Tải bản đầy đủ (.doc) (20 trang)

Lịch sử ra đời và quá trình phát triển của tiền tệ

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (666.88 KB, 20 trang )

LỜI NÓI ĐẦU
Trong quá trình hình thành phát triển kinh tế hàng hoá, tiền tệ đã lần lượt tồn tại
dưới nhiều hình thái khác nhau nhằm đáp ứng cho nhu cầu phát triển của nền kinh tế,
đặc biệt là hoạt động sản xuất, lưu thông, trao đổi hàng hoá. Cùng với nó là hệ thống
các lý thuyết tiền tệ của các nhà kinh tế học qua các thời kỳ đã nghiên cứu về nguồn
gốc, bản chất, chức năng của tiền tệ, nghiên cứu về quy luật tiền tệ, mức cung, mức cầu
tiền tệ để có các chính sách tiền tệ cho phù hợp. Để khái quát hóa quá trình hình thành
và lịch sử phát triển tiền tệ trong các học thuyết kinh tế của các nhà kinh tế học, học
viên xin được trình bày tiểu luận “Lịch sử ra đời và quá trình phát triển của tiền tệ”.
Qua đó, rút ra ý nghĩa của việc nghiên cứu đối với Việt Nam hiện nay. Mặc dù học viên
đã nỗ lực, cố gắng nghiên cứu, tìm hiểu, song tiểu luận này không tránh khỏi những
kiếm khuyết, rất mong được sự hướng dẫn, góp ý của các thầy cô và các học viên quan
tâm để bổ sung, chỉnh sửa, góp phần hoàn thiện tiểu luận này.
Trân trọng!

Page 1 of 17


I)
LỊCH SỬ RA ĐỜI CỦA TIỀN TỆ
Lịch sử hình thành và phát triển của của tiền tệ trải qua nhiều giai đoạn mà mỗi giai
đoạn lại mang các đặc điểm khác nhau. Trong lịch sử phát triển của loài người, lúc đầu
con người sống thành bầy đàn, kiếm ăn một cách tự nhiên, chưa có chiếm hữu tư nhân,
chưa có sản xuất và trao đổi hàng hóa nên chưa có tiền tệ. Tuy nhiên, ngay từ trong xã
hội nguyên thủy đã xuất hiện mầm móng của sự trao đổi. Lúc đầu trao đổi mang tính
chất ngẫu nhiên và được tiến hành trực tiếp vật này lấy vật khác. Giá trị (tương đối) của
một vật được biểu hiện bởi giá trị sử dụng của một vật khác duy nhất đóng vai trò vật
ngang giá. Khi sự phân công lao động xã hội lần thứ nhất xuất hiện, hoạt động trao đổi
diễn ra thường xuyên hơn. Tương ứng với giai đoạn phát triển này của trao đổi là hình
thái giá trị mở rộng. Tham gia trao đổi bây giờ không phải là hai loại hàng hóa mà là
một loạt các loại hàng hóa khác nhau. Đây là một bước phát triển mới, tiến bộ so với


hình thái giá trị giản đơn, song bản thân nó còn bộc lộ một số thiếu sót:
-Biểu hiện tương đối của giá trị mọi hàng hóa chưa được hoàn tất, vẫn còn nhiều
hàng hóa làm vật ngang giá.
-Các hàng hóa biểu hiện cho giá trị của một hàng hóa không thuần nhất.
Phân công lao động xã hội và sản xuất phát triển thì hình thức trao đổi hàng hóa trực
tiếp ngày càng bộc lộ các nhược điểm của nó. Các hàng hóa chỉ được trao đổi với nhau
khi những người chủ của nó có cùng ý muốn trao đổi, ý muốn trùng khớp. Như vậy,
cùng với sự phát triển của sản xuất thì trao đổi trực tiếp ngày càng khó khăn và làm cho
mâu thuẫn trong lao động và phân hóa lao động xã hội ngày càng tăng. Do đó, tất yếu
Page 2 of 17


đòi hỏi phải có một thứ hàng hóa đặc biệt đóng vai trò vật ngang giá chung tất ra từ tất
cả các thứ hàng hóa khác và các hàng hóa khác có thể trao đổi được với nó. Thích ứng
với giai đoạn phát triển này của trao đổi là hình thái giá trị chung. Nhưng trong giai
đoạn này, tác dụng của vật ngang giá chung vẫn chưa cụ thể tại một thứ hàng hóa nào,
trong những vùng khác nhau tì có những thứ hàng hóa khác nhau có tác dụng làm vật
ngang giá chung. Cuộc phân công lao động xã hội lần thứ hai xuất hiện, thủ công
nghiệp tách khỏi nông nghiệp làm cho sản xuất hàng hóa phát triển và thị trường mở
rộng. Tình trạng nhiều hàng hóa có tác dụng vật ngang giá chung phát sinh mâu thuẫn
với nhu cầu ngày càng tăng của thị trường, thị trường đòi hỏi phải thống nhất một vật
ngang giá đơn nhất. Khi vật ngang giá chung cố định ở một loại hàng hóa thì sinh ra
hình thái tiền tệ. Khi đó, tất cả hàng hóa được biểu hiện giá trị của nó trong một thứ
hàng hóa, thứ hàng hóa đó trở thành vật ngang giá chung.
Như vậy, tiền tệ xuất hiện sau một quá trình phát triển lâu dài của trao đổi và của các
hình thái giá trị. Tóm lại, tiền tệ là một phạm trù lịch sử, nó là sản phẩm tự phát của nền
kinh tế hàng hóa, sản phẩm của sự phát triển các hình thái giá trị. Đồng thời cũng là sản
phẩm của sự phát triển mâu thuẫn giữa lao động và phân công lao động xã hội trong sản
xuất hàng hóa. Sự ra đời và phát triển của tiền tệ gắn liền với sự ra đời và phát triển của
sản xuất và trao đổi hàng hóa.

II)
KHÁI NIỆM VÀ BẢN CHẤT CỦA TIỀN TỆ
Chúng ta đều biết tiền tệ là một thuật ngữ rất quen thuộc trong đời sống kinh tế xã
hội, tuy nhiên, khó có thể tìm ra một khái niệm thống nhất về tiền tệ. Để tìm hiểu về bản

Page 3 of 17


chất và từ đó suy ra khái niệm thế nào là tiền tệ, chúng ta cần quay lại quá trình phát
triển các hình thái giá trị trong nền kinh tế hàng hóa.
a) Sự phát triển các hình thái giá trị
Trong nền kinh tế hàng hóa, giá trị được biểu hiện thông qua bốn hình thái cụ thể:
hình thái giá trị đơn giản hay ngẫu nhiên, hình thái giá trị đầy đủ hay mở rộng, hình thái
chung của giá trị, hình thái tiền tệ. Dưới đây sẽ lần lượt làm rõ từng loại hình thái giá trị
trên.
Hình thái giá trị giản đơn hay ngẫu nhiên:
Đây là hình thái phôi thai của giá trị, nó xuất hiện trong giai đoạn đầu của trao
đổi hàng hoá, khi trao đổi mang tính chất ngẫu nhiên, người ta trao đổi trực tiếp vật này
lấy vật khác.
VD: 1m vải= 10kg thóc
+ Tuy là hình thái đơn giản nhưng bản thân nó lại không đơn giản, lại bao gồm hai hình
thái: hình thái tương đối và hình thái ngang giá. Hai hình thái này là hai mặt liên quan
với nhau, không thể tách rời nhau đồng thời là hai cực đối lập của một phương trình giá
trị.Trong hình thái giá trị giản đơn hay ngẫu nhiên thì tỉ lệ trao đổi chưa cố định
+ Hình thái giản đơn, giá trị của một hàng hóa chỉ được phát hiện ở một hàng hoá nhất
định khác với nó, chứ không biểu hiện ở mọi hàng hoá khác.
Hình thái giá trị đầy đủ hay mở rộng
Khi lực lượng sản xuất phát triển hơn, sau phân công lao động xã hội lần thứ
nhất, chăn nuôi tách khỏi trồng trọt, trao đổi trở lên thường xuyên hơn, một hàng hoá
này có thể quan hệ với nhiều hàng hoá khác.

VD: 1m vải =10kg thóc hoặ 2 con gà, hoặc 0,1 chỉ vàng
Đây là sự mở rộng hình thái giá trị giản đơn hay ngẫu nhiên.Tuy nhiên đây vẫn là trao
đổi trực tiếp tỉ lệ trao đổi chưa cố định.
Hình thái chung của giá trị
Page 4 of 17


Với sự phát triển cao hơn nữa lực lượng sản xuất và phân công lao động xã hội,
hàng hoá được đưa ra trao đổi thường xuyên đa dạng và nhiều hơn. Nhu cầu trao đổi do
đó trở nên phức tạp hơn, vì thế việc trao đổi trực tiếp không còn thích hợp và gây trở
ngại cho trao đổi. Trong tình hình đó người ta phải đi con đường vòng, mang hàng hoá
của mình đổi lấy thứ hàng hoá được nhiều người ưu chuộng, rồi đem hàng hoá đổi lấy
thứ hàng hoá mà mình cần khi vật trung gian trong đó trao đổi được cố định lại thì ở thứ
hàng hoá được nhiều người ưu chuộng thì hình thái chung của giá trị xuất hiện.
VD: 10 kg thóc hoặc 1 con gà, hoặc 0,1 chỉ vàng = 1 m vải
Hình thái tiền tệ
Khi lực lượng và phân công lao đông xã hội phát triển hơn nữa, sản xuất hàng
hoá và thị trường ngày càng mở rộng thì tình trạng có nhiểu vật ngang giá chung làm
cho trao đổi giữa các địa phương vấp phải khó khan, do đó dẫn đến đòi hỏi khách quan
phải hình thành vật ngang giá chung thống nhất.Khi vật ngang giá chung được cố định
lại ở một vật độc tôn và phổ biến thì xuất hiện hình thái của giá trị.
VD: 10 kg thóc hoặc 1m vải hoặc 2 con gà= 1 chỉ vàng
Tiền tệ xuất hiện là kết quả phát triển lâu dài của sản xuất và trao đổi hàng hoá, khi tiền
tệ ra đời thì thế giới hàng hoá được phân thành hai cực: một bên là các hàng hoá thông
thường, một bên là hàng hoá đóng vai trò tiền tệ. Đến đây giá trị các hàng hoá đã có
một phương tiện biểu hiện thống nhất, tỷ lệ trao đổi được cố định lại.
b) Bản chất của tiền tệ
Qua việc nghiên cứu về quá trình phát triển của các hình thái giá trị, ta có thể kết
luận:” Tiền tệ là một hình thái giá trị của hàng hóa, là sản phẩm của quá trình phát
triển và trao đổi hàng hóa”. Ở đây có một điều đáng chú ý là các nhà nghiên cứu khác

giải thích tiền tệ từ hình thái phát triển cao nhất của nó, xét về cơ bản là đi ngược lại
Page 5 of 17


với trình tự nghiên cứu hiệu quả và kết quả nghiên cứu thu được theo đó cũng thiếu đi
độ chuẩn xác, nói cách khác là đã không làm rõ được bản chất của tiền tệ. Trái lại, Các
Mác nghiên cứu tiền tệ từ lịch sử phát triển của sản xuất và trao đổi hàng hóa và từ sự
phát triển các hình thái giá trị hàng hóa, chính vì thế mà tìm ra nguồn gốc và bản chất
của tiền tệ.
Vậy có thể kết luận: tiền tệ là hàng hóa đặc biệt được tách ra từ trong thế giới
hàng hóa, làm vật ngang giá chung thống nhất cho các hàng hóa khác, nó thể hiện lao
động xã hội và biểu hiện quan hệ giữa những người sản xuất hàng hóa.
III) CÁC HÌNH THÁI TIỀN TỆ
Khi tiền tệ ra đời thì bối cảnh xã hội và nhu cầu trao đổi hàng hóa lại đặt ra một
yêu cầu mới, đó là hình thái của tiền tệ: dùng hàng hóa nào làm vật ngang giá chung,
làm sao để cất giữ hay chuyên chở loại hàng hóa đó với số lượng lớn đủ đáp ứng cho
nhu cầu thị trường…Vậy xã hội ngày ấy đã giải quyết vấn đề nan giải này như thế nào,
chúng ta cùng nhìn lại quá trình phát triển các hình thái của tiền tệ từ đơn giản tới phức
tạp.
1) Hóa tệ
Sản xuất và trao đổi hàng hóa ngày càng phát triển, sự trao đổi không còn ngẫu
nhiên, không còn trên cơ sở của định giá giản đơn. Trao đổi đã vượt ra khỏi cái khung
nhỏ hẹp một vài hàng hóa đòi hỏi phải có một hàng hóa có tính đồng nhất, tiện dụng
trong vai trò của vật ngang giá, tạo điều kiện thuận lợi trong trao đổi và bảo tồn giá trị.

Page 6 of 17


Đó cũng chính là chức năng của hóa tệ, hóa tệ bao gồm hóa tệ không kim loại và hóa tệ
bằng kim loại.

a) Hóa tệ không kim loại
Là hóa tệ không phải được làm từ kim loại và không có bản chất của không có
bản chất kim loại.
Những hình thức hóa tệ ( tiền tệ ) đầu tiên khá lạ lùng, chủ yếu là những vật trang
sức hay những vật có thể ăn. Một vài ví dụ có thể kể đến như thổ dân ở các bờ
biển Châu Á, Châu Phi, trước đây đã dùng vỏ sò, vỏ ốc làm tiền;
mạch được sử dụng ở vùng Lưỡng Hà,

gạo được dùng

lúa mì và đại
ở quần đảo Philippines.

Trước Công nguyên, ở Trung Quốc kê và lụa được sử dụng làm tiền… Tuy nhiên, tiền
tệ bằng hàng hóa có những bất tiện nhất định trong quá trình trao đổi cũng như không
được chấp nhận ở tất cả mọi nơi, mặt khác nó còn dễ hư hỏng, không đồng nhất. Vì vậy
cần có một loại hóa tệ khác có khả năng khắc phục những nhược điểm trên.
b) Hóa tệ bằng kim loại
Là hóa tệ được làm bằng kim loại. 
Các kim loại được dùng làm tiền tệ gồm: đồng, kẽm, vàng, bạc…nói chung, các
kim loại có nhiều ưu điểm hơn hẳn hàng hóa không kim loại khi được sử dụng làm
thành tiền tệ như: phẩm chất, trọng lượng có thể quy đổi chính xác hơn, dễ dàng hơn.
Mặt khác nó hao mòn chậm hơn, dễ chia nhỏ, giá trị tương đối ít biến đổi…trải qua thực
tiễn trao đổi và lưu thông hóa tệ kim loại, dần dần người ta chỉ chọn hai kim loại dùng
để làm tiền tệ lâu dài hơn là vàng và bạc. Sở dĩ vàng hay bạc trở thành tiền tệ lâu dài là
vì bản thân nó có những thuận tiện mà những kim loại khác không có được như: tính
đồng nhất, tính dễ chia nhỏ, tính dễ cất trữ, tính dễ lưu thông.
Page 7 of 17



Một số ví dụ về sử dụng hóa tệ kim loại có thể kể đến như:
Tiền bằng chì chỉ xuất hiện đầu tiên ở Trung Quốc dưới dạng một
thỏi dài có lỗ ở một đầu để có thể xâu thành chuỗi. Tiền bằng hợp kim

vàng

và bạc xuất hiện đầu tiên vào những năm 685 – 652 trước Công nguyên ở vùng Tiểu Á
và Hy Lạp có đóng dấu in hình nổi để đảm bảo giá trị. Các đồng tiền bằng kim lại đã
sớm xuất hiện ở vùng Địa Trung Hải. Tiền kim loại đầu tiên ở Anh làm bằng thiếc, ở
Thuỵ Sĩ và Nga bằng đồng. Khi bạch kim mới được phát hiện, trong thời kỳ 1828
– 1844, người Nga cho đó là kim loại không sử dụng được nên đem đúc tiền.
Tuy nhiên những hóa tệ bằng kim loại này lại có nhược điểm là cồng kềnh, khó
cất giữ, khó chuyên chở… Công cuộc tìm ra một loại tiền tệ mới lại tiếp tục và sản
phẩm tiếp theo của quá trình này là tín tệ.
2) Tín tệ
Tín tệ là thứ tiền mà tự nó không có giá trị nhưng do sự tín nhiệm của mọi người
mà nó được lưu dụng.
Tín tệ gồm hai loại: tín tệ kim loại và tiền giấy. Tiền kim loại thuộc hình thái tín
tệ khác với tiền kim loại thuộc hình thái hóa tệ ở chỗ: trong hóa tệ kim loại giá trị
của kim loại làm thành tiền bằng giá trị ghi trên bề mặt của đồng tiền, còn ở tín tệ
kim loại, giá trị chất kim laọi đúc thành tiền và giá trị ghi trên bề mặt của đồng
tiền không có liên hệ gì với nhau, có thể gắn cho nó một giá trị nào cũng được.
Tiền giấy tiền giấy có hai loại: tiền giấy khả hoán và tiền giấy bất khả hoán.
- Tiền giấy khả hoán: là một mảnh giấy được in thành tiền và lưu hành,
thay thế cho tiền bằng vàng hay tiền bằng bạc mà người ta không gửi tại ngân
hàng. Người có loại tiền này có thể đến ngân hàng để đổi lấy một số lượng vàng
Page 8 of 17


hay bạc tương đương với giá trị ghi trên tờ giấy hoặc sử dụng làm tiền vào bất cứ

lúc nào họ cần. Tại phương tây, tiền giấy khả hoán xuất hiện vào thế kỷ XVII.
Ông Palmstruck, người sang lập ra ngân hàng Stockholm của Thụy Điển vào thế
kỷ XVII được công nhận là người đầu tiên sang chế ra tiền giấy khả hoán. Ở
phương đông, tiền giấy khả hoán xuất hiện sớm hơn hẳn ở phương tây.
- Tiền giấy bất khả hoán: là loại tiền giấy bắt buộc lưu hành và dân chúng
không thể đem nó đến ngân hàng để đổi lấy vàng hay bạc. Đây là loại tiền giấy
mà ngày nay tất cả các quốc gia trên thế giới đều sử dụng.
Tại Việt Nam, tiền giấy ra đời vào thế kỷ XV, dưới thời Hồ Quý Ly.
Tại pháp, tiền giấy trở thành bất khả hoán năm 1720. Tại Mỹ, trong thời gian nội
chiến vào những năm 1862-1863, nhiều nước đã phát hành tiền giấy bất khả
hoán. Sau nội chiến kết thúc, trở thành khả hoán kể từ năm 1879.
Có thể nói, chiến tranh thế giới lần thứ nhất và cuộc khủng hoảng kinh tế 19291933 là nguyên nhân chính để dẫn đến việc sử dụng tiền giấy bất khả hoán rộng
khắp các nước.
3) Bút tệ
Bút tệ là một hình thái tiền tệ được sử dụng bằng cách ghi chép trong sổ sách kế
toán của ngân hàng.
Bút tệ không có hình thái vật chất, nó chỉ là những con số trả tiền hay
chuyển tiền thể hiện trên tài khoản ngân hàng. thực chất, bút tệ là tiền phi vật
chất, nhưng nó cũng có những tính chất giống như tiền giấy là được sử dụng
trong thanh toán qua những công cụ thanh toán của ngân hàng như: séc, lệnh
Page 9 of 17


chuyển tiền…mà còn có những ưu điểm hơn hẳn tiền giấy, đó là: an toàn hơn,
chuyển đổi ra tiền giấy dễ dàng, thanh toán rất thuận tiện, kiểm nhận nhanh.
Về nguồn gốc, trong kinh tế học người ta cho rằng bút tệ xuất hiện đầu tiên tại
ngân hàng Anh vào giữa thế kỷ 19, sau đó dần dần lan sang các quốc gia khác.
Ngày nay, bút tệ được sử dụng rộng rãi trong các cuộc giao dịch tại các nước
công nghiệp, hậu công nghiệp.
Có thể thấy dù ở bất cứ nền kinh tế nào, dù ở bất cứ mức độ phát triển

nào, tiền tệ cũng có tính chất đa dạng nhất định của nó. Do vậy, việc tồn tại
nhiều hình thái tiền tệ để thỏa mãn tất cả những nhu cầu đa dạng của xã hội, của
các cá nhân là điều tất nhiên. Các hình thái tiền tệ càng về sau càng có nhiều ưu
điểm và được sử dụng rộng rãi hơn.
IV) VAI TRÒ CỦA TIỀN TỆ
Trong nền kinh tế thị trường, tiền tệ đóng vai trò cốt lõi không thể thay thế
được. Cụ thể, vai trò của tiền tệ được thể hiện ở ba mặt:
- Thứ nhất: Tiền tệ là phương tiện không thể thiếu để mở rộng và phát triển
nền kinh tế hàng hóa.
C.Mác đã chỉ ra rằng, người ta khổng thể tiến hành sản xuất hàng hóa nếu như
không có tiền và sự vận động của nó. Khi tiền tệ tham gia trong chức năng thước đo giá
trị và phương tiện lưu thông là cho việc đo lường và biểu hiện giá trị của hàng hóa trở
nên giản đơn, thuận lợi và thống nhất, làm cho sự vận động của hàng hóa trong lưu
thông tiến hành một cách trôi chảy. Mặt khác, khi sử dụng tiền trong sản xuất kinh
doanh giúp cho người sản xuất có thể hạch toán được chi phí và xác định kết quả sản
xuất kinh doanh, thực hiện được tích lũy tiền tệ để thực hiện tái sản xuất kinh doanh
Page 10 of 17


Tiền tệ trở thành công cụ duy nhất và không thể thiêu để thực hiện yêu cầu quy luật giá
trị. Vì vậy, nó là công cụ không thể thiếu được để mở rộng và phát triển nền kinh tế
hàng hóa
- Thứ hai: Tiền tệ là phương tiện không thể thiếu để mở rộng và phát triển
nền kinh tế hàng hóa.
Trong điều kiện của nền kinh tế hàng hóa phát triển chuyển sang nền kinh tế thị
trường thì tiền tệ không những là phương tiện thực hiện các quan hệ kinh tế xã hội trong
phạm vi quốc gia mà còn là phương tiện quan trọng để thực hiện và mở rộng quan hệ
hợp tác quốc tế. Cùng với ngoại thương, các quan hệ thanh toán và tín dụng quốc tế,
tiền tệ phát huy vai trò của mình để trở thành phương tiện cho việc thực hiện và mở
rộng các quan hệ quốc tế, nhất là đối với các mối quan hệ nhiều mặt giữa các quốc gia

trên thế giới hình thành và phát triển làm cho xu thế hội nhập trên các lĩnh vực kinh tế
xã hội, tài chính, tiền tệ ngân hàng, hợp tác khoa học kỹ thuật giữa các nước.
- Thứ ba: Tiền tệ là công cụ để phục vụ cho mục đích của người sử dụng
chúng.
Trong điều kiện của nền kinh tế hàng hóa phát triển cao thì hầu hết các mối quan
hệ kinh tế-xã hội đều được tiền tệ hóa, mọi cá nhân, tổ chức, cơ quan…đều không thể
thoát ly khỏi các quan hệ tiền tệ. Trong điều kiện tiền tệ trở thành công cụ có quyền lực
vạn năng, xử lí và giải tỏa mối ràng buộc phát sinh trong nền kinh tế xã hội không
những trong phạm vi quốc gia mà còn phạm vi quốc tế. Chính vì vậy mà tiền tệ có thể
thỏa mãn mọi mục đích và quyền lợi cho những ai đang nắm giữ tiền tệ. Chừng nào còn

Page 11 of 17


tồn tại nền kinh tế hàng hóa và tiền tệ thì thế lực của đồng tiền vẫn còn phát huy sức
mạnh của nó.
Vậy vai trò của tiền tệ trong nền kinh tế thị trường là vô cùng quan trọng, nó ảnh
hưởng và chi phối mọi hoạt động trao đổi hàng hóa.
V)
CHỨC NĂNG CỦA TIỀN TỆ
Theo C. Mác tiền tệ có năm chức năng:
1) Tiền tệ dùng để biểu hiện và đo lường giá trị của các hàng hoá.
Muốn đo lường giá trị của các hàng hoá, bản thân tiền tệ phải có giá trị. Vì vậy,
tiền tệ làm chức năng thước đo giá trị phải là tiền vàng. Để đo lường giá trị hàng hoá
không cần thiết phải là tiền mặt mà chỉ cần so sánh với lượng vàng nào đó một cách
tưởng tượng. Sở dĩ có thể làm được như vậy, vì giữa giá trị của vàng và giá trị của hàng
hoá trong thực tế đã có một tỷ lệ nhất định. Cơ sở của tỷ lệ đó là thời gian lao động xã
hội cần thiết hao phí để sản xuất ra hàng hoá đó. Giá trị hàng hoá được biểu hiện bằng
tiền gọi là giá cả hàng hoá. Do đó, giá cả là hình thức biểu hiện bằng tiền của giá trị
hàng hoá. Giá cả hàng hoá do các yếu tố sau đây quyết định:

+ Giá trị hàng hoá.
+ Giá trị của tiền.
+ Ảnh hưởng của quan hệ cung - cầu hàng hoá.
Để làm chức năng thước đo giá trị thì bản thân tiền tệ cũng phải được đo lường.
Do đó, phải có đơn vị đo lường tiền tệ. Đơn vị đó là một trọng lượng nhất định của kim
loại dùng làm tiền tệ. ở mỗi nước, đơn vị tiền tệ này có tên gọi khác nhau. Đơn vị tiền tệ
và các phần chia nhỏ của nó là tiêu chuẩn giá cả. Tác dụng của tiền khi dùng làm tiêu
chuẩn giá cả không giống với tác dụng của nó khi dùng làm thước đo giá trị. Là thước
đo giá trị, tiền tệ đo lường giá trị của các hàng hoá khác; là tiêu chuẩn giá cả, tiền tệ đo
Page 12 of 17


lường bản thân kim loại dùng làm tiền tệ. Giá trị của hàng hoá tiền tệ thay đổi theo sự
thay đổi của số lượng lao động cần thiết để sản xuất ra hàng hoá đó. Giá trị hàng hoá
tiền tệ (vàng) thay đổi không ảnh hưởng gì đến "chức năng" tiêu chuẩn giá cả của nó,
mặc dù giá trị của vàng thay đổi như thế nào. Ví dụ, một USD vẫn bằng 10 xen.
2) Phương tiện lưu thông:
Với chức năng làm phương tiện lưu thông, tiền làm môi giới trong quá trình trao
đổi

hàng

hoá.

Để

làm

chức


năng

lưu

thông

hàng

hoá

ta

phải



tiền mặt. Trao đổi hàng hoá lấy tiền làm môi giới gọi là lưu thông hàng hoá.
Công thức lưu thông hàng hoá là: H- T - H, khi tiền làm môi giới trong trao đổi hàng
hoá đã làm cho hành vi bán và hành vi mua có thể tách rời nhau cả về thời gian và
không gian. Sự không nhất trí giữa mua và bán chứa đựng mầm mống của khủng hoảng
kinh tế. Trong lưu thông, lúc đầu tiền tệ xuất hiện dưới hình thức vàng thoi, bạc nén.
Dần dần nó được thay thế bằng tiền đúc. Trong quá trình lưu thông, tiền đúc bị hao mòn
dần và mất một phần giá trị của nó. Nhưng nó vẫn được xã hội chấp nhận như tiền đúc
đủ giá trị. Như vậy, giá trị thực của tiền tách rời giá trị danh nghĩa của nó. Sở dĩ có tình
trạng này vì tiền làm phương tiện lưu thông chỉ đóng vai trò chốc lát. Người ta đổi hàng
lấy tiền rồi lại dùng nó để mua hàng mà mình cần. Làm phương tiện lưu thông, tiền
không nhất thiết phải có đủ giá trị. Lợi dụng tình hình đó, khi đúc tiền nhà nước tìm
cách giảm bớt hàm lượng kim loại của đơn vị tiền tệ. Giá trị thực của tiền đúc ngày
càng thấp so với giá trị danh nghĩa của nó. Thực tiễn đó dẫn đến sự ra đời của tiền giấy.


Page 13 of 17


Bản thân tiền giấy không có giá trị mà chỉ là dấu hiệu của giá trị và được công nhận
trong phạm vi quốc gia.
3) Phương tiện cất trữ.
Làm phương tiện cất trữ, tức là tiền được rút khỏi lưu thông đi vào cất trữ. Sở dĩ tiền
làm được chức năng này là vì: tiền là đại biểu cho của cải xã hội dưới hình thái giá trị,
nên cất trữ tiền là một hình thức cất trữ của cải. Để làm chức năng phương tiện cất trữ,
tiền phải có đủ giá trị, tức là tiền vàng, bạc. Chức năng cất trữ làm cho tiền trong lưu
thông

thích

ứng

một

cách

tự

phát

với

nhu

cầu


tiền

cần

thiết

cho

lưu thông. Nếu sản xuất tăng, lượng hàng hoá nhiều thì tiền cất trữ được đưa vào lưu
thông. Ngược lại, nếu sản xuất giảm, lượng hàng hoá lại ít thì một phần tiền vàng rút
khỏi lưu thông đi vào cất trữ.
4) Phương tiện thanh toán.
Làm phương tiện thanh toán, tiền được dùng để trả nợ, nộp thuế, trả tiền mua
chịu hàng ... Khi sản xuất và trao đổi hàng hoá phát triển đến trình độ nào đó tất yếu nảy
sinh việc mua bán chịu. Trong hình thức giao dịch này trước tiên tiền làm chức năng
thước đo giá trị để định giá cả hàng hoá. Nhưng vì là mua bán chịu nên đến kỳ hạn tiền
mới được đưa vào lưu thông để làm phương tiện thanh toán. Sự phát triển của quan hệ
mua bán chịu này một mặt tạo khả năng trả nợ bằng cách thanh toán khấu trừ lẫn nhau
không dùng tiền mặt. Mặt khác, trong việc mua bán chịu người mua trở thành con nợ,
người bán trở thành chủ nợ. Khi hệ thống chủ nợ và con nợ phát triển rộng rãi, đến kỳ
thanh toán, nếu một khâu nào đó không thanh toán được sẽ gây khó khăn cho các khâu
khác, phá vỡ hệ thống, khả năng khủng hoảng kinh tế tang lên.
5) - Tiền tệ thế giới.
Page 14 of 17


Khi trao đổi hàng hoá vượt khỏi biên giới quốc gia thì tiền làm chức năng tiền tệ
thế giới. Với chức năng này, tiền phải có đủ giá trị, phải trở lại hình thái ban đầu của nó
là vàng. Trong chức năng này, vàng được dùng làm phương tiện mua bán hàng, phương
tiện thanh toán quốc tế và biểu hiện của cải nói chung của xã hội.

Tóm lại: Năm chức năng của tiền trong nền kinh tế hàng hoá quan hệ mật thiết
với nhau. Sự phát triển các chức năng của tiền phản ánh sự phát triển của sản xuất và
lưu thông hàng hoá.
VI) TỔNG KẾT
Sự ra đời và phát triển của tiền tệ trải qua nhiều giai đoạn, mỗi giai đoạn lại mang
những đặc điểm riêng biệt nhưng thống nhất với nhau. Tiền tệ là kết quả cuối cùng của
quá trình phát triển các hình thái giá trị, là biểu hiện cao nhất của quá trình biến đổi
trong hệ thống các vật trao đổi ngang giá, mang đến nhiều sự thuận lợi và giá trị kinh tế
cho nhân loại.
Việc nghiên cứu về lịch sử ra đời và các giai đoạn phát triển của tiền tệ cho chúng
ta một cái nhìn rõ nét về một quá trình đóng vai trò quan trọng bậc nhất trong lịch sử
phát triển của nền kinh tế hàng hóa. Việc phát minh ra tiền tệ là một bước tiến lớn trong
lịch sử nhân loại nói chung vì nó giúp đơn giản hóa việc trao đổi hàng hóa và là cơ sở
phát triển nền kinh tế thị trường. Trong thời kì mở cửa của nền kinh tế Việt Nam hiện
nay, việc nghiên cứu để có những hiểu biết cơ bản về lịch sử tiền tệ và quá trình phát
triển của nó thực sự giúp ích rất nhiều đối với việc tìm ra những giải pháp nhằm thúc
đẩy nền kinh tế nước nhà càng thêm lớn mạnh và thịnh đạt.
VII) PHỤ LỤC
1) Phụ lục 1
Page 15 of 17


Hình ảnh tóm tắt lịch sử ra đời và quá trình phát triển của tiền tệ
Page 16 of 17


2) PHỤ LỤC 2
TÀI LIỆU THAM KHẢO:
- Giáo trình kinh tế chính trị Mác- Lênin
- />- Tintuc.timnhanh.com

- Vietnamnet.vn
- www.agro.gov.vn

Page 17 of 17



×