làng
.

đã có guồng quay tơ và người dân đã biết đan, dệt sợi. Họ cũng đã biết chế tạo
đồ gốm có trang trí.
Bên phía sông Dương Tử, qua lòng chảo Hồ Bắc và ở đồng bằng ven biển
về hướng vịnh Hàng Châu, việc trồng trọt cũng đã phát triển, nhưng người dân
sống gần sông Hoàng Hà phải chống chọi với thiên nhiên khắc nghiệt hơn, mong
được chế ngự lũ lụt và tưới tiêu cho mùa màng, điều này đã kích thích tổ chức
sản xuất ở khu vực này tốt hơn so với phía nam Trung Quốc. Phía bắc trở thành
nơi tập trung dân cư đông đúc nhất so với các khu vực khác trong cả nước.
2.2. Đăc điểm dân tôc




Trung Quốc là một đất nước có nhiều dân tộc cùng sinh sống nhưng đông
đảo nhất là người Hoa Hạ. Tổ tiên của người Hoa Hạ sinh sống ở ven núi Hoa
thuộc tỉnh Thiểm Tây và sông Hạ thuộc tình Hồ Bắc ngày nay. Các dân tộc có
đông người nhất là Hán, Mãn, Mông, Hồi, Tạng... Trong đại gia đình các dân
tộc Trung Quốc, dân tộc Hán chiếm đại đa số. Tổ tiên cùa dân tộc Hán không chỉ
là những cư dân đầu tiên của vùng Hoa Hạ, mà dân tộc Hán, trong quá trình hình
thành và phát triển đều dung hợp với các dân tộc thiểu số từng xuất hiện trona
lịch sử đã trở thành dân tộc đông người. Mặc dù ỉà dân tộc chiếm đa số nhưng

trên các lĩnh vực chính trị, kinh tế, văn hoá, giữa dân tộc Hán và các dân tộc
thiểu số đều có rất nhiều mối quan hệ mật thiết với nhau.
Mặc dù dân tộc Hán là dân tộc đông nhất, sắc thái ngôn ngữ và văn hoá có
nhiều khác biệt nhưng nền văn hoá độc đáo của Trung Quốc là do cộng đồng các
đân tộc Trung Hoa cùng sáng tạo nên. Trong quá trình đồng hoá, dân tộc Hán đã
hấp thu một cách tự giác một số đặc trưng văn hoá nào đó của các dân tộc khác
trong cách ăn mặc, đi lại. Một số tập quán sinh hoạt ngày nay không phải đều bắt
nguồn từ dân tộc Hán, mà trên nhiều phương diện đã chịu nhiều ảnh hưởng của
các dân tộc anh em, đặc biệt là của người Hồ (trên phương diện trang phục)...
Nền văn hoá của các dân tộc thiểu số, ngoài những thử đã được dân tộc Hán

12


dung hợp, hấp thụ, còn rất nhiều sản phẩm vật chất và tinh thần cùa các dân tộc
khác làm cho nền văn hoá của Trung Quốc càng thêm phong phú.
2.3. Đặc điểm lịch sử
Trung Quốc đã có hơn 5000 năm lịch sử. Con người từng sinh sống ở
Trung Quốc hàng triệu năm. Dấu tích người vượn ở hang Chu Khẩu Điếm có
niên đại cách đây hơn 500.000 năm. Sau khi xã hội nguyên thuỷ ở Trung Quốc
tan rã, xã hội có giai cấp, nhà nước ra đời cách đây 5000 năm. Triều đại đầu tiên
trong lịch sử Trung Quốc là nhà Hạ (4000 năm trước), nhà Thương (thế kỷ XIII
trước Công nguyên), rồi đến nhà Chu, qua thời kỳ "trăm nhà đua tiếng” đến thời
Xuân Thu Chiến Quốc, nhưng đến nhà Tần, bằng những biện pháp thống trị xã
hội tàn nhẫn (theo tư tưởng Pháp gia) đã khiến Trung Quốc trở thành một quốc
gia thống nhất. Từ thời nhà Tần, người đứng đầu Trung Quốc được gọi là Hoàng
đế. Từ đó, một hệ thống trung ương tập quyền quan liêu được thiết lập. Nhà Tần
sụp đổ, Trung Quốc có 13 triều đại khác nhau kế tục hệ thống các vương quốc,
công quốc, hầu quốc và bá quốc. Lãnh thổ Trung quốc được mở rộng hay thu
hẹp là đều dựa vào sức mạnh của các triều đại. Hoàng đế nắm quyền tối cao,

đứng đầu về chính trị và tôn giáo của Trung Quốc. Sự kế thừa của các triều đạị
trong lịch sử Trung Quốc kéo dài mãi đến khi cách mạng Tân Hợi năm 1911 mới
chấm dứt thời kỳ phong kiến kéo dài hơn hai nghìn ba trăm năm. Từ năm 1919,
cuộc vận động Ngũ tứ thắng lợi, một trang mới trong lịch sử phát triển của
Trung Quốc đã chính thức mở ra - thời kì dân chủ, nhân dân lao động giành
chính quyền.
2.4. Tình hình văn hoá
Trung Quốc là một đất nước có nền văn hoá độc đáo và vô cùng sán lạn so
với các quốc gia cùng thời. Văn hoá cổ đại Trung Quốc là tài sản quỷ báu trong
lịch sử văn hoá nhân loại. Nó không chỉ có một lịch sử đài lâu mà còn hàm chứa
nội dung phong phú, nhiều màu sắc.
Theo kết quả nghiên cứu của các nhà khảo cổ học thì nền văn hoá của Trung
Quốc đã có từ rất sớm. Cách đây khoảng 300 nghìn năm đến 100 nghìn năm đã


xuất hiện nền văn hoá thuộc giai đoạn giữa thời đại đồ đá cũ. Thời đại đồ đá mới
ở Trung Quốc cách ngày nay khoảng 7000 năm đến 2000 năm, phát triển ở vùng
trung du Hoàng Hà, sau đó đến thượng du Hoàng Hà... Sau đó, nhà Chu thành
tập vào thế kỷ XI trước công nguyên đã đánh một dấu mốc quan trọng trong sự
phát triển của nền văn hoá cổ đại Trung Quốc. Nguồn gốc và sự phát triển của
văn hoá nhà Chu giống với văn hoá nhà Hạ - Thương và có sự kế thừa trực tiếp
với văn hoá Thương. Dưới tác động của nền chính sự một quốc gia thống nhất,
không chỉ về phương diện thích ứng sinh thái mà còn là sự thích ứng về mặt xã
hội, nhà Chu đã làm cho văn hoá Hoa Hạ từ Hạ - Thương trở đi càng thêm
phong phú và phát triển lên một tầm cao mới. Từ nhà Chu, nền văn hoá thời cổ
đại Trung Quốc lại mang một diện mạo khác trước. Nó trở thành một hình mẫu
văn hoá được giai tầng thống trị các triều đại từ Tần - Hán về sau tuân theo.
Cục diện thống nhất về chính trị đã mang lại sự thịnh vượng và đỉnh cao
văn hoá cho Trung Quốc. Đến thời nhà Tống, các nguồn lợi đã gấp ba lần so với
nhà Đường. Cuộc sống phát triển, nghệ thuật nảy nở với sự phát triển của dân số.

Các thành phố - thủ đô văn hoá trở nên đông đúc hơn. Sự nối tiếp nhau của các
triều đại ở Trung Quốc cũng làm cho nền văn hoá của đất nước này ngày càng
được bổ sung, bồi đắp và phong phú thêm. Từ chữ viết cho đến những công trình
kiến trúc đồ sộ đều mang đậm đấu ấn Trung Hoa. Nó không chỉ có giá trị nghệ
thuật mà còn thể hiện được bàn tay khéo léo của những nghệ sĩ dân gian nói
riêng và người dân Trung Quốc nói chung trong việc tạo dựng nên những tác
phẩm văn hoá vô cùng độc đáo, có giá trị nghệ thuật và giá trị tinh thần to lớn.
2.5. Đôi nét về triết học, tư tưởng
Trung Quốc cổ đại là quốc gia có một nền triết học khá phát triển, rất nhiều
học thuyết có giá trị về mặt triết học. Các học thuyết này đều xuất hiện vào các
thời Xuân Thu - Chiến Quốc. Đây được coi ỉà thời kỳ “Bách gia tranh minh”.
Chính trong quá trình “tranh minh” đã sinh ra những nhà tư tưởng vĩ đại hình
thành nên những hệ thống triết học khá hoàn chỉnh, mở đầu cho lịch sử tư tưởng
Trung Quốc.

14


(1). Triết học
Thuyết âm dương, bát quái, ngũ hành, âm dương gia là những khái niệm
mang màu sắc triết học Trung Quốc cổ đại. Âm dương, bát quái, ngũ hành, là
những học thuyết mà người Trung Quốc đã nêu ra từ thời cổ đại để giải thích thế
giới. Họ cho rằng trong thế giới luôn luôn tồn tại hai loại khí không nhìn thấy
được xâm nhập vào trong mọi vật là âm và dương (còn gọi là lưỡng nghi), lưỡng
nghi sinh tứ tượng, tứ tượng sinh bát quái. Bát quái là 8 quẻ mẹ đề cập đến 8 yếu
tố vật chất quan trọng trong thế giới, bao gồm: Càn, Khôn, Chấn, Tốn, Khảm, Ly,
Cấn, Đoài, trong đó hai quẻ Càn, Khôn là quan trọng nhất.
Ngũ hành là: Kim, Mộc, Thuỷ, Hoả, Thổ. Đó là năm nguyên tố cấu thành
vạn vật. Vật chất khác nhau là do sự pha trộn, tỉ lệ khác nhau do tạo hoá sinh ra.


về sau, những người theo học thuyết âm dương đã kết hợp thuyết âm dương với
ngũ hành rồi vận dụng nó để giải thích các biến động của lịch sử xã hội.
(2). Tư tưởng
Thời Xuân Thu - Chiến Quốc, Trung Quốc đã xuất hiện rất nhiều những
nhà tư tưởng, họ đưa ra nhiều lý thuyết về tổ chức xã hội và giải thích các vấn đề
của cuộc sống.
Nho gia: Tiêu biểu là Khổng Tử. Nho gia đề cao chữ nhân, chủ trương lễ trị,
phản đối pháp trị. Nho gia đề cao tam cương, ngũ thường, cùng với nhừng chính
danh định phận và đề cao tư tưởng thiên mệnh. Giá trị quan trọng nhất trong tư
tưởng của Khổng Tử là về giáo dục. Ông chủ trương “hữu giáo vô loại”, dạy học
cho tất cả mọi người, không phân biệt địa vị, tuổi tác, giàu nghèo......Học trước
hết để hiểu được “lễ” và nhờ có lễ, con người mới thực sự tách ra khỏi thể giới
động vật và ngày càng văn minh. Thời Hán Vũ Đế, chấp nhận đề nghị của Đổng
Trọng Thư, Hán Vũ Đế đã ra lệnh “bãi truất bách gia, độc tôn Nho thuật”, Nho
gia được đề cao một cách tuyệt đối và nâng lên thành Nho giáo.
Đạo gia: Tiêu biểu là Lão Tử và Trang Tử. Hai ông đã thể hiện tư tưởng của
mình qua hai tác phẩm Đạo đức kinh và Nam hoa kinh. Theo Lão Tử “Đạo” là
cơ sở đầu tiên của vũ trụ, có trước cả trời đất, nằm trong trời đất. Quy luật biến
15


hoá tự thân của mỗi sự vận động gọi là “đức”. Lão Tử cho rằng mọi sự vật sinh
thành, phát triển rồi suy vong đều có mối liên hệ với nhau. Tới Trang Từ, tư
tưởng của phái Đạo gia mang nặng tính buông xuôi, xa lánh cuộc đời. Họ cho
rằng mọi hoạt động của con người đều không thể cưỡng lại “đạo trời”, từ đó
mang tư tưởng an phận, lánh đời.
Pháp gia: Ngược hẳn với phái Nho gia, phái Pháp gia chủ trương “pháp trị”

coi nhẹ “lễ trị” Tiêu biểu cho phái Pháp gia là Hàn Phi Tử, một kẻ sỹ thời Tần
Thuỷ Hoàng.

Mặc gia: Người đề xướng là Mặc Tử (khoảng giữa thế kỷ V trước công

nguyên đến giữa thế kỷ IV trước công nguyên). Hạt nhân của tư tưởng này là đề
cao nhân và nghĩa. Tư tưởng của phái Mặc gia đầy thiện chí nhưng cũng không
ít ảo tưởng.
Bách gia tranh minh đã tạo ra cho Trung Quốc cổ đại một hệ tư tưởng rất
phong phú, mỗi một học thuyết đều có mặt tích cực và mặt hạn chế của nó.
Trong chừng mực nhất định các nhà tư tưởng đã đặt ra cách lí giải về quy luật tự
nhiên, quy luật xã hội và triết lí nhân sinh của mình. Trong các luồng tư tưởng
đó, nổi lên là học thuyết Nho gia mà Khổng Tử là người khai sáng, Mạnh Tử là
người kế thừa và phát huy. Học thuyết Nho gia có ảnh hưởng sâu sắc nhất, lâu
dài nhất đổi với sự phát triển xã hội của Trung Quốc, trở thành nền tảng của tư
tường truyền thống Trung Hoa.
3. Mối liên hệ giữa văn hoá Hán vói chữ Hán
3.1. Những đặc trưng cơ bản của văn hoá truyền thống Trung Hoa
3.1.1. Vài nét về khái niêm văn hoá

“Văn hoá (culture) chỉ thể tổng họp các di tích, di vật trong cùng một thời
kì lịch sử về mặt khảo cổ học. Những công cụ, dụng cụ, kỹ thuật chế tạo giống
nhau là đặc trung của cùng một loại hỉnh văn hoá. Văn hoá cũng là sự tổng hoà
của cải do loài người sáng tạo ra, chuyên dùng để chỉ của cải tinh thần như văn
học, nghệ thuật, giáo dục, khoa học. “ ( Vương Đồng ức, Tân hiện đại Hán ngữ

16


từ điển, tr.1714). Văn hoá học là một môn khoa học nghiên cứu về các hiện
tượng văn hoá và hệ thống vãn hoá, tiếng Anh gọi là “The Science of Culture”
(Khoa học văn hoá). Nó nghiên cứu chủ yếu các vấn đề như: nguồn gốc, diễn
biến, sự truyền bá, bản chất, kết cấu, chức năng, tính cộng đồng và cá biệt của

văn hoá cũng như những quy luật đặc thù, quy luật chung cùa văn hoá.
Vãn hoá là tổng thể các giá trị vật chất và tinh thần do con người sáng tạo
ra. Nó phản ánh trình độ phát triển xã hội. Văn hoá trước hết là một kiểu lựa
chọn của một tộc người hoặc của cá nhân, xuất phát từ cái bất biến đến cái vạn
biến, bao gồm các sản phẩm văn hoá, ý niệm và cách ứng xử. Ví dụ, Việt Nam
và Trung Quốc cùng thuộc một không gian văn hoá với nhiều đặc điểm bối cảnh
lịch sử, địa lí, xã hội tương đồng, nhân dân hai nước đều chọn lối ăn bằng đũa,
bàn (mâm) tròn, mọi người cùng ăn uống, vừa ăn vừa trò chuyện. Khác với
người phương đông, phần lớn các nước phương Tây như Anh, Pháp chọn lối ăn
bằng dĩa, thìa, dao, mỗi người một xuất, trong khi ăn không nói chuyện. Hai
cách lựa chọn ấy đều có nguyên nhân sâu xa của nó. Đồng thời thể hiện hai nền
văn hoá khác nhau. Người phương đông, tiêu biểu là người Trung Quốc trọng
tình cảm và tính cộng đồng. Họ đi lên từ một nền nông nghiệp nghèo nàn, lạc
hậu, hình thức quần cư theo đơn vị làng xã và nền văn minh lúa nước, cộng với
quan điểm âm dương ngũ hành tương tác đã tạo nên lối sống của người Trung
Quốc khác với người phương tây. Người phương tây tôn trọng tự do cá nhân hơn
là tính cộng đồng.
3.1.2. Vài nét về đặc trưng văn hoá Trung Hoa
Là một dân tộc có bề dày lịch sử hơn 5000 năm, trong đó, thời kì xã hội
Phong kiến kéo dài tới hơn 2300 năm, dân tộc Trung Hoa có một nền văn hoá đồ
sộ, xán lạn, chịu ảnh hưởng sâu sắc của tư tưởng Nho gia. Trong đại gia đình các
dân tộc Trung hoa, dân tộc Hán chiếm đại đa số. Dân tộc Hán có vai trò chủ đạo
trong việc sáng tạo nên nền văn hoá Trung Hoa. Họ sống chủ yếu dựa vào nông
nghiệp gồm trồng trọt và chăn nuôi. Với một diện tích khá lớn các vùng trung du

ĐAI HỌC QUỐC GIA HÀ NỘI
TRUNG 1ÂM ĨHỎNG TIN THƯ VIỆN

I7



và miền núi, du mục trải qua hàng ngàn đời cũng dần dần hình thành nên một đặc
sắc văn hoá Trung Hoa - văn hoá du mục. Có thể nói vãn hoá Trung Hoa là sự kết
hợp giữa văn hoá lúa nước và văn hoá du mục. Từ xa xưa, nền sản xuất nông
nghiệp của Trung Quốc ià nền sản xuất thủ công, lạc hậu, năng suất thấp. Người
ta phải sống dựa vào nhau trong địa bàn dân cư làng xã. Mỗi làng xã ấy ỉà một
đơn vị dân cư khá độc lập. Quan hệ giữa các thành viên trong làng xã vốn là quan
hệ huyết thống, về sau mới có sự pha trộn. Thức ăn của người Trung Hoa truyền
thống chính là lương thực. Sau đó, qua quá trình giao lưu với các dân tộc anh em
khác về mọi mặt đời sống sinh hoạt, ẩm thực dần dần trở nên phong phú nhu ngày
nay. Cũng một phần do đi lên từ nền nông nghiệp lạc hậu, thiếu sức sản xuất,
người ta phải dựa vào nhau, sống thành làng xã, cụm dân cư. Từ đó, dần dần hình
thành nên nền văn hoá truyền thống mang tính chất đại gia đình. Đó là nét tương
đồng với dân tộc Việt Nam - Văn hoá Việt Nam cũng lạ vãn hoá làng xã với nền
văn minh lúa nước ngàn đời.
Trải qua quá trình hình thành và phát triển, nền văn hoả Trung Quốc không
chi đơn thuần ỉà văn hoá Hán tộc mà là nền văn hoá chung của đại gia đình các
dân tộc Trung Hoa, muôn màu muôn vẻ. Đồng thời qua quá trinh giao lưu văn hoá
quốc tế, nó càng trở nên phong phú, hiện đại.
Hơn hai ngàn năm chế độ phong kiến, chiếm gần một nửa chặng đường
lịch sử dân tộc đã để lại cho Trung Quốc một di sản văn hoá quý báu, mang đậm
màu sắc nho gia, coi trọng quan hệ huyết thống, dòng tộc, tôn ti trật tự xã hội.
Đồng thời cũng thể hiện ý thức tự hào dân tộc và tinh thần, nghị lực vươn lên, hy
vọng chiếm lĩnh đỉnh cao của trí tuệ loài người. Trong hệ tư tưởng Nho gia ngàn
đời ấy, nổi lên là vấn đề ý thức, quan niệm luân lí cương thường. Các quan hệ đó
được xã hội Phong kiến quy định hết sức nghiêm ngặt. Nó chi phối mọi suy nghĩ,
hành động, phương thức sổng của dân tộc Trung Hoa. Từ quan niệm về vũ trụ,
trời cao đất thấp, trời trong sáng, đất bẩn đục, người Trung Quốc đã vận dụng
cách nhìn nhận đó vào việc hình thành một nhân sinh quan mang màu sắc phong


18


kiến rỗ nét, đó là quan niệm nam tôn nữ ti và các quan niệm khác như đẳng cấp xã
hội, vị thế xã hội. Quan hệ gia đình cũng phân biệt rõ tính chất huyết thống, hôn
nhân, thân sơ. Phụ tà hữu thân, quân thần hữu lễ, phu phụ hữu biệt, bằng hữu hữu
tín....... Tất cả những chuẩn mực đạo đức mà Nho giáo đặt định ra đã trở thành
thước đo giá trị về quan hệ gia đình, xã hội của con người.
Thiên, địa, nhân là ba yếu tố cơ bản trong vũ trụ, trong đó, con người là
trung tâm. Trời đất có sự phân định thấp cao, cho nên con người trong xã hội
cũng có sự phân định địa vị, sang hèn. Tính chất tôn ty trật tự trong xã hội được
quy định đến mức nghiêm ngặt trong suốt hơn 2300 năm xã hội phong kiến đã
hình thành nên một trong những điểm mấu chốt của hệ tư tưởng truyền thống
Trung Hoa. Chính vì vậy, sự bất bình đẳng trong quan hệ, sự khác biệt trong
phân công lao động xã hội giữa nam và nừ là điều thường thấy trong xã hội
Trung Quốc xưa. Thực tế đó đã phản -ánh sinh động trong ngôn ngữ Hán nói
chung và văn tự Hán nói riêng.
3.2. Đặc trưng văn hoá Trung Hoa thể hiện qua chữ Hán

Chữ Hán với tính chất biểu ý và khởi nguồn sớm nhất trong lịch sử chữ
viết của xã hội loài người, có sức ảnh hường rất lớn đến văn tự thế giới. "Hình
thức văn tự không quyết định bởi đặc điểm ngôn ngừ, mà quyết định bởi sự
truyền bá văn hoá".[ 13.74] Chữ Hán ra đời là kết quả của quá trình khám phá thế
giới vật chất và các quan hệ nhân sinh trong đời sống xã hội, mang đậm bản sắc
dân tộc. Hàm ý văn hoá trong chữ Hán vô cùng sâu sắc, được khẳng định qua
thời gian và góp phần hình thành nên tư tưởng truyền thống của dân tộc Hán.
Thông qua tìm hiểu ý nghĩa chữ Hán có thể làm cho tri thức văn hoá xã hội, đặc
biệt là khà năng tư duy của chúng ta phong phủ, sâu sắc hơn. Trong cuốn "Từ
chữ nhân" của tác giả Tiêu Khởi Hồng, nhà văn nổi tiếng Tạ Băng Tâm đã đề từ
bằng câu "thức tự khai trí" (biết chữ (Hán) sẽ mở mang trí tuệ). [10. 0] Chữ Hán

quả là bộ bách khoa toàn thư của dân tộc Hán.

19


Như trên đã phân tích, mỗi chữ Hán được cấu tạo bởi các bộ thủ, mỗi bộ
thủ đều có một ý nghĩa riêng. Chữ Hán là sản phẩm tinh thần vô giá của người
Trung Quốc. Nó phản ánh sinh động óc quan sát, đặc điểm tư duy, tâm lí dân tộc,
quan niệm về thế giới vật chất cũng như quan niệm sống cùa người Trung Quốc
dưới tác động của những điều kiện địa lí, lịch sử và tư tưởng Nho gia. Hàm ý
văn hoá của chữ Hán được thể hiện trên các phương diện chủ yếu sau đây:
(1) Tư tưởng triết học
Một trong những phát hiện mang tính chất triết học của người Trung
Quốc cổ đại là chỉ ra tính hai mặt của mỗi sự vật, của mỗi vấn đề. Tính hai mặt
đó cũng được thể hiện trong cách cấu tạo chữ Hán. Ví dụ, 0 nhật,

nguyệt có

khi mờ khi tỏ. Do đó khi nhật và nguyệt với tư cách là bộ thủ để cấu tạo nên chữ
Hán, các chữ Hán được tạo thành có thể chia hai ìoại, một là biểu thị ý nghĩa
sáng tỏ như:

minh (sáng);

lãng (sáng, rõ ràng), hai là tối, như 00 ám (tối)

âm (âm, tối). Chữ dậu vốn là chữ tượng hình vẽ lại bình rượu bên trong chứa

lưng bình rượu. Với tư cách là bộ thủ biểu nghĩa tạo chữ Hán mới, bộ dậu có
nghĩa là rượu. Nó xuất hiện trong chữ tỉnh (tình táo, sáng suốt), đồng thời cũng

xuất hiện trong chừ tuý (say). Điều đó đã phản ánh tính hai mặt của rượu. Rượu
có thể làm cho người ta say, lại có thể ỉàm cho người ta tỉnh. Chính vì vậy, rượu
trong đời sống xã hội cũng có tính hai mặt. Đối với tín ngưỡng, tế lễ, thờ cúng
thì phi tửu>'. bất thành lễ (tế lễ nhất thiết phải có rượu). Bạn bè giao lưu lấy rượu
làm chất xúc tác để thổ lộ nỗi niềm tri âm. Tửu phừng tri ki thiên bói thiếu (bạn
tri âm lâu ngày gặp nhau, uống ngàn chén còn e chưa đủ). Rượu xuất hiện trong
những tiệc chia ly, khắc sâu niềm thương nhớ, thể hiện lòng nhiệt thành của
người ở lại với người ra đi. Khuyến quán cánh tận nhất bôi tửu, tây xuất hương
quan vô cố nhân (Thơ Đường). Rượu là người bạn giải sầu mỗi khi thất bại, mặc

dầu càng uống càng tinh, càng thấm thìa, lại càng buồn thêm. Cử bôi tiêu sầu,
sầu cảnh sầu. Rượu cũng làm cho niềm vui nhân đôi mỗi khi thành công, người

20


ta nâng cóc chúc tụng nhau. Nam Cao trong tác phẩm của mình đã xây dựng nên
một nhân vật điển hình - Chí Phèo, say mà tinh, tình mà say.
Nước có hai tính chất, hoặc trong suốt, không màu không mùi vị. Khi nó
bị nhiễm các vật thể khác sẽ biến màu và không còn thuần khiết nữa. Trong chữ
Hán, chữ

thanh (trong sạch) và chữ VẺ trọc (bẩn đục) đều do bộ chấm thuỷ

biểu thị nghĩa.
Trong quá trình phát triển nghĩa, nhiều chữ Hán khác cũng mang tính hai
mặt, tạo thành nghĩa tốt, nghĩa xấu, nghĩa trung tính. Ví dụ, chữ ü ái (yêu),
(ghét), ^ an (yên ổn),

gian




(gian tà).......

(2) Tư tưởng Nho gia
Tư tưởng Nho gia thể hiện nổi bật nhất trên phương diện trật tự xã hội.
Trong quan niệm về nam và nữ trong xã hội, nam giới bao giờ cũng được đề cao,
nữ giới bị x.em nhẹ. Thậm chí nữ giới bị đánh đồng với kẻ tiểu nhân và sự xấu xa,
hèn kém. Người Trung Quốc xuất phát từ quan niệm về vũ trụ thiên tôn địa ti
(trời cao đất thấp) đã cho rằng quan hệ nhân sinh cũng thống nhất với quan niệm
vũ trụ. Nam giới là tượng dương, nữ giới tượng âm và tương đương với vũ trụ,
trong quan hệ xã hội, đạo Nho cho rằng nam tôn nữ ti (nam được đề cao, nừ bị
coi thường). Trong số các chữ Hán có bộ nữ tạo thành, không ít những chữ mang
nghĩa xấu như

gian

(gian tà); M hiềm (chê bai); 3g; võng (bừa bãi), Có chữ

chỉ vị thế thấp hèn của người phụ nữ trong xã hội, như: ỷỉl nô (người hầu);
thiếp

(người hầu, vợ lẽ), 3? xoa (đùa), gồm M nhi (râu) và ỷ : nữ (con gái, đàn

bà)......
Xét về tính chất hội ý của chữ ÍH nho, ta thấy, chữ \wi nho là một chữ hội
ý kết cấu phải trái, gồm có chữ À nhân (người) và ÍH nhu (nhu cầu, cần thiết)
hội hợp lại với ý nghĩa là đạo Nho là cái mà n gư ời ta cần có nó để thực hiện đạo
làm người.


Chính vì vậy, tư tưởng Nho gia đã thấm sâu vào tiềm thức của mỗi

người dân Trung quốc qua nhiều thế hệ, dần dần trờ thành cái gọi là đạo đức

21


truyền thống mà mỗi con người sống trong xã hội đó phải tuân thủ, thậm chí phải
cam chịu và bàng lòng với nó.
(3) Phân công lao động xã hội và vai trò của người phụ nữ trong cuộc
sống gia đnh.

Người phụ nữ dưới thời phong kiến chỉ biết việc gia đình, sinh con và
nuôi con, chăm lo bếp núc. Họ chưa từng được tham gia công tác xã hội, càng
chưa bao giờ được bình đẳng với nam giới. Điều đó cũng được thể hiện qua chừ
Hán. Những chữ

an

(yên ổn); ÍẸ mẫu (mẹ); hỉ hảo (tốt)...... đã thể hiện rõ

nét vai trò của người phụ nữ cũng như phân công xã hội thời phong kiến.
(4) Trình độ khoa học kí thuật trong đòi sống xã hội

Từ thời xa xưa, khoa học kĩ thuật chưa phát triển, trình độ lao động xã hội
còn thấp kém và ĩạc hậu. Người Trung Quốc xưa đã biết dựa vào bóng nắng để
đo thời gian. Chữ Eft thời phồn thể gồm 0 nhật (mặt trời) đ: thổ (đất)

thổn


(tấc- gang tay) đã phản ảnh một cách đầy đủ nhất cách tính thời gian của người
xưa. Chữ

chiếu

(soi rọi, phản chiếu) gồm 0 nhật (mặt trời) 'X hoả (lửa) đều

biểu thị ý nghĩa. Chữ t/l c ơ (máy) với

mộc

(gỗ) biểu thị ý nghĩa, khiến ta liên

hệ đến cái cối xay gió từ xa xưa loài người chế tạo ra, là sự khởi đầu của máy
móc thiết bị. Chữ ÌH chuẩn, zKfê thuỷ chuấn,

thuỷ bình

(chuẩn mực, trình

độ) đều có liên quan đến nước. Chữ chuẩn dạng phồn thể gồm chấm thuỷ bên
trái biểu thị ý nghĩa, dạng giản thể rút bớt một nét chấm, từ chấm thuỷ thành
chấm băng. Điều đó thể hiện người xưa đã quan sát tính chất của nước cũng như
tính chất thuỷ triều lên xuống, lấy mực nước làm thước đo mức độ.
(5). Đặc điểm tri nhận thế giới vật chất của người Trung Quốc.

Thế giới vật chất xung quanh ta muôn màu muôn vẻ, bằng cách quan sát,
kinh nghiệm sống và óc liên tưởng của mình, người Trung Quốc có những nhận
định riêng về tính chất, vai trò của thế giới vật chất cũng như sự tương tác giữa

các dạng vật chất đó. Theo thống kê, có khoảng 214 bộ thủ cấu tạo chừ. Trong
đó có những bộ tồn tại độc lập tạo thành chữ đơn, có bộ gồm nhiều biến thể, mỗi

22


×