Tải bản đầy đủ (.docx) (11 trang)

CÁC GIẢI PHÁP NÂNG CAO NĂNG SUẤT LAO ĐỘNG của DOANH NGHIỆP VIỆT NAM

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (139.34 KB, 11 trang )

PHẦN 1: LỜI MỞ ĐẦU

Đất nước ta đang trong quá trình hội nhập, phát triển năng động nhất từ trước đến
nay và đạt được nhiều thành tựu quan trọng. Chúng ta đã và đang tiến hành nhiều cuộc
cải cách đất nước, trong đó có lĩnh vực kinh tế. Các nhà doanh nghiệp Việt Nam luôn tự
hào rằng là nguồn lao động của nước ta dồi dào, như thế sẽ giúp cho các doanh nghiệp
tận dụng ưu thế này để có thể cạnh tranh tốt hơn, thu hút nhiều nguồn vốn đầu tư của các
doanh nghiệp, công ty lớn trên thế giới. Nhưng khi nhìn vào nguồn lao động của nước ta
hiện nay, thống kê lao động Việt Nam có năng suất thấp, chưa được đào tạo kĩ ( có
khoảng 37% lao động được đào tạo) còn lại là lao động phổ thông có năng suất thấp.
Điều đó gây ảnh hưởng, khó khăn cho quá trình đổi mới đất nước của chúng ta hiện nay

Thấy được thực trạng trên nên em muốn thông qua quá trình nghiên cứu về vấn đề
năng suát lao động của doang nghiệp Việt Nam để hiểu thêm được tình hình năng suất
lao động của người lao động nước ta và đưa ra những giải pháp nhằm góp phần nâng cao
năng suất lao động của Việt Nam trong quá trình đổi mới, góp phần tích cực vào quá
trình đổi mới, hội nhập của nền kinh tế nước ta. Vì vậy, em đã chọn đề tài: “Các giải
pháp tăng năng suất lao động của doanh nghiệp Việt Nam.

Trang 1 | 11


PHẦN II: NỘI DUNG

I/ MỘT SỐ VẤN ĐỀ KHÁI QUÁT VỀ NĂNG SUẤT LAO ĐỘNG
1.Năng suất lao động là gì?
Theo Tổ chức Hợp tác và Phát triển Kinh tế, trong cuốn “Đo lường năng suất, đo lường
tốc độ tăng năng suất tổng thể và năng suất ngành xuất bản năm 2002”, năng suất lao
động là tỉ lệ giữa đầu ra và đầu vào. Nếu đầu ra là tổng giá trị quốc nội hoặc tổng giá trị
gia tăng thì đầu vào lại là giờ công lao động, lực lương lao động và số lượng lao động
đang làm việc.


Không ngừng tăng năng suất lao động là cơ sở để tái sản xuất mở rộng, giảm giá thành
sản phẩm dịch vụ, tăng lợi nhuận và cải thiện đời sống người lao động.

2, Tầm quan trọng của năng suất lao động
Nâng cao năng suất lao động là yếu tố quyết định tăng trưởng kinh tế đến việc tạo ra giá
trị thặng dư, tạo điều kiện cho tích lũy tái đầu tư và nâng cao thu nhập, sức mua có khả
năng thanh toán và cải thiện đời sống. Việc năng suất lao động tăng sẽ giúp cho quá trình
sản xuất được nhanh hơn, tạo ra nhiều sản phẩm có chất lượng hơn. Khi năng suất lao
động được cải thiện thì quá trình tuyển chọn lao động, nhân viên sẽ được triển khai một
cách nhanh chóng, có hiệu quả. Không những thế thì khi lao động Việt Nam sẽ được cải
Trang 2 | 11


thiện về năng suất thì sẽ thu hút nhiều daonh nghiệp nước ngoài vaofddaauf tư nghiên
cứu và kinh doanh tại Việt Nam.
Hơn nữa, năng suất lao động cao là yếu tố quyết định đến hiệu quả và sức cạnh tranh của
sản phẩm, doanh nghiệp và quốc gia, tận dụng cơ hội, hạn chế thách thức khi gia nhập Tổ
chức Thương mại thế giới (WTO). Nước ta có nguồn lực dồi dào (gần 46 triệu lao động),
năng suất lao động cao sẽ mang đến ưu thế rất lớn, có thể canh tranh với những nước
trong khu vực và trên thế giới, tạo ra những thế mạnh lớn trong quá trình hội nhập vào
nền kinh tế thế giới.

3, Một số nguyên nhân khiến năng suất lao động của các doang ngiệp Việt
Nam còn hạn chế
 Nhiều doanh nghiệp chưa thực sự coi tăng năng suất lao động như một yếu tố có
tính quyết định đối với doanh nghiệp. Thông thường, các doanh nghiệp thường
tuyển nhân viên cao động phổ thông mà ít chú trọng đến việc vẫn có một lượng
lớn người lao động chưa đủ trình độ chuyên môn. Không những thế các nhà doanh
nghiệp cũng ít có chế độ đãi ngộ để cho người lao động tăng năng suất lao động.
 Chất lượng lao động chưa đạt chuẩn, thiếu kĩ năng chuyên môn để đạt năng suât

cao. Hệ lụy là thị trường lao động phát triển lệch pha, biến động và độ dịch
chuyển cao. Sựu biến động mạnh về giá cả vật tư đầu vào, hay việc cung ứng đầu
ra còn nhiều trở ngại cũng là những nguyên nhân đáng kể dẫn đến NSLĐ của Việt
Nam thấp hơn các nước trong khu vực.
 Sự lạc hậu về công nghệ, máy móc, thiết bị. Nhìn chung, trình độ công nghệ của
các ngành sản xuất nước ta hiện lạc hậu khoảng 2-3 thế hệ công nghệ so với các
nước trong khu vực. Tình trạng này hạn chế năng lực cạnh tranh của các doanh
nghiệp và nền kinh tế trong bối cảnh hội nhập kinh tế quốc tế và khu vực.
 Môi trường kinh doanh như sự biến động mạnh về giá cả thị trường các vật đầu tư
đầu vào, việc cung ứng các đầu vào còn nhiều trở ngại, đặc biệt là lao động có
Trang 3 | 11


trình độ. Tỷ lệ đào tạo giữa nước ta hiện nay giữa đại học, cao đẳng- trung cấp
chuyên nghiệp- học nghề là 10 : 9,8 : 30,3 ( so với các nước là 1: 4: 10)

4, Các yếu tố ảnh hưởng đến năng suất lao động
Theo các nghiên cứu thì có nhiều nhân tố tác động đến tăng năng suất lao động. Trong đó
chất lượng nguồn nhân lực và tác phong làm việc của người lao động có tác động mạnh
nhất đến năng suất lao động. Trình độ lành nghề và tác phong làm việc của người lao
động được thể hiện ra khi họ sử dụng các công cụ sản xuất thành thạo, đáp ứng hững yêu
cầu về chất lượng sản phẩm, cùng những sảm phẩm hành hóa có tính chuyên nghiệp hóa.
Người lao động có trình độ nghề nghiệp không những cần có kỹ năng lao động mà còn
phải có sáng tạo trong quá trình sản xuất. Thực tế cho thấy, chỉ khi nào người lao động,
người quản lí có kiến thức và trình độ nghề nghiệp thì mới tiếp cận , nhanh chóng tiếp
thu, vận dụng những thành tựu công nghệ khoa học hiện đại, có ý thức và tinh thần sáng
tạo.
Gắn liền với người lao động để tăng năng suất lao động là công cụ sảm xuất với trang bị
công nghệ và kĩ thuật ngày càng cao . Đó là máy móc, thiết bị, công cụ sản xuất tiên tiến
cùng các quy trình sản xuất và quản lí hiện đại, giảm bớt những chi phí trung gian.

Việc tăng năng suất lao động xã hội có tác động rất lớn đến cơ cấu lại nền kinh tế, thúc
đẩy nhanh quá trình đổi mới quản lí nền kinh tế và thực hiện những chính sách an sinh xã
hội. Chính vì vậy mà tăng năng suất lao động xã hội là yêu cầu thường xuyên và cấp thiết
để nền kinh tế của các quốc gia phát triển nhanh và bền vững. Như Lê-nin từng chỉ rõ:
“Suy cho cùng thì năng suất lao động là cái đảm bảo chắc chắn nhất cho chế độ xã hội
này chiến thắng chế độ xã hội khác.”

II/ THỰC TRẠNG NĂNG SUẤT LAO ĐỘNG TẠI CÁC DOANH
NGHIỆP VIỆT NAM HIỆN NAY
Trang 4 | 11


Tăng trưởng bền vững hiện đang đặt ra những thách thức lớn với Việt Nam, bởi là một
trong những nền kinh tế có mức tăng trưởng cao của khu vực, song tốc độ tăng trưởng
kinh tế Việt Nam lại đang có xu hướng giảm trong những năm gần đây. Cụ thể, từ 7,3%
trong giai đoạn 1990-2000 xuống còn 6,7% trong giai đoạn 2001-2010 và tiếp tục giảm
xuống 5,96% trong giai đoạn 2011-2016. Dự báo của các tổ chức quốc tế cho thấy, năm
2017, tăng trưởng kinh tế của Việt Nam có thể trở lại mức cao 6,7%, song đây chưa phải
là mức tăng trưởng bền vững.
Năng suất lao động là một chỉ số chính của thị trường lao động, phản ánh tăng trưởng
kinh tế bền vững, khả năng cạnh tranh và hiệu quả trong sử dụng lao động của mỗi quốc
gia. Theo các chuyên gia kinh tế, khi các động lực tăng trưởng kinh tế đã dần tới hạn, khi
cách thức tăng trưởng cũ (chủ yếu dựa vào việc gia tăng vốn đầu tư, thâm dụng lao động
chi phí thấp và khai thác tài nguyên...) đã không còn phù hợp, thì đòn bẩy cho tăng
trưởng bền vững chính là vấn đề tăng năng suất. Tăng năng suất lao động đang ngày càng
đóng vai trò quyết định đối với tăng trưởng kinh tế của Việt Nam.
Minh chứng là yếu tố này đã đóng góp khoảng 89% tăng trưởng GDP năm 2017, cao hơn
khá nhiều so với mức 66,3% giai đoạn 1990-2000 và 61,9% giai đoạn 2000-2012. Nếu
không tăng nhanh năng suất lao động, Việt Nam không thể nâng cao tốc độ tăng trưởng
GDP.

Tuy nhiên, Việt Nam hiện tại vẫn đang có một khoảng cách lớn về năng suất lao động
giữa các ngành, cũng như khi so sánh với các nước khác trong cùng khu vực. Số liệu của
Tổng cục Thống kê cho thấy, năng suất lao động của Việt Nam năm 2016 chỉ đạt 9.894
USD, tức chỉ bằng 7% của Singapore; 17,6% Malaysia; 36,5% Thái Lan; 42,5%
Indonesia; 56,7% Philippines và 87,4% Lào.
Nhận định của Viện Nghiên cứu quản lý kinh tế Trung ương tại Diễn đàn Phát triển Việt
Nam với chủ đề “Tăng năng suất – Đòn bẩy cho phát triển bền vững” được tổ chức mới
đây cũng cho rằng, năng suất lao động của Việt Nam vẫn còn thấp so với các nước trong
khu vực và so với yêu cầu phát triển. Khoảng cách năng suất lao động của Việt Nam với
các nước trong khu vực vẫn còn ở mức cao, so với Singapore năm 2016 là 14,3 lần; với
Maylaysia 5,7 lần, với Thái Lan 2,7 lần.

Trang 5 | 11


Báo cáo của Ngân hàng Thế giới tại Diễn đàn Phát triển Việt Nam cũng cho thấy, trong 5
năm qua, dù đạt mức tăng trưởng kinh tế đáng ghi nhận, nhưng năng suất lao động yếu là
vấn đề rất quan ngại với Việt Nam. Tốc độ tăng năng suất lao động của Việt Nam đạt
trung bình 4%/năm, ở cùng giai đoạn phát triển như Việt Nam, Trung Quốc đạt tốc độ
7%, Hàn Quốc là 5%. Mức tăng trưởng năng suất lao động trên sẽ khó giúp Việt Nam đạt
tăng trưởng nhanh và bền vững.
Theo nghiên cứu của Trung tâm Thông tin và Dự báo kinh tế - xã hội quốc gia, giai đoạn
2006-2016, mức đóng góp của năng suất lao động vào tốc độ tăng GDP của toàn nền
kinh tế khá lý tưởng, đạt 65,7% bình quân cả giai đoạn.
Số liệu về tốc độ tăng trưởng giá trị tăng thêm bình quân giai đoạn 2006-2016 của 20
ngành kinh tế cấp 1 cho thấy, tất cả các ngành kinh tế đều có tốc độ tăng trưởng dương,
song có tới 11/20 ngành kinh tế đạt được giá trị tăng trưởng dương không phải do đóng
góp chủ yếu của tăng năng suất lao động. Trong đó, có 4/20 ngành suy giảm năng suất
lao động bình quân trong giai đoạn 2006-2016 và 7/20 ngành kinh tế tăng trưởng giá trị
tăng thêm dựa vào tăng trưởng lao động (đóng góp của tăng năng suất lao động trong tốc

độ tăng trưởng chưa đạt mức lý tưởng 60%). Điều này cho thấy, nền kinh tế Việt Nam có
Trang 6 | 11


tới 50% số ngành kinh tế tăng trưởng giá trị tăng thêm không dựa vào tăng năng suất lao
động.
Như vậy, thời gian qua dù năng suất lao động của Việt Nam dù đã được cải thiện, song
vẫn ở mức thấp so với nhiều quốc gia trong khu vực và thấp so với nhu cầu phát triển.
Năm 2017, năng suất lao động của toàn nền kinh tế đã tăng 5,87%, cao hơn mức tăng
5,29% của năm 2016, nhưng vẫn chưa đáp ứng được yêu cầu nâng cao năng suất, chất
lượng và cải thiện sức cạnh tranh của nền kinh tế so với các nước trong khu vực.
Một thực trạng đáng lo ngại khác là các động lực trước đây trong tăng năng suất của kinh
tế Việt Nam đã có dấu hiệu chững lại như chuyển dịch cơ cấu kinh tế, từ chỗ đóng góp
phần lớn vào tăng năng suất lao động thì nay đã đóng góp ngày càng ít hơn. Nếu giai
đoạn 2008-2010, chuyển dịch cơ cấu ngành đóng góp khoảng 59%, thì giai đoạn 20112015 giảm xuống còn khoảng dưới 30%, có năm chỉ còn khoảng dưới 10%.
Cụ thể, trong lĩnh vực nông nghiệp – một trong những ngành được coi là thế mạnh của
Việt Nam, theo Viện Chiến lược phát triển nông nghiệp nông thôn, từ năm 2000 đến nay,
tốc độ tăng trưởng năng suất có dấu hiệu suy giảm. Tăng trưởng các nhân tố tổng hợp
TFP ở Việt Nam có xu hướng không cao và giảm dần. Các nước láng giềng như Trung
Quốc, Thái Lan, các nhân tố tổng hợp TFP đóng góp 80% vào tăng trưởng nông nghiệp,
ở Việt Nam giai đoạn 2000-2010 là 57%, từ năm 2010 trở lại đây chỉ 35%.
Ngoài ra, Việt Nam đang rơi vào tình trạng tăng trưởng năng suất bị chững lại. Đặc biệt,
năng suất vẫn thấp và giảm mạnh ở khu vực doanh nghiệp (DN) ngoài quốc doanh. Theo
nhóm nghiên cứu của Trung tâm Thông tin và Dự báo kinh tế - xã hội quốc gia đưa ra tại
Hội thảo Xu hướng phát triển của lao động trong các loại hình DN ở Việt Nam, ngày
14/9/2017, so với các loại hình DN khác, năng suất lao động bình quân hàng năm/lao
động trong DN ngoài quốc doanh đứng ở vị trí thấp nhất trong giai đoạn 2011-2014.
Khoảng cách về năng suất lao động của loại hình DN này với các loại hình DN đang
ngày càng nới rộng.


III/ CÁC GIẢI PHÁP TĂNG NĂNG SUẤT LAO ĐỘNG Ở CÁC
DOANH NGHIỆP VIỆT NAM
Trang 7 | 11


Trong điều kiện kinh tế thị trường và hội nhập kinh tế quốc tế, các doanh nghiệp phải đối
mặt với cạnh tranh gay gắt. Viêc sử dụng hiệu quả các nguồn lực, tăng năng suất lao
động có ý nghĩa quyết định sự sống còn và phát triển của doanh nghiệp. Trong những
năm từ 2001 đến 2008 năng suất lao động ở Việt Nam tăng gấp năm lần, nhưng còn nhỏ
bé vì GDP và thu nhập bình quân đầu người thấp. Năng suất lao động tuy tăng nhưng
không ổn định, không đều ở các ngành và thành phần kinh tế. Năng suất lao động ở thành
phần kinh tế có vốn đầu tư nước ngoài giảm sút, thành phần kinh tế ngoài nhà nước tăng
lên liên tục với mức cao, thành phần kinh tế nhà nước tăng nhưng không ổn định. So với
các nước thì năng suất lao động ở nước ta còn thấp, thí dụ năm 2006, so với Xin-ga-po
chỉ bằng 4,5%, so với Mỹ bằng 4,2% và bằng 53,2% so với Trung Quốc và với Lào chỉ
bằng 82,3%. Qua những thông tin trên em xin đưa ra những giải pháp nhằm nâng cap
năng suất lao động của người lao động trong các doanh nghiệp Việt Nam:
 Rà soát lại từ tổ chức quản lí, tổ chức sản xuất, thiết bị, công nghệ, lao động, vật
tư, nguyên liệu… đánh giá những điểm mạnh, điểm yếu, cơ hội và thách thức
theo (theo phương pháp SWOT) đối với từng khâu từng bộ phận, từng vấn đề
quan trọng trong doanh nghiệp và toàn bộ doang nghiệp
 Đổi mới tổ nghiệp chp phù hợp với điều kiện hiện nay, bao gồm đổi mới hình
thức doanh nghiệp, bộ máy quản lí doanh nghiệp và tổ chức sản xuất- kinh doanh
trong doanh nghiệp cho phù hợp với xu thế phát triển thời kì hội nhập kinh tế
hiện nay, nhất là chiến lược đối với công ty đa quốc gia
 Sử dụng nhân lực có hiệu quả, chú trọng từ khâu tuyển chọn, bố trí, sử dụng lao
động, bảo đảm lao động có trình độ, năng lực phù hợp; đồng thời tăng cường đào
tạo và đào tạo lại đến nâng cao trình độ, kỹ năng của người quản lí và người lao
động, tạo môi trường làn việc thân mật, cởi mở nhằm làm cho nhân viên gắn bó
hơn với doanh nghiệp, phát huy sáng kiến, tăng khả năng làm việc theo nhóm.

 Áp dụng các công cụ quản lí năng suất trong doanh nghiệp hiện đang được áp
dụng tại nhiều doanh nghiệp trên thế giới, trong đó có các qui mô, qui trình, hệ
thống quản lí như công cụ quản lí lãng phí (7W), mô hình Keizen của Nhật Bản
(5S), hệ thống quản lí chất lượng ISO, TQM,..
Trang 8 | 11


 Chú trọng đầu tư thiết bị, công nghệ phù hợp, lựa chọn công nghệ phù hợp với
điều kiện, khả năng của doanh nghiệp, chú ý đến yếu tố dài hạn và thân thiện với
môi trường. Trong xu hướng phát triển bền vững hiện nay, các doanh nghiệp cần
chú trọng thực hiện “ năng suất xanh” là một chiến lược tăng năng suất gắn với
bảo vệ môi trường do Tổ chức năng suất Châu Á(APO) đề xướng.
 Tạo lập môi trường, bao gồm môi trường tự nhiên, kinh tế, chính trị, xã hội, pháp
lí, công nghệ… điều kiện cho các doanh nghiệp hoạt động thuận lợi. Mỗi môi
trường sẽ có những thế mạnh riêng, tạo nên phong cách.
 Để năng suất lao động tăng tốc hơn nữa, một vấn đề có ý nghĩa tiên quyết là nhận
thức đầy đủ vai trò của năng suất lao động trong điều kiện mới. Năng suất lao
động là nhân tố quyết định năng lực cạnh tranh quốc gia trong thời kì dài, chứ
không chỉ trong ngắn hạn. Suốt mấy thập kỉ qua, nền kinh tế nước ta chủ yếu phát
triển theo chiều rộng, dựa trên khai thác giá rẻ tài nguyên thiên nhiên, tăng cường
độ lao động và tăng vốn đầu tư chứ chưa thực sự tính toán đầy đủ đến những hệ
lụy cùng những hạn chế nên năng suất lao động tăng không ổn định, dẫn đến
năng lực cạnh tranh quốc gia ở mức thấp.
 Hiện nay, việc cơ cấu lại nền kinh tế đặt ra rất bức thiết vì sau cuộc khủng hoảng
kinh tế và suy giảm kinh tế toàn cầu, xuất khẩu hành hóa đang gặp khó khăn. Do
vậy, phải đẩy mạnh tái cơ cấu kinh tế trong các ngành kinh tế, nghề, sản phẩm,
thành phần kinh tế, vùng kinh tế và cả về mô hình phát triển kinh tế theo hướng
đáp ứng yêu cầu tiêu dùng cho sản xuất, tiêu dùng của dân cư và tiêu dùng của
Nhà nước ngày một tăng (tiêu dùng nội địa) và nhu cầu xuất khẩu. Việc tái cơ cấu
kinh tế cần xuất phát từ lợi thế có tầm dài hạn, nhằm nâng cao năng lực cạnh

tranh, đóng góp nhiều cho xã hội, tăng thu nhập cho người lao động để tái sản
xuất sức lao động. Coi trọng lại cơ cấu kinh tế của các ngành vì năng suất lao
động đóng góp hơn 55% là do chuyển dịch kinh tế giữa các ngành có năng suất
lao động thấp sang ngành có năng suất lao động cao.
Trang 9 | 11


 Trong bước chuyển dịch cơ cấu kinh tế, Nhà nước, các ngành chức năng cần
nghiên cứu để bổ sung những chính sách, pháp luật liên quan đến người lao động
ở mọi thành phần kinh tế, nhất là kinh tế ngoài Nhà nước nhằm đảm bảo vệ lợi
ích chính đáng của người lao động cũng như lợi ích hợp pháp của những người
chue sở hữu. Những chính sách phù hợp có tác dụng khuyến khích người lao
động làm việc có năng suất cao, thêm thu nhập, hạn chế được đình công và cũng
hạn chế những chủ sỏ hữu đầu tư máy móc và thiết bị, công nghệ hiện đại để làm
ra các sảm phẩm mới có chất lượng
 Việc phải tăng năng suất cá nhân, bằng huấn luyện và đào tạo tay nghề cho công
nhân cũng là điều quan trọng, việc này ở Việt Nam không được chú trọng nhiều,
đồng thời phải cải tiến cách thức điều hành cho khoa học, hợp lí để người lao
động yên tâm làm việc và đạt kết quả cao nhất, càn phải tiết kiệm nhiên liệu đầu
vào, và áp dụng công nghệ tiên tiến vào dây chuyền sản xuất….
Tóm lại, năng suất lao động là một chỉ tiêu chất lượng có vai trò rất quan trọng đối với
doanh nghiệp và toàn bộ nền kinh tế. Để nâng cao năng suất lao động, ngoài sự nỗ lực
toàn diện trên nhiều mặt và thường xuyên liên tục của các doanh nghiệp, cần có sự hỗ trợ
của Chính phủ và các cấp chính quyền theo tinh thần hướng về doanh nghiệp, tạo điều
kiện thuận lợi nhất cho các doanh nghiệp hoạt động

PHẦN III: KẾT LUẬN

Sau khi nghiên cứu, em thấy mình đã có những cái nhìn khái quát và sâu sắc
hơn về tình hình năng suất lao động của các doanh nghiệp ở nước ta hiện nay. Em

nhận ra rằng năng suất lao động đóng một vai trò quan trọng trong việc phát triển
Trang 10 | 11


kinh tế và hiểu thêm về vấn đề lớn của lao động Việt Nam hiện nay là có năng suất
thấp. Điều đó là động lực thôi thúc chúng em học tập để có thể cải thiện năng suất
lao động, không ngừng trau dồi cho mình cả về kiến thức lẫn kĩ năng. Khi làm
việc, sẽ phấn đấu trở thành người lao động có tay nghề, đủ trình độ chuyên môn,
góp một phần sức vào quá trình hội nhập của Việt Nam một cách nhanh hơn, tốt
đẹp hơn.

TÀI LIỆU THAM KHẢO

1. Wikipedia
2. Tổng cục Thống kê (2016), Năng suất lao động của Việt Nam: Thực trạng và giải
pháp;
3. Trung tâm Thông tin và Dự báo kinh tế - xã hội Quốc gia (2017), Tài liệu hội thảo
quốc tế “Năng suất và đổi mới sáng tạo của nền kinh tế Việt Nam: Phát hiện từ
nghiên cứu thực chứng”;

Trang 11 | 11



×