MỤC LỤC
LỜI MỞ ĐẦU...........................................................................................................3
CHƯƠNG 1. NHỮNG VẤN ĐỀ LÝ LUẬN VỀ LẠM PHÁT.............................4
1.1. Khái niệm về lạm phát...............................................................................................4
1.2. Phân loại lạm phát.....................................................................................................5
1.2.1. Phân loại theo mức độ của tỷ lệ lạm phát hay dựa theo định lượng..........................5
1.2.2. Căn cứ vào định tính.................................................................................................6
1.3. Đo lường lạm phát.....................................................................................................7
1.4. Các nguyên nhân gây ra lạm phát............................................................................7
1.4.1. Trong ngắn hạn.........................................................................................................7
1.4.2. Trong dài hạn: Cách tiếp cận tiền tệ về lạm phát.....................................................11
1.5. Tác động của lạm phát.............................................................................................12
1.5.1. Đối với lạm phát được dự tính trước.......................................................................12
1.5.2. Đối với lạm phát không được dự tính trước............................................................15
CHƯƠNG 2. THỰC TRẠNG LẠM PHÁT Ở VIỆT NAM...............................16
2.1. Thực trạng lạm phát ở Việt Nam những năm gần đây.........................................16
2.1.1. Giai đoạn 2011-2015...............................................................................................16
2.1.2. Năm 2016................................................................................................................18
2.1.3. Năm 2017................................................................................................................20
2.1.4. Năm 2018 và triển vọng lạm phát đến năm 2020....................................................23
2.2. Đặc điểm của lạm phát ở Việt Nam.......................................................................23
CHƯƠNG 3. GIẢI PHÁP KIỀM CHẾ LẠM PHÁT.........................................24
3.1. Những biện pháp về chính sách tiền tệ...................................................................24
1
3.2. Những biện pháp về chính sách tài khóa................................................................24
3.3. Kiến nghị..................................................................................................................25
PHẦN KẾT LUẬN................................................................................................27
DANH MỤC TÀI LIỆU THAM KHẢO.............................................................28
2
LỜI MỞ ĐẦU
Bất kỳ nền kinh tế nào, từ mô hình tập trung quan liêu bao cấp đến kinh tế thị
trường, muốn phát triển vững mạnh đều phải quan tâm đặc biệt tới tam giác: tăng
trưởng, thất nghiệp và lạm phát. Chúng liên kết hay đối lập, chúng liên hợp những
nhịp độ của tăng trưởng, sự tăng lên hay tụt xuống của những lớp thất nghiệp dưới
làm sóng lạm phát. Lạm phát, đó là hiện tượng mất cân bằng kinh tế phổ biến, là
căn bệnh kinh niên của kinh tế thị trường. Cùng với sự phát triển đa dạng và phong
phú của nền kinh tế thì nguyên nhân dẫn tới lạm phát càng ngày càng phức tạp.
Trong nền kinh tế tăng trưởng nhanh của nước ta luôn thường trực nguy cơ tái lạm
phát cao, mà trong sự nghiệp phát triển kinh tế thị trường ở nước ta lại theo định
hướng xã hội chủ nghĩa có sự điều tiết của nhà nước thì việc nghiên cứu về lạm
phát,tìm hiểu nguyên nhân và các biện pháp chống lạm phát có vai trò to lớn góp
phần vào sự nghiệp phát triển của đất nước.
Xuất phát từ lý do đó, em đã chọn đề tài “Lạm phát ở Việt Nam: Thực trạng và
giải pháp” để có thể nghiên cứu kỹ hơn về lạm phát ở Việt Nam và qua đó có thể
rút ra các biện pháp khắc phục nhằm giảm lạm phát trong thời kỳ kinh tế mở và
phát triển một cách đồng bộ ở Việt Nam.
Ngoài lời mở đầu, kết luận, bài tiểu luận gồm có 3 phần như sau:
I. Những vấn đề lí luận về lạm phát
II. Thực trạng lạm phát ở Việt Nam
III. Giải pháp kiềm chế lạm phát
Trong quá trình nghiên cứu đề tài chắc chắn còn nhiều thiếu sót, kính mong sự
góp ý chân thành của thầy và bạn đọc để đề tài nghiên cứu được hoàn thiện hơn.
Em xin chân thành cảm ơn!
Học viên thực hiện
Lê Thị Hiền
3
CHƯƠNG 1. NHỮNG VẤN ĐỀ LÝ LUẬN VỀ LẠM PHÁT
1.1. Khái niệm về lạm phát
Lạm phát được định nghĩa là sự gia tăng liên tục trong mức giá chung. Điều
này không nhất thiết có nghĩa giá cả của mọi hàng hóa và dịch vụ đồng thời phải
tăng lên theo cùng một tỷ lệ, mà chỉ cần mức giá trung bình tăng lên. Lạm phát vẫn
có thể xảy ra khi giá của một số hàng hóa giảm, nhưng giá cả của các hàng hóa và
dịch vụ khác tăng đủ mạnh. Lạm phát cũng có thể được định nghĩa là sự suy giảm
sức mua của đồng tiền. Trong bối cảnh lạm phát, một đơn vị tiền tệ mua được ngày
càng ít đơn vị hàng hóa và dịch vụ hơn. Hay nói một cách khác, trong bối cảnh lạm
phát, chúng ta sẽ phải chi ngày càng nhiều tiền hơn để mua một giỏ hàng hóa và
dịch vụ nhất định. Nếu thu nhập bằng tiền không tăng kịp tốc độ trượt giá, thì thu
nhập thực tế, tức là sức mua của thu nhập bằng tiền sẽ giảm. Do vậy, thu nhập thực
tế tăng lên hay giảm xuống trong thời kỳ lạm phát phụ thuộc vào điều gì xảy ra với
thu nhập bằng tiền, tức là, phải chăng các cá nhân có nhận thêm lượng tiền đã giảm
giá trị đủ để bù đắp cho sự gia tăng của mức giá hay không. Người dân vẫn có thể
trở nên khá giả hơn khi thu nhập bằng tiền tăng nhanh hơn tốc độ tăng giá.
Một điều quan trọng mà chúng ta cần nhận thức là lạm phát không chỉ đơn thuần là
sự gia tăng của mức giá mà đó phải là sự gia tăng liên tục trong mức giá. Nếu như chỉ có
một cú sốc xuất hiện làm tăng mức giá, thì dường như mức giá chỉ đột ngột bùng lên rồi
lại giảm trở lại mức ban đầu ngay sau đó. Hiện tượng tăng giá tạm thời như vậy không
được gọi là lạm phát. Tuy nhiên, trong thực tế mỗi cú sốc thường có ảnh hưởng kéo dài
đối với nền kinh tế và do đó có thể gây ra lạm phát. Chúng ta sẽ xét một tình huống như
được mô tả trong Bảng 1. Trong mỗi trường hợp, chúng ta giả thiết chỉ có một cú sốc xuất
hiện vào thời kỳ 3 mà trước đó mức giá được ổn định ở mức 100. Trong trường hợp thứ
nhất, mức giá tăng 100% trong thời kỳ 3, sau đó giảm 50% trong thời kỳ 4 và lại ổn định
trong các thời kỳ tiếp theo. Như vậy, từ thời kỳ 4 giá cả trở lại mức ban đầu giống như
trước khi cú sốc tác động đến nền kinh tế. Trong trường hợp thứ hai, mức giá tăng 100%
trong thời kỳ 3, sau đó ổn định trong các thời kỳ tiếp theo. Vấn đề trở nên phức tạp hơn
trong trường hợp thứ ba, khi mức giá tăng 50% trong thời kỳ 3, sau đó tăng chậm lại
trong các thời kỳ tiếp theo do mọi người điều chỉnh một phần theo sai số dự báo về lạm
phát. Trong trường hợp này mức giá chung tăng liên tục và gây ra lạm phát kéo dài nhưng
giảm dần theo thời gian.
Trường hợp 1
Trường hợp 2
4
Trường hợp 3
Thời
kỳ
1
2
3
4
5
6
Mức giá
Lạm
phát
Mức giá
100
100
200
100
100
100
Lạm
phát
Mức giá
Lạm
phát
100
100
0
100
0
100
0
100
200
100
150
50
-50
200
0
175
16,7
0
200
0
187,50
7,1
0
200
0
193,75
3,3
Bảng 1. Tác động của một cú sốc đến tỷ lệ lạm phát
Trong thực tế, việc phân biệt được các sự kiện chỉ xảy ra một lần nhưng có
ảnh hưởng kéo dài với sự gia tăng liên tục được lặp lại của mức giá trong mỗi thời
kỳ có ý nghĩa rất quan trọng đối với việc điều hành các chính sách kinh tế vĩ mô.
Chính phủ thường chỉ điều chỉnh chính sách trước các cú sốc kéo dài, còn các mất
cân đối tạm thời thường để thị trường tự giải quyết. Trường hợp ngược lại của lạm
phát là giảm phát, diễn ra khi mức giá chung liên tục giảm. Khi đó, sức mua của
đồng nội tệ liên tục tăng.
1.2. Phân loại lạm phát
1.2.1. Phân loại theo mức độ của tỷ lệ lạm phát hay dựa theo định lượng
1.2.1.1. Lạm phát vừa phải: còn được gọi là lạm phát một con số, có tỷ lệ lạm
phát dưới 10% một năm. Đây là mức lạm phát mà nền kinh tế chấp nhận được, lạm
phát ở mức độ này không gây tác động đáng kể đến nền kinh tế. Trong điều kiện
lạm phát vừa phải và ổn định thì giá cả không khác nhiều so với mức giá bình
thường, do đó đồng tiền vẫn giữ được phần lớn giá trị của nó trong thời gian tương
đối dài, việc kinh doanh tương đối ổn định, thị trường không có những cơn sốt hay
sự đảo lộn lớn.
1.2.1.2. Lạm phát phi mã: là loại lạm phát xảy ra khi tỷ lệ lạm phát tăng
tương đối nhanh, với tỷ lệ hai con số mỗi năm. Ở mức lạm phát hai chữ số thấp (11,
12, 13 %/năm), nói chung những tác động tiêu cực của nó là không đáng kể, nền
kinh tế có thể vẫn chấp nhận được. Nhưng khi tỷ lệ tăng giá ở mức hai chữ số cao,
lạm phát sẽ trở thành kẻ thù của sản xuất và thu nhập vì những tác động tiêu cực
của nó là không nhỏ. Lạm phát hai chữ số trở thành mối đe dọa đến sự ổn định của
nền kinh tế. Ví dụ: tỷ lệ lạm phát ở Việt Nam năm 2008 là 12,63%.
1.2.1.3. Siêu lạm phát: tùy theo quan niệm của các nhà kinh tế, ngoài các loại
lạm phát trên đây còn có lạm phát ba chữ số. Nhiều người coi các loại lạm phát này
là siêu lạm phát vì nó có tỉ lệ lạm phát rất cao và tốc độ tăng nhanh. Với siêu lạm
5
phát, những tác động tiêu cực của nó đến đời sống và đến nền kinh tế trở nên
nghiêm trọng: kinh tế suy sụp một cách nhanh chóng, thu nhập thực tế của
người lao động giảm mạnh.
Ví dụ: Năm 2008, Zimbabwe hiện là quốc gia có tình trạng siêu lạm phát tồi tệ
nhất trong lịch sử của thế giới. Với tỷ lệ lạm phát vượt mức 40 triệu %, người dân
Zimbabwe lâm vào cuộc đấu tranh sinh tồn thực sự. Dòng người dài xếp hàng trước
cửa ngân hàng để chờ rút tiền đã trở thành cảnh tượng quen thuộc ở Zimbabwe thời
gian này. Muốn rút được tiền, người ta phải dậy từ rất sớm để “xí” chỗ. Tất cả
những người đến đây đều mang hy vọng rút một khoản tiền Zimbabwe tương
đương với 1 – 2 USD. Đây là hạn mức rút tiền tối đa mà Chính phủ Zimbabwe mới
công bố hồi tháng trước. Dù ít ỏi như vậy nhưng không phải ai cũng có thể rút tiền,
không ít người đã phải ra về trong tuyệt vọng. Hạn mức rút tiền đã tăng lên vào
ngày 28/9/2008, nhưng với tỷ lệ lạm phát vượt mức 40 triệu %, giá trị của khoản
tiền được rút cũng chỉ là một con số rất nhỏ. Các chuyên gia kinh tế đều nói rằng,
sự sụp đổ kinh tế của Zimbabwe đang tăng tốc. Khi Chính phủ Zimbabwe in thêm
nhiều tiền hơn bao giờ hết, tỷ lệ lạm phát như con ngựa bất kham, tăng từ 1.000%
vào năm 2006 lên đến 12.000% vào năm 2007. Đây là một con số quá cao đến nỗi
chính phủ phải bỏ đi 10 chữ số 0 trên tờ tiền Zimbabwe vào tháng 8/2008 để đảm
bảo máy tính có thể tính được. Nếu không có động thái này, 1 USD có thể tương
đương với 10.000 tỷ USD Zimbabwe.
Một khi lạm phát quá cao sẽ gây ra biến động lớn đối với một nền kinh tế như:
Các hợp đồng kinh tế đã được ký kết theo chỉ số giá cũ hoặc theo hợp đồng với
đồng tiền chi trả là đồng ngoại tệ mạnh nào đó, do vậy đã gây phức tạp cho việc
tính toán hiệu quả của hoạt động kinh doanh, lãi suất thực tế giảm tới mức âm dẫn
đến thị trường tài chính khủng hoảng. Giá trị của đồng bản tệ mất giá nghiêm trọng,
dân cư giữ tiền ở mức tối thiểu cần thiết và tích lũy nhiều hàng hóa gây ra tình
trạng khan hàng giả tạo càng đẩy mức lạm phát tăng cao.
1.2.2. Căn cứ vào định tính
1.2.2.1. Lạm phát cân bằng và lạm phát không cân bằng:
* Lạm phát cân bằng: khi nó tăng tương ứng với thu nhập, do vậy lạm phát
không ảnh hưởng đến đời sống của người lao động.
* Lạm phát không cân bằng: Tỉ lệ lạm phát tăng không tương ứng với thu
nhập. Trên thực tế, lạm phát không cân bằng thường hay xảy ra nhất.
1.2.2.2. Lạm phát dự đoán trước và lạm phát bất thường:
6
* Lạm phát dự đoán trước: lạm phát xảy ra trong một thời gian tương đối dài
với tỉ lệ lạm phát hàng năm khá đều đặn, ổn định. Do vậy, người ta có thể dự đoán
trước được tỉ lệ lạm phát cho những năm tiếp sau.
* Lạm phát bất thường: lạm phát xảy ra có tính đột biến mà trước đó chưa hề
xuất hiện. Do vậy, tâm lý, cuộc sống và thói quen của mọi người đều chưa thích
nghi được. Lạm phát bất thường gây ra những cú sốc cho nền kinh tế và sự thiếu tin
tưởng của người dân vào chính quyền đương đại.
1.3. Đo lường lạm phát
Để đo lường mức độ lạm phát mà nền kinh tế trải qua trong một thời kỳ nhất
định, các nhà thống kê kinh tế sử dụng chỉ tiêu tỷ lệ lạm phát được tính bằng phần
trăm thay đổi của mức giá chung. Tỷ lệ lạm phát cho thời kỳ t được tính theo công
thức sau:
t
Pt Pt 1
100%
Pt 1
Trong đó:
t : Tỷ lệ lạm phát của thời kỳ t (có thể là tháng, quí, hoặc năm)
Pt : Mức giá của thời kỳ t
Pt-1 : Mức giá của thời kỳ trước đó
Rõ ràng là để tính được tỷ lệ lạm phát, trước hết các nhà thống kê phải quyết
định sử dụng chỉ số giá nào để phản ánh mức giá. Người ta thường sử dụng chỉ số
điều chỉnh GDP (D) và chỉ số giá tiêu dùng (CPI) để đo lường mức giá chung. Tuy
nhiên, nếu mục tiêu là xác định ảnh hưởng của lạm phát đến mức sống, thì rõ ràng
chỉ số giá tiêu dùng tỏ ra thích hợp hơn. Trong thực tế, các số liệu công bố chính
thức về lạm phát trên toàn thế giới đều được tính trên cơ sở CPI.
1.4. Các nguyên nhân gây ra lạm phát
Điều gì gây ra lạm phát là một câu hỏi phổ biến, song các nhà kinh tế vẫn còn
những bất đồng. Có nhiều lý thuyết giải thích về nguyên nhân gây ra lạm phát mà
dưới đây chúng ta sẽ giới thiệu những lý thuyết chính.
1.4.1. Trong ngắn hạn
1.4.1.1. Lạm phát do cầu kéo
Lạm phát do cầu kéo xảy ra do tổng cầu tăng, đặc biệt khi sản lượng đã đạt
hoặc vượt quá mức tự nhiên. Thực ra đây cũng là một cách định nghĩa về lạm phát
dựa vào nguyên nhân gây ra lạm phát: lạm phát được coi là do sự tồn tại của một
mức cầu quá cao. Theo lý thuyết này nguyên nhân của tình trạng dư cầu được giải
7
thích do nền kinh tế chi tiêu nhiều hơn năng lực sản xuất. Tuy nhiên để cho định
nghĩa này có sức thuyết phục thì cần phải giải thích tại sao chi tiêu lại liên tục lớn
hơn mức sản xuất. Chúng ta sẽ lần lượt xem xét các thành tố của tổng cầu.
Lạm phát có thể hình thành khi xuất hiện sự gia tăng đột biến trong nhu cầu về
tiêu dùng và đầu tư. Chẳng hạn, khi có những làn sóng mua sắm mới làm tăng
mạnh tiêu dùng, giá cả của những mặt hàng này sẽ tăng, làm cho lạm phát dâng lên
và ngược lại. Tương tự, lạm phát cũng phụ thuộc vào sự biến động trong nhu cầu
A nhu cầu đầu tư và do đó đẩy mức
đầu tư: sự lạc quan của các nhà đầu tư làm tăng
giá tăng lên.
Trong nhiều trường hợp, lạm phát thường bắt nguồn từ sự gia tăng quá mức
trong các chương trình chi tiêu của chính phủ. Khi chính phủ quyết định tăng chi
tiêu cho tiêu dùng và đầu tư nhiều hơn vào cơ sở hạ tầng, thì mức giá sẽ tăng.
Ngược lại, khi chính phủ quyết định cắt giảm các chương trình chi tiêu công cộng,
hoặc các công trình đầu tư lớn đã kết thúc, thì mức giá sẽ giảm.
P
AS1
P2
B
AD2
AD1
0
Y*
Y2
Y
Hình 1. Lạm phát do cầu kéo
Lạm phát cũng có nguyên nhân từ nhu cầu xuất khẩu. Tuy nhiên, hàng xuất
khẩu tác động tới lạm phát trong nước theo một cách khác: khi nhu cầu xuất khẩu
tăng, lượng còn lại để cung ứng trong nước giảm và do vậy làm tăng mức giá trong
nước. Ngoài ra, nhu cầu xuất khẩu và luồng vốn chảy vào cũng có thể gây ra lạm
phát, đặc biệt trong chế độ tỷ giá hối đoái cố định, vì điều này có thể là nguyên
nhân dẫn tới sự gia tăng lượng tiền cung ứng. Tình hình ngược lại sẽ xảy ra khi nhu
cầu xuất khẩu và luồng vốn nước ngoài chảy vào giảm do nền kinh tế thế giới hay
trong khu vực lâm vào suy thoái.
Trong đồ thị tổng cung - tổng cầu, lạm phát do cầu kéo xuất hiện khi có sự
dịch chuyển sang bên phải của đường tổng cầu. Như minh họa trong hình 1, sự gia
8
tăng của một thành tố nào đó của tổng cầu sẽ làm dịch chuyển đường tổng cầu sang
bên phải. Do đường tổng cung dốc lên trong ngắn hạn, nền kinh tế sẽ có tốc độ tăng
trưởng cao hơn và thất nghiệp thấp hơn, nhưng đồng thời lại phải đối mặt với lạm
phát. Rõ ràng lạm phát do cầu kéo sẽ không phải là vấn đề mà thực ra còn cần thiết
và có lợi cho nền kinh tế nếu như nền kinh tế còn nhiều nguồn lực chưa sử dụng
như trong trường hợp đường tổng cầu dịch chuyển từ AD 0 đến AD1: lạm phát sẽ
khá thấp trong khi sản lượng và việc làm sẽ tăng đáng kể. Ngược lại, lạm phát do
cầu kéo sẽ trở thành vấn đề thực sự nếu như toàn bộ nguồn lực đã sử dụng hết và
đường tổng cung trở nên rất dốc như trong trường hợp đường tổng cầu dịch chuyển
từ AD1 đến AD2. Khi đó, sự gia tăng tổng cầu chủ yếu đẩy lạm phát dâng cao trong
khi sản lượng và việc làm tăng lên rất ít.
1.4.1.2. Lạm phát do chi phí đẩy
Lạm phát cũng có thể xảy ra khi một số loại chi phí đồng loạt tăng lên trong
toàn bộ nền kinh tế. Trong đồ thị tổng cung - tổng cầu, một cú sốc như vậy sẽ làm
đường tổng cung dịch chuyển lên trên và sang bên trái. Trong bối cảnh đó, mọi biến
số kinh tế vĩ mô trong nền kinh tế đều biến động theo chiều hướng bất lợi: sản
lượng giảm, cả thất nghiệp và lạm phát đều tăng. Chính vì vậy, loại lạm phát này
được gọi là lạm phát do chi phí đẩy hay lạm phát đi kèm suy thoái (stagflation).
Ba loại chi phí thường gây ra lạm phát là: tiền lương, thuế gián thu và giá
nguyên liệu nhập khẩu. Khi công đoàn thành công trong việc đẩy tiền lương lên
cao, các doanh nghiệp sẽ tìm cách tăng giá và kết quả là lạm phát xuất hiện. Vòng
xoáy đi lên của tiền lương và giá cả sẽ tiếp diễn và trở nên nghiêm trọng nếu chính
phủ tìm cách tránh suy thoái bằng cách mở rộng tiền tệ.
Việc chính phủ tăng những loại thuế tác động đồng thời đến tất cả các nhà sản
xuất cũng có thể gây ra lạm phát. Ở đây, thuế gián thu (kể cả thuế nhập khẩu, các
loại lệ phí bắt buộc) đóng một vai trò đặc biệt quan trọng, vì chúng tác động trực
tiếp tới giá cả hàng hoá. Nếu so sánh với các nước phát triển là những nước có tỷ lệ
thuế trực thu cao, chúng ta có thể nhận định rằng ở các nước đang phát triển, nơi
mà thuế gián thu chiếm tỷ trọng lớn trong tổng nguồn thu từ thuế, thì thay đổi thuế
gián thu dường như có tác động mạnh hơn tới lạm phát.
P
AS1
AS0
E1
P1
E0
9
AD0
0
Y*
Y1
Y
Hình 2. Lạm phát do chi phí đẩy
Đối với các nền kinh tế nhập khẩu nhiều loại nguyên, nhiên, vật liệu thiết yếu
mà nền công nghiệp trong nước chưa sản xuất được, thì sự thay đổi giá của chúng
(có thể do giá quốc tế thay đổi hoặc tỷ giá hối đoái biến động) sẽ có ảnh hưởng
quan trọng đến tình hình lạm phát trong nước. Nếu giá của chúng tăng mạnh trên
thị trường thế giới hay đồng nội tệ giảm giá mạnh trên thị trường tài chính quốc tế,
thì chi phí sản xuất trong nước sẽ tăng mạnh và lạm phát sẽ bùng nổ.
Những yếu tố nêu trên có thể tác động riêng rẽ, nhưng cũng có thể gây ra tác
động tổng hợp, làm cho lạm phát có thể tăng tốc. Nếu chính phủ phản ứng quá
mạnh thông qua các chính sách thích ứng, thì lạm phát có thể trở nên không kiểm
soát được, như tình hình của nhiều nước công nghiệp trong thập niên 1970 và đầu
thập niên 1980.
1.4.1.3. Lạm phát ỳ
Trong các nền kinh tế hiện đại trừ siêu lạm phát và lạm phát phi mã, lạm phát
vừa phải có xu hướng ổn định theo thời gian. Hàng năm, mức giá tăng lên theo một
tỷ lệ khá ổn định. Tỷ lệ lạm phát này được gọi là tỷ lệ lạm phát ỳ. Đây là loại lạm
phát hoàn toàn được dự tính trước. Mọi người đã biết trước và tính đến khi thỏa
thuận về các biến danh nghĩa được thanh toán trong tương lai.
P
AS2
AS2
E2
AS0
E1
P2
E0
Y*
AD2
AD1
AD0
Y
Hình 3. Lạm phát ỳ
Lạm phát ỳ xuất hiện là do lạm phát trong quá khứ ảnh hưởng đến kỳ vọng về
lạm phát trong tương lai và kỳ vọng này tác động đến tiền lương và giá cả mà mọi
người ấn định. Vào thời kỳ lạm phát cao của những năm 1970 ở Mỹ, R.Solow đã
nắm bắt chính xác khái niệm lạm phát ỳ và kết luận “Vì sao đồng tiền của chúng ta
10
(nước Mỹ) lại mất giá? Có lẽ chúng ta có lạm phát đơn giản là do chúng ta dự kiến
lạm phát và chúng ta dự kiến lạm phát vì chúng ta có nó”.
Hình 3 cho thấy lạm phát ỳ xảy ra như thế nào. Cả đường tổng cung và đường
tổng cầu cùng dịch chuyển lên trên với tốc độ như nhau. Sản lượng luôn được duy
trì ở mức tự nhiên, trong khi mức giá tăng với một tỷ lệ ổn định theo thời gian.
1.4.2. Trong dài hạn: Cách tiếp cận tiền tệ về lạm phát
Lý thuyết tiền tệ là cách giải thích thuyết phục nhất về nguồn gốc sâu xa của
hiện tượng lạm phát. Tư tưởng cơ bản của các nhà tiền tệ là luận điểm cho rằng lạm
phát về cơ bản là hiện tượng tiền tệ. Tuy nhiên, nhiều tác giả khác, ví dụ như
Friedman đã đi xa hơn và đề ra một hình thái mạnh hơn của chủ nghĩa tiền tệ. Họ
đã chỉ ra mối quan hệ nhân quả trực tiếp giữa cung tiền và lạm phát: "Lạm phát ở
đâu và bao giờ cũng là hiện tượng tiền tệ ... và nó chỉ có thể xuất hiện một khi cung
tiền tăng nhanh hơn sản lượng".
Thực ra, kết luận này dựa trên hai điều. Thứ nhất, các nhà tiền tệ cho rằng lạm
phát gây ra bởi sự dư thừa tổng cầu so với tổng cung, và nguyên nhân của sự dư
cầu này là do có quá nhiều tiền trong lưu thông. Nếu cách giải thích này đúng về
mặt lịch sử, thì nó khẳng định rằng lạm phát gây ra bởi sức ép từ phía cầu, chứ
không phải từ phía cung. Thứ hai, các nhà tiền tệ giả thiết rằng mối quan hệ nhân
quả bắt nguồn từ cung ứng tiền đến mức giá, chứ không phải ngược lại là giá cả
tăng lên làm tăng lượng tiền cung ứng. Để hiểu mối quan hệ đó chúng ta phải xem
xét cơ chế lan truyền. Với giả thiết về thị trường cân bằng, và bắt đầu từ vị trí cân
bằng trên thị trường tiền tệ, khi đó sự gia tăng trong cung ứng tiền tệ sẽ dẫn đến sự
mất cân bằng trên thị trường tiền tệ. Để thiết lập trạng thái cân bằng, một phần của
số tiền dư thừa được dùng để mua hàng hoá và dịch vụ. Tuy nhiên, vì số lượng
hàng hoá và dịch vụ được qui định bởi các nguồn lực khan hiếm trong nền kinh tế,
do đó xuất hiện dư cầu trên thị trường hàng hoá. Điều này, đến lượt nó sẽ gây áp
lực làm giá cả tăng lên để thiết lập trạng thái cân bằng mới trên thị trường hàng
hoá. Trong mô hình tổng cung - tổng cầu, sự gia tăng cung ứng tiền tệ sẽ dẫn đến sự
dịch chuyển sang bên phải của đường tổng cầu và làm tăng mức giá do đường tổng
cung thẳng đứng trong dài hạn.
Điểm khởi đầu cho lý thuyết số lượng là quan sát cho thấy dân cư giữ tiền chủ
yếu để mua hàng hóa và dịch vụ. Giả sử Y là mức sản lượng mà nền kinh tế tạo ra
trong một năm và P là giá của một đơn vị sản lượng điển hình, khi đó số đồng được
trao đổi trong năm bằng P.Y. Vì tiền trao tay khi giao dịch, chúng ta có thể sử dụng
11
thông tin này để dự đoán số lần mà một tờ giấy bạc điển hình trao tay trong năm.
Nếu chúng ta ký hiệu V là tốc độ chu chuyển, tức là số lần trung bình mà một tờ
giấy bạc điển hình được sử dụng để mua hàng hóa và dịch vụ trong một năm, và M
là cung tiền, thì số đơn vị tiền tệ trao đổi trong năm cần phải bằng M.V. Do vậy,
chúng ta có đồng nhất thức:
M.V = P.Y
Đó là phương trình số lượng, bởi vì nó phản ánh mối quan hệ giữa lượng tiền
cung ứng (M) và GDP danh nghĩa (P.Y). Phương trình số lượng cho thấy sự gia
tăng lượng tiền trong nền kinh tế phải được phản ánh ở một trong ba biến số khác:
mức giá phải tăng, sản lượng phải tăng, hoặc tốc độ chu chuyển tiền tệ phải giảm.
Nhìn chung, tốc độ chu chuyển tiền tệ tương đối ổn định theo thời gian. Khi
đó, lạm phát (P tăng) chỉ có thể xảy ra khi lượng tiền cung ứng (M) tăng nhanh hơn
sản lượng (Y): tốc độ tăng cung tiền càng cao thì tỷ lệ lạm phát càng cao (khi các
nhân tố khác không thay đổi). Đồng thời, các biện pháp chính sách mà một nước
cần thực hiện để giảm lạm phát chính là cắt giảm tốc độ cung ứng tiền tệ. Như vậy,
theo quan điểm này, chính sách tiền tệ sẽ là chính sách then chốt nhằm kiểm soát
lạm phát; và chính sách tài khoá cũng có thể ảnh hưởng đến lạm phát bởi vì thâm
hụt ngân sách của chính phủ có xu hướng làm tăng cung tiền.
1.5. Tác động của lạm phát
Tại sao người dân lại không thích lạm phát? Nếu như thu nhập danh nghĩa
luôn tăng cùng với mức giá, thì thu nhập thực tế giữ nguyên không thay đổi. Song
điều này thường khó xảy ra. Tính chất của lạm phát có ảnh hưởng quan trọng đến
tổn thất mà lạm phát gây ra cho xã hội. Theo tính chất người ta phân biệt lạm phát
được dự tính trước và lạm phát không được dự tính trước.
1.5.1. Đối với lạm phát được dự tính trước
Lạm phát hoàn toàn được dự tính trước là trường hợp lạm phát xảy ra đúng
như dự tính từ trước của các tác nhân kinh tế. Trong trường hợp này, mọi khoản
vay, tiền lương cũng như hợp đồng về các biến danh nghĩa khác nhìn chung được
điều chỉnh thích ứng với tốc độ trượt giá. Loại lạm phát này gây ra những tổn thất
gì cho xã hội?
Thứ nhất, lạm phát hoạt động giống như một loại thuế đánh vào những người
giữ tiền và được gọi là thuế lạm phát. Tuy nhiên chúng ta cần thận trọng phân biệt
thuế lạm phát với thuế đúc tiền. Như chúng ta đã biết thâm hụt ngân sách xảy ra khi
chính phủ chi nhiều hơn thu nhập từ thuế. Chính phủ có thể tài trợ thâm hụt bằng đi
12
vay hoặc in tiền. Tương tự như thuế, tiền mới phát hành cũng là một nguồn thu của
chính phủ bởi vì chi phí phát hành tiền mới rất nhỏ, trong khi chính phủ có thể sử
dụng số tiền đó để mua hàng hóa và dịch vụ. Thu nhập mà chính phủ nhận được
bằng cách in tiền được gọi là thuế đúc tiền.
Tuy nhiên, một số người phải trả cho khoản thu nhập đó của chính phủ. Thực
ra, khi in tiền mới, chính phủ đã đánh thuế lạm phát. Lượng tiền được cung ứng
nhiều hơn thường gây ra lạm phát và do đó làm giảm giá trị của những đồng tiền
đang lưu hành.
Có một điều chúng ta cần nhận thức đúng là bản thân thuế không phải là chi
phí đối với xã hội, nó chỉ là sự chuyển giao nguồn lực từ các hộ gia đình sang cho
chính phủ. Nhưng kinh tế học vi mô lại chỉ ra rằng hầu hết các loại thuế đều làm
cho mọi người có động cơ thay đổi hành vi để tránh thuế và gây biến dạng các kích
thích này làm cho xã hội bị tổn thất. Giống như các loại thuế khác, thuế lạm phát
cũng gây ra tổn thất cho xã hội bởi vì mọi người lãng phí nguồn lực khan hiếm khi
tìm cách tránh thuế. Lạm phát làm tăng lãi suất danh nghĩa, và do đó làm giảm cầu
tiền. Nếu bình quân mọi người giữ ít tiền hơn, họ cần đến ngân hàng thường xuyên
hơn để rút tiền. Sự bất tiện của việc giữ ít tiền hơn tạo nên chi phí mòn giày, vì việc
đến ngân hàng nhiều hơn làm cho “giày” của bạn chóng mòn hơn. Tuy nhiên,
không nên hiểu khoản chi phí này theo nghĩa đen của nó: chi phí thực tế mà bạn bỏ
ra để giữ ít tiền hơn không chỉ ở chỗ giày của bạn nhanh mòn, mà là thời gian và sự
tiện lợi mà bạn phải hy sinh khi giữ ít tiền hơn – cái mà bạn không phải trả khi
không có lạm phát.
Thứ hai, lạm phát gây ra chi phí thực đơn. Đó là những chi phí phát sinh do
các doanh nghiệp có thể phải gửi các catalog mới cho khách hàng, phân phối bảng
giá mới cho nhân viên bán hàng của mình, các hiệu ăn cũng phải thay đổi thực đơn
mới, khi giá cả thay đổi. Việc này đôi khi cũng tốn kém.
Thứ ba, lạm phát có thể tạo ra những thay đổi không mong muốn trong giá
tương đối. Giả sử một doanh nghiệp có phát hành catalog chỉ thay đổi giá cả mỗi
năm một lần do phát sinh chi phí liên quan đến việc in và phân phối catalog, và giả
sử các doanh nghiệp khác thay đổi giá cả thường xuyên hơn. Nếu trong năm các
doanh nghiệp khác tăng giá bán cho các sản phẩm của họ, thì giá tương đối của sản
phẩm do doanh nghiệp phát hành catalog sẽ giảm. Như chúng ta đã biết kinh tế vi
mô nhấn mạnh đến vai trò của giá tương đối trong việc phân bổ các nguồn lực một
cách có hiệu quả. Trong chừng mực mà lạm phát gây ra sự thay đổi giá cả không
13
đều và do đó làm méo mó giá tương đối, thì sức mạnh của thị trường tự do sẽ bị
hạn chế. Sự phân bổ sai lệch này cũng cần được hiểu là nội dung truyền đạt thông
tin của giá cả bị suy yếu.
Thứ tư, lạm phát có thể làm thay đổi nghĩa vụ nộp thuế của các cá nhân
thường trái với ý định của những người làm luật. Trên thực tế, luật thuế thường
không tính đến tác động của lạm phát, và do vậy khi thu nhập danh nghĩa tăng, mọi
người sẽ phải nộp mức thuế cao hơn, ngay cả khi thu nhập thực tế của họ không
thay đổi và do vậy làm giảm thu nhập khả dụng của họ. Điều này không khuyến
khích mọi người làm nhiều, làm tốt và làm hiệu quả.
Cuối cùng, lạm phát gây ra sự nhầm lẫn và bất tiện. Hãy tưởng tượng rằng
chúng ta tiến hành thăm dò ý kiến và đặt ra cho mọi người câu hỏi sau: “Hiện tại
1m bằng 100cm. Theo bạn, năm tới 1m nên có độ dài bao nhiêu?” Giả sử mọi
người đều trả lời một cách nghiêm túc, thì chắn chắn họ sẽ nói với chúng ta là độ
dài của 1m năm tới vẫn nên bằng 100cm. Cách làm khác chỉ phức tạp hoá vấn đề
một cách không cần thiết.
Phát hiện này có gì liên quan đến lạm phát? Chúng ta đã biết tiền là đơn vị
hạch toán, tức tiền là cái mà chúng ta sử dụng để niêm yết giá và ghi các khoản nợ.
Nói cách khác, tiền là thước đo mà chúng ta sử dụng để đo lường các giao dịch
kinh tế. Nhiệm vụ của Ngân hàng Nhà nước Việt Nam tương tự công việc của Tổng
cục tiêu chuẩn đo lường ở chỗ là đảm bảo tính tin cậy của đơn vị đo lường được sử
dụng phổ biến. Khi Ngân hàng Nhà nước tăng cung ứng tiền tệ và gây ra lạm phát,
nó làm méo mó giá trị thực tế của đơn vị hạch toán.
Thật là khó có thể tính toán được tác hại của sự nhầm lẫn và bất tiện gắn với
lạm phát. Trên đây chúng ta đã thảo luận việc các luật thuế đo lường sai thu nhập
như thế nào khi nền kinh tế có lạm phát. Điều đó cũng giống như các nhà kế toán
tính sai các khoản thu nhập của doanh nghiệp khi giá cả thay đổi theo thời gian. Vì
lạm phát làm cho đồng tiền có sức mua không giống nhau vào các thời điểm khác
nhau, nên việc tính toán lợi nhuận của công ty - phần chênh lệch giữa các khoản
thu và chi phí - sẽ phức tạp hơn khi nền kinh tế có lạm phát. Do vậy, trong một
chừng mực nào đó, lạm phát làm cho các nhà đầu tư khó phân biệt giữa các doanh
nghiệp hoạt động có hiệu quả và các doanh nghiệp làm ăn kém hiệu quả và kết quả
là cản trở thị trường tài chính trong trong việc phân bổ một cách hiệu quả các
khoản tiết kiệm của nền kinh tế cho các dự án đầu tư.
14
1.5.2. Đối với lạm phát không được dự tính trước
Chúng ta đã thảo luận về những tác hại của lạm phát xảy ra ngay cả khi lạm
phát ổn định và được dự tính trước. Tuy nhiên, lạm phát có một tác hại nữa khi nó
xảy ra khác với dự tính từ trước của các cá nhân trong nền kinh tế. Lạm phát không
được dự tính trước dẫn đến sự phân phối lại thu nhập giữa các thành viên trong xã
hội không theo nỗ lực, cống hiến và nhu cầu của họ.
Xét các hợp đồng tín dụng dài hạn. Các hợp đồng tín dụng thường qui định
mức lãi suất danh nghĩa dựa trên tỷ lệ lạm phát dự tính. Khi tỷ lệ lạm phát thực tế
khác với tỷ lệ lạm phát dự tính thì lãi suất thực tế thực hiện và lãi suất thực tế dự
tính cũng khác nhau. Nếu tỷ lệ lạm phát thực tế lớn hơn tỷ lệ lạm phát dự tính, thì
lãi suất thực tế thực hiện thấp hơn lãi suất thực tế dự tính. Điều đó có nghĩa người
tiết kiệm có thu nhập thấp hơn dự tính ban đầu, trong khi người đi vay trả vốn gốc
và tiền lãi bằng những đồng tiền kém giá trị hơn so với dự tính ban đầu. Điều đó
hàm ý có sự phân phối lại của cải từ người cho vay sang người đi vay. Người đi vay
sẽ được lợi, còn người cho vay sẽ bị tổn thất. Sự phân phối lại diễn ra theo chiều
hướng ngược lại khi tỷ lệ lạm phát thực tế thấp hơn tỷ lệ lạm phát dự tính.
Lạm phát không được dự tính trước còn gây tổn thất cho những người nhận
thu nhập danh nghĩa cố định hoặc có thu nhập danh nghĩa chậm được điều chỉnh
theo lạm phát. Công nhân và doanh nghiệp thường thoả thuận về mức lương danh
nghĩa trong các hợp đồng lao động dài hạn dựa trên kỳ vọng về lạm phát. Do vậy,
công nhân sẽ bị tổn thất khi lạm phát cao hơn mức dự kiến, ngược lại các doanh
nghiệp lại bị tổn thất khi lạm phát thấp hơn mức dự kiến.
Trên thực tế, lạm phát cao thường có xu hướng biến động mạnh và khó dự
đoán trước, gây ra những bất trắc và rủi ro cho các hoạt động tiết kiệm và đầu tư
dài hạn, và do đó không có lợi cho tăng trưởng kinh tế. Chính vì vậy ổn định lạm
phát ở mức thấp là một mục tiêu quan trọng của điều tiết vĩ mô.
15
CHƯƠNG 2. THỰC TRẠNG LẠM PHÁT Ở VIỆT NAM
2.1. Thực trạng lạm phát ở Việt Nam những năm gần đây
2.1.1. Giai đoạn 2011-2015
Trong giai đoạn 2011 - 2015 Ngân hàng Nhà nước Việt Nam đã điều hành chủ
động, linh hoạt các công cụ chính sách tiền tệ (CSTT), phối hợp chặt chẽ với chính
sách tài khóa góp phần quan trọng trong kiểm soát và đưa lạm phát ở mức cao 23%
vào tháng 8/2011 xuống còn 6,81% năm 2012, 6,04% năm 2013, 1,84% năm 2014
và 0,6% năm 2015.
Trên cơ sở đánh giá dự báo kinh tế vĩ mô, thị trường tiền tệ, giai đoạn 2016 2020, NHNN đặt ra các chỉ tiêu định hướng về tiền tệ, tín dụng thấp hơn giai đoạn
2011 - 2015 nhưng vẫn cân đối đảm bảo phù hợp với sức hấp thụ của nền kinh tế và
duy trì ổn định kinh tế vĩ mô; thực hiện đồng bộ các giải pháp nhằm kiểm soát hợp
lý lượng tiền cung ứng qua các kênh, qua đó đã góp phần kiểm soát tốt lạm phát.
Giai đoạn 2011-2015 đánh dấu thời kỳ giữ lạm phát ổn định ở mức thấp nhất
trong hơn 10 năm qua. Lạm phát ổn định ở mức thấp, ổn định kinh tế vĩ mô được
giữ vững, thị trường ngoại hối, tỷ giá ổn định, dự trữ ngoại hối tăng lên mức kỷ lục,
thanh khoản hệ thống ngân hàng được cải thiện vững chắc là những yếu tố cơ bản
được các tổ chức xếp hạng tín nhiệm quốc tế sử dụng làm căn cứ để nâng hệ số tín
nhiệm của Việt Nam.
Vào nửa cuối năm 2011, thanh khoản của hệ thống TCTD thiếu hụt nghiêm
trọng, lãi suất liên ngân hàng tăng cao, có thời điểm lên đến 30%/năm, nguy cơ đổ
vỡ hệ thống hiện hữu có tình trạng các ngân hàng hạn chế cho vay lẫn nhau.
Trước tình hình trên, bên cạnh việc thực hiện các giải pháp nhằm mục tiêu ưu
tiên về kiềm chế lạm phát, để hỗ trợ thanh khoản cho thị trường, giảm thiểu nguy
cơ đổ vỡ hệ thống TCTD, NHNN đã điều hành linh hoạt nghiệp vụ thị trường mở,
thực hiện tái cấp vốn kịp thời cho hệ thống TCTD, sẵn sàng hỗ trợ thanh khoản cho
các TCTD, đảm bảo an toàn hệ thống...
Với việc điều hành đồng bộ các công cụ CSTT, từ đầu năm 2012, thanh khoản
hệ thống đã được cải thiện và đảm bảo nên nhu cầu vay vốn trên liên ngân hàng để
cân đối vốn không cao, do vậy không tạo sức ép tăng lãi suất liên ngân hàng như
thời gian trước đây. Lãi suất liên ngân hàng đã giảm mạnh và dao động trong
khoảng 2-5%/năm; Tỷ lệ tín dụng/huy động vốn bằng VND giảm từ trên 100% cuối
năm 2011 xuống còn khoảng 90%.
16
CPI tháng 3/2016 tăng 0,57% so với tháng trước, 1,69% so với cùng kỳ;
0,99% so với cuối năm trước. Theo quy luật mùa vụ hàng năm, tháng 3 là thời điểm
sau tết Nguyên Đán nên CPI thường có xu hướng giảm. Tuy nhiên, diễn biến tăng
lạm phát tháng 3 năm 2016 xuất phát từ một số yếu tố đột biến gồm:
(i) Giá dịch vụ y tế tăng từ 1/3/2016 theo Thông tư liên tịch số 37/2015/TTLTBYT-BTC ngày 29/10/2015 của Bộ Y tế và Bộ Tài chính, theo đó, giá các mặt hàng
dịch vụ y tế áp dụng cho đối tượng có bảo hiểm y tế tăng 32,9% góp phần làm cho
CPI tăng khoảng 1,27%.
(ii) Thực hiện lộ trình tăng học phí theo Nghị định số 86/2015/NĐ-CP ngày
02/10/2015 của Chính phủ, một số tỉnh đã tăng học phí các cấp làm cho chỉ số giá
nhóm giáo dục tăng 0,66%.
(iii) Cú sốc cung lúa gạo do tình trạng hạn hán, ngập mặn nghiêm trọng đẩy
nhu cầu mua lúa, gạo tích trữ trong khi nguồn cung giảm tác động làm giá lương
thực tăng 0,23% (Theo báo cáo của Hiệp hội Lương thực Việt Nam, tổng lượng gạo
tồn kho của các doanh nghiệp thành viên tính đến ngày 18/2/2016 còn khoảng 826
nghìn tấn thấp hơn gần 500 nghìn tấn so với cùng kỳ năm ngoái. Ngoài ra, Vụ
Đông Xuân năm nay dự báo sẽ có sản lượng thấp hơn năm trước do bị hạn hán và
xâm nhập mặn).
Ngoại trừ 3 nhóm trên đây, các nhóm hàng khác đều giảm hoặc tăng chậm lại
so với tháng trước do quy luật giá giảm sau kỳ nghỉ tết Nguyên Đán; cùng với việc
điều chỉnh giảm giá xăng dầu, gas trong kỳ tính CPI. Lạm phát cơ bản giảm 0,09%
so với tháng trước và tăng 1,64% so với cùng kỳ 2015, thấp hơn mức tăng 1,72%
của tháng 2/2016. Điều này cho thấy áp lực tiền tệ và tăng trưởng kinh tế lên lạm
phát là chưa đáng lo ngại.
Dự tính cả năm 2016, lạm phát có khả năng tăng mạnh nhưng nguyên nhân
chủ yếu là do Nhà nước điều chỉnh tăng mạnh giá dịch vụ y tế, giáo dục. Đối với
giá y tế, sau khi đã điều chỉnh tăng hơn 30% vào tháng 3/2016, dự kiến sẽ còn 1 lần
điều chỉnh tăng vào tháng 7/2016. Học phí giáo dục hiện đã được một số địa
phương điều chỉnh tăng dần nhưng dự kiến cao điểm tăng sẽ vào thời điểm đầu
năm học mới.
Đáng chú ý, nếu như lạm phát giảm thấp trong năm 2015 chủ yếu do giá
lương thực, xăng dầu giảm mạnh thì 2 loại giá này bắt đầu tăng trở lại, tạo thêm áp
lực lạm phát năm 2016. Như vậy, nếu các áp lực từ tăng trưởng kinh tế và yếu tố
tiền tệ lên lạm phát vẫn ổn định như thời gian trước (theo đó giúp ổn định lạm phát
17
cơ bản ở mức khoảng 2%) thì tỷ lệ lạm phát cuối năm vẫn có khả năng lên đến trên
5%, đòi hỏi chính sách tiền tệ phải được điều hành thận trọng không tạo thêm áp
lực gia tăng lạm phát. Nếu lạm phát cơ bản của NHNN vẫn dao động ổn định trong
khoảng 2% là tương đối ổn định và giá các mặt hàng nhà nước quản lý được điều
chỉnh phù hợp. Nhưng nếu tiếp tục điều chỉnh tăng mạnh giá nhà nước quản lý theo
lộ trình, giá lương thực xăng dầu tiếp tục tăng... thì lạm phát có khả năng lên trên
5%.
Bảng 1. Lạm phát giai đoạn 2010 – 4/2016
(Nguồn: Ngân hàng Nhà nước Việt Nam)
2.1.2. Năm 2016
Năm 2016 được coi là thành công trong việc kiểm soát lạm phát trong điều
kiện giá một số mặt hàng thiết yếu tăng trở lại nhưng nhờ lạm phát thấp nên Nhà
nước vẫn có dự định điều chỉnh giá một số mặt hàng do Nhà nước quản lý tiệm cận
dần theo giá thị trường.
18
Bảng 2. So sánh lạm phát cơ bản tháng 12 từ các năm 2010 - 2016
Lạm phát cơ bản tháng 12/2016 tăng 1,87% so với cùng kỳ năm trước (lạm
phát sau khi loại trừ giá lương thực-thực phẩm, giá năng lượng và giá các mặt hàng
do Nhà nước quản lý bao gồm dịch vụ y tế và dịch vụ giáo dục), tăng nhẹ so với
mức 1,69% của năm 2015.
Một thước đo khác là lạm phát GDP cũng chỉ ở mức 1,1% (cao hơn so với
mức -0,2% trong năm 2015), bởi năm 2016 trong khi GDP thực tăng 6,2%, thì GDP
danh nghĩa cũng chỉ tăng 7,3% (từ 4192 nghìn tỷ đồng lên 4502 nghìn tỷ đồng).
Như vậy, có thể thấy rằng, nếu loại trừ các yếu tố làm tăng giá mang tính ngắn
hạn, lạm phát của Việt Nam chỉ vào khoảng 1-2% và là mức tương đối thấp. Hơn
nữa, mức lạm phát thấp này đã được duy trì tương đối ổn định kể từ giữa năm
2016, khi lạm phát cơ bản chỉ dao động xoay quanh mức 0,1%/tháng.
Hình 4. Lạm phát cơ bản so với tháng trước của các tháng trong năm 2016
Về nguyên nhân, xu hướng lạm phát thấp chủ yếu là do tình hình tăng trưởng
kinh tế chưa có nhiều dấu hiệu khởi sắc. Tốc độ tăng trưởng GDP 6,21% trong năm
2016 thấp hơn tương đối nhiều so với mục tiêu 6,7%, thậm chí thấp hơn cả so với
19
mức dự báo gần đây là 6,3-6,5%. Mặc dù có những nguyên nhân mang tính khách
quan như thời tiết không thuận lợi dẫn đến ngành Nông nghiệp tăng trưởng chậm
với mức 1,36% và ngành Khai khoáng bị sụt giảm 4% do giá nguyên liệu trên thế
giới ở mức thấp, song tựu trung vẫn là do tổng cầu thấp.
2.1.3. Năm 2017
CPI bình quân năm 2017 tăng 3,53% so với năm 2016 và tăng 2,6% so với
tháng 12/2016. Như vậy, mục tiêu kiểm soát lạm phát, giữ mức CPI bình quân năm
2017 dưới 4% đã đạt được trong bối cảnh điều chỉnh được gần hết giá các mặt hàng
do Nhà nước quản lý đặt ra trong năm 2017.
Hình 5. Chỉ số CPI của Việt Nam từ tháng 01 – 12 / 2017
Giải thích một số yếu tố gây tăng giá trong năm 2017, giá dịch vụ y tế tăng
bước 2 theo Thông tư liên tịch số 37/2015/TTLT-BYT-BTC ngày 29/10/2015 của
Bộ Y tế và Bộ Tài chính tại 27 tỉnh, thành phố trực thuộc Trung ương và Thông tư
số 02/2017/TT-BYT ngày 15/3/2017 của Bộ Y tế quy định mức khung tối đa giá
dịch vụ khám bệnh, chữa bệnh đối với người không có thẻ bảo hiểm y tế thuộc các
bệnh viện hạng đặc biệt, hạng I do Bộ Y tế và các bộ, ngành quản lý. Tính đến ngày
20/12/2017, đã có 45 tỉnh, thành phố trực thuộc Trung ương điều chỉnh giá dịch vụ
khám bệnh, chữa bệnh đối với người không có thẻ bảo hiểm y tế. Vì vậy, giá các
mặt hàng dịch vụ y tế tăng 37,3% so với cuối năm 2016 và bình quân cả năm 2017
tăng 57,91% so với năm 2016 làm cho CPI năm 2017 tăng khoảng 1,35% so với
tháng 12/2016 và CPI bình quân năm 2017 tăng khoảng 2,04% so với năm 2016.
Bên cạnh đó, thực hiện lộ trình tăng học phí theo Nghị định số 86/2015/NĐCP ngày 02/10/2015 của Chính phủ, các tỉnh đã tăng học phí các cấp học. Điều này
20
đã làm cho chỉ số giá nhóm giáo dục trong năm 2017 tăng 7,29% so với tháng
12/2016 và bình quân cả năm 2017 tăng 9,1% so với bình quân năm 2016, tác động
làm cho CPI năm 2017 tăng khoảng 0,41% so với tháng 12/2016 và CPI bình quân
năm 2017 tăng khoảng 0,5% so với năm 2016.
Đồng thời, mức lương tối thiểu vùng áp dụng cho người lao động ở các doanh
nghiệp cũng tăng từ ngày 01/01/2017. Mức lương cơ sở áp dụng cho cán bộ, công
chức, viên chức và lực lượng vũ trang từ ngày 01/7/2017 tăng 90.000 đồng/tháng
đã làm cho giá một số loại dịch vụ như: dịch vụ sửa chữa đồ dùng gia đình, dịch vụ
bảo dưỡng nhà ở, dịch vụ điện, nước; dịch vụ thuê người giúp việc gia đình tăng
giá từ 3 - 8% so với năm 2016.
Bên cạnh đó, giá các mặt hàng đồ uống, thuốc lá và giá các loại quần áo may
sẵn tăng cao trong dịp Tết Nguyên đán do nhu cầu tăng. Bình quân năm 2017, chỉ
số giá các nhóm này lần lượt tăng 1,52% và 1,07% so với năm 2016. Giá gas sinh
hoạt cũng được điều chỉnh theo giá gas thế giới. Cụ thể, năm 2017 giá gas tăng
15,91% so với năm 2016.
Ngoài ra, giá nhiên liệu trên thị trường thế giới trong năm 2017 tăng khá
mạnh, bình quân giá dầu Brent từ thời điểm ngày 01/01/2017 đến thời điểm ngày
20/12/2017 ở mức 54,49 USD/thùng, cao hơn nhiều so với mức 45,13 USD/thùng
của bình quân năm 2016. Trong nước, giá xăng dầu tính đến ngày 10/12/2017 được
điều chỉnh 10 đợt tăng và 8 đợt giảm, hai đợt không đổi, tổng cộng giá xăng tăng
1.040 đồng/lít; dầu diezel tăng 1.260 đồng/lít, làm cho giá xăng dầu bình quân năm
2017 tăng 15,49% so với năm 2016, góp phần tăng CPI chung 0,64%.
Giá vật liệu xây dựng cũng tăng 5,23% do giá cát xây dựng tăng rất mạnh vào
tháng 5, tháng 6 và tháng 7/2017 do các tỉnh, thành phố trực thuộc Trung ương siết
chặt việc quản lý khai thác cát và các cơ quan chức năng không cho phép khai thác
các mỏ mới. Giá sắt thép tăng do giá nguyên liệu đầu vào như phôi thép, than điện
tăng mạnh từ tháng 7 nên các nhà máy sản xuất thép đã tăng giá bán từ 5 - 10%.
Giá các mặt hàng thiết yếu trên thế giới có xu hướng tăng trở lại như giá nhiên
liệu, chất đốt, sắt thép… nên chỉ số giá nhập khẩu năm 2017 so năm 2016 tăng
2,57%, chỉ số giá xuất khẩu tăng 2,93%; chỉ số giá sản xuất công nghiệp (PPI) tăng
2,82%.
Năm 2017 cũng được đánh giá là năm kỷ lục về số lượng cơn bão, áp thấp
nhiệt đới trên biển đông, có 16 cơn bão và 4 áp thấp nhiệt đới. Riêng cơn bão số 12
(Damrey) gây thiệt hại lớn nhất về người và vật chất cho các tỉnh miền Trung làm
21
cho chỉ số giá nhóm lương thực, thực phẩm tại các tỉnh này có mức tăng trong
tháng 11/2017 cao hơn các tỉnh khác.
Tổng cục Thống kê cũng chỉ ra, bên cạnh những yếu tố gây tăng giá, trong
năm 2017 cũng có những yếu tố góp phần kiềm chế CPI. Đó là, chỉ số giá nhóm
thực phẩm bình quân năm 2017 giảm 2,6% so với năm 2016 làm CPI chung giảm
khoảng 0,53%, chủ yếu giảm ở nhóm thịt tươi sống.
Tổng cục Thống kê cũng chỉ rõ, lạm phát cơ bản (CPI sau khi loại trừ lương
thực, thực phẩm tươi sống; năng lượng và mặt hàng do Nhà nước quản lý bao gồm
dịch vụ y tế và dịch vụ giáo dục) tháng 12/2017 tăng 0,11% so với tháng trước và
tăng 1,29% so với cùng kỳ.
Hình 6. Chỉ số CPI qua các năm
Bình quân năm 2017 so với năm 2016, lạm phát chung có mức tăng cao hơn
lạm phát cơ bản, điều này phản ánh biến động giá do yếu tố thị trường có mức tăng
cao, đó là giá lương thực thực phẩm, giá xăng dầu và yếu tố điều hành giá cả qua
việc điều chỉnh tăng giá dịch vụ y tế và giáo dục. Bình quân năm 2017 lạm phát cơ
bản là 1,41% thấp hơn mức kế hoạch từ 1,6-1,8%, cho thấy chính sách tiền tệ vẫn
đang được điều hành ổn định.
CPI bình quân năm 2017 tăng 3,53% so với bình quân năm 2016, dưới mục
tiêu Quốc hội đề ra. CPI tháng 12/2017 tăng 2,6% so với tháng 12/2016, bình quân
mỗi tháng tăng 0,21%. CPI bình quân năm 2017 tăng chủ yếu là do các địa phương
điều chỉnh giá dịch vụ y tế, dịch vụ khám chữa bệnh. Có một số yếu tố góp phần
kiềm chế tốc độ tăng CPI năm nay như chỉ số giá nhóm thực phẩm bình quân năm
giảm 2,6% so với năm 2016 (chủ yếu giảm ở nhóm thịt tươi sống). Ngân hàng Nhà
nước đã điều hành chính sách tiền tệ kiên định mục tiêu giữ ổn định vĩ mô và kiểm
soát lạm phát.
22
2.1.4. Năm 2018 và triển vọng lạm phát đến năm 2020
Chỉ số giá tiêu dùng (CPI) tháng 12/2018 giảm 0,25% so với tháng trước; CPI
bình quân năm 2018 tăng 3,54% so với năm 2017, dưới mục tiêu Quốc hội đề ra;
CPI tháng 12/2018 tăng 2,98% so với tháng 12/2017.
Lạm phát cơ bản tháng 12/2018 tăng 0,09% so với tháng trước và tăng 1,7%
so với cùng kỳ năm trước. Lạm phát cơ bản bình quân năm 2018 tăng 1,48% so với
bình quân năm 2017.
Về mặt định tính, có thể nhận định rằng, trong thời gian tới, về phía tổng cầu,
chưa có yếu tố nào đủ đột biến để đẩy lạm phát lên cao.
Theo ADB, lạm phát Việt Nam sẽ tiếp tục ở mức bình quân 3,5% trong năm
2019, song sẽ tăng lên 3,8% trong năm 2020, nằm trong mục tiêu kiểm soát lạm
phát dưới 4% Chính phủ đề ra.
2.2. Đặc điểm của lạm phát ở Việt Nam
Thứ nhất, tăng trưởng kinh tế cao đi liền với lạm phát cao và các bất ổn vĩ mô
khác. Đây là đặc điểm chung của nhiều nền kinh tế đang phát triển, song được thể
hiện rất rõ ở Việt Nam. Nguyên nhân chính là do mô hình tăng trưởng theo chiều
rộng của Việt Nam dựa trên lao động giá rẻ, song năng suất lao động thấp, xuất
khẩu tài nguyên, nông lâm thủy sản là chủ yếu và còn dưới dạng thô; sản phẩm
công nghiệp chủ yếu là gia công lắp ráp, sử dụng công nghệ lạc hậu vừa lãng phí
nguyên nhiên liệu, vừa gây ô nhiễm môi trường.
Để thúc đẩy tăng trưởng, mô hình này dựa vào các chính sách tài khóa nới
lỏng để mở rộng đầu tư (đặc biệt đầu tư công) và chính sách tiền tệ nới lỏng (tăng
cung tiền và tăng tín dụng).
Thứ hai, lạm phát Việt Nam phụ thuộc ngày càng lớn vào lạm phát thế giới.
Độ mở của nền kinh tế nước ta hiện thuộc nhóm cao nhất thế giới, với tổng kim
ngạch xuất nhập khẩu hiện đạt khoảng 180% GDP. Với độ mở nền kinh tế lớn, mọi
biến động giá cả hàng hóa trên thị trường thế giới phần lớn được chuyển vào Việt
Nam thông qua nhập khẩu.
Thứ ba, những năm gần đây lạm phát bị tác động không nhỏ của việc tăng giá
một số nhóm hàng theo lộ trình. Trước đây, giá dịch vụ y tế và giáo dục được duy
trì ở mức rất thấp trong nhiều năm, do vậy ảnh hưởng đến chất lượng dịch vụ và
nguồn vốn tái đầu tư cho các lĩnh vực này.
23
CHƯƠNG 3. GIẢI PHÁP KIỀM CHẾ LẠM PHÁT
3.1. Những biện pháp về chính sách tiền tệ
- Điều hành các công cụ chính sách tiền tệ chủ động và linh hoạt. Trong điều
kiện nước ta hội nhập kinh tế quốc tế và nhất là trong bối cảnh kinh tế thế giới đang
sụt giảm, thì việc tiếp tục điều hành các công cụ chính sách tiền tệ cần chủ động,
linh hoạt; theo kịp sự phát triển của thị trường tiền tệ và trong khả năng kiểm soát
tiền tệ là một trong các giải pháp để đạt được chính sách tiền tệ hiệu quả.
- Tiếp tục điều hành công cụ dự trữ bắt buộc một cách chủ động và linh hoạt
theo diễn biến của thị trường nhằm kiểm soát tiền tệ; mặt khác tạo điều kiện cho
các tổ chức tín dụng sử dụng vốn khả dụng linh hoạt và hiệu quả
- Tiếp tục điều hành chính sách tỷ giá linh hoạt theo quan hệ cung cầu trên
thị trường, trong mối quan hệ phối hợp với lãi suất, có sự kiểm soát của Nhà nước
nhằm đảm bảo các cân đối vĩ mô: kiểm soát được lạm phát; kích thích xuất khẩu,
kiểm soát nhập khẩu; khuyến khích đầu tư nước ngoài vào Việt Nam; không ảnh
hưởng lớn đến việc doanh nghiệp vay nợ bằng ngoại tệ; tạo điều kiện quản lý và
thu hút nguồn ngoại tệ vào hệ thống ngân hàng; nâng cao quỹ trữ ngoại tệ của Nhà
nước. Đẩy mạnh tuyên truyền phổ biến cho các doanh nghiệp áp dụng các công cụ
phòng ngừa, bảo hiểm rủi ro tỷ giá.
- Nâng cao tính độc lập, trách nhiệm của NHNN.
Đây là một trong các điều kiện tiên quyết nhằm nâng cao hiệu quả điều hành
chính sách tiền tệ của NHNN. Việc nâng cao tính độc lập, trách nhiệm cho NHNN
phải thích ứng với mức độ hội nhập tài chính thế giới và phù hợp thể chế chính trị ở
Việt Nam.
- Đẩy mạnh sự phát triển của thị trường tiền tệ. Tiếp tục tạo hàng hoá và phát
triển nghiệp vụ trên thị trường tiền tệ; mở rộng thành viên tham gia thị trường;
nâng cao vai trò điều tiết, hướng dẫn của NHNN trên thị trường tiền tệ; hoàn thiện
hành lang pháp lý tạo điều kiện cho thị trường tiền tệ phát triển. Sự phát triển của
thị trường tiền tệ sẽ là kênh dẫn có hiệu quả trong cơ chế truyền tải các tác động
của chính sách tiền tệ đến nền kinh tế.
3.2. Những biện pháp về chính sách tài khóa
- Hoàn thiện chính sách thuế phù hợp với xu thế phát triển của nền kinh tế
theo hướng tháo gỡ khó khăn cho sản xuất kinh doanh, hỗ trợ cho thị trường. Định
hướng chính sách thuế và thu NSNN nên theo hướng giảm thuế suất, mở rộng đối
24
tượng chịu thuế; tăng thuế suất thuế nhập khẩu đối với các mặt hàng không khuyến
khích nhập khẩu và các mặt hàng có khả năng sản xuất trong nước, tăng thuế suất
thuế xuất khẩu đối với các sản phẩm từ khai thác tài nguyên., tránh thất toát nguồn
thu,. Tiếp tục rà soát, điều chỉnh và ban hành các văn bản, thông tư hướng dẫn thực
hiện các chính sách thuế, phí và chế độ thu cho phù hợp với tình hình thực tế; tiếp
túc đẩy mạnh công tác cải cách hành chính trong lĩnh vực Thuế và Hải quan nhằm
giảm thiểu tối đa thời gian kê khai, nộp thuế cho DN, khuyến khích các DN kê khai
qua mạng.Tăng cường công tác thanh tra, kiểm tra thuế tại DN và đẩy mạnh các
hoạt động chống chuyển giá, chống buôn lậu và gian lận thương mại… qua đó đã
phát hiện và xử lý kịp thời nhiều trường hợp vi phạm, gian lận, trốn lậu thuế.
- Thực hiện tiết kiệm chi thường xuyên và đẩy nhanh việc thực hiện các
nhiệm vụ chi đầu tư phát triển, tạo động lực thúc đẩy phát triển kinh tế; đồng thời,
tăng cường kiểm soát chi ngân sách, bảo đảm tiết kiệm, chặt chẽ và hiệu quả.
- Đẩy mạnh quá trình sắp xếp cổ phần hoá doanh nghiệp nhà nước và đổi
mới cơ chế tài chính đối với lĩnh vực sự nghiệp công. Hoàn thiện cơ chế, chính
sách tài chính liên quan đến sắp xếp, cổ phần hoá DNNN, thực hiện đồng bộ các
giải pháp nhằm đẩy nhanh kế hoạch sắp xếp, đổi mới DNNN. Tăng cường công tác
kiểm tra, giám sát đối với hoạt động của các Tập đoàn, Tổng công ty nhà nước…;
Tiếp tục cải thiện môi trường kinh doanh, tạo điều kiện thuận lợi, khuyến khích
phát triển các doanh nghiệp, tổ chức kinh tế ngoài Nhà nước.
- Đẩy nhanh việc đổi mới cơ chế tài chính đối với lĩnh vực sự nghiệp công
theo hướng tăng quyền tự chủ, tự chịu trách nhiệm cho các cơ quan, đơn vị; khẩn
trương nghiên cứu, ban hành cơ chế, chính sách thích hợp để từng bước điều chỉnh
khung giá dịch vụ công theo cơ chế thị trường đối với các dịch vụ giáo dục, y tế.
3.3. Kiến nghị
Từ những phân tích ở trên tôi xin đưa ra một số kiến nghị sau đây:
Thứ nhất, điều cốt lõi nhất đối với nước ta hiện nay là phải tập trung tăng
năng lực sản xuất trong nước mà trọng tâm hàng đầu là phải tăng cường đầu tư để
nâng cao trình độ công nghệ của nền kinh tế. Muốn vậy, chính sách của Nhà nước
phải hỗ trợ, khuyến khích doanh nghiệp đầu tư cho khoa học và công nghệ; các
ngân hàng thương mại phải dành ưu tiên cho các khoản vay để nâng cao trình độ
công nghệ và doanh nghiệp phải coi hoạt động đổi mới là vấn đề sống còn của
mình.
25