ĐẠI HỌC QUỐC GIA HÀ NỘI
TRƯỜNG ĐẠI HỌC KHOA HỌC XÃ HỘI & NHÂN VĂN
----------
BÀI TIỂU LUẬN
MÔN LỊCH SỬ VĂN MINH THẾ GIỚI
Đề tài:
“ Nguyên nhân ra đời, nội dung cơ bản và những
tác động của tư tưởng Nho giáo đến đời sống chính
trị, xã hội ở Trung Quốc”
Giáo viên hướng dẫn: Thầy Đinh Tiến Hiếu
Nhóm sinh viên thực hiện:
1. Nguyễn Hải Ly – 18030274
2. Nguyễn Hồng Ngọc – 18030284
3. Hà Thảo Ngọc – 19030465
4. Lê Thị Minh An – 19030410
5. Nguyễn Thị Hương - 19030442
Năm học: 2020-2021
Mục Lục
PHẦN I: MỞ ĐẦU.........................................................................................1
PHẦN II: NỘI DUNG....................................................................................2
I. Nguyên nhân ra đời của Nho giáo...........................................................2
II. Nội dung cơ bản của Nho giáo................................................................5
2.1 Tứ thư.................................................................................................5
2.2 Ngũ kinh :...........................................................................................8
2.3 Giáo lý:..........................................................................................12
III. Tác động của Nho giáo đến chính trị - xã hội Trung Quốc.................13
3.1 Tác động của Nho giáo đến chính trị...............................................13
3.2 Tác động của Nho giáo đến xã hội...................................................15
IV: Liên hệ Việt Nam.................................................................................17
4.1 Nguyên nhân ra đời và sự phát triển của Nho giáo ở Việt Nam.......17
4.2 Nội dung cơ bản của Nho giáo ở Việt Nam.....................................19
4.3 Những tác động của tư tưởng Nho giáo đến đời sống chính trị xã hội
Việt Nam.................................................................................................20
PHẦN III: LỜI KẾT.....................................................................................22
TÀI LIỆU THAM KHẢO.............................................................................23
PHẦN I: MỞ ĐẦU
Văn minh Trung Hoa là một trong những nền văn minh xuất hiện sớm nhất
trên thế giới với hơn 4000 năm phát triển liên tục, với nhiều phát minh vĩ đại
trong lịch sử trên nhiều lĩnh vực khoa học. Bên cạnh những phát minh, phát
kiến về khoa học, văn minh Trung Hoa còn là nơi sản sinh ra nhiều học
thuyết triết học lớn ảnh hưởng đến nền văn minh Châu Á cũng như trên toàn
thế giới.
Trong những năm gần đây, Trung Quốc đã đạt được nhiều thành tựu to lớn
trong công cuộc xây dựng và phát triển kinh tế. Đồng thời là một trong
những dân tộc có bề dày văn hoá truyền thống đứng vào loại hàng đầu thế
giới, trong sự nghiệp xây dựng nền văn minh tinh thần hiện đại mang nét đặc
sắc riêng của Trung Quốc, người Trung Quốc chú trọng đến việc kế thừa và
phát huy văn hoá truyền thống.
Văn hoá truyền thống Trung Quốc, đứng về mặt hình thái mà nói, chủ yếu
được cấu thành bởi Nho giáo, Đạo giáo và Phật giáo. Trong đó, Nho giáo là
trường phái tư tưởng quan trọng nhất ở Trung Quốc, xuất hiện từ thời cổ
trung đại, nó chiếm vị trí đặc biệt quan trọng trong lịch sử tư tưởng, ảnh
hưởng sâu sắc đến mọi mặt đời sống xã hội Trung Quốc cũng như sự ảnh
hưởng sâu rộng đến các nước khác trong đó có Việt Nam. Khi nghiên cứu,
tìm hiểu về nền văn minh Trung Quốc cổ trung đại chúng em thấy tư tưởng
Nho giáo có ảnh hưởng không nhỏ đến nền văn minh cổ xưa này, đặc biệt là
về lĩnh vực chính trị, xã hội.
Nho giáo đã để lại một nền văn hóa có tầm ảnh hưởng lớn không chỉ ở châu
Á mà còn cả ở các nước phương Tây, mở ra một chế độ cai trị mới và những
tư tưởng tiến bộ, sáng tạo cho Trung Quốc nói riêng và các nước phương
Đông theo Nho giáo nói chung, trong đó có Việt Nam. Chính vì ý nghĩa và
vai trò của Nho giáo to lớn như vậy và để hiểu rõ hơn về tư tưởng Nho giáo
và sự ảnh hưởng của nó thì nhóm chúng em xin trình bày về đề tài:“Nguyên
nhân ra đời, nội dung cơ bản và những tác động của tư tưởng Nho giáo đến
đời sống chính trị, xã hội ở Trung Quốc”.
1
PHẦN II: NỘI DUNG
I.
Nguyên nhân ra đời của Nho giáo
Lịch sử tư tưởng của Trung Quốc rất phong phú. Từ rất sớm, người Trung
Quốc đã đưa ra những quan điểm để giải thích thế giới. Đến thời kì Xuân
Thu – Chiến Quốc, chiến tranh loạn lạc xảy ra triền miên, các nhà tư tưởng
Trung Quốc quan tâm trước hết đến việc tìm kiếm đường lối ưu tiên đảm
bảo cho đất nước được ổn định, thống nhất, nhân dân được an cư lạc nghiệp.
Học thuyết của các nhà tư tưởng ấy đã đặt cơ sở cho việc hình thành các
trường phái tư tưởng ở Trung Quốc thời cổ trung đại, trong đó Nho giáo là
trường phái tư tưởng quan trọng nhất ở Trung Quốc.
Xã hội Trung Quốc thời kì Xuân Thu – Chiến Quốc là một xã hội đầy rối
loạn và biến động. Cùng với việc tranh quyền đoạt lợi là hàng loạt các cuộc
chiến tranh diễn ra liên miên, bất chấp đạo lí. Đây là thời kì mà các luân
thường đạo lí, các nguyên tắc tốt đẹp của nhà Chu đã bị đảo lộn: cha không
ra cha, con không ra con, tôi không ra tôi. Anh em bạn bè chém giết lẫn
nhau, bè tôi giết vua, con giết cha là chuyện như cơm bữa. Khi sống vào thời
kì Xuân Thu – Chiến Quốc, Khổng Tử rất đau lòng và quyết tâm ra đi tìm
đường cứu đất nước thoát khỏi loạn ly. Chính vì vậy Nho giáo ra đời, giúp
cứu vãn xã hội, đưa đất nước trở về thời Nghiêu, Thuấn. Nho giáo ra đời là
một công cụ hữu hiệu cho các nhà nho quản lí đất nước tốt hơn.
Nho giáo ra đời vào khoảng thế kỉ VI TCN. Cơ sở của Nho giáo được hình
thành từ thời Tây Chu, đặc biệt có sự đóng góp của Chu Công Đán hay còn
gọi là Chu Công. Đến thời Xuân Thu, xã hội loạn lạc, Khổng Tử (sinh năm
551 TCN) đã kế thừa tư tưởng của Chu Công, hệ thống hóa nó và tích cực
truyền bá tư tưởng này. Tuy vậy trong thời đại của ông (Xuân Thu), chủ
trương chính trị của ông chưa được các vua chư hầu chấp nhận. Mạnh Tử là
người nước Trâu là học trò của Tử Tức cháu nội của Khổng Tử. Ông đã kế
thừa và phát triển Nho giáo thêm một bước. Nhưng chủ trương của Mạnh Tử
thời kì Chiến Quốc cũng vẫn chưa được các vua chấp nhận, bị coi là viển
vông. Sau khi nước Tần thống nhất Trung Quốc, triều Tần tiếp tục sử dụng
Pháp gia vì vậy triều Tần sớm bị sụp đổ. Năm 136 TCN chấp nhận ý kiến
của Đổng Trọng Thư, Hán Vũ Đế ra lệnh “bãi truất bách gia, độc tôn Nho
thuật”. Với những ý kiến bổ sung thêm cho Nho giáo của Đổng Trọng Thư,
các tư tương Nho giáo đã được hoàn chỉnh, đến thời kì này Nho giáo rất
được đề cao.
2
Khổng Tử tên là Khâu, hiệu là Trọng Ni, người nước Lỗ. Ông là nhà tư
tưởng lớn và là một nhà giáo dục lớn đầu tiên của Trung Quốc cổ đại. Khổng
Tử có làm một số chức quan ở nước Lỗ trong mấy năm, nhưng phần lớn
trong cuộc đời của ông là đi đến nhiều nước để trình bày chủ trương chính
trị của mình và mở trường học. Tư tưởng của Khổng Tử có 4 mặt là triết
học, đạo đức, chính trị và giáo dục. Đối với triết học, ông ít quan tâm đến
vấn đề nguồn gốc vũ trụ, tỏ thái độ hoài nghi về quỷ thần. Về mặt đạo đức,
ông hết sức coi trọng vì đó để duy trì trật tự xã hội. Nội dung quan điểm đạo
đức của ông là: nhân, nghĩa, lễ, trí, tín, dung….
Về đường lối chính trị, Khổng Tử chủ trương dựa vào đạo đức, nội dung của
đức cai trị đó là làm cho dân cư đông đúc, kinh tế phát triển và dân được học
hành.
Về giáo dục, Khổng Tử là người đầu tiên sáng lập chế độ giáo dục tư thục
Trung Quốc, phương châm giáo dục của ông là học lễ trước học văn sau và
học đi đôi với hành. Khổng Tử mong muốn xây dựng một xã hội thật tốt,
một xã hội có trật tự và không bị đảo lộn. Theo ông, để thiết lập một xã hội
tốt thì cần thiết lập một chính quyền tốt, một xã hội quy về đầu mối và mối
đó là thiên tử, một xã hội trên dưới khắp nơi đều có trật tự, hòa bình như gia
đình. Tiếp đó mọi người cần ra sức tu thân và làm nhiều điều thiện, và rồi
cần theo một biện pháp hiệu quả nhất, đó là giáo hóa quan trọng hơn cai trị.
Đến với học trò Mạnh Tử. Ông kế thừa và phát triển Nho giáo thêm một
bước. Quan điểm triết học của ông được biểu hiện ở lòng tin vào mệnh trời.
Mọi việc ở đời đều do trời quyết định. Tuy vậy, những bậc quân tử nhờ tu
dưỡng đã đạt mức cực thiện, cực mĩ cũng có thể cảm hóa được con người.
Về đạo đức, tư tưởng của ông có 2 điểm mới: Mạnh Tử cho rằng đạo đức
con người là yếu tố bẩm sinh gọi là tính thiện. Sinh ra đã có tính thiện. Tính
thiện được biểu hiện ở nhân, nghĩa, lễ, trí. Trong bốn biểu hiện nhân, nghĩa,
lễ, trí thì ông coi trọng nhất là nhân nghĩa do đó không chú ý đến lợi nhuận.
Về chính trị, Mạnh Tử nhấn mạnh 2 ý chính là: Đường lối nhân chính tức là
dùng đạo đức để cai trị đất nước giống như Khổng Tử. Điểm nổi bật nhất
trong đường lối nhân chính của Mạnh Tử là tư tưởng quý dân. Phải biết
chăm lo đến đời sống của nhân dân, không được huy động nhân dân đi phu
trong mùa màng để nhân dân được no đủ. Kẻ nào gây chiến tranh thì phải xử
bằng cực hình. Chủ trương thứ hai trong đường lối chính trị của ông là thống
nhất. Mục đích của đường lối này là mong chấm dứt chiến tranh giữa các
3
nước thời Chiến Quốc để Trung Quốc được thái bình. Mạnh Tử chủ trương
mở rộng giáo dục đến tận nông thôn trước hết là dạy cho học sinh cái nghĩa,
hiếu, lễ.
Với thời kì của Đổng Trọng Thư Nho giáo phát triển thêm bước mới, đặc
biệt là về đạo đức và triết học. Về triết học: Thuyết “thiên nhân cảm ứng”
tức là quan hệ tác động qua lại giữa trời và người. Thuyết âm dương ngũ
hành để kết hợp với thuyết trời sinh vạn vật của ông, do đó ông cũng phát
triển thuyết âm dương ngũ hành thêm một bước. Ông còn nêu quy luật là
liền nhau thì sinh ra nhau, cách nhau thì thắng nhau. Ông còn dùng ngày,
tháng, bốn mùa trong năm và ngũ hành âm dương để giải thích số lượng các
đốt xương và các bộ phận con người. Về đạo đức: đóng góp quan trọng nhất
là ông đưa ra phạm trù tam cương, ngũ thường, lục kỉ Tam cương là ba mối
quan hệ: vua-tôi, cha-con, chồng-vợ. Trong ba quan hệ đó ấy, bề tôi, con, vợ
phải phục tùng vua, cha, chồng. Ngũ thường: nhân, nghĩa, lễ, trí, tín. Những
nội dung này đã có trong tư tưởng của Khổng Tử nhưng đến Đổng Trọng
Thư mới ghép thành một hệ thống và coi đó là 5 tiêu chuẩn đạo đức thông
thường nhất của quân tử. Lục kỉ: là 6 mối quan hệ với những người ngang
hang với cha, với mẹ, anh em, họ hàng, thầy giáo, bạn bè. Về chính trị:
Đổng Trọng Thư không có chủ trương gì mới mà chỉ cụ thể hóa tư tưởng của
Khổng, Mạnh trong hoàn cảnh lịch sử mới như: hạn chế sự chênh lệch giàu
nghèo, hạn chế sự chiếm đoạt ruộng đất, bỏ nô tì, bỏ bới lao dịch.
Các nhà nghiên cứu lịch sử Nho giáo thường lưu ý đến sự khác nhau giữa
Nho giáo thời Tiền Tần (Xuân Thu - Chiến Quốc) với Nho giáo thời Hán
(TK II TCN – TK II sau CN) và Nho giáo đời Tống. Trong ba thời kì này,
vai trò của Nho giáo là khác nhau, cho nên cách hiểu, cách giải thích cũng
khác nhau.
+ Thời Tiền Tần Nho giáo cũng chỉ là một phái, chưa thể gọi là kinh điển
+ Thời Hán. Độc tôn Nho giáo, lấy Nho giáo để cai trị nước
+ Đến đời Tống đúng hơn là từ Hàn Dũ (768-824) đời Đường xuất hiện một
dòng tư tưởng chống đối Phật giáo, Đạo giáo, Nho giáo. Hàn Dũ kêu gọi trở
về với tư tưởng nhân nghĩa của Khổng Tử và trở thành một ngọn cờ tư tưởng
lớn. Đặc điểm chung của Nho giáo đời Tống là muốn giải thích vũ trụ và
mối quan hệ giữa tinh thần và vật chất gọi là lí, khí.
4
Như vậy, Nho giáo là một học thuyết, một hệ tư tưởng sâu sắc, nó có ảnh
hướng ảnh rộng lớn đến việc xây dựng xã hội của Trung Quốc cũng như ảnh
hưởng đến các nước Châu Á. Nho giáo từng bước hình thành lối sống, con
người, đạo đức cách đối nhân xử thế trong xã hội.
II.
Nội dung cơ bản của Nho giáo
Nho giáo là một học thuyết về chính trị xã hội nhằm giúp các nhà Nho quản
lý đất nước có hiệu quả. Nội dung cơ bản về tư tưởng của Nho giáo được thể
hiện qua hai cuốn sách kinh điển là Tứ thứ và Ngũ kinh.
2.1 Tứ thư
Tứ Thư là bốn quyển sách kinh điển của văn học Trung Hoa, được Chu Hy
thời nhà Tống lựa chọn làm nền tảng cho triết học Trung Hoa và Khổng
giáo.
Tứ Thư đề cập đến nhiều lĩnh vực: triết học, chính trị, đạo đức, luật pháp...
Một trong những nội dung chủ đạo của Tứ Thư là việc tập trung xây dựng
nhân cách con người xã hội với những vấn đề căn cốt. Có thể nói cái đích
hướng tới cuối cùng của Tứ Thư chính là sự phát triển trong bình ổn với một
quy định nghiêm ngặt về đạo đức cho tất cả các tầng lớp xã hội.
Tứ Thư gồm bốn cuốn: Luận Ngữ, Đại Học, Trung Dung và Mạnh Tử. Sự
hình thành bộ sách này kéo dài hàng trăm năm, trong đó nổi lên hai tên tuổi
chủ đạo: Khổng Tử - người thầy, người khởi xướng và Mạnh Tử - người kế
thừa, phát triển.
Luận Ngữ là sách sưu tập ghi chép lại những lời dạy của Khổng Tử và
những lời nói của người đương thời. Sách Luận Ngữ gồm 20 thiên, mỗi
thiên đều lấy chữ đầu mà đặt tên, và các thiên không có liên hệ với nhau. Tư
tưởng của Khổng Tử là đạo nhân tức là đạo làm người, đạo vì con người.
Khổng Tử cho rằng người ta trước phải tu thân, tề gia, sau mới nói đến trị
quốc, bình thiên hạ được.
Trong việc tu thân, tề gia, người ta cũng phải gắn với đức nhân tức là tu
dưỡng rèn luyện nội tâm để đạt được nguyên tắc đạo đức tối cao bao gồm
những đức như trung, thứ, hiếu, đễ, cung, khoan, tín, mẫn, huệ. Đạt được
5
như vậy, người ta đã xác lập được nhân cách tiêu chuẩn là người quân tử.
Khi ấy, con người ta sẽ biết coi trọng luân thường đạo lý, biết sống có trách
nhiệm, biết đặt lợi ích cộng đồng lên trên lợi ích cá nhân, tránh được chủ
nghĩa cá nhân làm sa đọa con người và xã hội.
Để trị quốc, bình thiên hạ, người cầm quyền phải tu thân, tề gia rồi mới thi
hành đức trị theo lễ giáo, từ đó mà cảm hóa dân chúng, khiến cho dân chúng
phục tùng sự cai trị của mình. Đặc biệt, Khổng Tử rất chú trọng về lễ, tức là
trật tự trong trị nước. Ông đã đề ra thuyết chính danh yêu cầu “vua trọn đạo
làm vua, tôi trọn đạo làm tôi, cha trọn đạo làm cha, con trọn đạo làm con”,
coi chính danh là biện pháp lớn để trị nước. Một tư tưởng lớn khác của
Khổng Tử là “không lo của cải ít, chỉ lo phân phối không đều; không lo dân
không đông, mà chỉ lo lòng dân không yên”, để từ đó mà xây dựng nên thế
giới đại đồng.
Quan điểm của Khổng Tử về chân - thiện - mỹ cũng phản ánh rõ tư tưởng
triết học và đạo đức của ông. Khổng Tử chủ trương phải thống nhất giữa mỹ
và thiện mà thiện phải đặt ra trước hết, hình thức và nội dung của văn học
nghệ thuật phải đạt tới sự thống nhất hài hòa.
Đại Học nguyên là một chương trong Lễ Ký, được thành sách ước trong
khoảng thời gian từ thời Chiến Quốc đến thời Tần Hán, được xem là một
trong những kinh sách chủ yếu của Nho giáo. Hai chữ “đại học” được nhà
nho giải thích là “đại nhân chi học”, hiểu theo 2 nghĩa, là cái học của bậc đại
nhân, và là cái học để trở thành bậc đại nhân. Sách Đại Học dùng để dạy cho
học trò từ 15 tuổi trở lên, khi bước vào bậc đại học, dạy cho biết cách cư xử
ở đời để lớn lên ra gánh vác việc nước.
Theo các nho gia, sách Đại Học do Tăng Tử (Tăng Sâm) làm ra để diễn giải
các lời nói của Khổng Tử. Nội dung cuốn sách gồm 2 phần: Phần đầu có
một thiên gọi là Kinh, chép lại các lời nói của Khổng Tử, phần sau gồm
9 thiên gọi là Truyện, là lời giảng bài của Tăng Tử. Mục đích và tôn chỉ
của sách này là nói về đạo quân tử, trước hết phải sửa cái đức của của mình
cho sáng tỏ để mọi người noi theo, làm sao cho đến chỗ chí thiện. Muốn
được vậy, phải sử dụng Bát điều mục (tám điều): cách vật, trí tri, thành ý,
chính tâm, tu thân, tề gia, trị quốc, bình thiên hạ.
6
Cái gốc của đạo quân tử là sự tu thân. Cho nên trong sách Đại Học có câu:
"Tự thiên tử dĩ chí ư thứ nhân, nhất thị giai dĩ tu thân vi bổn" (Nghĩa là: Từ
vua cho đến thường dân, ai ai cũng đều lấy sự sửa mình làm gốc).
Trung Dung do Tử Tư làm ra. Tử Tư là học trò của Tăng Tử, cháu nội của
Khổng Tử, thọ được cái học tâm truyền của Tăng Tử. Trong sách Trung
Dung, Tử Tư dẫn những lời của Khổng Tử nói về đạo trung dung, tức là nói
về cách giữ cho ý nghĩ và việc làm luôn luôn ở mức trung hòa, không thái
quá, không bất cập và phải cố gắng ở đời theo nhân, nghĩa, lễ, trí, tín, cho
thành người quân tử, để cuối cùng thành thánh nhân, sống dung hòa không
thiên lệch.
Sách Trung Dung chia làm hai phần. Phần 1 từ chương 1 đến chương 20, là
phần chính, gồm những lời của Khổng Tử dạy các học trò về đạo lý trung
dung, phải làm sao cho tâm được: tồn, dưỡng, tĩnh, sát; mức ở được gồm đủ:
nhân, nghĩa, lễ, trí, tín cho hòa với muôn vật, hợp với lòng Trời để thành
người tài giỏi. Phần 2 từ chương 21 đến chương 33, là phần phụ, gồm những
ý kiến của Tử Tư giảng giải thêm cho rõ ràng ý nghĩa và giá trị của hai chữ
trung dung.
Trong Luận Ngữ, Khổng Tử đã đưa ra khái niệm trung dung. Tư tưởng trung
dung nêu ra trong Luận Ngữ là kế thừa và phát triển quan niệm trung hòa
trước đây. Sáng tạo lớn nhất của Khổng Tử là sau chữ “trung” lại thêm chữ
“dung”. Từ đó nâng quan niệm “trung hòa” lên tầm triết học.Tư tưởng trung
dung của Khổng Tử đã trở thành một phạm trù triết học. Trong đó, tư tưởng
thái quá và bất cập được thể hiện rõ nhất. Nó bao hàm nhân tố tư tưởng rất
phong phú của phép biện chứng. Khổng Tử rất tôn trọng tính quy luật khách
quan của mâu thuẫn, coi trọng sự liên kết dựa vào nhau mà tồn tại của hai
mặt đối lập trong cùng sự vật. Theo ông, mâu thuẫn hai bên đến một lúc nào
đó sẽ xảy ra bài xích lẫn nhau, để rồi đạt tới một sự cân bằng của mâu thuẫn,
để mâu thuẫn lại được thống nhất. Đặc biệt khi luận chứng về làm thế nào để
đạt được sự cân bằng hai bên, làm thế nào để duy trì cân bằng, Khổng Tử đã
có những kiến giải rất giá trị làm phong phú, sâu sắc thêm về những ý nghĩa
bao hàm của phép biện chứng. Đây là một công hiến to lớn của Khổng Tử
trong lịch sử phát triển nhận thức của nhân loại.
7
Mạnh Tử (lời của Mạnh Tử - người bảo vệ xuất sắc tư tưởng của Khổng Tử)
được coi là người đã kế thừa và phát triển xuất sắc học thuyết Nho gia do
Khổng Tử đề xướng. Tuy kế thừa tư tưởng của Khổng Tử, nhưng Mạnh Tử
đã phát triển và hoàn thiện, tập trung vào những luận điểm quan trọng là tính
thiện, vương đạo nhân chính và nhân nghĩa. Sách Mạnh Tử gồm 7 thiên,
chia làm 2 phần Tâm học và Chính trị học.
Về Tâm học, Mạnh Tử cho rằng mỗi người đều có tính thiện do Trời phú
cho. Sự giáo dục phải lấy tính thiện đó làm cơ bản, giữ cho nó không mờ tối,
trau dồi nó để phát triển thành người lương thiện. Tâm là cái thần minh của
Trời ban cho người. Như vậy, tâm của Ta với tâm của Trời đều cùng một thể.
Học là để giữ cái Tâm, nuôi cái Tính, biết rõ lẽ Trời mà theo chính mệnh.
Nhân và nghĩa vốn có sẵn trong lương tâm của người. Chỉ vì ta đắm đuối
vào vòng vật dục nên lương tâm bị mờ tối, thành ra bỏ mất nhân nghĩa.
Mạnh Tử đề cập đến khí Hạo nhiên, cho rằng đó là cái tinh thần của người
đã hợp nhất với Trời.Phần Tâm học của Mạnh Tử rất sâu xa, khiến học giả
dù ở địa vị hay cảnh ngộ nào cũng giữ được phẩm giá tôn quý.
Về Chính trị học, Mạnh Tử chủ trương: Dân vi quý, xã tắc thứ chi, quân vi
khinh. Đây là một tư tưởng rất mới và rất táo bạo trong thời quân chủ
chuyên chế đang thịnh hành. Mạnh Tử nhìn nhận chế độ quân chủ, nhưng
vua không có quyền lấy dân làm của riêng cho mình. Phải duy tân và vì dân.
Muốn vậy, phải có luật pháp công bằng, dẫu vua quan cũng không được
vượt ra ngoài pháp luật đó. Người trị dân, trị nước phải chăm lo việc dân
việc nước, làm cho đời sống của dân được sung túc, phải lo giáo dục dân để
hiểu rõ luật pháp mà tuân theo, lấy nhân nghĩa làm cơ bản để thi hành. Chủ
trương về chính trị của Mạnh Tử thật vô cùng mới mẻ và táo bạo nhưng rất
hợp lý, làm cho những người chủ trương quân chủ thời đó không thể nào bắt
bẻ được. Có thể đây là lý thuyết khởi đầu để hình thành chế độ quân chủ lập
hiến sau này.
2.2 Ngũ kinh
Đồng thời với việc dạy học, Khổng Tử còn chỉnh lý các sách Thi, Thư, Lễ,
Nhạc, Dịch, Xuân Thu trong đó sách nhạc bị thất truyền, 5 quyển còn lại về
sau trở thành 5 tác phẩm kinh điển của Nho giáo được gọi chung là Ngũ
Kinh.
8
Kinh Lễ hay còn được gọi là Lễ Kí là một quyển trong bộ Ngũ Kinh của
Khổng Tử, tương truyền do các môn đệ của Khổng Tử thời Chiến Quốc viết,
ghi chép các lễ nghi và tấm gương của Lễ. Học giả thời Hán là Đới Đức đã
dựa vào bản do Lưu Hướng thu nhập gồm 130 thiên rồi tổng hợp giản hóa đi
còn 85 thiên gọi là Đại Đới Lễ ký, sau đó cháu của Đới Đức là Đới Thánh lại
đơn giản Đại Đới Lễ ký còn 46 thiên, thêm vào các thiên Nguyệt lệnh, Minh
Đường vị và Nhạc ký tổng cộng 49 thiên, được gọi là Tiểu Đới Lễ ký. Đại
Đới Lễ ký đến thời Tùy, Đường bị thất lạc quá nửa hiện chỉ còn 39 thiên,
vậy nên Tiểu Đới Lễ kí là bản thông dụng nhất ngày nay. Về sau hai thiên
Trung Dung, Đại học được tách ra thành hai sách riêng, còn Nhạc kí được
tách ra thành Kinh Nhạc nhưng về sau lại bị thất truyền.
Danh mục 49 thiên gồm Khúc lệ thượng, Khúc lệ hạ, Đàn cung thượng, Đàn
cung hạ, Vương chế, Nguyệt lệnh, Tăng tử vấn, Văn vương thế tử, Lễ vận,
Lễ khí, Giao đặc sinh, Nội tắc, Ngọc tảo, Minh đường vị, Tang phục tiểu ký,
Đại truyện, Thiếu nghi, Học kí, Nhạc kí, Tạp kí thượng, Tạp kí hạ, Tang đại
kí, Tế pháp, Tế nghĩa, Tế thống, Kinh giải, Ai Công vấn, Trọng Ni yên cư,
Khổng Tử nhàn cư, Phường kí, Trung dung, Biểu kí, Truy y, Bôn tang,Vấn
tang, Phục Vấn, Gian truyện, Tam niên vấn, Tham y, Đầu hồ, Nho hành, Đại
học, Quan nghĩa, Hôn nghĩa, Hương ẩm tửu nghĩa, Xạ nghĩa, Yến nghĩa,
Sính nghĩa, Tang phục tứ chế.Hai thiên đầu tên là Khúc lệ thượng và Khúc lệ
hạ còn được gọi là Khúc Lễ mang tính phổ thông, trong ứng xử hàng ngày,
chưa phải dùng trong dịp lễ nhưng lại có phạm vi rộng nhất. Khúc Lễ gồm 6
chủ đề chính: lễ với cha mẹ, bậc trưởng lão, thầy giáo, giới hạn nam nữ, giáo
dục thiếu niên nhi đồng, sinh hoạt rộng rãi.
Có 4 chủ đề lớn được biết đến là Chuyện với những người giữ Lễ (Khổng
Tử, vua chúa, quan chức và sĩ tử), Tục lệ quan – hôn – tang – tế, Tu dưỡng
bản thân theo quan điểm Nho giáo và chữ Lễ, Quy định lễ nghi trong giao
tiếp xã hội.
Kinh Thi do Khổng Tử sưu tập, biên tập làm môn học văn chương duy nhất
trong Ngũ kinh. Kinh Thư gồm 311 thiên, trong đó 305 thiên là đầy đủ , 6
thiên kia chỉ có đề mục không có lời. Theo bản Mao Thi, Kinh Thi gồm 3
phần.
9
Quốc phong (văn chương dân gian, gồm có tổng cộng 159 bài) là các bài ca
dao của các nước chư hầu được nhạc quan sưu tập lại , chia làm 15 quyển
mỗi quyển 1 nước gồm có: Chính phong (ca dao chính thức): Chu Nam (nhà
Chu) và Thiệu Nam. Trong đó Chu Nam có 11 thiên như là: Quan Thư, Cát
đàm, Quyền nhỉ, Nam hữu cù mộc, Chung tư,... Còn Thiệu Nam có 14 thiên
như là: Thước sào, Thái phiên, Thảo trùng, Thái tần, Cam đường, Hành lộ.
Biến phong (ca dao rải rác khắp các nơi khác, phụ): Bội phong 19 thiên,
Dung phong 10 thiên, Vệ phong 10 thiên, Vương phong 10 thiên, Trịnh
phong 20 thiên, Tề phong 11 thiên, Trần phong 10 thiên, Cối phong 4 thiên,
Tào phong 4 thiên, Bân phong 7 thiên.
Nhã (văn chương bác học/ văn học viết): Nhã nghĩa là chính đính, gồm
những bài hát nơi triều đình. Nhã chia làm 2 phần: Tiểu nhã là những bài hát
dùng trong buổi yến tiệc ( 72 thiên) như là Lộc minh, Tứ mẫu, Hoàng hoàng
giả tỏa, Thường đệ, Phát mộc, Thiên bảo, Thái vi, Xuất xa, Đệ đồ, Nam cai,
Bạch hoa, Hoa thử,… Đại nhã những bài dùng trong trường hợp quan trọng
như khi Thiên tử hợp các vua chư hầu hoặc tế ở miếu đường gồm 31 thiên.
Tụng (văn chương bác học/ văn viết): tụng nghĩa là khen ngợi, gồm những
bài ca tụng các vua đời trước và dùng để hát chốn miếu đường. Tất cả có 40
thiên, chia làm: Chu tụng 31 thiên, Lỗ tụng 4 thiên, Thương tụng 5 thiên.
Trong Kinh thi có lục nghĩa là: Phong, Nhã, Tụng, phú, tỉ, hứng. Phong,
Nhã, Tụng là bộ phận của âm nhạc, còn phú tỉ hứng là các thể văn của
Phong, Nhã, Tụng. Ba thể phú ,tỉ , hứng nói về các kỹ thuật làm thơ. Chỉ rõ
tên, nói rõ việc đó là phú. Thấy việc hư hỏng trên đường mà không dám nói
chỉ dùng phép so sánh phóng thích để ám chỉ đó là tỷ. Mượn vật để nói lên
lời đó là thể hứng.
Kinh Thư là cuốn sách ghi lại các truyền thuyết, biến cố về các đời vua cổ
trước Khổng Tử. Khổng Tử biên tập lại để các vua chúa đời sau nên theo
gương các triều đại Nghiêu, Thuấn tránh độc ác như Kiệt, Trụ. Kinh Thư bao
gồm: Ngu thư ( ghi chép đời nhà Nghiêu và Thuấn, nhà Ngu) gồm các thiên:
Nghiêu Điển, Thuấn Điển, Đại Vũ mô, Cao Dao mô, Ích Tắc.Hạ thư ( ghi
chép về vua Vũ và nhà Hạ) : gồm các thiên Vũ cống, Cam Thệ, Ngũ Tử Chi
ca, dân chính.Thương thư (ghi chép về Thành thang và nhà Thương): gồm
các thiên Thang Thệ, Trọng Hủy chi cáo, Thang cáo,…Chu thư (ghi chép về
10
nhà Chu): gồm các thiên Thái Thệ Thượng, Thái Thệ trung, Mục Thệ, Vũ
Thành,…Hai tư tưởng tiêu biểu của Kinh Thư là “Vương đạo lạc thổ ” nghĩa
là Đường vua, đất vui. Và “Quy mã phong lưu” nghĩa là Trả ngựa, thả bò.
Kinh Xuân Thu cũng được gọi là Lân Kinh là bộ biên niên sử nước Lỗ viết
về giai đoạn từ năm 722 - TCN tới 481- TCN. Đây là văn bản lịch sử Trung
Quốc sớm nhất còn lại và được ghi chép theo các quy tắc sử biên niên. Theo
truyền thống cuốn sách này là được Khổng Tử biên soạn. Thời cổ đại Xuân
Thu là một từ hoán dụ thường để dùng để chỉ tổng thể khoảng thời gian
trong năm (mùa xuân và mùa thu đại diện cho 2 mùa trong năm), cùng
thường làm biên niên sử cho các nước chư hầu Trung Quốc giai đoạn đó.
Phạm vi sự kiện được ghi chép trong cuốn sách chỉ giới hạn tập trung vào
các quan hệ ngoại giao giữa các nước chư hầu phong kiến, các liên minh các
hành động quân sự, cũng như các sự kiện sinh tử trong gia đình hoàng gia.
Cuốn biên niên sử cũng ghi chép các sự kiện thảm họa thiên nhiên như bão
lũ, lũ lụt. Các sự kiện đó được miêu tả theo trật tự thời gian, đầu tiên là niên
hiệu của nước Lỗ, mùa màng, ngày, tháng, năm, lịch. Kết cấu biên niên sử rõ
ràng chặt chẽ, súc tích, văn phong ngắn gọn, giọng điệu khách quan.
Kinh dịch bắt đầu ra đời từ vua Phục Hy, lúc ấy Hoàng Hà có con long mã
hiện hình lên lưng nó có khoáy thành đám từ một đến chín. Hoàng đế Phục
Hy xem rồi vạch ra 64 quẻ thẻ dựa theo Hà đồ và Lạc thư. Sang đến đời nhà
Chu, Chu Văn Vương mới đem những quẻ thẻ mà Phục Hy đặt tên thêm lời
dưới thích dưới các quẻ thẻ gọi là Hoán từ…tiếp đó con thứ của ngài là Chu
Cơ Đán tiếp tục giải Hào từ. Tiếp đến Khổng Tử giải thành Thập dực làm
cho nghĩa Kinh dịch dài ra. Cụ thể bắt đầu từ Lưỡng Nghi đó là Âm Dương;
Tứ Tượng là dùng 2 nghi chồng lên nhau, gồm có thái dương, thiếu dương,
thái âm, thiếu âm; quẻ đơn; gương bát quái người ta chồng tiếp lên Tứ tượng
một vạch nữa được tám hình thái khác nhau gọi là Bát quái; quẻ kép là đem
những quẻ đơn chồng lên nhau, được 64 hình thái khác nhau về sau gọi là
sáu mươi tư quẻ thẻ. Mỗi quẻ có 6 hào. Các thẻ từ số 01 đến 30 là thẻ
Thượng Kinh, còn từ 31 đến 64 là Hạ Kinh.
Ý nghĩa của Kinh dịch là ‘âm dương’ bất kì sự vật nào trên thế giới âm
dương được hài hòa là sẽ phát triển, tiến bộ. ‘Ngũ hành’ vạn sự không thể rời
11
xa cái bóng ngũ hành, ‘bát quái’ cho biết 64 mật mã của vũ trụ, đại thiên
nhiên thế giới cũng không nằm ngoài những mật mã này.
II.3 Giáo lý
Đào tạo người quân tử (người cai trị kiểu mẫu) tu thân, tề gia, trị quốc, bình
thiên hạ xét trên hai phương diện tu thân và hành động.
Tu thân tức là đạt đạo, đạt đức và biết thi – thư – lễ - nhạc.
Đạt đạo có nghĩa là "Con đường" hay "Phương cách" ứng xử mà người quân
tử phải thực hiện trong cuộc sống. "Đạt đạo trong thiên hạ có năm điều: đạo
vua tôi, đạo cha con, đạo vợ chồng, đạo anh em, đạo bạn bè" (trong sách
Trung Dung), tương đương với "quân thần, phụ tử, phu phụ, huynh đệ, bằng
hữu". Đó chính là Ngũ thường hay Ngũ luân. Trong xã hội cách cư xử tốt
nhất là "Trung Dung". Tuy nhiên, đến Hán nho Ngũ Luân được tập trung lại
chỉ còn ba mối quan hệ quan trọng nhất được gọi là Tam thường hay còn gọi
là Tam Tòng.
Đạt đức ý muốn nói quân tử phải đạt được ba đức: "Nhân - Trí - Dũng".
Khổng Tử nói: "Đức của người quân tử có ba đức mà ta chưa làm được.
Người Nhân không lo buồn, người Trí không nghi ngại, người Dũng không
sợ hãi"(sách Luận ngữ). Về sau, Mạnh Tử thay "Dũng" bằng "Lễ, Nghĩa"
nên ba đức trở thành bốn đức: "Nhân, Nghĩa, Lễ, Trí". Đến thời Hán nho
thêm một đức nữa là "Tín" nên có tất cả năm đức là: "Nhân, Nghĩa, Lễ, Trí,
Tín". Năm đức này còn gọi là Ngũ Thường.
Biết Thi, Thư, Lễ, Nhạc : Ngoài các tiêu chuẩn về "Đạo" và "Đức", người
quân tử còn phải biết "Thi, Thư, Lễ, Nhạc" tức là người quân tử còn phải có
một vốn văn hóa toàn diện.
Hành động tức là phải làm quan, làm chính trị. Nội dung của công việc này
được công thức hóa thành "Tề gia, Trị quốc, Bình thiên hạ". Tức là phải
hoàn thành những việc nhỏ là gia đình, cho đến lớn là Trị Quốc, và đạt đến
mức cuối cùng là Bình thiên hạ (thống nhất thiên hạ), với hai phương châm
nhân trị (cai trị bằng tình người) và chính danh (thực hiện đúng chức phận,
nghĩa vụ của mình). Nhân Trị được hiểu như Nhân là tình người, nhân trị là
12
cai trị bằng tình người, là yêu người và coi người như bản thân mình. Chính
danh là mỗi sự vật phải được gọi đúng tên của nó, mỗi người phải làm đúng
chức phận của mình.
III. Tác động của Nho giáo đến chính trị - xã hội Trung Quốc
3.1 Tác động của Nho giáo đến chính trị
Nho giáo xây dựng trong thể chế đó là một mô hình xã hội đối lập, trước tiên
là vua và dân. Vua thì có quan. Quan thì có lại. Quan lại thì có lệ. Đó là phần
trên từ triều đình đến huyện. Vua chuyên chế không thể trực tiếp điều hành
đất nước quá rộng bằng những tay chân sai phái trực tiếp mà gián tiếp qua
một bộ máy quan liêu từ triều đình đến châu, quận, nhưng quyền hành tập
trung vẫn nằm trong tay vua.
Quan không phải là người giỏi một chuyên môn nào, mà là người được vua
tin cậy và giao cho làm "cha mẹ dân". Nho giáo trọng văn và lễ nghi, cho
nên công việc của quan là "cầm cân nảy mực", là hành hạt, hiếu dụ, tức là
tuyên truyền, giáo hoá, dự bình văn, tế lễ, tức là biểu thị thái độ của triều
đình tôn trọng việc học hành, lễ nghi và phong hoá.
Quan điểm về "đức trị" trong Nho giáo có ảnh hưởng rất sâu sắc đến tư cách
của vua chúa, quan lại và cách thức cai trị của các triều đại ở Trung Quốc
trong hàng ngàn năm dưới chế độ phong kiến (dù rằng không phải triều đại
nào cũng áp dụng "đức trị" một cách triệt để), bởi lẽ nó đòi hỏi vua chúa,
quan lại phải tự sửa đổi, trau dồi đạo đức của bản thân để làm gương cho
giáo hoá dân… Lịch sử Trung Quốc ghi lại nhiều tấm gương các Nho sĩ tận
tâm với đất nước. Tiêu biểu là thừa tướng Văn Thiên Tường, người lãnh đạo
Nam Tống chống lại sự xâm chiếm của Mông Cổ. Lúc còn nhỏ, Văn Thiên
Tường chăm học, đọc nhiều sách và thích nhất là những câu chuyện nói về
"Trung thần nghĩa sĩ", tư tưởng yêu nước đã ăn sâu vào tâm hồn ông. Sau
khi bị bắt, vua Mông Cổ ra sức đem cả quyền thế và vũ lực để ép ông đầu
hàng nhưng ông vẫn không khuất phục.
Thế nhưng bên cạnh đó, một số quan lại thời phong kiến xưa lại thường lợi
dụng sự tôn trọng bề trên và lễ nghi của Nho giáo để bóc lột, tham ô của cải
13
của dân. Nhưng Nho giáo như trong kinh điển của nó nói, không tán thành
sự độc tài của vua, phản đối sự áp chế, vơ vét của quan lại.
Mặt khác, Nho giáo dạy người ta tuân theo quy tắc đạo đức Tam cương Ngũ
thường. Tam cương là trật tự của ba mối quan hệ xã hội: vua - tôi, cha - con,
chồng - vợ, yêu cầu bề tôi phải tuyệt đối phục tùng vua, con tuyệt đối phục
tùng cha, vợ tuyệt đối phục tùng chồng. Ngũ thường là 5 phép ứng xử Nhân,
Nghĩa, Lễ, Trí, Tín, trong đó Nhân và Lễ được coi là cốt lõi. Thực tế cho
thấy Tam cương Ngũ thường của Nho giáo tạo ra một xã hội toàn những
người chỉ biết làm nô lệ, mù quáng vâng lời tầng lớp cai trị, không dám đấu
tranh bảo vệ quyền lợi của mình. Nhờ vậy Nho giáo đã đem lại sự ổn định
cho xã hội phong kiến, giúp tầng lớp thống trị tha hồ áp bức bóc lột nhân
dân, vì thế xưa nay các chế độ độc tài chuyên chế ở Trung Quốc đều tin
dùng Nho giáo. Điều đó cho thấy Nho giáo gắn bó với chính quyền tập trung
và quan liêu. Do đó, muốn bảo vệ chính quyền tập trung, để dân vẫn tin vào
Vua và kính trọng Vua, dù trong điều kiện nào thì bằng cách này hay cách
khác vẫn sử dụng Nho giáo.
Dù chủ trương "đức trị" của Nho giáo nhằm mục đích cuối cùng là duy trì sự
thống trị của vua chúa nhưng xét trong tính lịch sử của nó, quan điểm này
vẫn có ý nghĩa to lớn trong việc giữ cho xã hội bình an, bảo vệ và thúc đẩy
cuộc sống và các quyền của người dân. Loại trừ vài yếu tố không còn phù
hợp, "đức tin” vẫn là một nội dung cốt lõi trong hoạt động quản lý Nhà
nước, quản lý xã hội trong giai đoạn hiện nay.
Sau mấy chục năm cải cách mở cửa, người Trung Quốc đã tiếp nhận không
ít quan niệm giá trị của phương Tây như dân chủ, tự do, bình đẳng, nhân
quyền. Internet tạo điều kiện để họ công khai tố cáo, phê phán các sai trái
của chính quyền. Nhưng chính quyền lại cho rằng điều đó làm giảm uy tín
của ĐCSTQ, ảnh hưởng tới vai trò lãnh đạo của Đảng, gây mất ổn định xã
hội, vì thế cần tìm mọi cách hạn chế tiếng nói của người dân. Ngoài các biện
pháp trấn áp và cấm đoán hành chính (như cấm các blog “lề trái”), Chủ Tịch
nước Tập Cận Bình thấy cần sử dụng Nho giáo – học thuyết từng giữ cho xã
hội Trung Quốc ổn định mấy nghìn năm – để giáo dục dân chúng tuyệt đối
phục tùng sự lãnh đạo của ĐCSTQ, vì thế ông kiên quyết phục hồi Khổng
Tử. Thực ra xã hội bất ổn là do phân hóa giàu nghèo ngày càng gay gắt, đạo
14
đức xã hội liên tục suy thoái, nạn tham nhũng tràn lan làm nảy sinh nhiều
mâu thuẫn mới.
3.2 Tác động của Nho giáo đến xã hội
Nho giáo mọi thời đại ra sức đề cao lòng trung nghĩa, bảo vệ triều đại chính
thống. Không những đó là thái độ chính trị của từng nhà nho với triều đại
cầm quyền, mà hoạt động giáo dục và học thuật như viết văn, làm sử của họ
cũng góp phần rất lớn vào việc bảo vệ sự tập trung chuyên chế. Trong thể
chế đó, gia đình và họ hàng có vai trò hết sức lớn. Bằng việc xây dựng nền
nếp gia đình, quan hệ họ hàng và coi trọng việc thờ cúng tổ tiên, Nho giáo
đã làm rất có hiệu quả, làm phổ biến không khí gia đình và biến con người
thành con người của gia đình, sống hiếu đễ, ngoan ngoãn và ít có hứng thú
với cuộc sống xã hội rộng lớn và tự do. Nho giáo đã thành công trong việc
đưa tình, nghĩa và lễ để giữ gìn trật tự trên dưới, làm cho xã hội ổn định. Trật
tự mà Nho giáo xây dựng có lợi cho hoàng đế, thích hợp với làng xã, với đời
sống gia đình, họ hàng, nên nói chung dễ được chấp nhận là hợp lý. Do đó
triều đại nào muốn giữ vững tập trung chính quyền, dù nguồn gốc là quý tộc
được truyền ngôi hay là nông dân khởi nghĩa đoạt được ngôi báu.
Nho giáo vốn rất coi trọng văn, coi trọng văn trị. Cho nên các nước theo Nho
giáo mà tiêu biểu là Trung Quốc đều đề cao lễ nhạc, văn hiến, đề cao việc
giáo dục. Điều đó được đẩy mạnh đến mức độ biến các nước đó thành đề
cao người đi học, người biết chữ, người làm được văn chương, thơ phú.
Thậm chí điều đó còn dẫn đến thói quen sùng bái chữ viết, sùng bái sách vở.
Ngày xưa ai bắt gặp một tờ giấy có viết chữ rơi vãi ở đất thì lập tức họ kính
cẩn nhặt lên, đội lên đầu và đem đốt chứ không dùng nó vào những việc
thiếu kính cẩn. Nhưng việc đề cao văn hoá đó lại theo một hướng không hay
là khoa cử, học để làm quan, học viết văn chương, không chú trọng kỹ thuật,
khoa học, học thuật.
Với Nho giáo, học cũng có nghĩa là tu dưỡng đạo đức. Học trước hết là để
hiểu cách làm người. Con người, như trên đã nói là con người trong quan hệ
gia đình, họ hàng, trong trật tự trên dưới của xã hội, trong quan hệ với vua
quan, với Trời. Làm người là cư xử đúng lễ nghĩa trong các quan hệ như vậy.
Những người bất hiếu, bất mục trong gia đình, vô lễ, vô phép, ngỗ ngược
15
ngoài làng xóm, sống hám lợi, ít tình nghĩa, không chất phác ... không những
bị chê trách mà còn bị xử phạt cách này hay cách khác. Thái độ chuộng đức
và đề cao tu dưỡng của Nho giáo một mặt làm cho con người ngoan ngoãn
dễ chấp nhận quân quyền, phụ quyền, và nam quyền có tính áp bức. Nhưng
mặt khác cũng làm cho con người ở đây có tinh thần hiếu học, cần kiệm, có
trách nhiệm, biết tự trách mình, vì nghĩa mà hy sinh. Họ biết nhường nhịn
không tranh hơn trong đời sống cộng đồng, thường biết nghe theo người
cầm đầu, có kỷ luật. Tất nhiên mỗi điểm như vậy cũng đều phải tính đến cả
mặt trái, hạn chế sự phát triển của nhân cách.
Hình thức học gắn với khoa cử của Nho giáo cũng có mặt hay và mặt dở.
Lựa chọn người làm việc qua những kỳ thi, ai hơn thì lấy chứ không theo
dòng máy cha truyền con nối, không theo tài sản, không theo bè cánh, tất
nhiên là có "dân chủ" hơn, coi trọng năng lực bản thân hơn. Nhưng với cách
chuyển yêu cầu của nhà nước chuyên chế thành nội dung học và thi, chỉ đòi
hỏi "minh kinh" và "năng văn" thì học thuật và cả văn học nghệ thuật chịu
ảnh hưởng rất tai hại.
Theo các nhà Nho, người thầy không chỉ có kiến thức cao thâm để dạy học
trò mà muốn trò giỏi, người thầy cần phải có tư cách, phẩm chất đạo đức tốt
đẹp để làm gương cho học trò noi theo. Nhân cách của người thầy có sức
thuyết phục mạnh mẽ với người học, người học sẽ nhìn vào tấm gương là
thầy mà tin rằng những điều thầy giảng dạy chính là chân lý, là những điều
đúng đắn, tốt đẹp. Như vậy, theo quan điểm của Nho giáo, người thầy đóng
một vai trò rất quan trọng trong quá trình giáo dục. Người thầy không chỉ có
vai trò định hướng cho học trò mà còn giúp cho học trò có thể bỏ ác, tích
thiện, hướng đến những giá trị tốt đẹp của đạo đức, nhân cách. Do đó, có thể
nói, để việc giáo dục thật sự có hiệu quả không thể thiếu vai trò của người
thầy. Cho đến ngày nay, việc “tôn sư trọng đạo” vẫn là một trong những lễ
nghi hàng đầu của các nước theo Nho giáo. Yêu cầu đối với người làm thầy
không chỉ cần học thức mà còn xét cả về góc độ đạo đức và cách làm người.
Khi xưa, qua con đường thi cử mà chọn người làm quan thì nhiều cố gắng
cho con đi học, nhiều thanh niên đua nhau đi học, mong kiếm được một
cuộc sống sung sướng, thanh nhàn và vinh quang hơn là đi cày. Từ sáu tuổi
đã bắt đầu đi học, học cho đến thi đỗ hay nửa chừng bỏ cuộc. Học nhằm thi
16
đỗ và làm quan nên suốt cả cuộc đời đi học chỉ học có kinh truyện, bắc sử và
tập viết thơ, phú, tứ lục, văn sách. Họ học thuộc lòng hết sách vở và những
bài văn mẫu, mong thành hay chữ và viết văn nhanh. Học như thế dù đỗ đạt
cao, tri thức cũng không nhiều. Tuy nói ra lời thì thường khiêm tốn và cao
thượng nhưng trong thâm tâm lại đầy óc danh vị và cao ngạo, cao ngạo ở
chỗ mình là kẻ sĩ tiêu biểu cho thế đạo nhân tâm, ảo tưởng đỗ đạt, làm quan
được thì lập nên sự nghiệp "trí quân trạch dân" làm cho dân đen được nhờ.
Nhà nho ngày xưa tự coi mình là “kẻ lao tâm” làm công việc “lao lực” của
tiêu dân. Họ phó mặc việc sản xuất, giặt giũ, bếp núc... cho mẹ và vợ, coi đó
không phải là việc của mình. Mẹ và vợ vắng thì chịu đói chứ không chịu vào
bếp, họ có quan niệm rằng "Kẻ quân tử xa nơi bếp núc". Nhưng với những
công việc nhẹ quét tước nhà cửa, cổng ngõ hay trồng hoa thì họ làm rất chu
đáo, chu đáo đến mức nghệ thuật. Phải hiểu quan niệm của họ về lao động
về phân công lao động, mới hình dung được người nhà nho.
Nho giáo trọng lễ nghĩa, nên tư tưởng Nho giáo về con gái phải “tam tòng
tứ đức”, phải biết cư xử, biết làm việc nhà và rất nhiều các gánh nặng đè lên
người phụ nữ, nhất là ở thời phong kiến khi xưa.
Nho giáo coi trọng việc thờ cúng tổ tiên nhưng là để tỏ lòng biết ơn tiên tổ
chứ không phải là để cầu phúc. Cho nên để tổ tiên không có người hương
khói là tội lớn nhất. Ngoài linh hồn tổ tiên của từng gia tộc còn có những
thần linh chung mà Nho giáo khuyên tỏ lòng kính trọng chứ không nên mê
muội cúng bái. Cho đến nay, nhiều nước đã và đang theo Nho giáo vẫn giữ
được việc này, trong đó có Trung Quốc và Việt Nam. Việc có bàn thờ trong
nhà để thờ cúng tổ tiên mỗi dịp lễ hay có việc trọng đại đã trở thành một
truyền thống, thói quen từ nhiều đời.
Ngoài việc thờ cúng, Nho giáo có vai trò tôn giáo ở nông thôn chính là nhờ
vào vai trò của nhà Nho, điều này giống với vai trò tu sĩ ở phương Tây. Ở
phương Tây giáo sĩ nông thôn rất cần cho nhân dân thôn xóm: để ra cha đặt
tên thanh, đến tuổi cha bày cho học, ốm đau cha chữa thuốc, và lúc chết cha
rửa tội. Trong làng xóm của ta lúc đẻ ra thầy đồ cũng thường đặt tên lấy số,
ốm đau cũng nhờ thầy chữa, thầy cũng dạy cho học, xem giờ kiếm đất chôn
cất lúc chết. Và thường ngày những người nông dân vẫn hỏi ý kiến các thầy
trong nhiều việc của bản thân và gia đình.
17
IV: Liên hệ Việt Nam
4.1 Nguyên nhân ra đời và sự phát triển của Nho giáo ở Việt Nam
Nho giáo được truyền bá vào Giao Châu (tức phần Bắc Bộ Việt Nam hiện
nay) từ rất sớm bởi quan lại, chính quyền đô hộ Trung Quốc, cho nên thái độ
tiếp nhận Nho giáo của người Việt rất dè dặt, vị trí trong xã hội của Nho giáo
cũng rất khiêm tốn. Suốt thời Bắc thuộc, Nho giáo phát triển giữa hai xu
hướng tâm lý xã hội: người Hán thì muốn Hán hóa Giao Châu còn người
người Việt muốn chống lại Hán hóa.
Dưới thời đại Ngô, Đinh, Tiền Lê, Nho giáo cũng chưa phát triển. Đến thời
Lý, khi quản lý xã hội, giai cấp cầm quyền bắt đầu dựa vào Nho giáo, lập
Quốc Tử Giám, Văn Miếu, tổ chức thi cử theo nội dung Nho học. Dưới thời
nhà Trần, Phật giáo ngày càng tỏ ra bất lực, lực lượng nho sĩ ngày càng đông
khiến Nho giáo dần phát triển mạnh và có vị thế trong xã hội. Từ năm 1442
trở đi, dưới thời Hậu Lê, chế độ khoa cử dần ổn định, nho sĩ ngày càng đông
lên trong xã hội, Nho giáo dần chiếm vị thế độc tôn, chi phối nhiều lĩnh vực
trong xã hội. Thế kỉ XVI – XVII, Nho giáo vẫn là công cụ để giai cấp thống
trị xây dựng chính quyền và quản lý xã hội.
Đến thế kỉ VIII, Nho giáo suy thoái, nhưng dưới thời Gia Long, Nho giáo lại
chiếm địa vị ưu thế trong đời sống xã hội. Sự suy tồn của Nho giáo bị lung
lay khi thực dân Pháp nổ súng xâm lược Việt Nam và đến Cách mạng tháng
Tám năm 1945, Nho giáo chấm dứt vai trò là chỗ dựa tư tưởng của vương
triều phong kiến.
Với tư cách là một học thuyết chính trị, đạo đức, Nho giáo có ảnh hưởng rất
lớn đến tâm tư, tình cảm, tư tưởng và lối sống của các nhà nho Việt Nam.
Các nhà nho sống ở thôn quê thông qua việc dạy học và giao tiếp ở làng xã
đã truyền bá tư tưởng Nho giáo, đồng thời còn có vai trò sáng tạo, lưu giữ
văn hóa đến tầng lớp nông dân. Từ thế XV trở về sau, tầng lớp trí thức trong
xã hội Việt Nam chính là các nhà nho. Những nhân vật văn hóa tiêu biểu của
đất nước như Nguyễn Trãi, Lê Thánh Tông, Nguyễn Bỉnh Khiêm, Lê Quý
Đôn,… thể hiện tư tưởng Nho giáo rất sâu sắc.
Do những điều kiện về xã hội, lịch sử, con người Việt Nam có điểm khác
biệt với Trung Quốc nên tư tưởng Nho giáo cũng có những điểm khác biệt.
18
Những khái niệm “nhân, nghĩa, lễ, trí, tín” của nhà nho Việt Nam cũng khác
với nhà nho Trung Quốc.
4.2 Nội dung cơ bản của Nho giáo ở Việt Nam
Suốt nhiều thế kỷ, các quan điểm của Nho giáo luôn là khuôn mẫu cho việc
tổ chức nhà nước, xã hội, luân lý đạo đức và văn học. Nho giáo ở Việt Nam
được thể hiện đặc trưng trong mặt chính trị. Đường lối trị quốc của Nho giáo
về cơ bản là Đức trị. Nho giáo ở Việt Nam cũng vậy, các nhà Nho Việt Nam
không chỉ vận dụng những tư tưởng trong đường lối Đức trị của Nho giáo
mà còn phát triển, mở rộng thêm những nội dung mới mà bản thân Nho giáo
không đề cập đến, như tư tưởng chiến tranh giữ nước phải dựa vào dân, phải
xây dựng được sự đoàn kết toàn dân, đoàn kết trong nội bộ giai cấp thống trị
như trong “Hịch tướng sĩ” của Trần Quốc Tuấn và “Bình Ngô đại cáo” của
Nguyễn Trãi. Việc vua Lý Thánh Tông cho lập Văn Miếu thờ Chu Công,
Khổng Tử, Tứ phối và thất thập nhị hiền vào năm 1070, vua Lý Nhân Tông
mở khoa thi Nho giáo tam trường vào năm 1075 để chọn người có tài văn
học vào làm quan và dạy Nho học, lập Quốc Tử Giám vào năm 1076 để dạy
Nho học, vua nhà Lý tổ chức bộ máy nhà nước với những chức danh giống
quan chế đời Đường, … là những minh chứng cho việc tổ chức nhà nước,
quản lý xã hội, giáo dục của Việt Nam suốt một thời gian dài dựa vào Nho
giáo.
Nho giáo ở Việt Nam ảnh hưởng rất lớn đến tư tưởng, đạo đức của người
Việt. Khổng Tử đặt ra một loạt tam cương, ngũ thường, tam tòng, tứ đức...
để làm chuẩn mực cho mọi sinh hoạt chính trị và an sinh xã hội, người trong
xã hội giữ được tam cương, ngũ thường, tam tòng, tứ đức thì xã hội được an
bình. Người dân Việt Nam suốt một thời gian dài cũng dựa theo những
chuẩn mực đạo đức này. Đàn ông phải tuân theo đạo quân thần, phụ tử, phu
phụ, phải nằm lòng ngũ thường “Nhân, lễ, nghĩa, trí, tín”, người phụ nữ phải
“tại gia tòng phụ, xuất giá tòng phu, phu tử tòng tử” và theo chuẩn mực
“công, dung, ngôn, hạnh”. Những tư tưởng đạo đức này, rèn luyện nhân cách
con người, tuy nhiên cũng là công cụ gò bó, bức ép con người.
Về văn học, có rất nhiều những tác phẩm văn học mang tư tưởng Nho giáo
rất sâu rắc ra đời. Những nhà nho lỗi lạc như Chu Văn An với bộ “Tứ thư
thuyết ước”, “Tiều ẩn thi” truyền đời, Nguyễn Trãi – bậc nhất công thần nhà
19
Lê với “Bình Ngô đại cáo” vang danh sử sách, Nguyễn Du với “Truyện
Kiều” nổi bật thuyết thiên mệnh, tam cương, ngũ thường, tam tòng, tứ đức
vây lấy nàng Kiều, … Những nhà nho lỗi lạc, những áng văn chương lưu
vào sử sách nổi bật tư tưởng Nho giáo đã cho ta thấy sức ảnh hưởng của Nho
giáo đối với lịch sử Việt Nam.
4.3 Những tác động của tư tưởng Nho giáo đến đời sống chính trị xã hội
Việt Nam
Nho giáo với tư tưởng chính trị của mình đã có những tác động tích cực đến
đời sống chính trị xã hội ở Việt Nam. Từ thời Lý, khi quản lý xã hội, giai cấp
cầm quyền bắt đầu dựa vào tư tưởng nho học. Tôn thất Nhà Lý - Lý Đạo
Thành giúp vua Nhân tông sửa sang việc chính trị, dự trù binh lương, làm
cho nước ta khi đó đủ thế lực, bắc chống Trung Quốc, nam đánh được
Chiêm thành. Những nhà nho như Lý Đạo Thành đem tinh hoa nho học vào
việc trị quốc giúp cho đất nước ta khi đó hưng thịnh vững mạnh. Đến thời
Trần, Nho học thịnh hơn, có thêm nhiều nhà nho chân chính như Mạc Đĩnh
Chi, Trương Hán Siêu, Phạm Sư Mạnh, Chu Văn An,… xuất hiện phò tá vua
lo việc đất nước.
Tư tưởng về đạo đức của Khổng Tử - Mạnh Tử được dân tộc ta dễ dàng tiếp
nhận, từ đó Nho giáo đã tạo nên một truyền thống tốt đẹp về tư tưởng, đạo
đức và lối sống. Đó là ý thức trách nhiệm, nghĩa vụ và tình cảm đạo đức của
mỗi người đối với cộng đồng, là sự hiếu học, coi trọng nhân tài, coi trọng
người có học vấn và tôn sư trọng đạo, là việc yêu thương gia đình, trọng tình
nghĩa và hơn cả là lòng yêu nước.
Về giáo dục, Nho giáo rất coi trọng tri thức, coi trọng việc học. Hàng nghìn
năm qua, nhà nước Việt Nam đều lấy tư tưởng nho học làm nền tảng để tổ
chức giáo dục. Quan niệm giáo dục “Tiên học lễ, hậu học văn” của Việt Nam
từ xưa đến nay thể hiện rõ tư tưởng nho giáo trong đó. Nho giáo thời nhà Lý
là thời kỳ hưng thịnh nhất và cũng là thời kỳ nền giáo dục Việt Nam theo mô
hình Trung Quốc được thiết lập và phát triển đáng kể. Điểm đặc biệt là vua
Lý Thánh Tông đã thành lập Văn Miếu vào năm 1070, khoa thi đầu tiên
được tổ chức vào năm 1075, năm 1976 vua Lý Nhân Tông cho lập trường
Quốc Tử Giám - trường đại học đầu tiên ở Việt Nam để dạy Nho học. Nhiều
20
nhà nho lỗi lạc không ra làm quan mà về quê dạy học như Chu Văn An,
Nguyễn Bỉnh Khiêm,… đã dần đem hiếu học trở thành truyền thống văn hóa
của dân tộc ta.
Tuy vậy, Nho giáo ở Việt Nam cũng có những điểm hạn chế. Về học thuật,
tư tưởng chỉ theo lối học của người Trung Quốc truyền sang, đời nhà Lý,
Trần theo lối Hán nho và Đường nho, đến thời Lê trở về sau theo lối Tống
nho, không sáng lập được học thuyết nào khác, kết quả Nho giáo truyền bá
rộng khắp cả nước nhưng về học thuyết thì không có gì phát minh thêm ra.
Về đạo đức, tam tòng tứ đức cũng gò bó người phụ nữ suốt một thời gian
dài.
21
PHẦN III: LỜI KẾT
Nhiều người nghĩ Nho giáo cổ hủ, quá khắt khe, cứng nhắc, lạc hậu nhưng
không thể chối cãi được rằng Nho giáo đã tham gia một phần vào sự đúc nặn
diện mạo tinh thần dân tộc, văn hóa dân tộc, trở thành hệ tư tưởng độc tôn
trong xã hội Trung Quốc. Không chỉ thế, do yếu tố về vị trí địa lí, cũng như
yếu tố lịch sử, Nho giáo khi du nhập vào Việt Nam cũng đã tạo ra những ảnh
hưởng vô cùng sâu sắc về chính trị, tư tưởng đạo lí,... Như vậy, qua đề tài
tìm hiểu về tư tưởng Nho giáo của chúng em đã phần nào cho thấy ý nghĩa
quan trọng của Nho giáo trong sự ảnh hưởng của nó đến chính trị, xã hội của
Trung Quốc cũng như các nước phương Đông theo Nho giáo, trong đó có
Việt Nam.
22
TÀI LIỆU THAM KHẢO
1) Lịch sử văn minh thế giới (Chủ biên: Vũ Dương Ninh) – NXB giáo dục
Việt Nam
2) Cơ sở văn hóa Việt Nam (chủ biên: Trần Quốc Vượng) – NXB giáo dục
Việt Nam
3) Nho giáo (Trần Trọng Kim) – NXB văn học
4) Tứ Thư ( dịch giả: Dương Hồng - Vương Thành Trung - Nhiệm Đại
Viện...) đơn vị xuất bản Hội Nhà Văn
Tài tham khảo trên internet:
- Minh Anh, Về học thuyết luân lý và đạo đức của Nho giáo [1]
- Trần Đình Hượu, Nho giáo, ảnh hưởng của nó [2]
- Nguyễn Văn Hùng, Trọn bộ Ngũ Kinh của Khổng Tử [3]
- Daoduckinh.com, Kinh dịch [4]
- Vũ Công Giao, Văn hóa truyền thống Đông Á: có hay không các giá
trị nhân quyền [5]
- Ths. Trương Nữ Vân Thi & Ths. Lâm Ngọc Như Trúc, Các giá trị tích
cực trong tư tưởng giáo dục của Nho giáo và sự vận dụng của người
Nhật Bản. [6]
- Nguyễn Hải Hoành, Tại sao Tập Cận Bình muốn phục hồi Khổng Tử?
[7]
23