Tải bản đầy đủ (.docx) (13 trang)

QUY LUẬT GIÁ TRỊ và vận DỤNG QUY LUẬT GIÁ TRỊ vào nền KINH tế VIỆT NAM

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (114.27 KB, 13 trang )

Quy luật giá trị là một quy luật căn bản của sản xuất và trao đổi
hàng hoá. Ở đâu có sản xuất và trao đổi hàng hoá thì ở đó có sự tồn tại và
phát huy tác dụng của quy luật giá trị. Mọi hoạt động của các chủ thể
kinh tế trong sản xuất và lưu thông hàng hóa đều chịu sự tác động của
quy luật này. Cho đến nay, điều đó vẫn tồn tại như một chân lí cho hoạt
động kinh tế trên toàn thế giới.
Trong quá trình xây dựng nền kinh tế thị trường định hướng xã hội
chủ nghĩa, Việt Nam đang phải đối mặt với rất nhiều thách thức, khó
khăn.Chính vì thế, chúng ta cần khẩn trương nhưng hết sức khéo léo và
thận trọng trong việc vận dụng quy luật giá trị để đạt được một nền kinh
tế ổn định và có mức tăng trưởng tốt.
Đây chính là động lực thúc đẩy tôi chọn đề tài nghiên cứu: “Quy
luật giá trị và vận dụng quy luật giá trị vào nền kinh tế Việt Nam”
Nội dung đề tài gồm hai phần chính:
• I. Nội dung quy luật giá trị và vai trò của nó trong nền kinh tế


thị trường
II. Vận dụng quy luật giá trị vào tình hình nền kinh tế Việt Nam
Sau một thời gian nghiên cứu và nỗ lực hoàn thành,tôi đã cố gắng

làm rõ những vấn đề cơ bản của đề tài và nêu ra một số ý kiến đóng góp
của bản thân. Song với kiến thức và thời gian có hạn, đề tài của tôi còn
nhiều thiếu sót. Rất mong được sự đóng góp của thầy cô cùng tất cả mọi
người để bài tiểu luận của tôi ngày càng hoàn thiện hơn.
Tôi xin chân thành cảm ơn!


NỘI DUNG
I NỘI DUNG QUY LUẬT GIÁ TRỊ VÀ VAI TRÒ CỦA NÓ TRONG
NỀN KINH TẾ THỊ TRƯỜNG


1. Nội dung của quy luật giá trị
Quy luật giá trị là quy luật kinh tế giữ vai trò cơ sở cho sự chi phối nền
sản xuất và trao đổi hàng hoá.Trong nền kinh tế hàng hoá, hàng hoá và
dịchvụ do các doanh nghiệp, những người sản xuất hàng hoá tư nhân, riêng
lẻ sản xuất ra. Mỗi người sản xuất hàng hoá đều nghĩ đến cách chen lấn
người khác, đều muốn giữ vững và mở rộng thêm địa vị của mình trên thị
trường. Sản xuất hàng hoá càng phát triển thì quyền lực của thị trường đối
với người sản xuất hàng hoá càng mạnh. Nói như thế có nghĩa là trong nền
kinh tế hàng hoá có những quy luật kinh tế ràng buộc và chi phối hoạt động
của những người sản xuất hàng hoá. Quy luật giá trị là quy luật kinh tế
quan trọng nhất của sản xuất và lưu thông hàng hoá.Quy luật giá trị quy
định việc sản xuất và trao đổi hàng hoá phải căn cứ vào hao phí lao động xã
hội cần thiết. Quy định ấy là khách quan, đảm bảo sự công bằng hợp lý,
bình đẳng giữa những người sản xuất và trao đổi hàng hoá. Quy luật giá trị
buộc những người sản xuất và trao đổi hàng hoá phải tuân theo "mệnh
lệnh" của giá cả thị trường. Nội dung của quy luật giá trị là: Sản xuất và
trao đổi hàng hoá phải dựa trên cơ sở giá trị của nó, tức là dựa trên hao
phí lao động xã hội cần thiết.
Trong sản xuất hàng hoá thì vấn đề quan trọng nhất là hàng hoá sản
xuất ra có bán được hay không. Để có thể tiêu thụ được hàng hoá thì thời
gian lao động cá biệt để sản xuất ra hàng hoá đó phải phù hợp với thời gian
lao động xã hội cần thiết tức là phải phù hợp với mức lao động hao phí mà
xã hội có thể chấp nhận được. Trong trao đổi hàng hoá cũng phải dựa vào

2


thời gian lao động xã hội khi lượng giá trị của chúng ngang nhau, tức là,
trao đổi hàng hoá phải tuân theo quy tắc ngang giá.
Giá cả là sự biểu hiện bằng tiền của giá trị.Giá cả phụ thuộc vào giá trị

vì giá trị là cơ sở của giá cả.Trong nền kinh tế hàng hoá thì giá cả và giá trị
thường chênh lệch nhau, cung ít hơn cầu thì giá cả sẽ cao hơn giá trị và
ngược lại nếu cung lớn hơn cầu thì giá cả sẽ thấp hơn giá trị.Nhưng xét cho
đến cùng thì tổng giá cả hàng hoá bao giờ cũng bằng tổng giá trị của hàng
hoá.Giá cả hàng hoá có thể tách rời giá trị nhưng bao giờ cũng lên xuống
xoay quanh giá trị, đó là biểu hiện hoạt động của quy luật giá trị.
Tóm lại, yêu cầu chung của quy luật giá trị mang tính khách quan, nó
đảm bảo sự công bằng, hợp lý, bình đẳng giữa những người sản xuất và
trao đổi hàng hoá.
2. Vai trò của quy luật giá trị trong nền kinh tế thị trường
-

Điều tiết sản xuất và lưu thông hàng hoá.
Trong sản xuất, quy luật giá trị điều tiết việc phân phối tư liệu sản xuất

và sức lao động giữa các ngành sản xuất thông qua sự biến động của giá cả
hàng hoá. Như đã nói trên, do ảnh hưởng của quan hệ cung cầu, giá cả hàng
hoá trên thị trường lên xuống xoay quanh giá trị của nó.Nếu một ngành nào
đó, cung không đáp ứng cầu, giá cả hàng hoá lên cao thì những người sản
xuất sẽ mở rộng quy mô sản xuất. Những người đang sản xuất hàng hoá
khác sẽ thu hẹp quy mô sản xuất mặt hàng hiện tại để chuyển sang sản xuất
thêm loại hàng hoá này. Như vậy, tư liệu sản xuất, sức lao động và vốn
được chuyển vào ngành này tăng lên, cung về loại hàng hoá này trên thị
trường sẽ tăng cao. Ngược lại khi ngành đó thu hút quá nhiều lao động xã
hội, cung vượt cầu, giá cả hàng hoá hạ xuống, thì những người sản xuất sẽ
phải chuyển bớt tư liệu sản xuất và sức lao động ra khỏi ngành này để đầu
tư vào nơi có giá cả hàng hoá cao. Ở đây ta thấy rằng sự biến động của giá
3



cả xung quanh giá trị không những chỉ rõ sự biến động về kinh tế mà còn
có tác động điều tiếtvà lưu thông hàng hóa trong nền kinh tế.Hàng hoá bao
giờ cũng vận động từ nơi giá cả thấp đến nơi giá cả cao. Quy luật giá trị có
tác dụng điều tiết sự vận động đó, phân phối các nguồn hàng hoá một cách
hợp lý hơn trong nước.
-

Kích thích cải tiến kỹ thuật, hợp lý hóa sản xuất, tăng năng suất lao
động, thúc đẩy lực lượng sản xuất xã hội phát triển.
Trong nền kinh tế hàng hoá, người sản xuất nào cũng mong có được

nhiều lãi. Người có nhiều lãi hơn là người có thời gian lao động cá biệt ít
hơn hoặc bằng thời gian lao động xã hội cần thiết. Còn những người có thời
gian lao động cá biệt lớn hơn thời gian lao động xã hội cần thiết thì sẽ bị lỗ
không thu về được toàn bộ lao động đã hao phí. Muốn đứng vững và thắng
trong cạnh tranh, mỗi người sản xuất đều luôn luôn tìm cách rút xuống đến
mức tối thiểu thời gian lao động cá biệt. Muốn vậy, những người sản xuất
phải tìm mọi cách cải tiến kỹ thuật, nâng cao trình độ tay nghề, sử dụng
những thành tựu mới của khoa học, kỹ thuật, cải tiến tổ chức quản lý của
sản xuất, thực hiện tiết kiệm chặt chẽ. Sự cạnh tranh quyết liệt càng thúc
đẩy các quá trình này diễn ra mạnh mẽ hơn, kết quả là năng suất lao động
tăng lên nhanh chóng. Ngoài ra để có thể thu được nhiều lãi, người sản xuất
hàng hoá còn phải thường xuyên cải tiến chất lượng, mẫu mã hàng hoá cho
phù hợp nhu cầu, thị hiếu của người tiêu dùng, cải tiến các biện pháp lưu
thông, bán hàng để tiết kiệm chi phí lưu thông và tiêu thụ sản phẩm nhanh.
Vì vậy, quy luật giá trị có tác động làm thúc đẩy việc sản xuất hàng hoá
nhiều, nhanh, tốt và rẻ hơn.
-

Thực hiện sự lựa chọn tự nhiên và phân hóa người sản xuất hàng hóa

thành người giàu, người nghèo, làm nảy sinh quan hệ kinh tế tư bản
chủ nghĩa.
4


Trong cuộc cạnh tranh chạy theo giá trị, lao động cá biệt của mỗi
người sản xuất có thể không nhất trí với lao động xã hội cần thiết. Với
những người làm giỏi, có năng suất lao động cá biệt thấp hơn thời gian lao
động xã hội cần thiết, họ phát tài, làm giàu, mua sắm thêm tư liệu sản xuất,
mở rộng quy mô sản xuất, thuê thêm nhiều nhân công và trở thành tư bản.
Không như vậy, những người sản xuất kém, thời gian lao động cá biệt lớn
hơn thời gian lao động xã hội cần thiết sẽ bị lỗ vốn thậm chí đi đến phá sản,
phải trở thành những người lao động làm thuê. Như vậy, quy luật giá trị có
ý nghĩa bình tuyển, đánh giá người sản xuất, kích thích những yếu tố tích
cực phát triển và đào thải các yếu tố lạc hậu không còn phù hợp.Nó đảm
bảo sự bình đẳng đối với những người sản xuất.
II VẬN DỤNG QUY LUẬT GIÁ TRỊ VÀO TÌNH HÌNH NỀN KINH
TẾ VIỆT NAM
3. Thực trạng việc vận dụng quy luật giá trị vào tình hình nền
kinh tế Việt Nam
Sau hơn 20 năm kể từ khi Chính phủ thực hiện đường lối đổi mới kinh
tế năm 1986, chủ yếu nhờ các biện pháp giải phóng sức lao động trong
nước và mở cửa nền kinh tế, tận dụng nguồn lực bên ngoài, Việt Nam đã
trở thành một trong những nền kinh tế phát triển nhanh nhất châu Á, với
mức tăng trưởng GDP thực tế hàng năm trung bình là 6.7% trong giai đoạn
2008 - 2018. Bình quân GDP đầu người (theo giá hiện hành) cũng tăng
nhanh và ổn định trong thập kỷ qua, tăng từ 1.024 USD năm 2008 lên
2.385 USD năm 2017 và 2.587 USD năm 2018.
Trong cả hai cuộc khủng hoảng tài chính châu Á năm 1998 và khủng
hoảng tài chính toàn cầu năm 2008, tăng trưởng kinh tế của Việt Nam vẫn

giữ ở mức ổn định, trong khi các nước châu Á khác (Hàn Quốc, Indonesia,
Thái Lan, Malaysia, Philippines trong cuộc khủng hoảng năm 1998 và Hàn
5


Quốc, Thái Lan và Malaysia trong cuộc khủng hoảng năm 2008) bị tăng
trưởng âm. Chính phủ cũng đã phản ứng một cách nhanh chóng và hiệu quả
để ứng phó với các cuộc khủng hoảng kinh tế toàn cầu. Mặc dù tốc độ tăng
trưởng GDP trung bình đã giảm xuống còn 5,8% trong giai đoạn 20082014 do chính sách thắt chặt kinh tế vĩ mô để đối phó với nền kinh tế tăng
trưởng nóng và lạm phát gia tốc, Việt Nam thực sự đã đạt được những tiến
bộ vững chắc trong việc xây dựng nền móng cho nhiều cải cách như sự ổn
định về tình hình lạm phát và tỷ giá hối đoái, thặng dư thương mại và tăng
dự trữ ngoại hối quốc gia. Cùng với sức mạnh của doanh số bán lẻ trong
nước, đa dạng hóa sản phẩm xuất khẩu và thị trường, và sự linh hoạt của
lực lượng lao động đã giúp cho nền kinh tế Việt Nam giữ mức tăng trưởng
dương và phục hồi một cách nhanh chóng.
Về cơ cấu GDP theo ngành đã có chuyển dịch tích cực theo hướng
giảm tỷ trọng của khu vực nông - lâm - ngư nghiệp và tăng tỷ trọng của
khu vực công nghiệp, xây dựng và dịch vụ. Tuy nhiên tốc độ chuyển dịch
còn chậm. Công nghiệp và dịch vụ chưa tạo được số việc làm tương ứng
với mức tăng trưởng của hai khu vực này, khiến lực lượng lao động mới
vẫn phải tìm kiếm việc làm chủ yếu trong khu vực nông nghiệp vốn đã dư
thừa quá nhiều lao động.
Năng lực cạnh tranh thị trường hàng hóa và dịch vụ của nước ta
trong những năm gần đây đã được nâng cao. Hiện nay, các doanh nghiệp
sản xuất quốc doanh và tư nhân tích cực đầu tư máy móc, trang thiết bị với
công nghệ sản xuất hiện đại. Cộng thêm lực lượng lao động trong nước rẻ,
chuyên môn dần được nâng cao, chi phí hoạt động của các doanh nghiệp
này giảm đi đáng kể mà chất lượng sản phẩm lại tốt hơn, có ưu thế cạnh
tranh trên thị trường trong và ngoài nước. Song, cũng không ít những sản

phẩm dịch vụ năng lực cạnh tranh còn thấp. Nhóm các sản phẩm có khả
6


năng cạnh tranh chủ yếu là sản phẩm nông nghiệp, khoáng sản chưa qua
chế biến, tỷ lệ gia tăng còn thấp. Những mặt hàng công nghiệp qua chế
biến là những mặt hàng có tỷ lệ lao động cao, dựa vào lợi thế so sánh về sự
khéo léo, chi phí tiền công lao động thấp. Tuy nhiên các mặt hàng này chưa
có thương hiệu, chưa có kiểu dáng riêng, chưa tạo được cơ sở nguyên liệu,
phụ liệu, cơ sở công nghệ và kỹ thuật cần thiết, giá thành còn cao. Hàng thủ
công mỹ nghệ có khả năng cạnh tranh tương đối tốt song chất lượng thiếu
ổn định, năng lực hạn chế, chưa đáp ứng được các đơn hàng lớn.
4. Những hướng đi nhằm vận dụng hiệu quả quy luật giá trị vào
nền kinh tế Việt Nam trong thời gian tới
4.1. Đầu tư vào việc nghiên cứu, ứng dụng và triển khai khoa
học công nghệ.
Trong tình trạng nước ta còn thiếu thốn trầm trọng khoa học kỹ thuật
như hiện nay, nước ta cần phải hỗ trợ nhiều hơn nữa kinh phí cho các viện
nghiên cứu, các đề tài nghiên cứu phục vụ trực tiếp cho việc chuyển đổi cơ
cấu kinh tế, cơ cấu sản xuất, thực hiện cơ chế đặt hàng trực tiếp giữa Nhà
nước, doanh nghiệp và các cơ sở nghiên cứu khoa học, tránh tình trạng bỏ
phí vốn đầu tư do tách rời giữa sản phẩm nghiên cứu và thực tiễn. Tăng
kinh phí đào tạo, nhất là đào tạo mới và đào tạo bổ sung đội ngũ lao động
chất lượng cao.
Tiếp theo, phải nâng cao trình độ văn hoá cho nguồn nhân lực, phấn
đấu phổ cập phổ thông cơ sở và phổ thông trung học đối với những đối
tượng và những vùng có điều kiện nhằm tạo điều kiện thuận lợi cho việc
tiếp thu các kiến thức trong đào tạo chuyên môn kỹ thuật cho người lao
động. Thực hiện chính sách phân luồng học sinh sau khi tốt nghiệp trung
học cơ sở để tạo ra cơ cấu đào tạo hợp lý.

7


Đẩy mạnh công tác đào tạo chuyên môn kỹ thuật cho người lao động.
Đặc biệt là đào tạo, bồi dưỡng nghề cho người lao độngthông qua biện
pháp xã hội hoá đào tạo, đa dạng hoá hình thức đào tạo, bồi dưỡng với
nhiều thành phần kinh tế tham gia. Trang bị các kiến thức cần thiết khác để
cung cấp nhân lực cho các khu công nghiệp mới, các doanh nghiệp có vốn
đầu tư nước ngoài cũng như ngay tại địa phương.
Nông thôn cần mở rộng hình thức đào tạo nghề gắn chặt với chuyển
giao công nghệ mới, chuyển giao các quy trình sản xuất, quy trình canh
tác... để làm cơ sở cho việc chuyển đổi cơ cấu sản xuất nông nghiệp. Đào
tạo chủ nhiệm hợp tác xã, huy động lực lượng tri thức trẻ về nông thôn,
vùng sâu vùng xa để tăng thêm chất lượng nguồn nhân lực làm nòng cốt
cho việc thay đổi cách làm ăn, tạo thế và lực mới cho việc chuyển dịch cơ
cấu kinh tế.
Tiếp tục đổi mới, điều chỉnh hệ thống chính sách và pháp luật về lao
động và thị trường lao động theo hướng tiếp cận gần với các thông lệ và
tiêu chuẩn quốc tế tạo sự bình đẳng trong pháp luật đối với mọi người lao
động.
4.2. Lưu thông hàng hoá, tăng khả năng cạnh tranh hàng hoá
của Việt Nam.
Một trong những yếu tố then chốt để nâng cao khả năng cạnh tranh
của hàng hoá Việt Nam là cơ cấu lại và tăng cường năng lực cạnh tranh của
khu vực doanh nghiệp, trong đó có vai trò quan trọng của khu vực Nhà
nước vì khu vực này nắm giữ phần lớn tài sản quốc gia, nguồn lao động kỹ
thuật, tài nguyên và giữ vai trò chủ đạo trong các thành phần kinh tế. Khu
vực doanh nghiệp cần xây dựng được chương trình cắt giảm chi phí sản
xuất trong từng công đoạn sản xuất với từng sản phẩm.Nhà nước thực hiện
chính sách khuyến khích nghiên cứu áp dụng đổi mới công nghệ, đầu tư đổi

8


mới thiết bị sản xuất. Tạo môi trường kinh doanh lành mạnh, xây dựng
khuôn khổ chính sách tạo điều kiện cho doanh nghiệp tiến hành cơ cấu lại
sản xuất có hiệu quả, tăng khả năng cạnh tranh. Hướng dẫn thực hiện pháp
lệnh giá nhằm thực hiện kiểm soát chi phí, kiểm soát độc quyền.Hạn chế
độc quyền của các doanh nghiệp, Nhà nước chỉ thực hiện trợ giá những mặt
hàng thiết yếu quan trọng và một số mặt hàng nông sản xuất khẩu.
Thực hiện chính sách hỗ trợ có điều kiện trong một khoảng thời gian
nhất định để dần dần tăng năng lực cạnh tranh của một số sản phẩm, mở
rộng thị trường trong nước và xuất khẩu. Bằng cách mở rộng quan hệ với
các quốc gia, các nước, hỗ trợ xúc tiến thương mại ở các thị trường tiềm
năng. Tăng cường đầu tư vào hoạt động nghiên cứu thị trường, hỗ trợ
doanh nghiệp đầu tư ra nước ngoài.
Hoàn thiện và nâng cao hiệu lực của chính sách khuyến khích đầu tư
sản xuất, đặc biệt là hàng xuất khẩu, các vùng khó khăn.Chính sách phát
triển các vùng nguyên liệu để giảm chi phí sản xuất.
Giải pháp phát triển nguồn nhân lực phải được đặc biệt coi trọng.
Trong thời gian tới cần đầu tư cho đào tạo và đào tạo lại, nâng cao tỷ lệ lao
động qua đào tạo lên trên 30% số lao động hiện có, trong đó chú trọng đào
tạo nghề.
4.3. Giảm bất bình đẳng, giải quyết mâu thuẫn giữa hiệu quả và
công bằng xã hội
Về mặt khách quan bộ phận dân cư cần được hỗ trợ của các chính
sách xã hội được chia thành hai phần. Phần dân cư chịu sự thiệt thòi tự
nhiên so với phần còn lại do họ bị khiếm khuyết mặt nào đó trong năng lực
cá nhân và do đó thường xuyên có thu nhập thấp. Đó chủ yếu là người tàn
tật, thương binh, gia đình chính sách, các dân tộc thiểu số có trình độ văn
hoá thấp. Phần còn lại bao gồm những cá nhân gặp khó khăn về thu nhập

9


không thường xuyên do biến động của kinh tế, chính trị, chiến tranh và
thiên tai. Bộ phận này luôn thay đổi theo tình hình phát triển kinh tế của đất
nước.
Nhìn chung gánh nặng phúc lợi xã hội của nước ta khá lớn do hậu quả
chiến tranh kéo dài do điều kiện kinh tế xã hội quá thấp và do tốc độ tăng
dân số quá nhanh trong khi đất đai, tài nguyên của nước ta không giàu có
lắm. Chính phủ không thể không gánh vác vấn đề này. Để giải quyết nó
chính phủ cần xây dựng phát huy các chính sách như: tạo ra cơ hội có việc
làm, mở các trường dạy nghề, giúp đỡ gia đình neo đơn khó khăn. Đóng
thuế thu nhập cá nhân, gây dựng quỹ phúc lợi xã hội.
Hiện nay việc giải quyết chế độ cho người thất nghiệp ở Việt Nam còn
khá tự phát và lộn xộn tuỳ thuộc chủ yếu vào năng lực tài chính của doanh
nghiệp, vào chế độ lương và việc làm của Nhà nước trong từng thời kỳ, vào
chính sách đào tạo của Nhà nước cũng như nhiều yếu tố khác. Chính vì
chưa có đường hướng rõ ràng về vấn đề này, nên công tác xử lý lao độngdư
thừa ở các doanh nghiệp cổ phần hoá gặp không ít khó khăn. Về lâu dài,
Nhà nước cần phải có chính sách rõ ràng, nhằm vừa tạo điều kiện vận hành
kinh tế một cách có hiệu quả, vừa ổn định xã hội.
Tóm lại, kinh tế thị trường tất yếu dẫn đến phân hoá giàu nghèo.Song
sự phân hoá đó không đáng sợ đến mức phải gạt bỏ kinh tế thị trường trong
chủ nghĩa xã hội. Ngày nay, nhân loại đã tìm ra cơ chế khắc phục và kiểm
soát sự phân hoá giàu nghèo của kinh tế thị trường. Trung tâm của cơ chế
đó là các giải pháp thực thi công bằng trong thu nhập của Nhà nước cùng
với các phong trào xã hội dưới ảnh hưởng của các tổ chức khác nhau.
Thành công và hiệu quả của cơ chế thực thi công bằng phụ thuộc vào
đường lối, chủ trương, thực lực kinh tế và tài năng của giới lãnh đạo xã hội.


10


4.4. Quan tâm, đầu tư hơn nữa vào nền giáo dục
Hệ thống giáo dục cần được đầu tư phát triển để nâng cao trình độ,
kiến thức cho toàn dân nói chung, cho lực lượng lao động nói riêng. Khi đó
người sản xuất sẽ dễ dàng hơn trong việc giảm giá trị cá biệt của hàng hoá
so với giá trị xã hội, có khả năng giành ưu thế trong cạnh tranh. Tạo điều
kiện cho giáo dục sẽ giúp cho năng lực lao động của toàn xã hội tăng vọt.
Muốn thế cần phải đưa ra các giải pháp như: Tạo ra sự tiếp cận công bằng
hơn đến dịch vụ giáo dục, nâng cao chất lượng và tính thiết thực của dịch
vụ giáo dục, nâng cao hiệu quả trong chi tiêu cho giáo dục đồng thời ngăn
chặn nạn "chảy máu chất xám".

11


KẾT LUẬN
Quy luật giá trị, trong thực tế lưu thông sản phẩm thị trường, ngày
càng khẳng định vai trò là quy luật kinh tế cơ bản nhất, quy định bản chất
và làm cơ sở cho những quy luật khách quan khác của sản xuất hàng hoá.
Sự xuất hiện của nó là tất yếu và đồng thời với quá trình sản xuất và lưu
thông hàng hoá. Tuy nhiên, phải nhận thấy rằng: Tác dụng của quy luật giá
trị tuỳ thuộc vào trình độ phát triển của lực lượng sản suất, mức độ hoàn
thiện của quan hệ sản xuất xã hội chủ nghĩa, khả năng nhận thức, vận dụng
và tổ chức các hoạt động kinh tế thực tiễn của Nhà nước. Hơn nữa, tác
dụng của quy luật là khách quan; khả năng nhận thức của con người sẽ quy
định tính chất tiêu cực hay tích cực mà việc vận dụng nó sẽ mang lại cho xã
hội. Vì vậy, nghiên cứu để áp dụng quy luật giá trị một cách hiệu quả, tận
dụng một cách tối ưu nhất tài nguyên tự nhiên và con người đang ngày

càng thu hút được sự quan tâm rộng lớn trong vấn đề hoạch định các chính
sách kinh tế mang tính chiến lược lâu dài, mà gần gũi hơn cả là đem lại cái
nhìn sâu sắc hơn về những đường lối chính sách của Đảng và Nhà nước, ý
thức trách nhiệm dưới góc độ một công dân trong nền kinh tế tương lai.
Thực tiễn những năm qua chứng tỏ rằng quy luật giá trị với những
biểu hiện của nó như giá cả, tiền tệ, giá trị hàng hoá... tác động hết sức
nhanh nhạy và lớn lao tới đời sống kinh tế xã hội. Đảng và Nhà nước ta đã
nhận thức đúng đắn về vấn đề này và thực hiện nhiều cải cách kinh tế trên
nền tảng quy luật giá trị nhằm hình thành và phát triển một nền kinh tế
hàng hoá xã hội chủ nghĩa đa dạng và hiệu quả. Những thành tựu đạt được
12


trong những năm qua, một mặt, khẳng định hướng đi đúng đắn của nền
kinh tế dưới ngọn cờ lãnh đạo của Đảng, mặt khác, tạo tiền đề và động lực
đưa công cuộc kiến thiết đất nước đến những bước nhảy vọt đầy triển vọng
sau này.

TÀI LIỆU THAM KHẢO
1. Bộ Giáo dục và Đào tạo, Giáo trình Kinh tế chính trị Mác – Lê-nin,

Nhà xuất bản Chính trị quốc gia, Hà Nội, 2003.
2. Giáo trình Kinh tế chính trị Mác - Lênin về phương thức sản xuất tư

bản chủ nghĩa, NXB Chính trị quốc gia, 2004.
3. Bộ Giáo dục và Đào tạo, Giáo trình Những nguyên lý cơ bản của chủ

nghĩa Mác – Lê-nin, Nhà xuất bản Chính trị quốc gia, Hà Nội, 2009.
4. Bộ Giáo dục và Đào tạo, Giáo trình Triết học Mác – Lênin, NXB


Chính trị Quốc gia, Hà Nội, 2004.
5. Trần Hậu Thư, Vai trò quản lý của Nhà nước theo nền kinh tế thị
trường nước ta, NXB chính trị Quốc gia, 1994.
6. PGS.TS Nguyễn Trọng Phúc, Đường lối đổi mới của Đảng Cộng sản
Việt Nam: thành tựu, bài học qua 20 năm,
7.

Website Tổng cục Thống kê: Tình hình kinh tế-xã hội năm 2016, 2017,
2018. />
13



×