MỞ ĐẦU
1. Lý do chọn đề tài
Đảng Cộng sản Việt Nam là đội tiên phong của giai cấp công nhân,
đồng thời là đội tiên phong của nhân dân lao động và của dân tộc Việt Nam;
đại biểu trung thành lợi ích của giai cấp công nhân, nhân dân lao động và của
dân tộc.
Hệ thống tổ chức của Đảng Cộng sản Việt Nam hiện nay có bốn cấp từ
TW đến cơ sở, được xây dựng theo nguyên tắc tập trung dân chủ. Trong hệ
thống đó, tổ chức cơ sở Đảng (chi bộ cơ sở và đảng bộ cơ sở), là cấp cuối cùng
được lập ra ở các xã, phường, thị trấn, cơ quan, hợp tác xã, doanh nghiệp, đơn
vị sự nghiệp, đơn vị cơ sở trong quân đội, công an và các đơn vị khác.
Tổ chức cơ sở Đảng là một trong những khâu quan trọng trong hệ
thống tổ chức của Đảng, là hạt nhân chính trị lãnh đạo cơ sở. Tổ chức cơ sở
Đảng vừa là nơi trực tiếp tổ chức thực hiện mọi đường lối, chủ trương, chính
sách của Đảng thành hành động cách mạng của đảng viên và quần chúng nhân
dân, vừa là nơi kiểm nghiệm, tập hợp những kinh nghiệm, sáng kiến, trí tuệ
của đảng viên và quần chúng nhân dân từ phong trào ở cơ sở để hình thành
nên đường lối, chính sách của Đảng; đồng thời cũng là nơi tiến hành các hoạt
động xây dựng nội bộ Đảng, lựa chọn, bồi dưỡng, rèn luyện, sàng lọc và kết
nạp đảng viên, đào tạo đội ngũ cán bộ nhằm bổ sung nguồn sinh lực mới, tăng
cường năng lực lãnh đạo, sức chiến đấu và bảo đảm sự kế thừa, phát triển liên
tục của Đảng. Thực tiễn phong phú, sinh động ở cơ sở là một trong những
nguồn trí tuệ cách mạng to lớn của Đảng.
Tổ chức cơ sở Đảng là nền tảng, là gốc rễ, là những đơn vị cơ bản,
những tế bào của Đảng. Do đó chất lượng của tổ chức cơ sở Đảng là một yếu
tố quan trọng tạo nên sức mạnh của Đảng và uy tín của Đảng trước quần
chúng nhân dân. Tổ chức cơ sở Đảng mạnh hay không mạnh, việc làm của tổ
1
chức cơ sở Đảng, đảng viên tốt hay không tốt đều có tác động mạnh mẽ đến
năng lực lãnh đạo và sức chiến đấu của Đảng.
Từ ngày thành lập đến nay, Đảng Cộng sản Việt Nam luôn coi trọng
công tác xây dựng, củng cố, nâng cao năng lực lãnh đạo và sức chiến đấu của
tổ chức cơ sở Đảng, coi đó là một trong những nhiệm vụ thường xuyên và
quan trọng hàng đầu của công tác xây dựng Đảng. Chủ tịch Hồ Chí Minh chỉ
rõ “Để lãnh đạo cách mạng, Đảng phải mạnh, Đảng mạnh là do chi bộ mạnh,
chi bộ tốt là do các đảng viên đều tốt” [19, tr.92], “Chi bộ là nền móng của
Đảng, chi bộ tốt thì mọi việc đều sẽ tốt” [19, 210], “Cần phải ra sức củng cố
các chi bộ, để tất cả các chi bộ trở nên thật sự là hạt nhân lãnh đạo của Đảng ở
mọi bộ, mọi ngành, mọi nghề, mọi nơi” [18, 271].
Sự nghiệp đổi mới do Đảng ta khởi xướng và lãnh đạo từ năm 1986 đã
thu được những thành tựu to lớn, đất nước, xã hội, con người đều đổi mới.
Tuy nhiên trong công tác xây dựng Đảng, còn có mặt chưa đạt so với yêu cầu
nhiệm vụ đề ra: “Không ít tổ chức Đảng yếu kém, nhất là ở cơ sở, không làm
tròn vai trò hạt nhân chính trị và nền tảng của Đảng, không đủ sức giải quyết
những vấn đề phức tạp nảy sinh từ cơ sở, thậm chí có những tổ chức cơ sở
Đảng tê liệt, mất sức chiến đấu” [14, tr.263].
Những yếu kém của tổ chức cơ sở Đảng đã làm hạn chế năng lực lãnh
đạo, sức chiến đấu và uy tín của Đảng. Chính vì vậy công tác xây dựng, củng
cố tổ chức cơ sở Đảng trong sạch, vững mạnh, nâng cao năng lực lãnh đạo và
sức chiến đấu cùng chất lượng tổ chức cơ sở Đảng luôn luôn là một nhiệm vụ
chủ yếu trong công tác xây dựng Đảng - nhiệm vụ then chốt trong sự nghiệp
đổi mới hiện nay.
Từ một thành phố còn bộn bề khó khăn, đời sống của nhân dân còn
thấp, dưới sự lãnh đạo của Đảng bộ, nhân dân Thành phố Đà Nẵng đã thực
hiện thắng lợi công cuộc đổi mới, làm cho thành phố có những biến đổi mạnh
mẽ, sâu sắc về mọi mặt.
2
Một trong những nguyên nhân đem lại những thắng lợi của công cuộc đổi
mới 20 năm là do Đảng bộ Thành phố Đà Nẵng đã coi trọng công tác xây dựng
Đảng, phát huy năng lực lãnh đạo và sức chiến đấu của tổ chức cơ sở Đảng.
Bên cạnh những thành công đó, nhiệm vụ xây dựng tổ chức cơ sở Đảng
của Đảng bộ Thành phố Đà Nẵng cũng còn một số tồn tại đòi hỏi phải có sự
nghiên cứu, tổng hợp và rút ra những kinh nghiệm để giải quyết các vấn đề
đặt ra nhằm đưa công tác xây dựng tổ chức cơ sở Đảng ở Thành phố Đà Nẵng
đạt được những kết quả cao hơn nữa.
Với những ý nghĩa khoa học thực tiễn đó và để thể hiện tấm lòng tri ân
đối với mảnh đất nơi tôi đang sinh sống và công tác, được sự khuyến khích
của thầy giáo hướng dẫn, tôi chọn đề tài: “Đảng bộ Thành phố Đà Nẵng
lãnh đạo xây dựng tổ chức cơ sở Đảng từ năm 1997 đến năm 2006” cho
luận văn thạc sỹ của mình.
2. Tình hình nghiên cứu
Quá trình lãnh đạo của Đảng xây dựng tổ chức cơ sở Đảng đã có nhiều
nhà lãnh đạo và khoa học nghiên cứu ở những góc độ khác nhau. Vấn đề xây
dựng tổ chức cơ sở Đảng ở Thành phố Đà Nẵng cũng có nhiều tài liệu liên
quan. Có thể chia thành các nhóm, loại công trình như sau:
Nhóm thứ nhất là các công trình chung, tiêu biểu là các cuốn sách: Hồ
Chí Minh: Về xây dựng Đảng (Nxb. Sự thật, 1981); Phạm Ngọc Quang, Trần
Đình Nghiêm: Thời kỳ mới và sứ mệnh của Đảng (Nxb. Chính trị quốc gia,
2001); Nguyễn Phú Trọng: Đảng Cộng sản Việt Nam trong tiến trình đổi mới
(Nxb. Chính trị quốc gia, 2000); Lê Huy Bảo: Điều lệ Đảng từ Đại hội đến
Đại hội (Nxb. Chính trị quốc gia, 2003); Nguyễn Trọng Phúc: Vai trò lãnh
đạo của Đảng Cộng sản Việt Nam trong thời kỳ đổi mới (Nxb. Chính trị quốc
gia, 2003); Nhiều tác giả: Quá trình đổi mới tư duy lý luận của Đảng từ 1986
đến nay (Nxb. Chính trị quốc gia, 2006); Nhiều tác giả: Việt Nam 20 năm đổi
mới (Nxb. Chính trị quốc gia, 2006) v.v… Những tác phẩm nói trên chủ yếu
đề cập đến quan điểm, chủ trương, đường lối lãnh đạo xây dựng Đảng của
3
Đảng, trong đó có nội dung về lãnh đạo xây dựng, củng cố tổ chức cơ sở
Đảng, một vấn đề mà luận văn kế thừa khi giải quyết đề tài.
Nhóm thứ hai là những sách chuyên luận, chuyên khảo về vấn đề xây
dựng tổ chức cơ sở Đảng như: Mạch Quang Thắng: Tư tưởng Hồ Chí Minh về
Đảng Cộng sản (Nxb. Chính trị quốc gia, 1995); Nguyễn Trọng Phúc: Tìm hiểu
Đảng Cộng sản Việt Nam qua các Đại hội và hội nghị TW (1930-2002) (Nxb.
Lao động, 2003); Nguyễn Hữu Tri, Nguyễn Thị Phương Hồng: Một số vấn đề
đổi mới tổ chức bộ máy Đảng Cộng sản Việt Nam (Nxb. Chính trị quốc gia,
2004); Bùi Đình Phong, Phạm Ngọc Anh: Công tác xây dựng Đảng trong thời
kỳ đẩy mạnh CNH, HĐH đất nước (Nxb. Lao động, 2006); Ngô Đăng Tri: Xây
dựng Đảng qua các thời kỳ cách mạng (1930-2006) in trong Một số chuyên đề
Lịch sử Đảng Cộng sản Việt Nam, tập III (Nxb. Giáo dục, 2007) v.v… Nhóm
công trình này cung cấp cho đề tài tư liệu và sự nhìn nhận khái quát về xây
dựng, đổi mới, chỉnh đốn Đảng, trong đó có tổ chức cơ sở Đảng.
Hiện nay chưa có một công trình khoa học cụ thể nào đi sâu nghiên cứu
về công công tác xây dựng Đảng tại Thành phố Đà Nẵng, nhất là trong thời
kỳ đổi mới. Những công trình trên góp phần cung cấp cơ sở phương pháp
luận chung, cách tiếp cận vấn đề, hệ thống quan điểm, chủ trương của Đảng
về công tác xây dựng Đảng, từ đó luận văn cố gắng làm rõ thêm những thành
tựu, hạn chế cũng như rút ra những bài học kinh nghiệm trong quá trình xây
dựng tổ chức cơ sở Đảng của Đảng bộ Thành phố Đà Nẵng.
3. Mục đích và nhiệm vụ của luận văn
* Mục đích:
- Phân tích quá trình xây dựng tổ chức cơ sở Đảng của Đảng bộ Thành
phố Đà Nẵng từ năm 1997 đến năm 2006.
* Nhiệm vụ:
- Sưu tầm, tổng hợp, hệ thống hóa tư liệu lịch sử về quá trình xây dựng,
củng cố tổ chức cơ sở Đảng của Đảng bộ Thành phố Đà Nẵng từ năm 1997
đến năm 2006.
4
- Hệ thống hóa các chủ trương, biện pháp và cách thức tổ chức thực
hiện nhiệm vụ xây dựng tổ chức cơ sở Đảng của Đảng bộ Thành phố Đà
Nẵng từ năm 1997 đến năm 2006.
- Nêu lên những nhận xét, rút ra những kinh nghiệm và đặt ra những
vấn đề góp phần phục vụ công tác xây dựng tổ chức cơ sở Đảng trong sạch,
vững mạnh ở Thành phố Đà Nẵng trong thời gian tới.
4. Đối tượng và phạm vi nghiên cứu
* Đối tượng nghiên cứu:
- Chủ trương, biện pháp lãnh đạo và kết quả của công tác tổ chức xây
dựng tổ chức cơ sở Đảng của Đảng bộ Thành phố Đà Nẵng từ năm 1997 đến
năm 2006.
- Kết quả lãnh đạo nhiệm vụ xây dựng tổ chức cơ sở Đảng của Đảng bộ
Thành phố Đà Nẵng.
* Phạm vi nghiên cứu:
- Nội dung nghiên cứu của luận văn là về quá trình lãnh đạo, chỉ đạo
xây dựng tổ chức cơ sở Đảng của Đảng bộ thành phố (chính trị, tư tưởng,
củng cố cơ sở Đảng, phát triển đảng viên, công tác cán bộ, công tác kiểm tra
và kỷ luật); tổng kết thành tựu, hạn chế, những kinh nghiệm trong xây dựng tổ
chức cơ sở Đảng ở Đảng bộ Thành phố Đà Nẵng.
- Luận văn giới hạn thời gian nghiên cứu Đảng bộ Thành phố Đà Nẵng
xây dựng tổ chức cơ sở Đảng trong 10 năm từ năm 1997 đến năm 2006.
- Không gian mà đề tài nghiên cứu là ở Đảng bộ Thành phố Đà Nẵng.
5. Cơ sở lý luận, phương pháp nghiên cứu và nguồn tư liệu chủ yếu
* Cơ sở lý luận:
Chủ nghĩa Mác-Lênin về Đảng Cộng sản và tư tưởng Hồ Chí Minh về
Đảng Cộng sản Việt Nam.
5
* Phương pháp nghiên cứu:
Phương pháp lịch sử, phương pháp logíc và sự kết hợp 2 phương pháp
đó là phương pháp chính để thực hiện đề tài. Ngoài ra trong quá trình hoàn
thành luận văn, chúng tôi còn sử dụng các phương pháp nghiên cứu khác như:
Phương pháp thống kê, phương pháp tổng hợp, phương pháp phân tích số
liệu, phương pháp so sánh, phương pháp đối chiếu... để làm rõ và phong phú
thêm những nội dung cần thể hiện.
* Nguồn tư liệu sử dụng:
- Văn kiện của TW Đảng (Đại hội Đảng toàn quốc, Hội nghị BCHTW,
BCT, Ban Bí thư, BTC) và của Tỉnh Quảng Nam - Đà Nẵng (1986-1996),
Thành phố Đà Nẵng (1997 - 2006).
- Các sách, báo, tạp chí nghiên cứu về Lịch sử Đảng và Xây dựng Đảng.
- Nguồn tư liệu chính được sử dụng trong luận văn là các Nghị quyết
Đại hội Đảng bộ Thành phố Đà Nẵng (từ khoá XVII đến khoá XIX), các nghị
quyết chuyên đề, các chương trình hành động, các bản báo cáo tổng kết công
tác xây dựng Đảng hàng năm, từng khoá, từng giai đoạn. Những tài liệu này
đã cung cấp chủ trương, đường lối, nhiệm vụ và kết quả đạt được trong công
tác xây dựng Đảng của Đảng bộ Thành phố Đà Nẵng.
- Ngoài ra còn có các công trình liên quan trực tiếp đến lãnh đạo xây
dựng Đảng nói chung, tổ chức cơ sở Đảng nói riêng ở Thành phố Đà Nẵng:
như Lịch sử Đảng bộ Quang Nam - Đà Nẵng, (Sơ thảo) tập I, II, III, Lịch sử
Thành phố Đà Nẵng, xuất bản năm 2001. Đây là những công trình rất quan
trọng, cung cấp cho tác giả những số liệu, nội dung cần thiết và những thông
tin có giá trị, một cách nhìn tổng quát cho việc nghiên cứu đề tài.
6. Đóng góp của luận văn
- Góp phần nghiên cứu quá trình xây dựng, củng cố và phát triển tổ
chức cơ sở Đảng và đội ngũ đảng viên ở Đảng bộ Tành phố Đà Nẵng.
6
- Phân tích những kinh nghiệm và nêu ra những vấn đề cần giải quyết
trong xây dựng tổ chức cơ sở Đảng của Đảng bộ Tành phố Đà Nẵng thời kỳ
1997 - 2006.
- Luận văn có thể dùng làm tài liệu tham khảo, nghiên cứu về công tác
xây dựng Đảng ở Đảng bộ Tành phố Đà Nẵng.
7. Kết cấu của luận văn
Ngoài phần mở đầu, kết luận, danh mục tài liệu tham khảo và phụ lục,
cấu trúc của luận văn gồm 3 chương:
Chương 1: Tổng quan về Thành phố Đà Nẵng và thực trạng xây dựng
tổ chức cơ sở Đảng ở Thành phố Đà Nẵng từ năm 1986 đến năm 1996.
Chương 2: Đảng bộ Thành phố Đà Nẵng lãnh đạo tổ chức xây dựng cơ
sở Đảng từ năm 1997 đến năm 2006.
Chương 3: Nhận xét và kinh nghiệm.
7
Chương 1
TỔNG QUAN VỀ THÀNH PHỐ ĐÀ NẴNG
VÀ THỰC TRẠNG XÂY DỰNG TỔ CHỨC CƠ SỞ ĐẢNG
Ở THÀNH PHỐ ĐÀ NẴNG TỪ NĂM 1986 ĐẾN NĂM 1996
1.1. Tổng quan về Thành phố Đà Nẵng
1.1.1. Điều kiện tự nhiên
Trong lịch sử dân tộc, Đà Nẵng được biết đến không chỉ là một thành
phố cảng lớn nhất miền Trung Việt Nam mà còn là một địa danh gắn liền với
công cuộc mở mang bờ cõi Đại Việt từ nhiều thế kỉ trước. Dấu vết của một
cửa ngõ giao lưu quốc tế gắn liền với xứ Đàng Trong vẫn còn, và trong dư ba
của lịch sử, đây là một tiền đồn quan trọng trong công cuộc chống ngoại xâm
của dân tộc Việt Nam.
Theo ngôn ngữ Chăm, địa danh “Đà Nẵng” có thể được giải thích là
“sông lớn”, “cửa sông lớn”. Địa danh này đã được ghi chú trên các bản đồ
được vẽ từ thế kỉ XVI trở đi. Điều đó có nghĩa là, từ rất sớm, trong cách hình
thành tên gọi, tính chất cửa sông lớn, tính chất cảng thị đã được lưu ý như một
điểm quan trọng của thành phố [38, tr.14].
Năm 1858, Pháp xâm lược Việt Nam khởi đầu bằng cuộc tấn công vào
Đà Nẵng. Sau khi thành lập Liên bang Đông Dương thì Pháp tách Đà Nẵng
khỏi Quảng Nam với tính cách là một nhượng địa (concession) và đổi tên là
Tourane. Đơn vị hành chính này chịu sự cai quản trực tiếp của Toàn quyền
Đông Dương thay vì triều đình Huế - tuy thị trấn này nằm trong xứ Trung Kỳ.
Tháng 3 năm 1965, Mỹ đổ bộ vào Đà Nẵng và thiết lập ở đây một căn
cứ quân sự hỗn hợp lớn. Năm 1967, Đà Nẵng là thành phố trực thuộc TW của
chính quyền Việt Nam Cộng, là trung tâm chính trị, quân sự, văn hóa của
vùng I và II chiến thuật.
8
Kể từ sau ngày kết thúc thắng lợi cuộc chiến tranh giải phóng, nước
nhà thống nhất (1975), hai tỉnh Quảng Đà và Quảng Nam nhập lại thành một
Quảng Nam - Đà Nẵng. Thành phố Đà Nẵng có hơn hai thập kỷ là thủ phủ
của tỉnh Quang Nam - Đà Nẵng, gắn bó cùng nhau khôi phục những hậu quả
nặng nề của cuộc chiến tranh, vượt qua mọi thử thách trong sự nghiệp xây
dựng và bảo vệ quê hương, để vươn tới công cuộc đổi mới cùng cả nước.
Ngày 06 tháng 11 năm 1996, tại kỳ họp thứ 10, khóa IX, Quốc hội
nước Cộng hòa xã hội chủ nghĩa Việt Nam đã ra nghị quyết quyết định tách
tỉnh Quảng Nam - Đà Nẵng thành tỉnh Quảng Nam và Thành phố Đà Nẵng
trực thuộc TW.
Nằm ở tọa độ 108o10‟30” đến 108o20‟30” kinh tuyến Đông và 16o đến
16o17‟30” vĩ tuyến Bắc, Thành phố Đà Nẵng ngày nay trải rộng trên một diện
tích 1248,4 km2 bao gồm vùng nội thành có diện tích 205,87 km2 gồm 5 quận
(Hải Châu, Thanh Khê, Sơn Trà, Ngũ Hành Sơn và Liên Chiểu) chia làm 33
phường nằm dọc theo con sông Hàn và huyện Hòa Vang với 14 xã và huyện
đảo Trường Sa.
Với vị trí địa lý nằm ở trung độ của Việt Nam, trên trục giao thông
huyết mạch Bắc Nam về cả đường bộ, đường sắt, đường biển và đường hàng
không, là cửa ngõ giao thông quan trọng của cả miền Trung và Tây Nguyên,
là điểm cuối của hành lang kinh tế Đông Tây đi qua các nước Myanma, Lào,
Thái Lan, Việt Nam, Đà Nẵng trở thành cửa ngõ giao thông quan trọng giữa
các địa phương trong cả nước, giữa nước ta với các nước trong khu vực và
trên thế giới, kể cả đường bộ. đường biển, đường hàng không, Đà Nẵng trở
thành một trung tâm kinh tế của khu vực miền Trung - Tây Nguyên, là nơi hội
tụ các công ty lớn của ngành công nghiệp như dệt may, sản xuất hàng tiêu
dùng, công nghiệp chế biến, công nghiệp cơ khí, công nghiệp sản xuất vật
liệu xây dựng, ngoài ra Đà Nẵng còn là trung tâm lớn nhất của khu vực miền
Trung - Tây Nguyên về lĩnh vực tài chính, ngân hàng và giáo dục đào tạo.
9
Ngoài sự ưu đãi của thiên nhiên cho Đà Nẵng, thành phố còn được bao
bọc bởi ba Di sản văn hóa thế giới: Huế, Hội An, Mỹ Sơn. Xa hơn một chút
nữa là di sản thiên nhiên thế giới Vườn Quốc gia phong Nha - Kẻ Bàng. Vì
thế Đà Nẵng được xem là điểm trung chuyển quan trọng trên con đường di
sản miền Trung. Nhờ vậy Đà Nẵng được xem là thành phố của du lịch, thành
phố của những di tích và của những danh lam thắng cảnh. Do nằm trong một
địa hình đặc biệt, có núi rừng, trung du, đồng bằng, biển cả… Đà Nẵng mang
trong mình một vẻ đẹp đa dạng. Có cái hùng vĩ, phóng khoáng của núi cao và
cái mênh mông, trữ tình của biển cả; có cái mềm mại, khỏe khoắn của sông
ngòi và cũng có những góc khuất, những đường vòng của đèo cao; có cái mơ
mộng, dịu dàng của bờ cát, của bến sông và cũng có cái tráng lệ, mạnh mẽ
của phố xá, của những tượng đài, cao ốc…
Với tất cả những thế mạnh đó, cùng với sự lãnh đạo của Đảng bộ thành
phố và lòng quyết tâm của nhân dân, Đà Nẵng sẽ trở thành một trung tâm
kinh tế - chính trị, văn hóa - xã hội của cả nước.
1.1.2. Tình hình kinh tế - xã hội
Dưới sự lãnh đạo đúng đắn của Đảng, đặc biệt là đường lối đổi mới
được đề ra từ Đại hội lần thứ VI, Đảng bộ và nhân dân Thành phố Đà Nẵng
đã vượt qua mọi khó khăn, thử thách, từng bước xây dựng thành phố trở thành
một trung tâm kinh tế - chính trị - văn hóa - xã hội của miền Trung cũng như
của cả nước.
Từ năm 1997, khi trở thành thành phố trực thuộc TW, Đà Nẵng đã có
nhiều thay đổi theo hướng tích cực. Trong hơn 10 năm qua, Đà Nẵng đã liên
tục thay đổi gương mặt của mình. Chưa bao giờ trong quá trình phát triển, Đà
Nẵng quyết liệt như thế trong nhu cầu tự làm mới mình. Sự phát triển Đà
Nẵng vừa là nhu cầu tự thân, vừa là để đáp ứng yêu cầu của một thành phố
đầu tàu có sứ mệnh thúc đẩy phát triển đối với miền Trung trong giai đoạn
mới của đất nước.
10
Với một vị trí đặc biệt thuận lợi về giao thông, đường hàng không cũng
như đường biển, Đà Nẵng là một thương cảng lớn thứ 3 của nước ta, đây là
một thuận lớn rất lớn để Thành phố Đà Nẵng phát triển giao thông đường biển
ra thế giới, khu vực và trong nước nói riêng, phát triển kinh tế nói chung.
Trong những năm gần đây, dưới sự lãnh đạo của Đảng bộ, bằng những
vận động nội lực thành phố Đà Nẵng ngày càng mở rộng tầm vóc của mình.
Bắt đầu từ kế hoạch phát triển cơ sở hạ tầng, nhất là cơ sở về hạ tầng giao
thông, tiến hành chỉnh trang đô thị, xây dựng một môi trường mới hiểu theo
nghĩa rộng, tạo điều kiện cho công cuộc phát triển mới. Khai thác tốt những
lợi thế sẵn có, trong những năm qua Đà Nẵng đã có những biến đổi rõ rệt về
nhịp độ và khí thế phát triển. Tốc độ GDP bình quân tăng cao hơn mức bình
quân chung của cả nước, giá trị sản xuất các mặt hàng công nghiệp, nông
nghiệp, thủy sản phát triển toàn diện… kim ngạch xuất khẩu tăng, các ngành
du lịch thương mại, dịch vụ chuyển biến tích cực.
- Trong lĩnh vực phát triển kinh tế, thành phố chủ trương lấy công
nghiệp làm đòn bẩy phát triển, cơ cấu kinh tế Đà Nẵng có chuyển dịch đáng
kể theo hướng tăng tỷ trọng các ngành công nghiệp và dịch vụ phù hợp với xu
thế chung của cả nước và những đô thị lớn. Để chuẩn bị cho một cuộc bứt phá
của vùng kinh tế trọng điểm miền Trung, với vai trò đầu tàu của mình, những
năm qua, Đà Nẵng đã nỗ lực cải thiện hình ảnh và vị thế của mình để đáp ứng
yêu cầu chung của khu vực.
Với vị thế là trung tâm kinh tế của khu vực miền Trung - Tây Nguyên,
Đà Nẵng là nơi hội tụ các công ty lớn của các ngành dệt may, sản xuất hàng
tiêu dùng, công nghiệp chế biến, công nghiệp cơ khí, công nghiệp sản xuất
vật liệu xây dựng… Hiện nay Thành phố Đà Nẵng cũng là trung tâm lớn nhất
của khu vực miền Trung - Tây Nguyên về lĩnh vực tài chính ngân hàng với
hơn 40 ngân hàng thương mại nhà nước, thương mại cổ phần, liên doanh, và
công ty tài chính đang hoạt động, cùng với hàng chục trung tâm giao dịch
11
chứng khoán quy mô lớn… ngoài ra Thành phố Đà Nẵng hiện được xem là
một trong ba trung tâm bưu chính lớn nhất nước với tất cả các loại hình phục
vụ hiện đại và tiện lợi.
Bên cạnh đó, thành phố còn được sự ưu ái của thiên nhiên với nhiều
danh lam thắng cảnh, do đó du lịch cũng được coi là thế mạnh và góp phần
không nhỏ và sự phát triển kinh tế - xã hội của thành phố.
Về giáo dục, đào tạo, Đà Nẵng là một trung tâm giáo dục đào tạo lớn
nhất của khu vực miền Trung - Tây Nguyên và thứ 3 cả nước (sau Hà Nội và
TP. Hồ Chí Minh), hiện nay, Đà Nẵng có 15 trường đại học, học viện, 17
trường cao đẳng; nhiều trường trung cấp chuyên nghiệp, trung tâm dạy nghề
và hơn 200 trường học từ bậc học phổ thông tới ngành học mầm non.
Đà Nẵng đã và đang hướng tới mục tiêu xây dựng thành phố “thành một
trong những đô thị lớn của cả nước, là trung tâm kinh tế - xã hội lớn của miền
Trung với vai trò là trung tâm công nghiệp, thương mại du lịch và dịch vụ; là
thành phố cảng biển, đầu mối giao thông quan trọng về trung chuyển vận tải
trong nước và quốc tế; trung tâm bưu chính - viễn thông và tài chính - ngân
hàng; một trong những trung tâm văn hóa - thể thao, giáo dục - đào tạo và khoa
học công nghệ của miền Trung; là địa bàn giữ vị trí chiến lược quan trọng về
quốc phòng, an ninh của khu vực miền Trung và cả nước. Đà Nẵng phấn đấu
để trở thành một trong những địa phương đi đầu trong sự nghiệp CNH, HĐH
và cơ bản trở thành thành phố công nghiệp trước năm 2020” [13, tr.3].
1.2. Thực trạng xây dựng tổ chức cơ sở Đảng ở Thành phố Đà
Nẵng trong 10 năm đổi mới từ năm 1986 đến năm 1996
1.2.1. Quan điểm của Đảng Cộng sản Việt Nam về xây dựng Đảng
trong thời kỳ đổi mới
Sau khi đánh thắng giặc Mỹ xâm lược, hoàn thành sự nghiệp giải
phóng Tổ quốc, thực hiện thống nhất nước nhà, Đảng ta đã lãnh đạo nhân dân
12
cả nước tiến vào giai đoạn cách mạng mới, xây dựng chủ nghĩa xã hội và bảo
vệ Tổ quốc.
Sau 5 năm thực hiện Nghị quyết Đại hội lần thứ V của Đảng, từ tháng
3/1982 đến tháng 12/1986, dưới sự lãnh đạo của Đảng, đất nước ta đã đạt
được những thành tựu quan trọng: ngăn chặn được đà giảm sút trong sản xuất
nông nghiệp và công nghiệp; cơ sở vật chất - kỹ thuật bước đầu được xây
dựng; giành thắng lợi trong hai cuộc chiến tranh biên giới, bảo vệ vững chắc
Tổ quốc; thực hiện tốt nghĩa vụ quốc tế với Lào và Campuchia… Bên cạnh đó
vẫn còn nhiều khó khăn đặt ra đòi hỏi Đảng và Nhà nước phải giải quyết:
“Đời sống của nhân dân, nhất là công nhân, viên chức còn nhiều khó khăn.
Nhiều người lao động chưa có và chưa đủ việc làm. Nhiều nhu cầu chính
đáng tối thiểu của nhân dân về đời sống vật chất và văn hoá chưa được bảo
đảm” [15, tr.320]; hiện tượng tiêu cực trong xã hội phát triển. Công bằng xã
hội bị vi phạm. Pháp luật, kỷ cương không nghiêm, những hành vi lộng
quyền, tham nhũng của một số cán bộ và nhân viên nhà nước, những hoạt
động của bọn làm ăn phi pháp... chưa bị trừng trị nghiêm khắc và kịp thời.
“Thực trạng nói trên làm giảm lòng tin của quần chúng đối với sự lãnh đạo
của Đảng và sự điều hành của các cơ quan nhà nước” [15, tr.320].
Trong bối cảnh đất nước rơi vào khủng hoảng kinh tế - xã hội và yêu
cầu bức thiết đặt ra là phải đổi mới toàn diện đất nước, Đại hội đại biểu toàn
quốc lần thứ VI của Đảng được tổ chức tại Hà Nội từ ngày 5-18/12/986.
Với tinh thần “nhìn thẳng vào sự thật, đánh giá đúng sự thật, nói rõ sự
thật” Đại hội đã thẳng thắn đánh giá những thành tựu, chỉ ra những sai lầm,
khuyết điểm, những khó khăn của đất nước. Đại hội khẳng định sai lầm chủ
yếu của Đảng trong thời gian qua là “bệnh chủ quan, duy ý chí, lối suy nghĩ
và hành động giản đơn, nóng vội chạy theo nguyện vọng chủ quan, là khuynh
hướng buông lỏng trong quản lý kinh tế, xã hội, không chấp hành nghiêm
chỉnh đường lối và nguyên tắc của Đảng” [15, tr.327]. Những sai lầm và
13
khuyết điểm trong lãnh đạo kinh tế, xã hội “bắt nguồn từ những khuyết điểm
trong hoạt động tư tưởng, tổ chức và công tác cán bộ của Đảng. Đây là
nguyên nhân của mọi nguyên nhân” [15, tr.327].
- Phong cách lãnh đạo và lề lối làm việc mang nặng chủ nghĩa quan
liêu, lời nói không đi đôi với việc làm, không tuân thủ quy trình làm việc và
ra quyết định. “Trong các đảng bộ và các cấp uỷ có sự vi phạm nguyên tắc
lêninnít trong sinh hoạt Đảng, trước hết là nguyên tắc tập trung dân chủ, tập
thể lãnh đạo, cá nhân phụ trách, thiểu số phục tùng đa số, cấp dưới phục tùng
cấp trên, toàn Đảng phục tùng TW” [15, tr.328].
- “Về mặt tổ chức, đã để cho bộ máy nhà nước, bộ máy của Đảng và
các đoàn thể phình ra quá lớn, chồng chéo và phân tán” [15, tr.329].
Trên cơ sở của những thành tựu, sai lầm, khuyết điểm và những nguyên
nhân của các yếu kém trên tất cả các mặt, nhất là trong công tác xây dựng
Đảng, Đại hội đã đề ra đường lối đổi mới toàn diện trong đó đổi mới kinh tế
là trọng tâm, nhất là tư duy về kinh tế, trên cơ sở thành tựu đạt được trên lĩnh
vực kinh tế, từng bước đổi mới về chính trị.
Về phương hướng xây dựng Đảng, Đại hội khẳng định “Đảng phải
chăm lo xây dựng mình vững mạnh về chính trị, tư tưởng, tổ chức, để từ đó
tác động quyết định đến sự phát triển của cách mạng nước ta” [15, tr.414].
- “Tổ chức cơ sở phải là người nắm vững và bảo đảm cho mọi hoạt
động ở cơ sở theo đúng đường lối, chính sách của Đảng và Nhà nước. Công
tác quần chúng có vị trí quan trọng trong hoạt động của tổ chức cơ sở. Mỗi
chi bộ, đảng viên phải chăm lo giáo dục chính trị, tư tưởng cho quần chúng và
bằng hành động gương mẫu của người cộng sản mà động viên quần chúng
phấn đấu hoàn thành các nhiệm vụ lao động sản xuất và chiến đấu. Tổ chức
cơ sở Đảng, mà trực tiếp là chi bộ cần chăm lo việc giáo dục, rèn luyện đảng
viên; đảng viên nào cũng được giao công tác và phải làm tròn nhiệm vụ. Đi
đôi với việc kiên quyết đưa ra khỏi Đảng những người không đủ tư cách, cần
14
thu hút vào Đảng những người ưu tú xuất hiện trong phong trào cách mạng
của quần chúng” [9, tr.141-142].
- Nâng cao sức chiến đấu của tổ chức cơ sở Đảng. Tổ chức cơ sở Đảng
phải là nơi nắm vững và bảo đảm cho mọi hoạt động ở cơ sở theo đúng đường
lối, chính sách của Đảng và Nhà nước, chăm lo việc giáo dục, rèn luyện đảng
viên, kiên quyết đưa ra khỏi Đảng những người không đủ tư cách và thu hút vào
Đảng những người ưu tú xuất hiện trong phong trào cách mạng của quần chúng.
Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ VI của Đảng là Đại hội có ý nghĩa
lịch sử to lớn, đánh dấu bước chuyển quan trọng trong quá trình kế thừa và
đổi mới sự lãnh đạo của Đảng về chính trị, tư tưởng và tổ chức. Đường lối đổi
mới toàn diện đất nước là cơ sở hết sức quan trọng để tăng cường hơn nữa sự
đoàn kết, thống nhất trong toàn Đảng và toàn dân để vượt qua mọi khó khăn,
thử thách, xây dựng thành công CNXH ở nước ta.
Sau 5 năm thực hiện Nghị quyết của Đại hội lần thứ VI, toàn Đảng,
toàn dân ta đã tiến hành công cuộc đổi mới toàn diện, khắc phục từng bước
những sai lầm, khuyết điểm trước đây, mở ra những hướng mới, cách làm
mới nhằm thoát ra khỏi cuộc khủng hoảng về kinh tế - xã hội và từng bước
đưa đất nước phát triển.
Những thành tựu đạt được trong 5 năm đầu đã chứng tỏ đường lối đổi
mới do Đại hội lần thứ VI đề ra là đúng đắn, đây là cơ sở quan trọng để Đại
hội lần thứ VII (1991) đề ra phương hướng, kế thừa và tiếp tục phát triển
đường lối đổi mới. Đại hội khẳng định công cuộc đổi mới toàn diện đất nước
hiện nay “đòi hỏi Đảng nhất thiết phải tự đổi mới, tự chỉnh đốn. Đây là một
nhiệm vụ cấp bách, có ý nghĩa quyết định đối với sự thành công của sự
nghiệp đổi mới, sự ổn định và phát triển của đất nước và đối với vận mệnh
của bản thân Đảng. Đây cũng là nguyện vọng và đòi hỏi của nhân dân” [16,
tr.212]. Về công tác xây dựng tổ chức cơ sở Đảng, Đại hội nêu rõ:
15
- “Chấn chỉnh tổ chức và hoạt động của các tổ chức cơ cở đảng cho phù
hợp với sự thay đổi của các tổ chức kinh tế, xã hội và phương thức lãnh đạo của
Đảng trong tình hình mới. Khắc phục bằng được tổ chức cơ sở Đảng kém nát.
Chú ý củng cố tổ chức Đảng ở các vùng tôn giáo, dân tộc thiểu số” [16, tr.125].
- Làm trong sạch và nâng cao chất lượng đội ngũ cán bộ, đảng viên.
Mọi đảng viên phải ra sức rèn luyện, học tập để có đủ phẩm chất, kiến thức và
năng lực phù hợp với nhiệm vụ được giao. Các cấp ủy đảng phải thường
xuyên tổ chức bồi dưỡng, nâng cao phẩm chất và trình độ nhận thức về các
mặt của đảng viên.
Đại hội Đại biểu toàn quốc lần thứ VII (1991) của Đảng là "Đại hội của
trí tuệ - đổi mới, dân chủ - kỷ cương - đoàn kết", Đại hội diễn ra trong bối
cảnh trong nước cũng như thế giới có nhiều khó khăn phức tạp, song với tinh
thần cách mạng, Đảng ta khẳng định kiên trì con đường đi lên chủ nghĩa xã
hội, tiếp tục bổ sung, hoàn thiện đường lối đổi mới được Đảng đề ra tại Đại
hội lần thứ VI. Kết quả của Đại hội lần thứ VII của Đảng đã từng bước đặt
nền tảng vững chắc cho thắng lợi sự nghiệp đổi mới của Đảng và nhân dân ta.
Sau mười năm tiến hành đổi mới, 5 năm thực hiện Cương lĩnh xây
dựng đất nước trong thời kỳ quá độ lên CNXH (1991), tháng 6/1996 Đại hội
lần thứ VIII của Đảng họp để tổng kết 10 năm đổi mới đồng thời vạch ra
những phương hướng mục tiêu nhiệm vụ của toàn Đảng và toàn dân ta trong
thời kỳ xây dựng và bảo vệ Tổ quốc mà nhiệm vụ trọng tâm là đẩy mạnh công
nghiệp hoá, hiện đại hoá đất nước.
Đánh giá về công tác xây dựng Đảng, văn kiện Đại hội lần thứ VIII đã
nhận định "Toàn bộ thành tựu và khuyết điểm của công cuộc đổi mới gắn liền
với trách nhiệm lãnh đạo và hoạt động của Đảng ta. Sự lãnh đạo và hoạt động
của Đảng là một nhân tố quyết định tạo ra những thành tựu đổi mới. Đồng
thời chính trong quá trình lãnh đạo đổi mới mà Đảng ngày càng trưởng thành,
nhận rõ hơn những mặt yếu kém của mình để có biện pháp khắc phục. Thắng
16
lợi của công cuộc đổi mới chứng tỏ: Đảng ta tiếp tục giữ vững và phát huy
được bản lĩnh và kinh nghiệm của các thời kỳ trước, lãnh đạo có kết quả công
cuộc xây dựng và bảo vệ đất nước trong những tình huống mới hết sức phức
tạp” [11, tr.135].
Để tăng cường và thực hiện có kết quả công tác xây dựng chỉnh đốn
Đảng phục vụ yêu cầu đẩy mạnh CNH, HĐH đất nước, Nghị quyết Đại hội
lần thứ VIII của Đảng đã xác định tập trung làm tốt những nhiệm vụ sau:
1- Giữ vững và tăng cường bản chất giai cấp công nhân của Đảng.
2- Nâng cao bản lĩnh chính trị, phẩm chất và năng lực cán bộ, đảng viên.
3- Củng cố Đảng về tổ chức, thực hiện nghiêm nguyên tắc tập trung
dân chủ.
4- Chăm lo xây dựng đội ngũ cán bộ.
5- Nâng cao sức chiến đấu của tổ chức cơ sở Đảng.
6- Tiếp tục đổi mới phương thức lãnh đạo của Đảng.
7- Đổi mới công tác kiểm tra và kỷ luật của Đảng [11, tr.139-151].
Để nâng cao sức chiến đấu của tổ chức cơ sở Đảng, Nghị quyết Đại hội
chỉ rõ phương hướng chủ yếu “là làm cho các cơ sở này quán triệt đường lối
chính sách của Đảng và Nhà nước, đề ra được chủ trương, giải pháp đúng và
lãnh đạo tổ chức thực hiện tốt các nhiệm vụ của đơn vị, phát triển kinh tế, xóa
đói giảm nghèo, cải thiện đời sống của người lao động, chống tham nhũng ức
hiếp quần chúng, lãnh đạo giải quyết những nguyện vọng chính đáng, thiết thực,
bức xúc của nhân dân. Chấn chính và cải tiến sinh hoạt Đảng; có quy định chặt
chẽ đối với những trường hợp đảng viên đi công tác, làm việc lưu động ở nơi xa,
ở nước ngoài. Thực hiện có nền nếp quản lý đảng viên” [11, tr.148].
Đại hội Đại biểu lần thứ VIII của Đảng đánh dấu bước ngoặt chuyển
đất nước ta sang thời kỳ mới - thời kỳ đẩy mạnh CNH, HĐH, xây dựng nước
Việt Nam độc lập, dân chủ, giàu mạnh, xã hội công bằng, văn minh theo định
hướng XHCN, vì hạnh phúc của nhân dân ta, vì tình hữu nghị và sự hợp tác
17
với nhân dân trên thế giới. Đại hội có ý nghĩa quyết định đối với vận mệnh
dân tộc và tương lai của đất nước vào lúc chúng ta sắp bước vào thế kỷ 21.
Để bổ sung và củng cố nâng cao năng lực lãnh đạo của Đảng và vai trò
tiên phong gương mẫu của đảng viên, ngày 26/11/1996, Bộ Chính trị quy định
về chức năng nhiệm vụ của đảng viên chi bộ cơ sở.
- Quy định số 16/QĐ - TW Về chức năng nhiệm vụ của đảng bộ, chi bộ
trong các doanh nghiệp tư nhân, công ty trách nhiệm hữu hạn, công ty cổ
phần tư [20, tr.34].
- Quy định số 15/QĐ - TW Về chức năng nhiệm vụ của đảng bộ, chi bộ
trong các doanh nghiệp có vốn đầu tư nước ngoài [21, tr.29].
1.2.2. Thực trạng xây dựng tổ chức cơ sở Đảng ở Thành phố Đà
Nẵng trong 10 năm đổi mới từ năm 1986 đến năm 1996
Bước vào thời kỳ đổi mới cùng cả nước, Đảng bộ Thành phố Đà Nẵng
(trực thuộc tỉnh Quảng Nam - Đà Nẵng) có 95 tổ chức cơ sở Đảng, với 2.673
đảng viên, phân bố không đều. Trong tổng số 2.673 đảng viên của Đảng bộ,
có 15,86% đảng viên trẻ (từ 18 đến 30 tuổi). Ở các chi, đảng bộ xã, tiểu khu,
HTX tiểu thủ công nghiệp, đảng viên ở độ tuổi trên 50 chiếm tỷ lệ rất cao,
nhiều đảng viên chưa đề cao ý thức tôn trọng và phát huy quyền làm chủ tập
thể của quần chúng, công tác phát triển Đảng còn chậm, “năm 1985 mới kết
nạp được 265 đảng viên, số Đảng bộ, Chi bộ vững mạnh đạt 25,70%, số cơ sở
loại khá đạt 70%, số đơn vị yếu kém còn 4,30%” [1, tr.21].
Tính đến cuối năm 1987, “Đảng bộ thành phố có 70% chi bộ, đảng bộ
cơ sở làm tốt công tác cải tiến và nâng cao chất lượng sinh hoạt Đảng. Số
đảng viên tích cực đạt tỷ lệ 77,1% (tăng 17,2% so với năm 1986). Số đảng
viên mới được kết nạp trong năm 1987 tăng 20% so với năm 1985 và tăng
70% so với năm 1986, có trình độ văn hoá và kỹ thuật, có tinh thần trách
nhiệm trong công tác" [42, tr.42-43].
18
Tuy nhiên, chất lượng đội ngũ đảng viên của Đảng bộ thành phố không
đều. Số đảng viên trung bình và kém còn chiếm 20,9%. Ở các cơ sở Đảng,
việc thực hiện nguyên tắc tập trung, dân chủ, tập thể lãnh đạo, cá nhân phụ
trách chưa tốt; việc tổ chức sơ, tổng kết rút kinh nghiệm chưa kịp thời; có
việc, có mặt chỉ đạo chưa chặt chẽ, đồng bộ. Một số cơ sở Đảng thiếu chủ
động, sáng tạo, còn trông chờ, ỷ lại [42, tr.48].
Cuối năm 1987, Đảng bộ thành phố tiếp nhận một số cơ sở Đảng do
Tỉnh uỷ Quảng Nam bàn giao, do vậy số lượng cơ sở Đảng từ 95, với 2.763
đảng viên tăng lên đến 147 cơ sở Đảng và 7.764 đảng viên. Đầu năm 1988,
Đảng bộ thành phố tiếp nhận thêm một số cơ sở Đảng, nâng số đảng viên của
Đảng bộ lên tới 8.207 đồng chí, sinh hoạt trong 186 tổ chức cơ sở Đảng. Đáng
nói là hiện tượng số đảng viên phân bố không đều.
Nhằm đẩy mạnh công tác phát triển Đảng của các tổ chức cơ sở Đảng,
ngày 15/11/1988, BTV Thành uỷ ra Nghị quyết số 153 Về công tác phát triển
Đảng chỉ rõ trách nhiệm cụ thể của từng cấp uỷ, chi bộ đối với công tác phát
triển Đảng; giao nhiệm vụ cho Đoàn Thanh niên giáo dục, lựa chọn, bồi
dưỡng đoàn viên ưu tú giới thiệu để Đảng xem xét kết nạp. Sau 3 tháng,
Thành đoàn đã giới thiệu cho Đảng được gần 750 đoàn viên ưu tú và kết nạp
được 78 đảng viên mới, nâng số đảng viên mới được kết nạp năm 1988 lên
274 đồng chí (68% là đoàn viên thanh niên [42, tr.69].
Tháng 9 năm 1989, Đại hội lần thứ IV Đảng bộ Thành phố Đà Nẵng
xác định nhiệm vụ xây dựng Đảng 2 năm 1990-1991 đó là “tăng cường công
tác xây dựng Đảng, nhanh chóng kiện toàn tổ chức, nhất là tổ chức cơ sở, làm
tốt công tác cán bộ, nâng cao chất lượng đảng viên, đẩy mạnh cuộc vận động
xây dựng chi bộ, đảng bộ vững mạnh và trong sạch. Tăng cường công tác tư
tưởng. Tiến hành cuộc vận động xây dựng, thường xuyên tự phê bình và phê
bình. Đẩy mạnh công tác phát triển đảng viên mới, kiên quyết đưa ra khỏi
19
đảng những đảng viên không đủ tư cách. Tiến hành tốt công tác phát thẻ đảng
viên” [2, tr.27].
Năm 1989, Đảng bộ thành phố có 157 tổ chức cơ sở Đảng với 9.538
đảng viên trong đó đảng viên dự bị là 513 người. Kết quả loại như sau: “Dự
phân loại 8.937 (93,70%) ; đảng viên đủ tư cách: 7.623 (85,30%); đảng viên
không đủ tư cách 498 (5,58%); đảng viên phải xem xét 223 (2,5%); phải đưa
ra ngay khỏi Đảng 9 (0,10%)” [23, tr.1].
Ngày 13/7/1991, BTV Thành uỷ thông qua Nghị quyết số 97/NQ-TP
“Về thực hiện Nghị quyết 08 của Tỉnh uỷ về nhiệm vụ trước mắt của công tác
tư tưởng”, nhằm nâng cao chất lượng và vai trò lãnh đạo của tổ chức cơ sở
Đảng trong toàn Đảng bộ thành phố gắn liền với nhiệm vụ phân loại và phát
thẻ đảng viên [24, tr.1-2].
Năm 1991, toàn Đảng bộ có 169 tổ chức cơ sở Đảng với 11.172 đảng viên.
Căn cứ yêu cầu của TW “Về phát thẻ đảng viên” và Nghị quyết số 25
của Tỉnh uỷ “Về việc tăng cường củng cố cơ sở Đảng, làm tốt công tác phát
thẻ đảng viên”, qua hơn 2 năm tiến hành phát thẻ đảng, với nguyên tắc và
phương pháp xử lý “cứng rắn về nguyên tắc, mềm dẻo về phương pháp”, năm
1991 “có 10.328 đảng viên/11.172 đảng viên được công nhận đủ tư cách đảng
viên, được làm thẻ Đảng chiếm 92,45% số đảng viên toàn Đảng bộ, 168/169
tổ chức cơ sở Đảng được phát thẻ đảng chiếm 99,4% số tổ chức cơ sở Đảng
trong toàn Đảng bộ thành phố. Công tác phát thẻ đảng viên có tác dụng thiết
thực quan trọng, giúp đảng viên và cơ sở Đảng xác định đúng vai trò, vị trí
lãnh đạo, chiến đấu của mình, trở thành những nhân tố quan trọng quyết định
thắng lợi nhiệm vụ phát triển kinh tế, xã hội của thành phố” [24, tr.2].
Song song với nhiệm vụ phát thẻ đảng viên và thực hiện Nghị quyết 25
của tỉnh Quảng Nam - Đà Nẵng về “Tăng cường củng cố cơ sở Đảng, làm tốt
công tác phát thẻ đảng viên”, Thành uỷ Đà Nẵng rất coi trọng công tác củng
cố, kiện toàn tổ chức cơ sở Đảng, coi đó là điều kiện cơ sở để quyết định trao
20
thẻ đảng viên cho các chi, đảng bộ. “Nhiều cơ sở, cấp uỷ khuyết, yếu được bổ
sung thay thế, nhờ vậy nâng cao được sự hoạt động của cấp uỷ, bảo đảm sự
lãnh đạo đối với các mặt công tác” [24, tr.6].
Một số tổ chức cơ sở Đảng yếu kém đã được Thành uỷ tập trung chỉ
đạo cử nhiều cán bộ xuống trực tiếp tăng cường giúp cơ sở củng cố. Nhờ vậy
qua phân loại, năm 1992, Đảng bộ thành phố có 165 tổ chức cơ sở Đảng:
Vững mạnh 32 (19,3%); khá 115 (69,8%); yếu từng mặt: 169 (7%); yếu kém
2 (1,2%), không có cơ sở kém nát.
Cùng với việc củng cố tổ chức cơ sở Đảng, công tác phát triển Đảng
cũng được chú trọng. Trong 3 năm 1990-1992, dưới sự chỉ đạo của Thành uỷ,
ở 120 tổ chức cơ sở Đảng đã phát triển được 1.174 đảng viên mới [3, tr.13].
Công tác kiểm tra đã giúp cấp uỷ xử lý kỷ luật đảng viên đảm bảo
phương châm: Công minh, thận trọng, chính xác, kịp thời. Tính từ đầu Đại
hội IV Đảng bộ thành phố (5/1989) đến hết năm 11/1992, Thành uỷ và các tổ
chức cơ sở Đảng tiến hành kiểm tra đảng viên vi phạm kỷ luật và đã xử lý kỷ
luật 516 vụ. Biểu hiện sai phạm là bỏ công tác, sinh hoạt 45 vụ; giác ngộ
chính trị quá thấp 48 vụ; thiếu trách nhiệm 97; tham ô, móc ngoặc 102… Số
người bị kỷ luật chiếm 4,4% so với tổng số đảng viên, trong đó khai trừ chiếm
1,1% [3, tr.18].
Dưới ánh sáng của Nghị quyết Đại hội lần thứ VII của Đảng (6/1991),
Nghị quyết Đại hội lần thứ V Đảng bộ thành phố (11/1992) đã nhấn mạnh
công tác xây dựng tổ chức cơ sở Đảng trong nhiệm kỳ 5 năm 1992-1996 là:
“phấn đấu trong 3 năm tới không còn cơ sở Đảng yếu kém. Bảo đảm chế độ
sinh hoạt Đảng đều đặn, đúng nội dung, tự phê và phê bình, tăng cường đoàn
kết thống nhất. Đưa công tác quản lý đảng viên vào nề nếp. Công tác phát
triển Đảng viên mới phải tiến hành thường xuyên. Các đảng uỷ cơ sở đều phải
thành lập ban kiểm tra và tăng cường công tác kiểm tra, giữ gìn nề nếp, kỷ
luật của Đảng” [3, tr.29].
21
Cụ thể hoá Nghị quyết Đại hội lần thứ V Đảng bộ thành phố (11/1992),
BCH Thành uỷ họp ngày 15/12/1992 ra Nghị quyết số 02/NQ-ĐN Về những
nhiệm vụ trọng tâm công tác năm 1993 xác định “tăng cường công tác tư
tưởng kết hợp với công tác tổ chức để xây dựng một đội ngũ cán bộ, đảng
viên có đủ năng lực, có phẩm chất chính trị và đạo đức cách mạng, kịp thời
đưa những phần tử thoái hoá biến chất về chính trị, phẩm chất ra khỏi Đảng,
đồng thời đưa những quần chúng cách mạng có đủ tiêu chuẩn bổ sung cho đội
ngũ của Đảng” [25, tr.5].
Ngày 20/11/1994, Thành uỷ thông qua Nghị quyết số 234/NQ-TU Về
việc chỉ đạo kiểm tra và giải quyết cơ sở Đảng yếu - kém, trong đó sẽ “chỉ
đạo kiểm tra ở 2 đảng bộ và chỉ đạo giải quyết dứt điểm 3 cơ sở Đảng yếu
kém kéo dài” [26, tr.1-2].
Tính đến hết năm 1994, Thành uỷ đã tập trung giải quyết 10 cơ sở yếu
kém, mở 4 hội nghị trao đổi kinh nghiệm củng cố cơ sở yếu kém và hướng
dẫn đại hội ở cơ sở [27, tr.4-5].
Ngày 27/1/1995, Thành uỷ thông qua Nghị quyết số 09/NQ-TU của
BTV về một số công tác trước mắt trong xây dựng Đảng đảm bảo hoàn thành
thắng lợi nhiệm vụ chính trị của thành phố năm 1995 trong đó xác định 4 nội
dung cụ thể: “(1)- Đẩy mạnh việc xây dựng Đảng bộ cơ sở trong sạch, vững
mạnh; (2)- Tiếp tục kiện toàn cán bộ và đẩy mạnh việc đào tạo, bồi dưỡng đội
ngũ cán bộ cốt cán; (3)- Nâng cao chất lượng lãnh đạo của các cấp uỷ từ cơ sở
đến thành phố; (4)- Tăng cường công tác quần chúng của Đảng” [28, tr.2-6].
Năm 1995, quán triệt Nghị quyết 15 của BTV Tỉnh uỷ, Thành uỷ đã chấn
chỉnh củng cố nhiều cơ sở Đảng yếu kém, đã chỉ đạo đại hội ở các cơ sở Đảng.
Tính cả nhiệm kỳ Đại hội Đảng bộ thành phố khoá V (11/1992 đến
3/1996), các cấp uỷ từ thành phố xuống cơ sở đã kết nạp được 652 đảng viên
mới, trong đó, trình độ đại học chiếm 33,9%; nữ chiếm 27%; thành phần giai
22
cấp công nhân chiếm 34%; cán bộ công nhân viên chiếm 33%; ở phường, xã,
hợp tác xã thủ công chiếm 7% [4, tr.27].
Trong 3 năm (1993-1995), Thành uỷ tập trung lãnh đạo kiểm tra,
hướng dẫn các tổ chức cơ sở Đảng tự kiểm tra. Công tác kiểm tra Đảng đều
gắn với nhiệm vụ chính trị, giáo dục ngăn ngừa vi phạm kỷ luật “từ xa”, nhờ
vậy số đảng viên vi phạm kỷ luật đã giảm dần từ 1,26% (1992) xuống 0,85%
(1995), đã kiểm tra và kết luận 112/121 vụ (92,5%) [29, tr.11]. Tính chung
công tác thi hành kỷ luật nhiệm kỳ khoá V đã đưa ra khỏi Đảng 133 đảng
viên, kỷ luật từ khiển trách trở lên 155 đảng viên, làm trong sạch đội ngũ
đảng viên, củng cố cơ sở Đảng vững mạnh, giữ vững sự đoàn kết nhất trí
trong nội bộ Đảng [30, tr.4].
Dưới sự chỉ đạo của Thành uỷ, phong trào thi đua được phát triển và
mở rộng trong toàn Đảng bộ, đã có 23 đảng bộ, chi bộ giữ vững cờ vững
mạnh 5 năm liên tục (1991-1995), 20 cơ sở từ khá vươn lên vững mạnh, tuy
có 1 số cơ sở yếu kém vươn lên, song cũng có 1 số cơ sở ngược lại từ vững
mạnh xuống khá, hoặc yếu. Tính đến hết năm 1995, Đảng bộ thành phố đã
thanh toán xong tổ chức cơ sở Đảng kém nát.
Trong 10 năm (1986-1996), Đảng bộ thành phố có nhiều biến động về
tổ chức (chuyển giao, tiếp nhận, phân cấp quản lý), sắp xếp lại tổ chức (thành
lập các đảng bộ và chỉ định cấp uỷ lâm thời), đảng bộ cơ sở với đủ các loại
hình cơ sở Đảng đã luôn luôn bám sát nhiệm vụ chính trị lãnh đạo nhân thành
phố hoàn thành xuất sắc nhiệm vụ.
Những thành tựu đạt được trong quá trình thực hiện nhiệm vụ chính trị
của địa phương gắn liền với sự tiến bộ trong hoạt động của hệ thống Đảng,
chính quyền và đoàn thể quần chúng. Nắm vững các nghị quyết, nội dung các
cuộc vận động xây dựng Đảng vững mạnh, trong sạch, Thành Đảng bộ Đà
Nẵng đã có nhiều chủ trương, kế hoạch cụ thể để nhanh chóng kiện toàn và
củng cố hệ thống chính trị từ thành xuống các cơ sở, mà hạt nhân lãnh đạo là
23
tổ chức cơ sở Đảng, lãnh đạo cơ sở thực hiện nhiệm vụ chính trị, kinh tế và
quản lý xã hội theo 4 chế độ: 1- Chế độ trách nhiệm; 2- Chế độ kỷ luật; 3Chế độ bảo vệ của công; 4- Chế độ phục vụ nhân dân.
Bước vào thời kỳ đổi mới, đội ngũ cán bộ đảng viên của Đảng bộ thành
phố nhìn chung có độ tuổi cao (trên 50 tuổi chiếm trên 50%) trình độ chuyên
môn, nghiệp vụ thấp (văn hoá cấp I). Do vậy, Đảng bộ thành phố đã có có
nhiều chương trình thực hiện từng bước nâng cao phẩm chất chính trị, trình
độ chuyên môn nghiệp vụ cho đội ngũ cán bộ, đảng viên đáp ứng yêu cầu
mới. Nhờ đó, trình độ, năng lực, chất lượng đội ngũ cán bộ, đảng viên của
Đảng bộ thành phố được nâng lên rõ rệt, đáp ứng yêu cầu công tác.
Công tác xây dựng, củng cố để từng bước nâng cao năng lực lãnh đạo
và sức chiến đấu của tổ chức cơ sở Đảng được Đảng bộ thành phố xác định là
công tác trọng tâm. Thành ủy đã dành rất nhiều tâm huyết để xây dựng những
mục tiêu phấn đấu, biện pháp thực hiện để giữ vững những tổ chức Đảng
trong sạch, vững mạnh, đồng thời đã thường xuyên đi sâu, đi sát, thậm chí đã
cử đoàn và cán bộ Thành uỷ trực tiếp phụ trách hoặc xuống chỉ đạo giải quyết
dứt điểm các cơ sở Đảng nội bộ mất đoàn kết kéo dài, mất sức chiến đấu hoặc
tê liệt năng lực lãnh đạo; đưa ra hướng dẫn, giải pháp khắc phục tình trạng
trên, giữ vững vai trò hạt nhân ở cơ sở. Đồng thời, Thành ủy cũng đề ra cho
cấp uỷ cơ sở kịp thời có những hình thức kỷ luật và đưa ra khỏi Đảng những
đảng viên thoái hoá, biến chất, vi phạm kỷ luật, không được quần chúng tín
nhiệm.
Đảng bộ thành phố đã có những nghị quyết chuyên đề để nâng cao chất
lượng đội ngũ đảng viên thông qua những đợt vận động xây dựng Đảng, tạo
nên phong trào cách mạng sâu, rộng và tâm lý phấn khởi của đội ngũ cán bộ,
Thành uỷ đã chỉ đạo các cơ sở Đảng chú trọng đẩy mạnh công tác phát triển
Đảng, nhằm làm tăng sinh lực và sức chiến đấu cho Đảng, theo phương châm:
coi trọng chất lượng, đúng tiêu chuẩn, tuổi trẻ, nữ, đảm bảo thành phần lao
24
động và trình độ văn hoá, khoa học kỹ thuật. Giao cụ thể công tác phát triển
Đảng cho cấp uỷ và đảng viên như: lên nguồn tuyển chọn quần chúng tiêu
biểu, mở ngay lớp bồi dưỡng, phân công đảng viên làm công tác tuyên truyền,
giác ngộ, rèn luyện quần chúng cảm tình, bồi dưỡng cho Bí thư cơ sở và chi
bộ biết làm công tác phát triển Đảng. “Trung bình từ năm 1986 đến năm
1996, Đảng bộ thành phố đã kết nạp mỗi năm từ 175 đến 217 quần chúng ưu
tú vào Đảng, trong đó hơn 50% tuổi trẻ. Tuy nhiên, việc phát triển đảng viên
mới có cố gắng nhưng chưa đồng đều, còn khoảng 25 - 30% cơ sở Đảng của
Đảng bộ thành phố không thường xuyên, chậm hoặc không phát triển được
đảng viên mới” [30, tr.7].
Trong thời kỳ 1991 - 1995, bên cạnh những thành tựu cơ bản đạt được
ở Đảng bộ thành phố Đà Nẵng, công tác đổi mới và chỉnh đốn Đảng trong
một số cấp ủy cơ sở chưa được coi trọng. “Phương thức lãnh đạo và phong
cách công tác chậm đổi mới. Chất lượng lãnh đạo, hiệu quả hoạt động của
nhiều cấp ủy Đảng còn thấp, có nơi còn buông lỏng vị trí lãnh đạo, nhất là
Đảng bộ một số doanh nghiệp cơ quan. Một số cán bộ đảng viên còn bàng
quan trước những quan điểm sai trái. Trong khi đó công tác tư tưởng chưa sắc
bén, thiếu kịp thời, chưa giải đáp có tính thuyết phục nhiều vấn đề do thực
tiễn đặt ra. Nhiều cán bộ đảng viên chưa cố gắng tu dưỡng, rèn luyện, nâng
cao trình độ. Tình trạng mất đoàn kết ở một số tổ chức Đảng còn xẩy ra, chưa
được giải quyết kịp thời” [4, tr.41].
Năm 1996, Đại hội lần thứ VI Đảng bộ Thành phố Đà Nẵng (1996 2000, xác định nhiệm kỳ theo tỉnh Đảng bộ Quảng Nam - Đà Nẵng) đã đánh
giá lại những thành tựu, hạn chế, rút ra 4 bài học kinh nghiệm lãnh đạo và đề
ra phương hướng nhiệm vụ công tác giai đoạn 1996 - 2000. Căn cứ những
thành tựu, hạn chế, để công tác xây dựng tổ chức cơ sở Đảng trong sạch vững
mạnh phát huy được vai trò hạt nhân chính trị, lãnh đạo cơ sở nâng cao năng
25