Tải bản đầy đủ (.docx) (31 trang)

Công tác quản lý nhà nước về du lịch trên địa bàn tỉnh hà giang

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (486.63 KB, 31 trang )

MỤC LỤC
Mở đầu..................................................................................................................... 1
Chương 1. CƠ SỞ LÝ LUẬN VỀ QUẢN LÝ NHÀ NƯƠC VÀ KHÁI QUÁT
MỘT VÀI NÉT VỀ TỈNH HÀ GIANG.................................................................4
1.1. Cở sở lý luận về quản lý nhà nước...............................................................4
1.2. Một vài nét về du lịch tại tỉnh Hà Giang.....................................................5

1.2.1 Vị trí địa lý và lịch sử hình thành....................................................5
1.2.2. Một số địa điểm du lịch và lễ hội du lịch trên địa bàn tỉnh Hà Giang. 7
* Tiểu kết:...............................................................................................10
Chương 2: THỰC TRẠNG CÔNG TÁC QUẢN LÝ NHÀ NƯỚC VỀ DU
LỊCH TẠI TỈNH HÀ GIANG...............................................................................11
2.1. Điều kiện tự nhiên, đặc điểm dân cư, dân tộc tỉnh Hà Giang..................11

2.1.1. Điều kiện tự nhiên của tỉnh Hà Giang...............................................11
2.1.2. Đặc điểm dân cư, dân tộc..............................................................12
2.2. Tình hình phát triển ngành du lịch tỉnh Hà Giang..................................14

2.2.1. Những nguyên nhân hạn chế phát triển du lịch Hà Giang............14
2.2.2. Mùa tham quan du lịch và thời gian lưu trú của khách du lịch....15
2.2.3. Doanh thu du lịch và điều kiện cơ sở vật chất phục vụ du lịch.....16
2.3. Thực trạng công tác quản lý nhà nước về du lịch trên địa bàn tỉnh Hà
Giang..................................................................................................................19
2.4. Đánh giá công tác QLNN về du lịch tại tỉnh Hà Giang...........................20

2.4.1. Khái quát về kết quả và một số tồn tại hạn chế của công tác QLNN
về du lịch tại tỉnh Hà Giang....................................................................20
2.4.2. Nguyên nhân của những hạn chế..................................................21
*Tiểu kết :...............................................................................................22
Chương 3. GIẢI PHÁP HOÀN THIỆN CÔNG TÁC QUẢN LÝ NHÀ NƯỚC
VỀ DU LỊCH TRÊN ĐỊA BÀN TỈNH HÀ GIANG............................................23


3.1. Căn cứ đề xuất các giải pháp hoàn thiện công tác quản lý nhà nước về
du lịch trên địa bàn tỉnh....................................................................................23

3.1.1. Mục tiêu, định hướng phát triển du lịch tỉnh Hà Giang................23
3.1.2. Định hướng hoàn thiện quản lý nhà nước về du lịch tỉnh Hà Giang. 23
3.2. Một số giải pháp để hoàn thiện công tác quản lý nhà nước về du lịch trên
địa bàn tỉnh Hà Giang.......................................................................................24

* Tiểu kết:...............................................................................................26
Kết Luận................................................................................................................27
Tài liệu tham khảo.................................................................................................28
PHỤ LỤC............................................................................................................... 29


Mở đầu
1. Lý do chọn đề tài
Ngày nay, du lịch - ngành kinh tế được ví là “công nghiệp không khói”
- đang trở thành hoạt động kinh tế sôi động hàng đầu thế giới. Du lịch là một
ngành kinh tế tương đối nhạy cảm và có trách nhiệm với môi trường, vì vậy
phát triển du lịch góp phần khai thác có hiệu quả cũng như bảo vệ, tôn tạo tài
nguyên thiên nhiên và văn hóa của đất nước, bảo vệ môi trường tự nhiên.
Cùng với xu hướng đó, Việt Nam với tiềm năng du lịch rất phong phú, đa
dạng tạo điều kiện thuận lợi cho hoạt động du lịch phát triển và khẳng định vị
thế trong nền kinh tế quốc dân.
Hà Giang là một tỉnh miền núi biên giới phía Bắc, có vị trí chiến lược
quan trọng trong việc phát triển kinh tế, xã hội, an ninh quốc phòng và đối
ngoại. Phía bắc Hà Giang có đường biên giới 277,5 km với Trung Quốc, phía
đông, tây và nam Hà Giang giáp với các tỉnh có tiềm năng du lịch như: Cao
Bằng, Tuyên Quang, Lào Cai, Yên Bái, đây là điều kiện rất thuận lợi cho việc
phát triển các tuyến du lịch liên tỉnh. Hà Giang là một vùng đất có tiềm năng

rất lớn về du lịch, đặc biệt là phát triển du lịch sinh thái và du lịch cộng đồng.
Cùng với đó là lợi thế tiếp giáp với nước bạn Trung Quốc và nhiều địa bàn
nội địa có ngành du lịch đang phát triển mạnh như Lào Cai, Tuyên Quang,
Bắc Cạn, Cao Bằng… Hà Giang còn có bản sắc văn hoá của cộng đồng 22
dân tộc anh em, được bảo lưu khá tốt. Vì thế, trên đường hội nhập, du lịch Hà
Giang có nhiều lợi thế để phát triển nhiều loại hình du lịch mà đông đảo
khách du lịch quốc tế đang hướng tới hiện nay đó là: Du lịch tham quan nghỉ
dưỡng, du lịch mạo hiểm, du lịch sinh thái và du lịch cộng đồng… Trong
những năm qua, tỉnh đã có nhiều nỗ lực nhằm phát triển du lịch, đưa du lịch
trở thành thế mạnh của Hà Giang. Một trong những nỗ lực đó chính là sự tích
cực chuẩn bị các bước cần thiết để cao nguyên đá Đồng Văn được thế giới
công nhận là Công viên Địa chất toàn cầu. Đây sẽ là tiền đề hết sức quan
1


trọng trong phát triển du lịch của tỉnh trong thời gian tới. Chính vì lý do đó,
được sự hướng dẫn của thầy Nguyễn Xuân Trường, nhóm đề tài chọn hướng
nghiên cứu, tìm hiểu: “ Công tác quản lý nhà nước về du lịch trên địa bàn
tỉnh Hà Giang “
2. Lịch sử nghiên cứu vấn đề
Học viện Hành Chính (2010), Gíao trình Quản lí hành chính nhà
nước, NXB Học viện hành chính quốc gia
Nguyễn Thị Hương (2016), Tìm hiểu tiềm năng và hiện trạng phát
triển du lịch Hà Giang, Báo cáo thực tập, Trường Đại học văn hóa Hà Nội,
Hà Nội.
Sở Văn hoá - Thể thao - Du lịch Hà Giang, Tổng quan du lịch Hà
Giang, tài liệu hội thảo du lịch Hà Giang giai đoạn 2005-2015, NXB Hà
Giang
Dựa trên các đề tài nghiên cứu của các tác giả trên đã giúp em làm
rõ được nội dung và hình thức bài nghiên cứu của này.

3. Mục tiêu, nhiệm vụ nghiên cứu
*. Mục tiêu nghiên cứu
Vận dụng có chọn lọc cơ sở lý luận và thực tiễn về phát triển du lịch
trên thế giới và Việt Nam vào địa bàn tỉnh Hà Giang nhằm đánh giá tiềm năng
phát triển du lịch, bước đầu tìm hiểu thực trạng hoạt động du lịch của tỉnh Hà
Giang, trên cơ sở đó đề xuất các ý kiến khuyến nghị cho phát triển du lịch Hà
Giang.
*. Nhiệm vụ nghiên cứu
- Tổng quan có chọn lọc những vấn đề lý luận và thực tiễn của du lịch
và tài nguyên du lịch.
- Phân tích tiềm năng phát triển du lịch Hà Giang.
- Đề xuất một số giải pháp có tính khuyến khích nhằm phát triển du lịch
của tỉnh Hà Giang

2


5. Phạm vi nghiên cứu
- Về phạm vi không gian: phạm vi nghiên cứu đề tài là toàn bộ tỉnh Hà
Giang. Bên cạnh đó có sự phân tích cụ thể vào các điểm, tuyến, cụm du lịch,
trung tâm du lịch có ý nghĩa quan trọng của tỉnh; chú ý tới mối quan hệ của
địa bàn nghiên cứu với các tỉnh lân cận.
- Về thời gian: đề tài chủ yếu nghiên cứu giai đoạn 2005 - 2010, giải
pháp phát triển đến năm 2020.
6. Phương pháp nghiên cứu
* Phương pháp thu thập, phân tích, tổng hợp tài liệu
Đây là phương pháp quan trọng trong nghiên cứu. Việc thu thập tài
liệu sẽ cung cấp thông tin, số liệu cần thiết phục vụ cho quá trình nghiên cứu.
Đây sẽ là cơ sở dữ liệu phong phú và quan trọng cho việc thực hiện các
phương pháp khác đạt hiệu quả cao.

* Phương pháp bản đồ, biểu đồ
Đây là phương pháp cho phép thu thập thông tin về số lượng, chất
lượng, sự phân bố, thực trạng khai thác Tài nguyên du lịch của tỉnh Hà Giang.
Phương pháp này còn thể hiện sự phân bố về số lượng, chất lượng, khả năng
tôn tạo và khai thác tài nguyên du lịch của Hà Giang.
7. Cấu trúc đề tài
Ngoài phần mở đầu, kết luận, phụ lục và danh mục các hình ảnh, các
bảng biểu, các tài liệu tham khảo, nội dung chính của đề tài được thể hiện
trong 3 chương:
Chương 1: Cơ sở lý luận về quản lý nhà nước và khái quát một vài
nét về tỉnh Hà Giang
Chương 2: Thực trạng công tác quản lý nhà nước về du lịch tại tỉnh
Hà Giang
Chương 3: Giải pháp hoàn thiện công tác quản lý nhàn nước về du
lịch trên địa bàn tỉnh Hà Giang

3


Chương 1. CƠ SỞ LÝ LUẬN VỀ QUẢN LÝ NHÀ NƯƠC VÀ KHÁI
QUÁT MỘT VÀI NÉT VỀ TỈNH HÀ GIANG
1.1.

Cở sở lý luận về quản lý nhà nước

* Khái niệm quản lí nhà nước
Theo định nghĩa chung nhất, “quản lý nhà nước vừa là chức năng, vừa
là quyền hạn và nhiệm vụ của nhà nước, nó được hiểu là việc Nhà nước sử
dụng quyền lực chung đã được thể chế hóa tác động thường xuyên và liên tục
đến các quá trình, lĩnh vực hay quan hệ xã hội nhằm đạt được mục đích quản

lý” [1,tr9].
*. Khái niệm du lịch
Luật du lịch Việt Nam năm 2005 định nghĩa: “ Du lịch là các hoạt
động có liên quan đến chuyến đi của con người ngoài nơi cư trú thường
xuyên của mình nhằm đáp ứng nhu cầu thăm quan, tìm hiểu giải trí, nghỉ
dưỡng trong một khoảng thời gian nhất định” [2,tr6]
*. Khái niệm quản lý nhà nước về du lịch
“Xuất phát từ lý luận chung về quản lý nhà nước như trên, chúng ta có
thể hiểu Quản lý nhà nước về du lịch là sự tác động có tổ chức và điều chỉnh
liên tục bằng quyền lực công cộng chủ yếu thông qua pháp luật dựa trên nền
tảng của thể chế chính trị nhất định đối với các quá trình, các hoạt động du
lịch nhằm đạt được hiệu quả và mục tiêu kinh tế - xã hội do nhà nước đặt
ra”[2,tr7].
Trong quản lý nhà nước về du lịch có các thành tố sau đây:
- Chủ thể quản lý: là các cơ quan đại diện cho nhà nước hoặc được Nhà
nước trao quyền, ủy quyền.
+ Các cơ quan quản lý nhà nước về du lịch cấp trung ương bao gồm:
Tổng cục du lịch cùng các vụ chức năng: Các bộ ngành như: Bộ Tài Chính,
Ngân hàng nhà nước…
+ Ở địa phương, trong cơ cấu bộ máy nhà nước cũng có các cơ quan
tương tự như ở cấp trung ương như Sở Văn hóa Thể thao và Du lịch, sở Tài
4


Chính…. Nhửng chỉ có chức năng quản lý ở địa bàn và chịu sự chỉ đạo của
các cơ quan ngành dọc trong cơ cấu bộ máy nhà nước trung ương.
- Đối tượng quản lý: là các hoạt động quan hệ xã hội phản sinh trong
lĩnh vực du lịch như các đơn vị kinh doanh du lịch, khách sạn, khách du
lịch…
*. Vai trò quản lý nhà nước về du lịch

Một là: chính sách, pháp luật của nhà nước tạo dựng môi trường thuận
lợi và an toàn để du lịch phát triển nhanh và hiệu quả.
Hai là: có sự điều tiết của nhà nước nhằm đảm bảo phát triển ngành du
lịch phù hợn với định hướng và yêu cầu phát triển tổng thể của nêfn kinh tế
quốc dân.
Ba là: sự quản lý nhà nước nhằm hạn chế những yếu tố tiêu cực có thể
phát sinh từ hoạt động du lịch
Bốn là: cần phải có sự quản lý của Nhà nước nhằm tậo điều kiện cho du
lịch phát triển như các vấn đề về hợp tác quốc tế và về thủ tục hành chính
trong du lịch.
1.2.

Một vài nét về du lịch tại tỉnh Hà Giang

1.2.1. Vị trí địa lý và lịch sử hình thành
* .Vị trí địa lý
Hà Giang nằm ở cực Bắc của Việt Nam, tỉnh này có nhiều ngọn núi đá
cao và sông suối
Địa hình của tỉnh Hà Giang khá phức tạp, có thể chia làm 3 vùng.
Vùng cao núi đá phía bắc nằm sát chí tuyến bắc, có độ dốc khá lớn, thung
lũng và sông suối bị chia cắt nhiều. Nằm trong vùng khí hậu cận nhiệt đới ẩm
nhưng do địa hình cao nên khí hậu Hà Giang mang nhiều sắc thái ôn đới.
Vùng cao núi đất phía tây thuộc khối núi thượng nguồn sông Chảy, sườn núi
dốc, đèo cao, thung lũng và lòng suối hẹp.Vùng thấp trong tỉnh gồm vùng đồi
núi, thung lũng sông Lô và Thành phố Hà Giang.
Hà Giang có nhiều núi non hùng vĩ, có đỉnh Tây Côn Lĩnh (2419 m) và
5


ngọn Kiều Liêu Ti (2402m) là cao nhất. Về thực vật, Hà Giang có nhiều khu

rừng nguyên sinh, nhiều gỗ quý, và có tới 1000 loại cây dược liệu. Động vật
có hổ, công, trĩ, tê tê và nhiều loại chim thú phong phú khác.
* Lịch sử hình thành
Đất Hà Giang xưa thuộc bộ Tân Hưng, một trong 15 bộ của nước Văn
Lang. Về sau, Hà Giang nằm trong phạm vi thế lực của ba Tộc tướng xứ Thái.
Trong giai đoạn Minh thuộc đầu thế kỷ 15, được gọi là huyện Bình Nguyên,
đổi thành châu Bình Nguyên từ năm 1473, sau lại đổi tên thành châu Vị
Xuyên.
Vào cuối thế kỷ 17, tộc trưởng người Thái dâng đất cho Trung Hoa, đến
năm 1728, Trung Hoa trả lại cho Đại Việt một phần đất từ vùng mỏ Tụ Long
đến sông Lô. Năm 1895, ranh giới Hà Giang được ấn định lại như trên bản đồ
ngày nay.
Sau năm 1954, tỉnh Hà Giang có tỉnh lị là thị xã Hà Giang và 4 huyện:
Bắc Quang, Đồng Văn, Hoàng Su Phì, Vị Xuyên.
Ngày 15 tháng 12 năm 1962, chia huyện Đồng Văn thành 3 huyện:
Đồng Văn, Mèo Vạc và Yên Minh; chia huyện Vị Xuyên thành 2 huyện: Vị
Xuyên và Quản Bạ.
Ngày 1 tháng 4 năm 1965, chia huyện Hoàng Su Phì thành 2 huyện:
Hoàng Su Phì và Xín Mần.
Trước năm 1975, Hà Giang có các huyện Đồng Văn, Vị Xuyên, Xín
Mần, Yên Minh, Mèo Vạc, Hoàng Su Phì, Bắc Quang và Quản Bạ.
Sau năm 1975, Hà Giang được hợp nhất với tỉnh Tuyên Quang thành
tỉnh Hà Tuyên.
Ngày 18 tháng 11 năm 1983, 8 huyện được điều chỉnh lại diện tích và
nhân khẩu. Cùng năm này, huyện Bắc Mê được thành lập trên cơ sở nhận 10
xã của huyện Vị Xuyên.
Ngày 12 tháng 8 năm 1991, tái lập tỉnh Hà Giang từ tỉnh Hà Tuyên. Khi
tách ra, tỉnh Hà Giang có 10 đơn vị hành chính gồm thị xã Hà Giang (tỉnh lị)
6



và 9 huyện: Bắc Mê, Bắc Quang, Đồng Văn, Hoàng Su Phì, Mèo Vạc, Quản
Bạ, Vị Xuyên, Xín Mần, Yên Minh.
Ngày 1 tháng 12 năm 2003, huyện Quang Bình được thành lập trên cơ
sở tách 12 xã thuộc huyện Bắc Quang, 2 xã thuộc huyện Hoàng Su Phì và 1
xã thuộc huyện Xín Mần.
Ngày 27 tháng 9 năm 2010, chuyển thị xã Hà Giang thành thành phố
Hà Giang.
1.2.2. Một số địa điểm du lịch và lễ hội du lịch trên địa bàn tỉnh Hà
Giang
*

Đèo Mã Pì Lèng

Cao nguyên đá Đồng Văn nằm trải rộng trên bốn huyện Quản Bạ, Yên
Minh, Đồng Văn, Mèo Vạc được công nhận là Công viên địa chất Toàn cầu
vào năm 2010. Đây là một trong những vùng đá vôi đặc biệt, chứa đựng
những dấu ấn tiêu biểu về lịch sử phát triển vỏ Trái Đất, những hiện tượng tự
nhiên, cảnh quan đặc sắc về thẩm mỹ, tính đa dạng sinh học cao và truyền
thống văn hóa lâu đời của cộng đồng cư dân bản địa như các dân tộc Mông,
Lô Lô, Pu Péo, Dao. Cao nguyên đá cũng là nơi có nhiều di tích danh thắng
quốc gia đã được công nhận như: Di tích kiến trúc nhà Vương, Cột cờ Lũng
Cú, phố cổ Đồng Văn, đèo Mã Pì Lèng, núi Đôi Quản Bạ. v.v..Đồng Văn còn
nổi tiếng về các loại hoa quả: đào, mận, lê, táo, hồng... về dược liệu: tam thất,
thục địa, hồi, quế... [phuluc ,tr
*

]

Hệ thống các hang động:


Hang Phương Thiện: cách thành phố Hà Giang 7 km (4,38 dặm) xuôi
về phía nam. Đây là nơi có nhiều phong cảnh, nhiều hang động tự nhiên.Động
Tiên và Suối Tiên nằm cách thành phố Hà Giang 2 km (1.25 dặm). Nhân dân
quanh vùng vẫn thường đến Động Tiên lấy nước và cầu may mắn vào lúc giao
thừa. Hang Chui: cách thành phố Hà Giang 7 km (4,38 dặm) về phía nam.
Hang ăn sâu vào lòng núi khoảng 100 m (300 ft). Cửa hang hẹp phải lách
người mới qua được. Vào trong lòng hang mở rộng, vòm hang cao vút, nhiều
7


nhũ đá. Hang có nhiều dơi, có dòng suối dâng cao đổ xuống thành thác.
* Dinh thự họ Vương
Thuộc xã Sà Phìn là một công trình kiến trúc đẹp và độc đáo được xếp
hạng cấp quốc gia năm 1993. Đường dẫn vào dinh được lát bằng những phiến
đá lớn vuông vức, phẳng lỳ. Dinh được bao bọc bởi hai vòng tường thành xây
bằng đá hộc.Dinh thự được xây dựng chủ yếu bằng đá xanh, gỗ pơ-mu, ngói
đất nung già, các chi tiết được chạm trổ tỉ mỉ, công phu, đẹp mắt với các hình
chủ đạo là rồng, phượng, dơi,… tượng trưng cho quyền quý và hưng thịnh.
Dinh thự mang vẻ đẹp bề thế, uy nghi với kiến trúc hình chữ "vương", tọa lạc
trên quả đồi hình mai rùa. Đây là một điển hình về sự giao thoa nghệ thuật
kiến trúc của người Mông và người Hán ở khu vực biên giới Việt – Trung.
[phuluc,tr1]
* Chợ tình Khau Vai
Họp mỗi năm một lần vào ngày 27 tháng 3 âm lịch tại xã Khau Vai,
huyện Mèo Vạc. Bắt nguồn từ 1 câu chuyện tình, Khâu Vai trở thành nơi hò
hẹn chung cho tất cả những người yêu nhau trong vùng. Chợ Khâu Vai ban
đầu họp không có người mua, không có người bán. Khoảng mười năm trở lại
đây, do nhu cầu cuộc sống nên ngày chợ họp ngoài việc hò hẹn, gặp gỡ, người
ta mang cả hàng hóa đến bán ở chợ. Do vậy đến chợ Khâu Vai, người ta cũng

có thể mua, bán, trao đổi những sản vật vùng cao.
* Tiểu khu Trọng Con
Cách đường quốc lộ số 2, 20 km về phía đông nam, cách Thành phố Hà
Giang khoảng 60 km về phía bắc ở tại Xã Bằng Hành, huyện Bắc Quang,
Tỉnh Hà Giang (đã được Nhà nước xếp hạng là di tích lịch sử năm 1996). Đây
được xem là cái nôi của phong trào cách mạng ở Hà Giang.
* Chùa Sùng Khánh
Cách Thành phố Hà Giang 9 km về phía nam thuộc thôn Làng Nùng,
xã Đạo Đức, huyện Vị Xuyên,được nhà nước xếp hạng là di tích lịch sử nghệ
thuật năm 1993. Chùa được xây dựng thời Triệu Phong (1356), do thời gian,
8


chùa bị hư hại, đến năm 1989 được nhân dân xây dựng trên nền chùa cũ. Ở
đây còn lưu giữ hai di vật: Bia đá thời Trần (1367) ghi lại công lao của người
sáng lập ra chùa và một quả Chuông cao 0.90 m, đường kính 0.67 m, được
đúc thời Hậu Lê (1705). Nghệ thuật khắc trên đá, trên Chuông đồng và kỹ
thuật đúc Chuông là một bằng cứ nói lên bàn tay tinh xảo của các nghệ nhân
vùng biên giới phía bắc này, và từ đó biết thêm lịch sử phát triển thời Trần và
Lê tới tận vùng biên ải Hà Giang. [phuluc,tr 1 ]
* Chùa Bình Lâm
Thuộc địa phận thôn Tông Mường xã Phú Linh, Thành phố Hà Giang.
Chùa còn có tên gọi chữ Hán là "Bình Lâm Tự". Nhân dân ở đây còn lưu giữ
một quả chuông thời Trần được đúc vào tháng 3 năm Ất Mùi (1295) chuông
có chiều cao 103 cm, đường kính miệng 65 cm, quai được cấu tạo bởi hai
hình rồng, trên chuông có khắc bài Minh bằng chữ Hán gồm 309 chữ năm
Bính Thân, niên hiệu Hưng Long thứ 4 (1296). Trên quả chuông ta bắt gặp
tiêu bản rồng nổi trên chất liệu đồng (thế kỷ 13). Cùng với quả chuông, tại
chùa Bình Lâm còn phát hiện được một số di vật như Tháp đất nung, mái ngói
có hoạ tiết hoa chanh....là những nét quen thuộc và tiêu biểu của văn hoá thời

Trần.
* Một số lễ hội du lịch
Hà Giang là nơi có nhiều sản phẩm văn hóa đặc sắc từ truyền thống lâu
đời của hơn 20 dân tộc, một địa danh du lịch đáng nhớ bởi cảnh quan thiên
nhiên và con người ở đây. Không giống với bất kỳ một nơi du lịch nào ở Việt
Nam, đến Hà Giang, du khách có thể thấy được những sản phẩm kết tinh từ
truyền thống văn hóa độc đáo của người miền núi, đó là các loại khăn thêu,
túi vải, áo váy với các loại hoa văn rực rỡ. Du khách sẽ tham dự những phiên
chợ vùng cao đầy thơ mộng.
Lễ mừng nhà mới dân tộc Lô Lô: Lễ mừng nhà mới kéo dài khoảng 2
ngày 2 đêm ở ngôi nhà mới của người dân tộc Lô Lô. Cả bản kéo tới ăn mừng
cho ngôi nhà mới. Thầy cúng đi hát, sau đó cùng ăn uống vui chơi, hòa tấu
9


kèn sáo và hát giao duyên nam nữ.
Lễ hội mùa xuân: Đây là lễ hội vui xuân của dân tộc H'mông và dân tộc
Dao, thường được tổ chức vào những ngày sau Tết Nguyên Đán và kéo dài từ
3 đến 7 ngày. Lễ hội mang tính chất tổng hợp mừng công, cầu mưa, cầu con
trai. Lễ hội có thi bắn nỏ, hát giao duyên, ném pa páo, uống rượu, mở tiệc đãi
khách.
Lễ hội vỗ mông của dân tộc Mông: Ngày mùng 5 Tết Nguyên Đán
hằng năm, cái chàng trai, cô gái đổ về Mèo Vạc nhằm tìm cho mình vợ
(chồng). Khi tham gia lễ hội, các chàng trai, cô gái tìm đối tượng mà họ cảm
thấy phù hợp với mình rồi vỗ mông đối tượng và chờ "đối phương" đáp lại.
Đáng buồn, tục lệ tảo hôn vẫn tiếp diễn trong lễ hội này.
* Tiểu kết:
Trong chương 1, em đã trình bày một số khái niệm liên quan đến tiểu
luận để làm rõ một số nội dung lý luận được bàn đến trong tiểu luận. Bên
cạnh đó em cũng đã trình bài khái quát một số nét về tỉnh Hà Giang. Những

nội dung nói trên đã đặt nội dung về cơ sở lí luận, lý thuyết và thực tiễn để
tìm hiểu những thực trạng của công tác quản lí nhà nước về du lịch tại tỉnh Hà
Giang.

10


Chương 2: THỰC TRẠNG CÔNG TÁC QUẢN LÝ NHÀ NƯỚC VỀ DU
LỊCH TẠI TỈNH HÀ GIANG
2.1. Điều kiện tự nhiên, đặc điểm dân cư, dân tộc tỉnh Hà Giang
2.1.1. Điều kiện tự nhiên của tỉnh Hà Giang
Lãnh thổ Hà Giang phân hóa thành ba tiểu vùng với những điều kiện tự
nhiên, kinh tế và xã hội khác biệt, mỗi vùng có tiềm năng và thế mạnh riêng:
- Vùng I: Là vùng cao núi đá phía bắc, gồm 4 huyện: Đồng Văn, Mèo
Vạc, Yên Minh và Quản Bạ. Diện tích toàn vùng là 2.356,0 Km2, dân số trên
25,6 vạn người, chiếm xấp xỉ 35,3% dân số toàn tỉnh. Đặc điểm chung của
vùng là địa hình núi đá có độ đốc lớn, điều kiện khí hậu rét đậm về mùa đông,
mát mẻ về mùa hè nên rất thích hợp với việc phát triển các loại cây ôn đới
như cây dược liệu thảo quả, đỗ trọng; cây ăn quả như mận, đào, lê, táo... Cây
lương thực chính ở vùng này là cây ngô. Chăn nuôi chủ yếu là bò, dê, ngựa và
nuôi ong. Những giống gia súc trên đây là giống riêng của khí hậu cận nhiệt
đới, có đặc điểm to khỏe và chịu được rét.
- Vùng II: Là vùng cao núi đất phía tây gồm 02 huyện Hoàng Su Phì và
Xín Mần. Diện tích tự nhiên 1.217,3 km2; dân số trên 11,6 vạn người, chiếm
16,2% dân số toàn tỉnh. Đặc điểm chung của địa hình là núi đất dốc, có nhiều
nguồn nước thuận lợi cho sinh hoạt và canh tác lúa nước, phát triển nghề rừng
và trồng cây ăn quả cận nhiệt như đào, lê, mận…. Cây lương thực chính vùng
này là lúa nước và ngô. Chăn nuôi chủ yếu là trâu, ngựa, dê và các loại gia
cầm.Vùng này là vùng đất của chè Shan tuyết và chủ nhân lâu đời của nó là
người Dao, một dân tộc có kinh nghiệm trồng và chăm sóc cây chè núi lâu

đời.
- Vùng III: Là vùng núi thấp gồm các huyện: Bắc Quang, Vị Xuyên,
Bắc Mê, Quang Bình và thị xã Hà Giang là vùng trọng điểm kinh tế của Hà
Giang. Diện tích tự nhiên 4.372,6 km2; dân số trên 35,1 vạn người, chiếm
48,5% số dân của tỉnh. Điều kiện tự nhiên thích hợp với các loại cây nhiệt
đới, thuận lợi cho việc phát triển nghề rừng, trồng các loại cây nguyên liệu
11


giấy như bồ đề, mỡ, thông và đây cũng là vùng tre, nứa, vầu, luồng lớn nhất
trong tỉnh ... Ngoài ra, đây còn là vùng trồng các loại cây ăn quả có múi như
cam, quýt, chanh ...
Do địa hình phức tạp đã tạo cho Hà Giang có nhiều sông, suối, hồ phục
vụ đời sống cư dân và thuận tiện cho tưới tiêu đồng ruộng. Ngoài những sông
chính chảy qua địa phận tỉnh Hà Giang là sông Lô, bắt nguồn từ Vân Nam
(Trung Quốc) chảy qua Thanh Thuỷ, Thị xã Hà Giang và sông Gâm bắt nguồn
từ Trung Quốc qua Cao Bằng, Bắc Mê chảy xuống Tuyên Quang, còn có một
số sông ngắn và nhỏ chảy trong tỉnh như đoạn nguồn sông Chảy, sông Nho
Quế, sông Miện, sông Bạc, sông Chừng cùng với nhiều suối to, nhỏ nằm xen
giữa núi rừng. Sông ở Hà Giang có độ nông sâu không đều, độ dốc lớn nhiều
thác ghềnh, không thuận lợi cho giao thông đường thuỷ, nhưng đó cũng là
nguồn nước chính phục vụ cho sinh hoạt, tưới tiêu đồng ruộng, đảm bảo môi
trường sinh thái.
2.1.2. Đặc điểm dân cư, dân tộc
“ Tại thời điểm 1/4/2009, dân số Hà Giang là 724.353 người, chiếm
0,84% số dân cả nước. Hà Giang là mảnh đất hội tụ của đa dạng nền văn
hoá. Đó là mảnh đất của 22 tộc người cư¬ trú và mỗi dân tộc mang đến cho
Hà Giang một nét văn hoá độc đáo riêng. Đông nhất là dân tộc Mông, chiếm
khoảng 27,3% số dân của tỉnh, tiếp đến là dân tộc Tày (25,7%), Kinh
(17,8%), Dao (13,3%) và các dân tộc khác” [3, tr15].

Mật độ dân số trung bình của tỉnh là 91 người/km2 và có sự chênh lệch
khá lớn giữa các huyện, cao nhất là thành phố Hà Giang 353 người/km2 và
thấp nhất là huyện Bắc Mê 56 người/km2. Điều này phản ánh mức độ phát
triển kinh tế giữa các khu vực cũng như sự đầu tư phát triển cơ sở hạ tầng trên
địa bàn tỉnh. Công tác chăm sóc sức khoẻ, khám chữa bệnh và điều trị cho
nhân dân, kiểm dịch y tế biên giới, dân số chăm sóc sức khoẻ bà mẹ trẻ em
được quan tâm và thực hiện tích cực ở tất cả các tuyến từ tỉnh đến cơ sở. Tốc
độ tăng dân số của Hà Giang hiện nay còn khá cao thời kỳ 1999- 2009 bình
12


quân 1,8% /năm. Tuy nhiên, mấy năm gần đây, do công tác dân số - kế hoạch
hóa gia đình trong tỉnh được thực hiện thường xuyên và có hiệu quả …
Các dân tộc sinh sống trên mảnh đất Hà Giang có nhiều điểm tương
đồng là điều kiện thuận lợi dễ gần gũi gắn bó với nhau. Song dù cùng hoặc
không cùng một nguồn gốc sinh ra, có sự khác nhau về tâm lý, phong tục, tập
quán... thì đều là những cộng đồng người sống trên một lãnh thổ, vận mệnh
gắn chặt với nhau, các dân tộc nước ta luôn kề vai sát cánh bên nhau, thương
yêu đùm bọc lẫn nhau.
Cùng với nền văn hoá của cộng đồng các dân tộc Việt Nam, mỗi dân
tộc ở Hà Giang đều có một nền văn hoá mang bản sắc riêng từ lâu đời, phản
ánh truyền thống, lịch sử và niềm tự hào dân tộc. Bản sắc văn hoá dân tộc Hà
Giang được thể hiện qua các giá trị vật chất và tinh thần, bao gồm tiếng nói,
chữ viết, văn học, nghệ thuật, kiến trúc, y phục, tâm lý, tình cảm, phong tục,
tập quán, tín ngưỡng... được sáng tạo trong quá trình phát triển lâu dài của
lịch sử. Sự phát triển rực rỡ bản sắc văn hoá mỗi dân tộc càng làm phong phú
nền văn hoá của cộng đồng các dân tộc.
Đối với tỉnh Hà Giang, nghành kinh tế du lịch còn tương đối mới mẻ.
Khác với các tỉnh khác trong cùng khu vực, tổng số lao động làm việc trong
ngành du lịch của Hà Giang là 753 người, trong đó có 430 người chưa qua

đào tạo chuyên ngành và chỉ có 12% biết ngoại ngữ. Trong số này, lực lượng
phục vụ trong các cơ sở lưu trú, nhà hàng là 470 người. Thông tin từ phòng
Nghiệp vụ du lịch - Sở VHTT&DL cho biết: Mặc dù cơ quan chức năng của
tỉnh đã tổ chức các lớp tập huấn về kỹ năng phục vụ nhưng do nhận thức của
người sử dụng lao động cho rằng phục vụ khách sạn là nghề đơn giản, không
phải là nghề lâu dài nên đã không tạo điều kiện cho nhân viên đi tập huấn…
Do đó, nhân viên ở tất cả các khâu của quá trình phục vụ đều thiếu kiến thức
chuyên môn, không biết làm hoặc làm không đúng quy trình cơ bản.

13


2.2. Tình hình phát triển ngành du lịch tỉnh Hà Giang
2.2.1. Những nguyên nhân hạn chế phát triển du lịch Hà Giang
Giao thông khó khăn, cơ sở lưu trú chưa đáp ứng được với nhu cầu, du
lịch tự nhiên chưa trở thành nhu cầu lớn, công tác quảng bá du lịch còn nhiều
hạn chế nên số khách đến Hà Giang hầu như không đáng kể. Những năm gần
đây, du lịch Hà Giang đã có nhiều khởi sắc, đạt được những thành tựu quan,
lượng khách du lịch đến với Hà Giang ngày một tăng.
Bảng 2.1: Lượng khách và doanh thu du lịch Hà Giang 2008 – 2011
Năm
1.

Doanh Thu ( tỉ

đồng )
2.
Khách du lịch
( lượt khách )
Trong đó:

Khách nội địa
Khách quốc tế

2008
155

2009
202

2010
320

2011
337

187909

250535

300270

32994
7

138646

200353

49445


50182

250000
47270

28956
1
40386

Từ năm 2008 đến nay, số lượng khách du lịch đến Hà Giang tăng liên
người, đến năm 2010 tổng lượt khách là trên 300.000 lượt người, tăng là 1,6
lần so với năm 2008. Trong đó khách nội địa có tốc độ tăng nhanh hơn. Năm
2008, khách nội địa là trên 138.000 lượt khách, đến năm 2010 tăng lên
250.000 lượt khách, tăng 1,8 lần so với năm 2008. Khách quốc tế năm 2008
có 49.400 lượt khách, đến năm 2010 là trên 47.000 lượt khách. Nguyên nhân
của việc tăng số lượng khách du lịch đến Hà Giang là do trong những năm
gần đây, việc quảng bá về hình ảnh du lịch Hà Giang đã được quan tâm, cơ sở
hạ tầng giao thông vận tải và cơ sở vật chất phục vụ du lịch được cải thiện tạo
sự thu hút đối với khách du lịch, đáp ứng nhu cầu du lịch ngày càng đa dạng.
Khách nội địa đến với Hà Giang có thành phần khá đa dạng, gồm học
sinh, sinh viên trong các trường đại học ở nhiều địa phương trong cả nước
14


chiếm tới 40%. Loại khách này thường đi theo đoàn với số lượng đông từ 40 50 người, thậm chí có đoàn đông hơn, số lượng lên tới hàng trăm người (sinh
viên các trường đại học đi thực địa), điểm đến chủ yếu là các địa danh như cột
cờ Lũng Cú, cao nguyên đá Đồng Văn. Khách du lịch chuyên đề, nghiên cứu
khoa học đi nhóm nhỏ một vài người vào thời gian bất kì trong năm và
thường lưu lại với thời gian khá dài, đặc biệt trong những năm gần đây các
nhóm nghiên cứu khoa học về cao nguyên đá Đồng Văn. Khách tham quan

của các cơ quan, tổ chức ở các cấp ngành, các địa phương, thường được tổ
chức theo đoàn với số lượng khoang 20 - 30 người. Khách du lịch là các nhà
lãnh đạo Đảng, Nhà nước và các nhà hoạt động trong các lĩnh vực văn học,
nghệ thuật, báo chí…Khách du lịch tự do (du lịch lẻ) thường đi theo nhóm từ
5 - 10 người, thời gian du lịch không có tính quy luật rõ rệt.
Khách quốc tế chiếm thị phần nhỏ, chỉ khoảng 10 - 15 % tổng số
khách. Khách quốc tế đến đây chủ yếu là từ Vân Nam - Trung Quốc, tỉnh nằm
giáp biên giới Việt Nam, ngoài ra khách du lịch là người Châu Âu “Du lịch ba
lô” đi du lịch với mục đích tham quan vãn cảnh trên cao -nguyên đá, du lịch
mạo hiểm (leo núi, đi xuồng cao su khám phá hẻm vực sông Nho Quế), du
lịch nghiên cứu (khám phá cảnh quan nguyên sinh, thăm thú hang động), du
lịch văn hoá (tìm hiểu nếp sống văn hoá bản địa, văn hóa làng bản, chợ vùng
cao)… thời gian lưu trú lâu và thường đến vào mùa du lịch (thường là mùa
khô). Ngoài ra, khách du lịch chuyên đề gồm các chuyên gia nghiên cứu khoa
học về cao nguyên đá Đồng Văn, về nét đẹp văn hoá truyền thống của đồng
bào các dân tộc…Thành phần này thường lưu trú lâu hơn và vào bất kể thời
gian nào trong năm.
2.2.2. Mùa tham quan du lịch và thời gian lưu trú của khách du lịch.
Mặc dù du lịch Hà Giang không có mùa rõ rệt, các điểm du lịch mở cửa
đón khách quanh năm song lượng khách thường đông hơn vào mùa hè. Khách
trong nước thường đi vào mùa hè, vào mùa lễ hội (sau Tết). Tuy nhiên, vào
các mùa khác vẫn rải rác có khách đến thăm, nhất là vào các ngày lễ, ngày
15


nghỉ cuối tuần. Đối với khách nước ngoài, lượng khách thay đổi song cũng
tập trung hơn cả vào các tháng mùa khô và lạnh (tháng 10, 11, 12) và ít hơn
vào các tháng 5, 6,7 (do thời tiết nóng và mưa nhiều). [phuluc, tr… ]
Thời gian lưu trú của khách du lịch ngắn, trung bình là 1,7 ngày. Mặc
dù Hà Giang cách xa Hà Nội khoảng trên 300km, đường giao thông lên Hà

Giang còn nhiều khó khăn nhưng thời gian lưu trú của khách du lịch không
cao. Khách du lịch thuần tuý đến Hà Giang là rất ít, chủ yếu là kết hợp đi
buôn bán, hoặc kết hợp đi công tác, tranh thủ đi tham quan du lịch trong ngày.
Sản phẩm du lịch và dịch vụ của Hà Giang còn nghèo nàn đơn điệu chủ yếu
khai thác những cái sẵn có, chưa được đầu tư đồng bộ nên chưa tạo được
những sản phẩm thực sự hấp dẫn khách. Chưa nghiên cứu, kết nối được các
điểm du lịch hấp dẫn thành những chương trình du lịch dài ngày, hợp lý có
sức hút đối với các công ty lữ hành và bản thân khách du lịch.
2.2.3. Doanh thu du lịch và điều kiện cơ sở vật chất phục vụ du lịch
Doanh thu từ du lịch bao gồm tất cả các nguồn thu do khách du lịch chi
trả như doanh thu từ lưu trú, ăn uống, vận chuyển, mua sắm hàng hoá, các
dịch vụ khác như vui chơi giải trí… Doanh thu du lịch ngày càng tăng, chủ
yếu là chi phí phòng nghỉ, di chuyển, vé tham quan,...các nguồn thu từ dịch
vụ ăn uống và hàng hoá còn hạn chế.
Trước năm 2000, doanh thu từ du lịch không đáng kể. Trong những
năm 1995 - 1997, doanh thu đã tăng lên nhưng ở mức rất thấp, chỉ khoảng
200 triệu mỗi năm. Giai đoạn 1998 - 2000, doanh thu dao động trong khoảng
25 - 30 tỷ đồng. Đến giai đoạn 2005-2010 doanh thu tăng lên nhanh chóng,
năm 2008 là 155 tỷ đồng, đến 2010 tăng lên 320 tỷ đồng và 330 tỷ đồng năm
2011. Tốc độ tăng doanh thu của ngành du lịch năm 2011 tăng 2,0 lần so với
năm 2008.

16


Bảng 2.2: Số lượng cơ sở lưu trú của Hà Giang
giai đoạn 2002 - 2011

Tổng số cơ sở lưu trú
Tổng số phòng

Tổng số giường

2003

2008

2008

2010

2011

51
576
980

63
659
1125

69
753
1240

78
870
1450

102
1392

1850

Đặc biệt là việc đầu tư, phát triển hệ thống cơ sở lưu trú hiện đã phát
triển, tính đến năm 2011 lên con số 102 cơ sở với tổng số 1.392 phòng. Trong
đó, chúng ta hiện đã có đến 4 khách sạn đạt tiêu chuẩn 2 sao, 15 khách sạn đạt
tiêu chuẩn 1 sao, 83 nhà nghỉ du lịch, với công suất sử dụng phòng đạt bình
quân từ 65 - 70 %, qua đó các cơ sở lưu trú đã góp phần giải quyết việc làm
thường xuyên cho khá nhiều lao động...
Ngoại trừ một số khách sạn có qui mô đạt tiêu chuẩn quốc tế được
trang bị đồng bộ phần lớn các nhà nghỉ, cơ sở lưu trú bình dân còn yếu trên
nhiều phương diện: lượng phòng ít, trang bị không đồng bộ, phân bố không
đều, một số nhà nghỉ khách sạn đã xây dựng lâu nên cơ sở vật chất đã trở nên
cũ không đáp ứng được nhu cầu của khách du lịch. Trong 2 năm trở lại đây,
cùng với xu hướng phát triển chung của cả nước lượng khách quốc tế tăng
nhanh, khách nội địa cũng của cả nước lượng khách quốc tế tăng nhanh,
khách nội địa cũng có nhu cầu đi nghỉ nhiều hơn nên các khách sạn, nhà nghỉ
ở đây đã đang được xây dựng thêm để đáp ứng kịp thời nhu cầu khách du
lịch. Dịch vụ ăn uống ở Hà Giang trong những năm gần đây cũng đang dần
phát triển để đáp ứng nhu cầu ẩm thực của khách du lịch. Năm 2010, Hà
Giang có 59 cơ sở ăn uống đạt tiêu chuẩn. Tuy nhiên, các món ăn truyền
thống, độc đáo của địa phương chưa nhiều cùng với lượng khách đến Hà
Giang tăng giảm bất thường, đội ngũ nhân viên phục vụ còn nhiều hạn chế đã
đặt cho Hà Giang những khó khăn không nhỏ cần phải khắc phục, giải quyết.
Du lịch Hà Giang bước đầu đã giải quyết việc làm một số lượng lao
17


động. Ngoài lao động có chuyên môn hoạt động trong ngành du lịch, còn tạo
việc làm cho người lao động trong lĩnh vực nhà hàng, ăn uống, nghỉ ngơi, giải
trí, phương tiện đi lại…và đặc biệt du lịch cộng đồng góp phần tạo việc làm

cho người nghèo ở các thôn bản xa xôi.
Để đẩy mạnh thực hiện chủ trương phát triển du lịch cộng đồng, các
huyện trong tỉnh đang đầu tư xây dựng từ 2-3 làng du lịch cộng đồng, các địa
phương lập phương án, chỉ đạo các ngành chức năng thực hiện, cử cán bộ
xuống từng thôn, bản khảo sát chi tiết các làng bản trên địa bàn để lựa chọn
địa điểm thích hợp xây dựng làng du lịch cộng đồng. Bên cạnh đó, các huyện,
thị còn chủ động cân đối ngân sách, hỗ trợ cho nhân dân xây dựng một số
công trình cơ bản theo phương châm Nhà nước và nhân dân cùng làm; Tạo
điều kiện cho nhân dân vay vốn ưu đãi xây dựng các công trình phục vụ nhu
cầu khách du lịch...
Đến nay, toàn tỉnh đã xây dựng được 29 làng văn hóa du lịch cộng
đồng, trong đó 15 làng đã được đưa vào khai thác thu hút được khách du lịch
trong và ngoài nước đến tham quan, lưu trú. Một số địa phương đã có sản
phẩm lưu niệm từ làng nghề thủ công truyền thống cung cấp cho thị trường
như các sản phẩm của Hợp tác xã Dệt lanh Hợp Tiến, xã Lùng Tám, huyện
Quản Bạ; Sản phẩm mây tre đan của các huyện Vị Xuyên, Bắc Quang; Rượu
ngô Thanh Vân, Quản Bạ; Rượu Nàng Đôn, Hoàng Su Phì; Trang phục của
đồng bào các dân tộc Lô Lô, Pà Thẻn, Dao... được đông đảo du khách nước
ngoài yêu thích. Ví dụ điển hình, làng văn hóa du lịch cộng đồng Thôn Tha,
xã Phương Độ, thị xã Hà Giang đã thu hút hàng năm trên 1500 lượt khách du
lịch. Nguồn thu nhập ban đầu từ các dịch vụ du lịch tuy còn thấp nhưng cũng
là nguồn động viên, khích lệ để người dân tích cực tham gia phát triển du lịch
cộng đồng.

18


2.3. Thực trạng công tác quản lý nhà nước về du lịch trên địa bàn
tỉnh Hà Giang
* Thực trạng công tác quảng bá, xúc tiến du lịch

Giai đoạn 2006-2010, xúc tiến du lịch được xem là một trong những
công tác quan trọng được ưu tiên, quan tâm hàng đầu trong chiến lược phát
triển du lịch tỉnh. Tuy tiến hành nhiều hoạt động như vậy, nhưng hiệu quả của
công tác xúc tiến chưa cao thể hiện qua số lượt khach đến, doanh thu và số
lượng các nhà đầu tư vào du lịch chưa tương xứng với tiềm năng hiện có của
tỉnh, hiện nay các cơ quan quản lý nhà nước về du lịch mới chỉ xây dựng kế
hoạch quảng bá, xúc tiến du lịch từng năm cho nên kế hoạch không mang tính
dài hạn. Hiện nay, mức hỗ trợ từ ngân sách nhà nước cho công tác quản lý nhà
nước còn rất thấp.
* Thực trạng cấp, thi hồi giấy phép kinh doanh
“Cùng với tốc độ tăng khá lớn và nhanh các cơ sở lưu trú trong thời
gian gần đây trong hai năm 2009 và 2010, đặc biệt là sự gia tăng nhanh về số
lượng homestay. Tuy nhiên, một số cơ sở hoạt động không đúng định hướng
ban đầu nên dẫn đến hoạt động không có hiệu quả, cạnh tranh không lành
mạnh. Ghi nhân một số vướng mắc nẩy sinh trong định hướng phát triển
mạng lưới lưu trú hiện nay, nên Tỉnh đã ban hành kế hoạch phát triển cụ thể
về số cơ sở và số phòng tại từng khu vực và tuyển đường”[2,tr18]
* Thực trạng tổ chức bộ máy quản lý nhà nước về du lịch
Về tổ chức bộ máy quản lý: sở Văn hóa, Thể thao và du lịch là cơ quan
chuyên môn thuộc ủy ban nhân dân tỉnh Hà Giang. Hiện nay cơ cấu tổ chức
bộ máy của sở bao gồm 9 phòng ban nghiệp vụ và 12 đơn vị sự nghiệp trực
thuộc trong đó trực tiếp thực hiện chức năng quản lý phát triển du lịch có
phòng Ngiệp vụ du lịch, Trung tâm xúc tâm xúc tiến du lịch, ở các huyện, thị
xã công tác quản lý nhà nước về du lịch được giao cho phòng Văn hóa –
Thông tin.
* Thực trạng quản lý hoạt động khai thác và bảo vệ tài nguyên, môi
19


trường du lịch.

Sở hữu hơn 50 di tích bao gồm cả di tích cấp quốc gia, di tích cấp tỉnh,
trong thời gian qua tỉnh Hà Giang đã không ngừng nỗ lực và phát huy giá trị
di sản, đặc biệt, công tác quản lý nhà nước về di sản đã đạt được những kết
quả đáng ghi nhận.
Tuy Hà Giang đã chú trọng tổ chức khái thác và xây dựng mới các
tuyến, điểm du lịch nhưng đến nay các tuyến, điểm du lịch có sức hút mạnh
mẽ đối với khách vẫn chưa nhiều.
Việc đầu tư trùng tu, tôn tạo, giữ gìn, bảo về môi trường sinh thái tại
các điểm di tích văn hóa, lịch sử, danh thắng còn hạn chế, chủ yếu khai thác
du lịch tự nhiên nên khách tham quan phần lớn chỉ đến 1 lần, việc đầu tư khai
thác thế mạnh, tạo sản phẩm, loại hình du lịch đặc trưng của Hà Giang chưa
tập trung đúng mức.
2.4.

Đánh giá công tác QLNN về du lịch tại tỉnh Hà Giang

2.4.1. Khái quát về kết quả và một số tồn tại hạn chế của công tác QLNN
về du lịch tại tỉnh Hà Giang

* Những kết quả đạt được
“ Thứ nhất, công tác tuyên truyền, phổ biển, giáo dục pháp luật trong
lĩnh vực du lịch từ tỉnh đến cơ sở được chú trọng
Thứ hai, công tác quy hoạch và kế hoạch phát triển du lịch của tỉnh có
sự đổ mới và phù hợp với định hướng phát triển chung của địa phương
Thứ ba, công tác tạo lập sự gắn kết liên nghành, liên vùng, liên quốc
gia trong HDDL,.. giữa địa phương và trung ương trong QLNN về du lịch có
sự chuyển biến tích cực
Thứ tư, công tác đào tạo, bồi dưỡng và hỗ trợ đào tạo, bồi dưỡng
nguồn nhân lực cho HDDL được tăng cường
Thứ năm, công tác kiểm tra, thanh tra đối với HDDL được duy trì

thường xuyên.” [3,tr26]
*. Những tồn tại, hạn chế
20


Một là, công tác xây dựng và thực hiện quy hoạc, chưa theo kịp yêu cầu
phát triển
Hai là, công tac tuyên truyền, phổ biến chính sách, pháo luật về du lịch
cho người dân hiệu quả còn thấp.
Ba là, việc cụ thể hóa và ban hành các cơ chế, chính sách thuộc thẩm
quyền để quản lý, điều hành HDDL từng lúc còn chậm
Bốn là, công tác quản lý các khu, điểm du lịch trên địa bàn còn chồng
chéo.
Năm là, công tác cải cách thủ tục hành chsinh trong lĩnh vực du lịch
của tỉnh mặc du cón hiều cố gắng nhưng vẫn chậm so với kế hoạch đề ra và
hiệu quả chưua cao.
Sáu là, công tác tạo lập sự liên kết, hợp tác, phát triển du lịch với các
địa phương khác chưa hiệu quả.
2.4.2. Nguyên nhân của những hạn chế
* Nguyên nhân khách quan
+ Nền kinh tế của nước ta phát triển chưa cao, trình độ khoa học – công
nghệ còn rất hạn chế
+ Cơ chế, chính sách, pháp luật chung liên quan đến phát triển kinh tế
nói chung và phát triển du lịch nói riêng có mặt chậm sửa đổi, chưa đồng bộ.
*Nguyên nhân chủ quan
+ Một số cấp ủy Đảng và chính quyền trong Tỉnh chưa coi trọng và
quan tâm đúng mức đến công tac QLNN đối với hoạt động du lịch trên địa
bàn.
+ Nội dung, phương thức và phương pháp tuyên truyền, phổ biến, giáo
dục chính sách, pháp luật du lịch cho cộng đồng dân cư trên địa bàn còn

nghèo nàn.
+ Nguồn vốn nhàn nước dành cho nhà đầu tư và hỗ trợ đầu tư cơ sở vật
chất du lịch còn thấp.
+ Công tác đào tạo, bồi dưỡng phat triển nguồn nhân lực cho ngành du
21


lịch còn chấp vá, thiếu hện thống.
+ Phạm vi thanh tra, kiểm tra đối với các doanh nghiệp kinh doanh du
lịch chưa được xác định rõ ràng. Phương thức, trình tự thanh tra, kiểm tra còn
bộ lộ nhiều hạn chế.
*Tiểu kết :
Như vậy qua chương 2, em đã nêu ra thực trạng của công tác quản lí
nhà nước về du lịch trên địa bàn tỉnh Hà Giang. Bên cạnh đó cũng đưa ra
những hiểu biết chung nhất về điều kiện tự nhiên, đặc điểm dân cư, dân tộc
tỉnh Hà Giang để qua đó người đọc có thể có những hiểu biết sơ lược về tỉnh
Hà Giang. Tiếp theo đó em đã trình bày về tình hình phát triển của ngành du
lịch trên địa bàn tỉnh, trong phần này em đã đưa ra một số dẫn chứng và số
liệu về lượng khách và doanh thu du lịch Hà Giang; mùa tham quan du lịch và
thời gian lưu trú của khách du lịch; doanh thu du lịch và điều kiện cơ sở vật
chất phục vụ du lịch để người đọc có thể hiểu rõ hơn về sự phát triển ở địa
phương du lịch này. ở phần tiếp theo em đã nêu lên thực trạng công tác quản
lý nhà nước về du lịch trên địa bàn tỉnh Hà Giang, tỏng phần này em đã chọn
một số mặt tiêu biể để trình bày khái quát về thực trạng của công tác quản lý
nhà nước trong giai đoạn 2006 – 2010. Cuối cùng em đưa ra một số đánh giá
về nhận xét chung nhất về tình hình phát triển của công tác quản lý nhà nước
về du lịch trên địa bàn tỉnh Hà Giang. Những vấn đề được trình bày ở trên đã
đặt nội dung về cơ sở lí luận, lý thuyết và thực tiễn để chúng ta có thể đưa ra
những giải pháp để nâng cao hiệu quả của công tác quản lí nhà nước về du
lịch trên địa bàn tỉnh Hà Giang.


22


Chương 3. GIẢI PHÁP HOÀN THIỆN CÔNG TÁC QUẢN LÝ NHÀ
NƯỚC VỀ DU LỊCH TRÊN ĐỊA BÀN TỈNH HÀ GIANG
3.1. Căn cứ đề xuất các giải pháp hoàn thiện công tác quản lý nhà
nước về du lịch trên địa bàn tỉnh
3.1.1. Mục tiêu, định hướng phát triển du lịch tỉnh Hà Giang
* Mục tiêu
- Đưa Hà Giang trở thành một trong những điểm du lịch nổi tiếng của
Việt Nam, tương xứng với tiềm năng và lợi thế của mình.
- Nâng cấp hạ tầng, các khu vực có tiềm năng phát triển du lịch. Tạo ra
các sản phẩm du lịch có chất lượng cao, đa dạng, có thương hiệu, mang đậm
bản sắc văn hóa địa phương, cạnh tranh được với các tỉnh khác trong khu vực
* Định hướng
- Phát huy mọi nguồn lực để duy trì và đẩy mạnh tốc độ tăng trưởng du
lịch theo tinh thần Nghị quyết đại hội tỉnh Hà Giang lần thứ XXI
- Phát triển du lịch ngày càng chiếm tỷ trọng cao trong cơ cấu GDP của
tỉnh
- Tăng dần đầu tư hạ tầng du lịch tương xứng với tiềm năng và định
hướng phát triển du lịch trở thành nền kinh tế mũi nhọn.
- Phát triển đa dạng các loại hình du lịch phù hợp với lợi thế Hà Giang.
- Đẩy mạnh công tác xúc tiến, quảng bá du lịch phù hợp với thị trường
của tỉnh
- Phát triển các ngành dịch vụ và công nghiệp hỗ trợ cho du lịch
- Tăng cường hợp tác liên kết với trong nước và quốc tế để phát triển
du lịch.
3.1.2. Định hướng hoàn thiện quản lý nhà nước về du lịch tỉnh Hà
Giang

- Hoàn thiện hệ thống pháp luật về du lịch
- Kiện toàn bộ máy quản lý nhà nước về du lịch
- Nâng cao năng lực, trách nhiệm và quyền hạn của Sở Văn hóa thể
23


thao và du lịch
Nghiên cứu xác định mô hình, hệ thống tổ chức, quản lý ngành Du lịch
nhằm đáp ứng yêu cầu phát triển du lịch trong tình hình mới.
- Đảy mạnh công tác thanh tra, kiểm tra, kiểm tra chuyên ngành và liên
ngành
- Đẩy mạnh hợp tác quốc tế.
3.2. Một số giải pháp để hoàn thiện công tác quản lý nhà nước về
du lịch trên địa bàn tỉnh Hà Giang.
* Nâng cao nhận thức của xã hội về phát triển du lịch.
Các ngành, các cấp như người dân cần phải nhận thức về vị trí, vai trò
của du lịch – ngành kinh tế tổng hợp mang nội dung văn hóa sâu sắc, có tính
liên ngành, liên vùng và xã hội cao, đem lại hiệu quả tích cực cho phát triển
kinh tế - xã hội, góp phần chuyển dịch cơ cấu kinh tế, tạo nhiều việc làm, xóa
đói giảm nghèo; tạo điều kiện thuận lợi và bảo đảm môi trương cho phát triểm
du lịch. Sở VH-TT DL và một số cơ quan chuyên môn, ban ngành cần đẩy
mạnh hoạt động truyền thông, tạo đột phá trong việc nâng cao nhận thức của
xã hội về phát triển du lịch và hoạt động truyền thông, tạo đột phá trong việc
nâng cao nhận thức của xã hội về phát triển du lịch và hiệu quả hoạt động xây
dựng được tiêu chí, tổ chức đánh giá, xếp hạng và công bố chỉ số phát triển
của các điểm đến du lịch. Các địa phương tăng cường việc tuyên truyền, phổ
biến sâu rộng, vận động nhân dân tự giác và tích cực tham gia giữ gìn an ninh
trật tự, vệ sinh môi trường, tăng cường thự hiện nếp sống văn minh, lịch sự,
tôn trọng pháp luật; xây dựng phong trào ứng xử văn minh, có thái độ cở mở,
chân thành đối với khách du lịch

* Tăng cường nguồn vốn đầu tư cho phát triển du lịch:
Với những mục tiêu xác định như: phát triển Hà Giang trở thành trung
tâm du lịch vùng và quốc gia; phát triển các loại hình du lịch đô thị, thương
mại, công vụ, sinh thái; tăng cường khả năng kết nối các đầu mối gia othông
liên vùng; nâng cao chất lượng dịch vụ du lịch.. thành phố Hà Giang cần chú
24


×