Tải bản đầy đủ (.doc) (21 trang)

Tiểu luận môn Lý luận chung về Đảng Cao học xây dựng Đảng

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (160.4 KB, 21 trang )

1
MỞ ĐẦU
Đảng cộng sản Việt Nam là đội tiên phong của giai cấp công nhân, đồng
thời là đội tiên phong của nhân dân lao động và của dân tộc Việt Nam. Đảng
lấy chủ nghĩa Mác-Lênin, tư tưởng Hồ Chí Minh làm nền tảng tư tưởng, kim
chỉ nam cho mọi hoạt động. Trong quá trình đấu tranh và hoạt động, Đảng ta
luôn coi trọng công tác xây dựng đảng, thường xuyên chăm lo củng cố và phát
triển Đảng về mọi mặt chính trị, tư tưởng, tổ chức và đạo đức. Vì vậy, Đảng ta
không ngừng lớn mạnh và trưởng thành, đáp ứng yêu cầu cơ bản của từng thời
kỳ cách mạng, đưa cả nước đi lên chủ nghĩa xã hội. Thực tiễn cách mạng Việt
Nam đã chứng tỏ Đảng ta là một tổ chức chính trị chân chính duy nhất đủ khả
năng lãnh đạo cách mạng Việt Nam. Mặc dù có sai lầm, khuyết điểm nhưng
Đảng ta biết khắc phục, sửa chữa, tự phê bình và phê bình để vuơn lên, tự hoàn
thiện mình bằng thực tiễn lãnh đạo cách mạng, đổi mới tư duy, nâng cao năng
lực lãnh đạo để đáp ứng yêu cầu ngày càng cao của cách mạng.
Đảng bộ tỉnh Thanh Hoá là một Đảng bộ có số đảng viên lớn trong cả
nước. Đảng bộ huyện Thạch Thành, dưới sự chỉ đạo trực tiếp của Tỉnh uỷ,
trong những năm qua đã quán triệt và cụ thể hóa đường lối của Đảng trong
thực tiễn, đảm bảo giữ vững ổn định chính trị, thúc đẩy kinh tế phát triển,
củng cố khối đoàn kết toàn dân, làm cho đời sống vật chất, tinh thần của nhân
dân trong huyện khởi sắc rõ nét. Tuy vậy, trước yêu cầu nhiệm vụ ngày càng
cao, tình hình Đảng bộ và công tác xây dựng đảng của Đảng bộ đang bộc lộ
những tồn tại, năng lực lãnh đạo và sức chiến đấu chưa ngang tầm với yêu cầu
nhiệm vụ mới. Do đó, việc tập trung củng cố, nâng cao năng lực lãnh đạo và
sức chiến đấu của các tổ chức cơ sở đảng và của toàn Đảng bộ là một nhiệm
quan trọng hiện nay.
Xuất phát từ thực tế đó, em lựa chọn đề tài “Nâng cao năng lực lãnh
đạo và sức chiến đấu của tổ chức cơ sở đảng ở huyện Thạch Thành, tỉnh
Thanh Hóa giai đoạn hiện nay” làm tiểu luận kết thúc học phần Lý luận
chung về Đảng và xây dựng Đảng trong điều kiện mới.



2
NỘI DUNG
1. Một số vấn đề lý luận, thực tiễn của việc nâng cao năng lực lãnh
đạo và sức chiến đấu của tổ chức cơ sở đảng trong tình hình hiện nay
1.1. Một số khái niệm cơ bản
1.1.1. Tổ chức cơ sở đảng
Tổ chức cơ sở đảng là tổ chức đảng được lập ở đơn vị cơ sở có từ 3
đảng viên chính thức trở lên, đặt dưới sự lãnh đạo trực tiếp của cấp ủy trên cơ
sở. Tổ chức cơ sở đảng có hai hình thức là chi bộ cơ sở (đối với tổ chức cơ sở
đảng có dưới 30 đảng viên) và đảng bộ cơ sở (đối với tổ chức đảng có từ 30
đảng viên trở lên). Chi bộ có đông đảng viên lập các tổ đảng. Đảng bộ cơ sở
có ít nhất 2 chi bộ trực thuộc, một số đảng bọ cơ sở có đảng bộ bộ phận.
Tổ chức cơ sở đảng được thành lập ở đơn vị cơ sở hành chính (xã,
phường, thị trấn); cơ quan của Đảng, Nhà nước, Mặt trận Tổ quốc và các
đoàn thể nhân dân; đơn vị sự nghiệp (giáo dục - đào tạo, y tế, văn hóa, thể
dục, thể thao, các đơn vị nghiên cứu...); đơn vị kinh tế (doanh nghiệp nhà
nước và doanh nghiệp ngoài khu vực nhà nước); đơn vị của lực lượng vũ
trang (quân đội, công an).
1.1.2. Năng lực lãnh đạo của Đảng
Năng lực lãnh đạo của Đảng là những điều kiện cần và đủ để Đảng có
thể thực hiện hiệu quả sự lãnh đạo của mình. Đó là khả năng xác định và cụ
thể hóa Cương lĩnh, đường lối chính trị trên cơ sở nắm vững chủ nghĩa MácLênin, tư tưởng Hồ Chí Minh, tình hình thế giới và đất nước; trình độ nhận
thức và thực hành dân chủ; khả năng phổ biến, tuyên truyền, giáo dục và tổ
chức cho cán bộ, đảng viên, nhân dân thực hiện thắng lợi cương lĩnh, đường
lối chính trị; trình độ lãnh đạo, tổ chức, quản lý, xây dựng các tổ chức cách
mạng của Đảng vững mạnh; khả năng kiểm tra, giám sát, phát hiện và giải
quyết những mâu thuẫn nảy sinh trong quá trình lãnh đạo thực hiện cương
lĩnh, đường lối chính trị và có phương pháp, kế hoạch sơ kết, tổng kết.
Năng lực lãnh đạo của tổ chức cơ sở đảng là khả năng quán triệt

đường lối, chủ trương của Đảng, chính sách, pháp luật của Nhà nước; khả
năng vận dụng một cách sáng tạo và linh hoạt các chủ trương, đường lối,
chính sách đó vào hoàn cảnh, điều kiện cụ thể của đơn vị, cơ quan mình, để
đề ra các chủ trương, phương hướng và giải pháp thực hiện đúng, hiệu quả;


3
có biện pháp tổ chức thực hiện tốt các nhiệm vụ ở đơn vị; là khả năng tập
hợp, động viên, kiểm tra người lao động, quần chúng nhân dân thực hiện các
nhiệm vụ chính trị, kinh tế - xã hội ở cơ sở đạt hiệu quả cao; khả năng chấn
chỉnh và cải tiến sinh hoạt đảng, thực hiện có nền nếp việc quản lý đảng viên
và công tác phát triển đảng tại cơ sở.
1.1.3. Sức chiến đấu của Đảng
Sức chiến đấu của Đảng là sức mạnh tổng hợp về chính trị, tư tưởng, tổ
chức và đạo đức, là sự thống nhất về ý chí và hành động, nhằm tạo nên sức
mạnh, sức bền nội tại của Đảng, là ý chí vượt lên trong mọi hoàn cảnh, những
tiêu cực trong xã hội, trong nội bộ nhân dân, thậm chí trong nội bộ Đảng và
cả những khó khăn khách quan của đất nước, của tình hình kinh tế - xã hội để
thực hiện thắng lợi nhiệm vụ chính trị.
Sức chiến đấu của tổ chức cơ sở đảng là khả năng vượt mọi khó khăn,
gian khổ để giành thắng lợi trong quá trình lãnh đạo cơ quan, đơn vị hoạt
động đúng định hướng, đạt hiệu quả cao. Sức chiến đấu của tổ chức cơ sở
Đảng được thể hiện tập trung ở chất lượng chính trị của tổ chức: biểu hiện cụ
thể ở phẩm chất chính trị, đạo đức cách mạng và tính tiên phong, gương mẫu
của đội ngũ cán bộ, đảng viên ở cơ quan, đơn vị; ở sự lãnh đạo của tổ chức
đảng đối với việc thực hiện các nhiệm vụ chính trị, kinh tế - xã hội đúng chủ
trương, định hướng của Đảng và chính sách, pháp luật của Nhà nước.
1.1.4. Mối quan hệ giữa năng lực lãnh đạo và sức chiến đấu của tổ
chức cơ sở đảng
Năng lực lãnh đạo và sức chiến đấu là hai yếu tố tạo nên sự lãnh đạo

của Đảng. Nếu thiếu một trong hai yếu tố đó thì Đảng không giữ được vai trò
lãnh đạo cách mạng và Đảng không thể tồn tại được. Năng lực lãnh đạo và
sức chiến đấu của Đảng là mối liên hệ hữu cơ chặt chẽ, chúng thâm nhập vào
nhau, tác động thúc đẩy nhau, làm tiền đề để tồn tại và phát triển của nhau.
Đó là mối liên hệ nhân quả trong sự lãnh đạo cách mạng của Đảng. Năng lực
lãnh đạo của Đảng càng được nâng lên bao nhiêu thì sức chiến đấu của Đảng
càng được củng cố bấy nhiêu, ngược lại sức chiến đấu càng được củng cố,
nâng cao thì năng lực lãnh đạo của Đảng càng được nâng lên.
Khi năng lực lãnh đạo của đảng được nâng lên, đảng có nhận thức lý
luận sâu rộng, có tư duy khoa học, nắm bắt được quy luật vận động của sự


4
vật, đủ kiều kiện vận dụng tri thức khoa học và tổ chức thực tiễn, đưa ra chủ
trương, chính sách đúng đắn, phù hợp với nguyện vọng của quần chúng, cổ vũ
phong trào cách mạng, thì khối đoàn kết trong đảng được củng cố, sức chiến
đấu trong đảng được tăng cường.
Việc nâng cao năng lực lãnh đạo luôn gắn với việc nâng cao sức chiến
đấu của tổ chức cơ sở đảng ngang tầm với nhiệm vụ chính trị là yêu cầu quan
trọng trong giai đoạn hiện nay. Sự kiện sụp đổ chế độ xã hội chủ nghĩa ở Liên
Xô và các nước Đông Âu là một thực tế chứng minh cho sự thành công hay
thất bại của cách mạng là tùy thuộc vào năng lực lãnh đạo và sức chiến đấu
của tổ chức cơ sở Đảng. Khi Đảng giảm sút ý chí chiến đấu thì sẽ đưa sự
nghiệp cách mạng đến những sai lầm và tổn thất nghiêm trọng.
1.2. Vai trò, vị trí của tổ chức cơ sở đảng
Ngay từ những ngày đầu của phong trào cộng sản và công nhân quốc tế,
C.Mác và Ph.Ăng-ghen đã nhấn mạnh phải “Biến mỗi chi bộ thành hạt nhân
của các Hội liên hiệp công nhân”. V.I. Lê-nin đã phát triển tư tưởng đó và chăm
lo xây dựng nhằm xác lập vai trò lãnh đạo của các tiểu tổ công nhân dân chủ xã
hội thành những chi bộ cơ sở trong các nhà máy, công xưởng, những khu dân

cư của Đảng Bônsêvíc Nga. Người chỉ rõ: “Những chi bộ ấy liên hệ chặt chẽ
với nhau và với Trung ương Đảng, phải làm công tác cổ động, tuyên truyền,
công tác tổ chức, phải thích nghi với mọi lĩnh vực của đời sống xã hội, với tất
cả quần chúng lao động... Những chi bộ ấy phải thông qua công tác muôn hình
để rèn luyện đảng, giai cấp, quần chúng một cách có hệ thống”.
Ngay từ khi mới thành lập, Đảng ta cũng rất quan tâm đến việc xây dựng
tổ chức cơ sở đảng, coi đó là cấp tổ chức nền tảng, là những đơn vị chiến đấu
cơ bản, những tế bào của Đảng; chất lượng của các đảng bộ, chi bộ cơ sở là
nhân tố cơ bản tạo nên chất lượng lãnh đạo của Đảng đối với quá trình cách
mạng. Thực tiễn cách mạng Việt Nam cho thấy, những thành tựu đã đạt được,
những tiềm năng được khai thác, những kinh nghiệm có giá trị đều bắt nguồn
từ nỗ lực phấn đấu của quần chúng ở cơ sở, mà hạt nhân là tổ chức đảng.
Điều lệ Đảng Cộng sản Việt Nam, được Đại hội đại biểu toàn quốc lần
thứ XI thông qua, chỉ rõ: “Tổ chức cơ sở đảng (chi bộ cơ sở, đảng bộ cơ sở) là
nền tảng của Đảng, là hạt nhân chính trị ở cơ sở”. Tổ chức cơ sở đảng có vị
trí, vai trò đặc biệt quan trọng trong công tác xây dựng Đảng, trong lãnh đạo
sự nghiệp xây dựng, bảo vệ và phát triển đất nước.


5
Với tính cách là nền tảng của Đảng, tổ chức cơ sở đảng có vị trí, vai trò
rất quan trọng đối với sự vững mạnh của Đảng. Đây là cấp tổ chức cuối cùng
trong hệ thống tổ chức bốn cấp của Đảng ta, là cấp tổ chức sâu rộng nhất, gắn
với các đơn vị cơ sở trên toàn lãnh thổ và các ngành, các lĩnh vực của đời
sống xã hội, bảo đảm sự lãnh đạo của Đảng tới từng cơ sở, từng đảng viên và
từng người dân. Đây là nơi trực tiếp thực hiện chủ trương, đường lối, nghị
quyết của Đảng, đồng thời cũng là nơi kiểm nghiệm và góp phần quan trọng
vào việc hình thành, phát triển chủ trương, đường lối của Đảng thông qua
những kinh nghiệm thực tiễn phong phú của đội ngũ đảng viên và quần chúng
nhân dân. Đây cũng là nơi trực tiếp tiến hành các hoạt động quan trọng trong

công tác xây dựng Đảng, như kết nạp, quản lý, phân công nhiệm vụ, kiểm tra,
đánh giá đảng viên; nơi đảng viên thường xuyên thực hành các nguyên tắc tổ
chức và sinh hoạt; nơi xuất phát đề cử ra cơ quan lãnh đạo các cấp của Đảng.
Tổ chức cơ sở đảng còn là cầu nối giữa Đảng với quần chúng nhân dân,
là mắt khâu trọng yếu để duy trì mối liên hệ của Đảng với nhân dân; là tổ
chức gần dân nhất, trực tiếp lãnh đạo nhân dân và nắm bắt tâm tư, nguyện
vọng của quần chúng nhân dân để phản ánh với Đảng. Dân tin Đảng, theo
Đảng hay không là nhờ ở vai trò rất quan trọng, trực tiếp của tổ chức cơ sở
đảng, của cán bộ đảng viên tại cơ sở.
1.3. Một số vấn đề về năng lực lãnh đạo và sức chiến đấu của các tổ
chức cơ sở đảng giai đoạn hiện nay
Trong tình hình hiện nay, việc nâng cao năng lực lãnh đạo và sức chiến
đấu của tổ chức cơ sở đảng đang là nhiệm vụ quan trọng hàng đầu trong công
tác xây dựng Đảng. Bởi vì:
Thứ nhất, trong những năm qua, thực hiện các chỉ thị, nghị quyết của
Trung ương về xây dựng tổ chức cơ sở đảng, cấp ủy đảng các cấp đã quan
tâm lãnh đạo, chỉ đạo nhằm nâng cao năng lực lãnh đạo và sức chiến đấu của
tổ chức cơ sở đảng đạt được những chuyển biến tiến bộ, góp phần đẩy mạnh
sự nghiệp đổi mới đất nước. Tuy nhiên, so với yêu cầu nhiệm vụ của thời kỳ
đẩy mạnh công nghiệp hóa, hiện đại hóa và hội nhập quốc tế, năng lực lãnh
đạo và sức chiến đấu của các tổ chức cơ sở đảng chưa ngang tầm.
Thứ hai, hiện nay nước ta đang chuyển sang đẩy mạnh công nghiệp
hóa, hiện đại hóa đất nước, vững bước tiến lên chủ nghĩa xã hội. Thời kỳ mới


6
đó đặt ra cho việc nâng cao năng lực lãnh đạo và sức chiến đấu của tổ chức cơ
sở đảng nhiều thời cơ, vận hội lớn, nhưng cũng phải đối mặt với những thách
thức, những nguy cơ không thể xem thường. Chúng ta cũng chủ trương phát
triển kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa, mở rộng quan hệ quốc

tế. Trong bối cảnh đó, nếu không có sự quản lý chặt chẽ, không có giải pháp
điều tiết hữu hiệu thì nền kinh tế có thể bị chệch hướng, một bộ phận giàu lên
nhanh chóng, đẩy nhanh sự phân hóa giàu nghèo ngày càng lớn giữa các giai
cấp, tầng lớp trong xã hội. Tình hình trên đây đặt ra nhiều vấn đề đòi hỏi
Đảng ta phải trong sạch, vững mạnh. Muốn vậy thì Đảng phải tiếp tục không
ngừng xây dựng, chỉnh đốn, nâng cao năng lực lãnh đạo và sức chiến đấu.
Thứ ba, thế kỷ XXI sẽ tiếp tục có nhiều biến đổi. Khoa học và công nghệ
sẽ có bước tiến nhảy vọt; kinh tế tri thức ngày càng có vai trò nổi bật trong quá
trình phát triển lực lượng sản xuất. Toàn cầu hóa kinh tế là một xu thế khách
quan, lôi cuốn ngày càng nhiều nước tham gia. Các mâu thuẫn cơ bản trên thế
giới biểu hiện dưới những hình thức và mức độ khách quan vẫn tồn tại và phát
triển, có mặt sâu sắc hơn. Đấu tranh dân tộc và đấu tranh giai cấp tiếp tục diễn
ra gay gắt. Sự biến đổi của thế giới sẽ tác động vào cán bộ, đảng viên và nhân
dân ta cả mặt tích cực lẫn mặt tiêu cực. Do đó, Đảng phải nâng cao năng lực
lãnh đạo và sức chiến đấu, xây dựng Đảng trong sạch, vững mạnh để phát huy
mặt tích cực, hạn chế mặt tiêu cực.
Thứ tư, sau sự sụp đổ của hệ thống xã hội chủ nghĩa ở Liên Xô và Đông
Âu, chủ nghĩa đế quốc và các thế lực thù địch ra sức chống phá chủ nghĩa xã
hội bằng chiến lược “Diễn biến hòa bình”; mưu toan chuyển hóa từng bước,
làm xói mòn lý tưởng cộng sản, tiến tới phá sập niềm tin vào chủ nghĩa xã hội
và sự lãnh đạo của Đảng cộng sản. Chúng coi Việt Nam là một trọng điểm áp
dụng chiến lược đó với những mưu đồ thâm độc trên tất cả các lĩnh vực của
đời sống xã hội. Hiện nay, chúng tập trung vào hướng chính là phá hoại nền
tảng tư tưởng của Đảng với thủ đoạn xuyên tạc lịch sử, phủ nhận thành tựu
cách mạng, phủ nhận sự hy sinh và công lao, thổi phồng sai lầm của Đảng.
Trước những âm mưu và thủ đoạn phá hoại của địch, Đảng phải trong sạch,
vững mạnh về chính trị, tư tưởng và tổ chức để đấu tranh chống lại.
2. Thực trạng nâng cao năng lực lãnh đạo và sức chiến đấu của tổ
chức cơ sở đảng ở Đảng bộ huyện Thạch Thành, tỉnh Thanh Hóa



7
Thạch Thành là huyện miền núi nằm ở phía Bắc của tỉnh Thanh Hóa.
Phía Bắc và Đông Bắc giáp tỉnh Hòa Bình và Ninh Bình; phía Nam giáp
huyện Vĩnh Lộc; phía Đông giáp huyện Hà Trung; phía Tây và Tây Bắc giáp
huyện Cẩm Thủy, huyện Bá Thước. Huyện có diện tích đất tự nhiên là
55.811,31ha với 28 đơn vị hành chính (26 xã và 02 thị trấn); dân số của huyện
hiện nay khoảng trên 14 vạn người.
Tính đến năm 2018, Đảng bộ huyện Thạch Thành có 61 tổ chức cơ sở
đảng với 7.485 đảng viên, trong đó có 37 đảng bộ và 24 chi bộ trực thuộc
Huyện ủy; 421 chi bộ trực thuộc đảng ủy cơ sở. Biên chế cán bộ, công chức,
viên chức và người lao động 2.326 người, trong đó: khối Đảng - Đoàn thể 56,
khối cơ quan UBND huyện và các đơn vị sự nghiệp trực thuộc 101, cấp xã
588, các đơn vị trường học 1.581 biên chế.
2.1. Một số kết quả đạt được
2.1.1. Về công tác giáo dục chính trị tư tưởng, xây dựng đội ngũ cán
bộ, đảng viên có bản lĩnh chính trị vững vàng
Ban Thường vụ Huyện ủy đã lãnh đạo, chỉ đạo thực hiện tốt công tác
giáo dục chính trị tư tưởng cho đội ngũ cán bộ, đảng viên; chủ động dự báo
tình hình để kịp thời trang bị thông tin và định hướng tư tưởng cho cán bộ,
đảng viên và nhân dân. Chỉ đạo đổi mới, nâng cao chất lượng công tác bồi
dưỡng lý luận chính trị, bồi dưỡng kỹ năng lãnh đạo, giải quyết tình huống
xảy ra ở cơ sở, chống chủ nghĩa cá nhân, chủ nghĩa cơ hội, lợi ích cá nhân,
đấu tranh với những biểu hiện "tự diễn biến"; "tự chuyển hóa" theo tinh thần
Nghị quyết Trung ương 4 khóa XII gắn với học tập và làm theo tư tưởng, đạo
đức, phong cách Hồ Chí Minh theo Chỉ thị số 05-CT/TW của Bộ Chính trị.
Cấp ủy các cấp nắm chắc tình hình tư tưởng cán bộ, đảng viên, kịp thời có
biện pháp phòng ngừa, giáo dục, giúp đỡ và xử lý nghiêm minh đối với cán bộ,
đảng viên sai phạm; có biện pháp chỉ đạo, tuyên truyền đấu tranh với những luận
điệu tuyên truyền xuyên tạc, phản động của các thế lực thù địch. Chỉ đạo thực

hiện nghiêm túc, có nề nếp tự phê bình và phê bình trong sinh hoạt đảng. Qua
thời gian triển khai thực hiện, đội ngũ cán bộ, đảng viên toàn huyện có bản lĩnh
chính trị vững vàng, trung thành với nền tảng tư tưởng và đường lối đổi mới của
Đảng; có đạo đức, lối sống lành mạnh, có ý thức kỷ luật, gương mẫu trong công
tác, có năng lực, trình độ, cơ bản đáp ứng yêu cầu nhiệm vụ được giao.


8
2.1.2. Về hoàn thiện mô hình tổ chức của các loại hình tổ chức cơ sở
đảng, chăm lo kết nạp đảng viên
Về hoàn thiện mô hình tổ chức của các loại hình tổ chức cơ sở đảng:
Công tác kiện toàn, sắp xếp tổ chức đảng được thực hiện đồng bộ, thống nhất,
bảo đảm sự lãnh đạo của Đảng ở cơ sở và thống nhất với các tổ chức của hệ
thống chính trị. Hệ thống tổ chức cơ sở đảng toàn huyện có cơ cấu tổ chức
hợp lý, đồng bộ ở tất cả các cấp, các ngành, địa phương, đơn vị; thể hiện được
vai trò lãnh đạo toàn diện đối với mọi lĩnh vực hoạt động của cơ sở.
Về công tác kết nạp đảng viên: Để tiếp tục nâng cao năng lực, sức chiến
đấu của tổ chức đảng, đẩy mạnh công tác phát triển đảng viên, Ban Thường vụ
Huyện ủy đã xây dựng Kế hoạch số 66-KH/HU, ngày 26/12/2016 về phát triển
đảng viên ở chi bộ thôn, khu phố, các đối tượng đặc thù, phát triển đảng trong
các doanh nghiệp ngoài khu vực nhà nước giai đoạn 2016-2020, theo đó xác
định mục tiêu nâng cao tỷ lệ phát triển đảng viên ở thôn, khu phố, đội ngũ cán
bộ, công chức cấp xã, trưởng, phó các tổ chức chính trị - xã hội cấp xã, những
người hoạt động không chuyên trách cấp xã, trưởng thôn, khu phố, công an
viên, thôn đội trưởng, cán bộ các đoàn thể chính trị - xã hội, tổ trưởng tổ an
ninh xã hội, tổ trưởng tổ an ninh trật tự ở thôn, khu phố và thành lập tổ chức
đảng, phát triển đảng viên trong các doanh nghiệp ngoài khu vực nhà nước.
Công tác kết nạp đảng viên coi trọng cả số lượng và chất lượng, không
chạy theo số lượng đơn thuần, đảm bảo chặt chẽ về nguyên tắc, kết nạp đảng
viên luôn gắn với củng cố tổ chức đảng, làm trong sạch đội ngũ đảng viên.

Trong 10 năm từ 2008 đến 2017, Đảng bộ huyện đã kết nạp được 2.517 đảng
viên mới. Đảng viên được kết nạp có trình độ chuyên môn, học vấn ngày càng
cao: Về trình độ chuyên môn: Ths, ĐH 800 đ/c (32,0%); CĐ, TC 905 đ/c
(36,2%); Về trình độ học vấn: THPT 2.265 đ/c (90,7%), THCS 233 đ/c
(9,3%). Qua đó, góp phần nâng cao chất lượng đội ngũ đảng viên toàn huyện
về trình độ học vấn, trình độ chuyên môn và lý luận chính trị.
2.1.3 Việc thực hiện chủ trương trẻ hóa, tiêu chuẩn hóa, từng bước
nhất thể hóa chức danh cán bộ ở cơ sở
Thực hiện chủ trương trẻ hóa, chuẩn hóa và nâng cao chất lượng đội
ngũ cán bộ, công chức ở cơ sở, năm 2011, Ban Thường vụ Huyện ủy đã chỉ
đạo bố trí 60 sinh viên tốt nghiệp đại học về các xã, thị trấn; bố trí chức danh


9
trưởng các đoàn thể chính trị - xã hội cấp xã có trình độ chuyên môn đại học;
đồng thời, chỉ đạo bố trí, sắp xếp vị trí công tác phù hợp hoặc giải quyết chế
độ, chính sách đối với những cán bộ chưa đạt chuẩn theo quy định.
Xác định điều động, luân chuyển là khâu quan trọng của công tác cán
bộ. Ban Thường vụ Huyện ủy đã xây dựng kế hoạch, tập trung lãnh đạo, chỉ
đạo, triển khai thực hiện tốt công tác điều động, luân chuyển cán bộ từ
huyện về xã, từ xã lên huyện, giữa các cơ quan cấp huyện và từ xã này sang
xã khác; định kỳ sơ kết, tổng kết đánh giá, rút kinh nghiệm và đề ra những
nhiệm vụ, giải pháp phù hợp để tiếp tục xây dựng đội ngũ cán bộ và đổi mới
mạnh mẽ công tác cán bộ. Tổng số lượt cán bộ, công chức được điều động,
luân chuyển giai đoạn 2008-2017 là 280 lượt.
Ban Thường vụ Huyện ủy đã phối hợp với các cơ sở đào tạo trong tỉnh,
đào tạo chuyên môn và lý luận chính trị cho cán bộ, công chức; chỉ đạo các
cấp, các ngành mở các lớp bồi dưỡng cập nhật kiến thức cho cán bộ, công
chức tại huyện; tổ chức cho cán bộ đi học tập các mô hình, điển hình tiên tiến,
các kinh nghiệm hay ở các địa phương, đơn vị. Công tác đào tạo, bồi dưỡng

thời gian qua đã cơ bản khắc phục được tình trạng đào tạo không theo quy
hoạch, tăng cường các lớp đào tạo cán bộ nguồn, cán bộ nữ, cán bộ trẻ, bồi
dưỡng kiến thức mới đối với cán bộ lãnh đạo, quản lý nhờ đó chất lượng, hiệu
quả đào tạo, bồi dưỡng cán bộ đã từng bước được nâng lên, góp phần chuẩn
hóa các chức danh cán bộ, đáp ứng yêu cầu nhiệm vụ của địa phương, đơn vị.
2.1.4. Về nâng cao chất lượng, đổi mới nội dung, phương thức hoạt
động của các loại hình tổ chức cơ sở đảng; nâng cao chất lượng sinh hoạt
cấp ủy, sinh hoạt chi bộ
Ban Thường vụ Huyện ủy đã tập trung chỉ đạo nâng cao năng lực, sức
chiến đấu của các tổ chức đảng, trong đó chú trọng: Nâng cao năng lực quán
triệt, vận dụng đúng đắn, sáng tạo chủ trương đường lối của Đảng, chính sách,
pháp luật của Nhà nước, nghị quyết, chỉ thị của cấp trên; năng lực ban hành
nghị quyết, chỉ thị và các văn bản để lãnh đạo, chỉ đạo thực hiện nhiệm vụ
chính trị phù hợp với tình hình thực tiễn ở địa phương, đơn vị; năng lực chỉ
đạo, lãnh đạo đối với chính quyền, Mặt trận Tổ quốc và các tổ chức đoàn thể
trong phát triển kinh tế - xã hội, củng cố quốc phòng - an ninh, xây dựng hệ
thống chính trị và tập hợp, vận động quần chúng…


10
Đồng thời chỉ đạo các đơn vị xây dựng kế hoạch sinh hoạt chi bộ và đăng
ký lịch sinh hoạt về Ban Thường vụ Huyện ủy để phân công cán bộ dự và chỉ
đạo, ngoài ra các kỳ sinh hoạt đột xuất để giải quyết các nhiệm vụ quan trọng
cấp bách theo yêu cầu cụ thể. Mỗi năm, mỗi chi bộ chọn các chuyên đề để bàn
sâu vào những nội dung quan trọng, cấp bách ở địa phương, đơn vị. Các chi bộ
đảng duy trì chế độ sinh hoạt định kỳ; nội dung sinh hoạt cấp ủy, chi bộ không
ngừng được đổi mới, sát đúng với thực tế của địa phương, đơn vị. Ban Thường
vụ đã ban hành “sổ nghiệp vụ chi bộ”, “sổ tu dưỡng, rèn luyện đảng viên”
nhằm nâng cao chất lượng hoạt động, quản lý, rèn luyện đảng viên ở các chi
bộ; tổ chức bồi dưỡng cho đội ngũ cấp ủy viên, bí thư cấp ủy về kỹ năng cụ thể

hóa và tổ chức thực hiện có hiệu quả chủ trương, đường lối của Ðảng, chính
sách, pháp luật của Nhà nước, trong đó chú trọng bồi dưỡng kỹ năng ra nghị
quyết và tổ chức thực hiện nghị quyết, kỹ năng tổ chức sinh hoạt chi bộ.
Việc xây dựng, rà soát, bổ sung và thực hiện quy chế làm việc của cấp
ủy được thực hiện nghiêm túc. Cấp ủy từ huyện đến cơ sở định kỳ tiến hành
rà soát, đánh giá lại việc thực hiện chức năng nhiệm vụ và quy chế làm việc
của các tổ chức trong hệ thống chính trị. Xác định rõ chức năng nhiệm vụ của
cấp uỷ, chính quyền các cấp và các đoàn thể chính trị - xã hội; mối quan hệ
công tác giữa Bí thư cấp ủy với chủ tịch HĐND, chủ tịch UBND, Chủ tịch
MTTQ và người đứng đầu các đoàn thể được quy định rõ ràng, đảm bảo sự
lãnh đạo toàn diện của cấp ủy đảng, đồng thời phát huy được tính chủ động
của chính quyền và các tổ chức đoàn thể chính trị - xã hội.
Việc thực hiện tự phê bình và phê bình trong sinh hoạt cấp ủy được thực
hiện tốt. Cấp ủy, Ban Thường vụ cấp ủy luôn thực hiện nguyên tắc tập trung
dân chủ, chế độ tự phê bình và phê bình, nâng cao chất lượng sinh hoạt Đảng,
thực hiện nghiêm túc Nghị quyết Trung ương 4 khóa XI, XII về tăng cường xây
dựng, chỉnh đốn Đảng, ngăn chặn, đẩy lùi sự suy thoái về tư tưởng chính trị,
đạo đức, những biểu hiện “tự diễn biến, “tự chuyển hóa” trong nội bộ gắn với
thực hiện Chỉ thị số 05-CT/TW của Bộ Chính trị, tạo sự thống nhất trong nhận
thức và hành động của cán bộ, đảng viên toàn huyện. Tập trung giải quyết
những vấn đề khó khăn, bức xúc, nổi cộm liên quan thiết thực đến đời sống của
nhân dân, phát huy và mở rộng dân chủ trong sinh hoạt đảng đã khơi dậy được
tính tự giác, tiền phong, gương mẫu của cán bộ, đảng viên, đấu tranh ngăn


11
chặn, đẩy lùi sự suy thoái, “tự diễn biến”, ‘tự chuyển hóa” trong nội bộ, phát
hiện và kiên quyết xử lý nghiêm tập thể, cá nhân vi phạm.
2.1.5. Về công tác chỉ đạo, kiểm tra, giám sát, quản lý đảng viên; dựa
vào dân để xây dựng Đảng

Dựa trên các quy định về công tác kiểm tra, giám sát, cấp ủy cơ sở thực
hiện tốt công tác kiểm tra, giám sát đảng viên trong việc thực hiện Cương lĩnh
chính trị, Điều lệ Đảng, chỉ thị, nghị quyết, quy định, kết luận của Đảng. Hằng
năm, đảng viên cam kết thực hiện tốt các quy định của Đảng. Phát huy vai trò
của Mặt trận Tổ quốc và các đoàn thể chính trị - xã hội trong việc vận động
nhân dân giám sát cán bộ, đảng viên ở địa bàn dân cư; tổ chức tốt việc lấy
phiếu tín nhiệm đối với các chức danh cán bộ, lãnh đạo theo quy định. Trong
10 năm từ 2008 đến 2017, qua kiểm tra, giám sát đã phát hiện và xử lý kỷ luật
đối với 02 tổ chức đảng và 234 đảng viên vi phạm bằng hình thức khiển trách
130, cảnh cáo 71, cách chức 11, khai trừ 22; đưa ra khỏi đảng 216 đảng viên
(khai trừ 22, xóa tên 143, xin ra khỏi đảng 51).
Ban Thường vụ Huyện ủy phân công các đồng chí Uỷ viên Ban Thường
vụ phụ trách cụm, các đồng chí cấp ủy viên phụ trách chỉ đạo cơ sở. Đảng ủy
cở thực hiện phân công các đồng chí cấp uỷ viên về dự sinh hoạt định kỳ với
các chi bộ đảng nhằm nâng cao vai trò lãnh đạo thống nhất, chặt chẽ của cấp
uỷ cấp trên đối với tổ chức cơ sở đảng và chi bộ; có biện pháp chỉ đạo, uốn
nắn kịp thời đối với chi bộ còn hạn chế yếu kém. Các chi bộ thực hiện tốt việc
phân công công tác cho đảng viên, có trên 70% đảng viên (Trừ những đảng
viên già yếu, đảng viên đi làm ăn xa) được phân công nhiệm vụ hằng năm,
việc phân công nhiệm vụ giúp cho mỗi đảng viên nhận thức, thực hiện đúng
chức trách, nhiệm vụ của mình, đồng thời là cơ sở chủ yếu để đánh giá mức
độ hoàn thành nhiệm vụ và phân xếp loại đảng viên hằng năm.
Mặt trận Tổ quốc và các đoàn thể quần chúng ở cơ sở đã phát huy tính
chủ động, sáng tạo, thường xuyên đổi mới nội dung và phương thức hoạt
động, tập hợp được đông đảo đoàn viên, hội viên tham gia giám sát cán bộ,
đảng viên và đóng góp cho công tác xây dựng Đảng ở cơ sở. Việc đổi mới nội
dung, phương pháp đánh giá tổ chức cơ sở đảng và đảng viên theo hướng
trọng thực chất, phát huy dân chủ, có sự giám sát của nhân dân; gắn với kết
quả thực hiện nhiệm vụ chính trị, sự vững mạnh của các tổ chức trong hệ



12
thống chính trị và chất lượng đội ngũ cán bộ, đảng viên ở cơ sở. Cán bộ, đảng
viên công tác ở các đơn vị, cơ quan nhà nước, Mặt trận Tổ quốc và các đoàn
thể tham gia sinh hoạt nơi cư trú nghiêm túc, thể hiện tính đoàn kết giữ mối
liên hệ với cấp ủy nơi cư trú.
2.2. Những tồn tại, hạn chế
Thứ nhất, công tác giáo dục chính trị tư tưởng, đạo đức, lối sống cho
cán bộ, đảng viên ở một số tổ chức cơ sở đảng chưa được quan tâm đúng
mức. Một số cán bộ, đảng viên vi phạm kỷ luật đảng, pháp luật của nhà nước
làm ảnh hưởng đến uy tín của Đảng.
Thứ hai, năng lực lãnh đạo, khả năng vận dụng, cụ thể hoá và tổ chức
thực hiện chủ trương, đường lối của Đảng, chính sách, pháp luật của Nhà
nước ở một số tổ chức cơ sở đảng, còn hạn chế, chưa giải quyết tốt những vấn
đề phức tạp xảy ra ở cơ sở; trong lãnh đạo, chỉ đạo sản xuất phát triển kinh tế
- xã hội, đảm bảo quốc phòng - an ninh còn một số chỉ tiêu chưa đạt kế hoạch.
Thứ ba, một số chi bộ chất lượng sinh hoạt còn hạn chế, nội dung sinh
hoạt đơn điệu, nặng về chuyên môn, duy trì nề nếp sinh hoạt chi bộ có nơi
chưa đủ kỳ, trong sinh hoạt chưa thể hiện hết vai trò lãnh đạo của cấp ủy cơ
sở đối với các tổ chức trong hệ thống chính trị tại cơ sở.
Thứ tư, công tác phát triển đảng viên mới ở một số cấp ủy còn thiếu sự
quan tâm và chưa đạt mục tiêu đề ra; việc phát triển đảng viên ở thôn, khu phố
còn hạn chế, một số chi bộ nhiều năm năm không kết nạp được đảng viên. Việc
thành lập các tổ chức đảng ngoài khu vực nhà nước gặp nhiều khó khăn.
Thứ năm, một số đơn vị đánh giá chất lượng tổ chức cơ sở đảng và đảng
viên hằng năm còn hình thức, nể nang, chạy theo thành tích; ngược lại có đơn
vị đánh giá phân loại quá khắt khe, kết quả chưa phản ánh đúng thực chất, vì
vậy chưa khuyến khích động viên được phong trào
2.3. Nguyên nhân và bài học kinh nghiệm
2.3.1. Nguyên nhân thành công

- Đảng bộ huyện Thạch Thành đã nỗ lực phấn đấu, nắm vững các chủ
trương, đường lối của Đảng, chính sách pháp luật của Nhà nước và vận dụng
linh hoạt, sáng tạo vào tình hình thực tế của địa phương. Tranh thủ sự lãnh
đạo, chỉ đạo của tỉnh, phối hợp chặt chẽ với các sở, ban, ngành của tỉnh, huy
động sự vào cuộc tích cực, đồng bộ của cả hệ thống chính trị từ thành phố đến


13
cơ sở để tổ chức thực hiện các mục tiêu, nhiệm vụ phát triển kinh tế - xã hội,
đảm bảo an ninh chính trị, trật tự an toàn xã hội trên địa bàn.
- Các cấp uỷ đảng từ huyện đến cơ sở nhận thức rõ về yêu cầu nâng cao
sức chiến đấu của tổ chức cơ sở đảng, luôn đoàn kết, thống nhất, xác định rõ
vai trò, trách nhiệm của mình trước Đảng và nhân dân. Năng động, sáng tạo,
khai thác sức mạnh tổng hợp của Đảng, chính quyền, đoàn thể chính trị và các
tầng lớp nhân dân ở địa phương để thực hiện thắng lợi nhiệm vụ ở cơ sở.
- Đội ngũ cán bộ đảng viên, nhất là các cấp uỷ đảng từ huyện đến cơ sở
luôn đoàn kết thống nhất, năng động, sáng tạo, dám nghĩ, dám làm, thực sự
nêu cao vai trò lãnh đạo, gương mẫu đi đầu trong các phong trào thi đua, chủ
trương đẩy mạnh phát triển kinh tế - xã hội trên địa bàn huyện.
- Các cấp uỷ Đảng từ huyện đến cơ sở luôn xác định nguyên tắc tập
trung dân chủ là nguyên tắc quan trọng nhất trong công tác tổ chức và xây
dựng Đảng. Thực hiện tập thể lãnh đạo, cá nhân phụ trách thực hiện tốt phê
bình và tự phê bình. Tổ chức Đảng và đảng viên chấp hành nghiêm các Nghị
quyết của Đảng, thiểu số phục tùng đa số, cấp dưới phục tùng cấp trên, cá
nhân phục tùng tổ chức. Các nghị quyết của các cấp uỷ Đảng ban hành đều
đảm bảo đa số các đảng viên được tham gia và chấp hành nghiêm chỉnh.
- Các cấp uỷ đảng, chính quyền từ huyện đến cơ sở đã tổ chức triển khai
thực hiện tốt Quy chế dân chủ ở cơ sở; mở rộng dân chủ trên các lĩnh vực,
giải quyết hài hoà các mối quan hệ về lợi ích của nhân dân do đó đã tạo nên
sức mạnh tổng hợp nhằm thực hiện tốt chủ trương, chính sách của cấp ủy,

chính quyền các cấp.
2.3.2. Nguyên nhân của những hạn chế
- Năng lực lãnh đạo, chỉ đạo, điều hành của cấp uỷ, chính quyền trên
một số lĩnh vực chưa theo kịp yêu cầu phát triển. Việc phân công trách nhiệm
triển khai thực hiện chủ trương, nghị quyết có lúc, có việc còn chậm, chưa rõ,
chưa cụ thể. Vai trò, trách nhiệm của người đứng đầu có việc chưa rõ. Tính
chủ động đề xuất, tranh thủ sự giúp đỡ, ủng hộ của Tỉnh trên các lĩnh vực đối
với Thành phố còn mức độ.
- Việc quán triệt các chỉ thị, nghị quyết của Đảng có mặt chưa đầy đủ.
Việc cụ thể hoá các chủ trương, nghị quyết của Trung ương, tỉnh và huyện còn
chậm; công tác chỉ đạo, điều hành của một số cấp uỷ đảng, chính quyền cơ sở
còn hạn chế, chưa linh hoạt; một số vụ việc còn để kéo dài chưa dứt điểm.


14
- Phương thức lãnh đạo của một số tổ chức cơ sở đảng chậm đổi mới,
thiếu chủ động, còn có tư tưởng trông chờ, ỷ lại, làm mất vai trò lãnh đạo của
tổ chức đảng và đảng viên.
- Công tác tuyên truyền giáo dục, vận động quần chúng nhân dân chưa
thường xuyên, chưa sâu rộng, chưa khai thác, phát huy được tiềm năng và lợi
thế sẵn có của địa phương.
2.3.3. Một số bài học kinh nghiệm
Một là, tăng cường vai trò lãnh đạo, sức chiến đấu của các tổ chức cơ sở
Đảng là điều kiện có tính quyết định, tạo ra bước đột phá, đẩy nhanh tốc độ
phát triển kinh tế - xã hội, đảm bảo quốc phòng - an ninh, xây dựng hệ thống
chính trị các cấp vững mạnh.
Hai là, thực hiện công tác điều động, luân chuyển cán bộ là việc làm
cần thiết để nâng cao năng lực lãnh đạo, sức chiến đấu của tổ chức cơ sở
Đảng và chất lượng cán bộ, đảng viên trên cơ sở đảm bảo nguyên tắc tập
trung dân chủ, đúng quy định của đảng và đúng pháp luật nhà nước về công

tác cán bộ. Phát huy tốt trách nhiệm của người đứng đầu trong công tác cán
bộ, nhằm đổi mới tư duy trong lãnh đạo, điều hành và được tiến hành đồng
thời với công tác quy hoạch, đánh giá, rèn luyện và bồi dưỡng cán bộ, khắc
phục tình trạng nể nang, trì trệ, giải quyết công việc thiếu hiệu quả.
Ba là, thực hiện tốt công tác đào tạo, bồi dưỡng cho đội ngũ cán bộ
trong quy hoạch và cán bộ kế cận có đủ trình độ chuyên môn nghiệp vụ, trình
độ lý luận chính trị, không để hẫng hụt cán bộ trong mọi vị trí.
Bốn là, thường xuyên làm tốt công tác phát triển đảng viên mới nhằm
bổ sung cho đảng những nhân tố mới và tạo động lực để xây dựng tổ chức cơ
sở Đảng thật sự trong sạch vững mạnh.
Năm là, tăng cường công tác kiểm tra, giám sát của cấp ủy đảng các cấp
trong việc tổ chức triển khai, thực hiện nghị quyết, quy định, chỉ thị của đảng
đối với tổ chức đảng và đảng viên chủ động phát hiện, xử lý nghiêm các tổ
chức đảng, đảng viên vi phạm.
3. Một số giải pháp nâng cao năng lực lãnh đạo và sức chiến đấu
của tổ chức cơ sở đảng ở Đảng bộ huyện Thạch Thành, tỉnh Thanh Hóa
giai đoạn hiện nay
3.1. Nâng cao hiệu quả quá trình xây dựng và tổ
chức thực hiện Nghị quyết


15
Thứ nhất, nâng cao trình độ nhận thức cho cán bộ đảng viên và nhân
dân, làm tốt công tác giáo dục chính trị tư tưởng trong cán bộ, đảng viên và
nhân dân. Đây là nhiệm vụ hết sức quan trọng nhằm tạo ra sự nhất trí cao về
lập trường, quan điểm và ý chí quyết tâm thực hiện nhiệm vụ chính trị của
Đảng bộ huyện. Để thực hiện tốt công tác này đòi hỏi cấp uỷ phải tăng cường
lãnh đạo công tác chính trị tư tưởng. Chỉ đạo xây dựng mạng lưới tuyên
truyền viên đến từng chi bộ, tổ đảng, cụm dân cư, chú ý phân công các cán
bộ, đảng viên về hưu từng làm công tác chính trị, tư tưởng, công tác tuyên

huấn, hoặc những đảng viên có uy tín, có năng lực tham gia đội ngũ tuyên
truyền viên. Những kinh nghiệm hay thường ở trong nhân dân, chính vì vậy
các cấp ủy cần phải mở rộng dân chủ để dân trực tiếp tham gia vào quá trình
xây dựng nghị quyết, đảm bảo thống nhất ý Đảng với lòng dân.
Thứ hai, nâng cao hiệu quả quá trình tổ chức thực hiện nghị quyết.
Thứ ba, thực hiện chủ trương trẻ hóa, tiêu chuẩn hóa, thể chế hóa, tạo
bước chuyển có tính đột phá về xây dựng đội ngũ cán bộ, công chức ở cơ sở.
Thứ tư, thực hiện nghiêm chỉnh các tổ chức và sinh hoạt Đảng.
Thứ năm, đề cao trách nhiệm và phát huy vai trò của các tổ chức trong
hệ thống chính trị ở cơ sở tham gia xây dựng và củng cố tổ chức cơ sở đảng.
Thứ sáu, đề cao trách nhiệm và tăng cường chỉ đạo, hướng dẫn, kiểm
tra giám sát của cấp trên.
3.2. Đẩy mạnh phong trào xây dựng tổ chức cơ sở đảng trong sạch,
vững mạnh
Đưa việc xây dựng củng cố và phát triển các tổ chức cơ sở đảng trong
sạch, vững mạnh vào nề nếp thường xuyên theo một quy trình thống nhất.
Hàng năm từng cơ sở tiến hành kiểm điểm xem xét đánh giá lấy ý kiến quần
chúng và các đoàn thể, đối chiếu với tiêu chuẩn hướng dẫn của Ban Tổ chức
Trung ương, của Tỉnh để xem xét phân loại. Với những tổ chức cơ sở đảng
yếu kém thì phải phân tích tìm xem yếu kém về mặt nào, nguyên nhân yếu
kém để có biện pháp khắc phục cụ thể.
Nâng cao chất lượng đội ngũ đảng viên, tránh tình trạng đông nhưng
không mạnh. Để làm tốt công tác này đòi hỏi phải đổi mới việc phân tích chất
lượng đảng viên, đảm bảo đánh giá đúng tình hình đảng viên ở mỗi cơ sở đảng.
Trên cơ sở đó, phân công nhiệm vụ cho đảng viên, đồng thời có kế hoạch kiểm


16
tra việc thực hiện nhiệm vụ được phân công, tránh tình trạng phân công chiếu
lệ. Coi phát triển đảng là một trong những nội dung phấn đấu xây dựng tổ chức

cơ sở đảng trong sạch, vững mạnh. Các cấp ủy cần quan tâm lãnh đạo tổ chức
Đoàn Thanh niên cải tiến hình thức hoạt động, tập hợp, giáo dục thanh niên để
bồi dưỡng, tạo nguồn, giới thiệu đoàn viên ưu tú bổ sung lực lượng cho Đảng.
Trong quá trình xem xét kết nạp đảng cần đổi mới quan điểm đánh giá quần
chúng, nhất là đối với thanh niên trong giai đoạn hiện nay.
Bên cạnh đó, cần phải xây dựng chương trình, kế hoạch đào tạo bồi
dưỡng cán bộ trong từng thời kỳ, với nhiều loại hình sát với yêu cầu nhiệm vụ
của địa phương. Gắn đào tạo cán bộ trước mắt với đào tạo lâu dài cho từng
chức danh chủ chốt ở huyện và cơ sở. Làm tốt công tác đánh giá, quy hoạch
cán bộ trước mắt và lâu dài cho tất cả các chức danh, trong đó chú ý đến các
chức danh ở các xã, thị trấn. Công tác quy hoạch phải xuất phát từ thực tiễn ở
từng cơ sở. Thực hiện chủ trương trẻ hóa, tiêu chuẩn hóa, thu hút luân chuyển,
đào tạo bồi dưỡng, bố trí sắp xếp cán bộ, tạo bước đột phá trong xây dựng đội
ngũ cán bộ công chức ở cơ sở.
Xây dựng đội ngũ cấp ủy phải được nhân dân và đảng viên tín nhiệm,
duy trì được sự thống nhất cao về tư tưởng và hành động trong chi bộ. Đồng
thời xây dựng đội ngũ cán bộ xã, phường có khả năng tiếp thu, vận dụng sáng
tạo chủ trương, chính sách của Đảng và Nhà nước vào điều kiện cụ thể của đơn
vị, đề ra mục tiêu, nhiệm vụ, giải pháp và lãnh đạo, chỉ đạo thực hiện thắng lợi
nhiệm vụ đó. Tích cực đấu tranh chống tham nhũng, tiêu cực, tôn trọng và phát
huy quyền làm chủ của nhân dân; có khả năng tập hợp, đoàn kết cán bộ và
nhân dân địa phương. Từ tiêu chuẩn chung, cấp ủy, chính quyền nghiên cứu
xây dựng tiêu chuẩn cán bộ cụ thể cho từng chức danh, trước hết là bí thư đảng
ủy, chủ tịch, phó chủ tịch và trưởng các đoàn thể ở các xã, thị trấn.
3.3. Nâng cao chất lượng sinh hoạt chi bộ
Quán triệt nghiêm túc các nguyên tắc sinh hoạt của Đảng, đồng thời phải
có cơ chế, có quy định cụ thể trong tổ chức thực hiện. Trước hết, giữ nề nếp
sinh hoạt theo quy định của Điều lệ Đảng, khắc phục tình trạng sinh hoạt thất
thường, xác định thời gian sinh hoạt phù hợp, xây dựng nội dung phương pháp
sinh hoạt có trọng tâm, trọng điểm. Trong sinh hoạt đảm bảo nguyên tắc tập

trung dân chủ, thực hiện nghiêm túc chế độ tự phê bình và phê bình, trên cơ sở


17
công khai dân chủ với tinh thần góp ý xây dựng, cùng tiến bộ. Nghiêm cấm lợi
dụng tự phê bình và phê bình để vu cáo, đả kích gây rối nội bộ, chia rẽ bè phái
làm suy yếu khối đoàn kết trong chi bộ, đảng bộ.
Đổi mới nội dung sinh hoạt trước hết là phải đổi mới từ cách ra nghị
quyết. Nội dung sinh hoạt chi bộ phải bám sát chủ trương, đường lối của
Đảng, nghị quyết của cấp trên vào nhiệm vụ của chi bộ mình trong từng thời
kỳ. Khi có nghị quyết phải công khai, biến nghị quyết thành chương trình
hành động cụ thể. Nội dung sinh hoạt ngoài công tác Đảng phải gắn với vấn
đề phát triển kinh tế - xã hội, an ninh - quốc phòng, xóa đói giảm nghèo,
phòng chống các tệ nạn xã hội... các nội dung trên phải đưa ra thảo luận kỹ để
có những giải pháp cụ thể, phù hợp đem lại hiệu quả.
Đồng chí bí thư có vai trò rất quan trọng trong việc nâng cao chất lượng
sinh hoạt chi bộ. Do đó, việc lựa chọn người đứng đầu chi bộ cũng có ý nghĩa
quyết định đến chất lượng chi bộ. Bí thư chi bộ phải thực sự có trình độ, uy
tín và có khả năng truyền đạt được chủ trương, chính sách, hướng dẫn đảng
viên thảo luận, tóm tắt tổng kết được những vấn đề thảo luận, phản ánh ý
kiến, nguyện vọng của Đảng và nhân dân. Như vậy công tác bồi dưỡng, nâng
nghiệp vụ cho bí thư chi bộ là việc làm cần được qưuan tâm của các cấp ủy
Đảng, đó cũng là một biện pháp quan trọng nhằm nâng cao năng lực lãnh đạo,
sức chiến đấu của tổ chức cơ sở Đảng.
3.4. Tăng cường công tác kiểm tra, giám sát
Đảng ta khẳng định: “lãnh đạo mà không kiểm tra coi như không lãnh
đạo”, bởi vậy hơn lúc nào hết, công tác kiểm tra, giám sát và kỷ luật của Đảng
cần được tăng cường. Để góp phần nâng cao năng lực lãnh đạo và sức chiến
đấu của tổ chức cơ sở đảng, cần tập trung vào các nội dung:
- Uỷ ban kiểm tra cơ sở chủ động tham mưu giúp cấp ủy xây dựng kế

hoạch kiểm tra của cấp ủy, đồng thời xây dựng chương trình thực hiện sát
đúng, đảm bảo đúng quy định của Điều lệ Đảng và hướng dẫn của cấp trên.
- Nội dung kiểm tra cần tập trung vào việc lãnh đạo tổ chức thực hiện các
chỉ thị, nghị quyết của Đảng, chính sách, pháp luật của Nhà nước, thực hiện
nhiệm vụ chính trị ở địa phương; việc chấp hành điều lệ Đảng, thực hiện quy
chế của cấp ủy để khắc phục và tránh làm trái với nghị quyết.
- Trong công tác kiểm tra cần phát huy vai trò của Mặt trận Tổ quốc,


18
các đoàn thể nhân dân trong việc kiểm tra giám sát cán bộ, đảng viên thực
hiện cương lĩnh, Điều lệ Đảng, việc chấp hành các chủ trương, chính sách của
Đảng, pháp luật của Nhà nước để kịp thời uốn nắn những lệch lạc thiếu sót.
- Phối hợp chặt chẽ với các cấp, các ngành, phải đặt công tác kiểm tra
dưới sự lãnh đạo trực tiếp của cấp ủy, tránh chồng chéo gây khó khăn cho cơ
sở và đảng viên.
- Khi kiểm tra có kết luận ngay, xử lý kịp thời, nghiêm minh, có tính
giáo dục, răn đe, giữ nghiêm kỷ luật, kỷ cương của Đảng; kiên quyết chống tư
tưởng nể nang, hữu khuynh, bao che, thiên vị... trong quá trình xem xét, kết
luận, xử lý cá nhân và tổ chức đảng.
3.5. Đổi mới phương thức lãnh đạo của tổ chức cơ sở đảng đối với
chính quyền và các tổ chức chính trị - xã hội
Sự lãnh đạo của tổ chức cơ sở đảng với chính quyền vừa đảm bảo cho
hiệu lực của chính quyền, vừa đảm bảo cho chủ trương chính sách của Đảng
được thực hiện trong cuộc sống. Đổi mới phương thức lãnh đạo hiện nay cần
tập trung vào: Cải tiến việc ra các nghị quyết và tổ chức thực hiện phải rõ
ràng, cụ thể, phải định hướng cho hoạt động của chính quyền trên mọi lĩnh
vực. Khắc phục tình trạng ra nghị quyết chung chung, mô phỏng theo nghị
quyết cấp trên. Khi có nghị quyết cần tập trung và đổi mới tạo sự chuyển
biến, bảo đảm nói đi đôi với làm. Xây dựng bộ máy chính quyển trong sạch,

vững mạnh. Tiếp tục cải cách hành chính, sắp xếp bộ máy, thực hiện tốt quy
chế dân chủ ở cơ sở.
Duy trì và thực hiện tốt quy chế dân chủ ở cơ sở, từng bước cụ thể hóa
phương châm “Dân biết, dân bàn, dân làm dân kiểm tra”, kết hợp chặt chẽ
cuộc vận động “Toàn dân đoàn kết xây dựng đời sống văn hóa mới ở khu dân
cư”. Xây dựng cơ chế để quần chúng tham gia xây dựng nghị quyết: phát huy
quyền làm chủ của nhân dân, phải tôn trọng những vấn đề có liên quan đến
nhiệm vụ và quyền lợi của quần chúng nhân dân, phải bàn bạc lấy ý kiến của
dân để tạo nên sự thống nhất ý chí và hành động trong toàn Đảng, toàn dân,
tránh được chủ quan duy ý chí. Đổi mới phương thức dân chủ hoá "Tôn trọng
tính độc lập của các đoàn thể quần chúng", tạo mọi điều kiện để các đoàn thể
quần chúng hoàn thành chức năng, nhiệm vụ. Khi cần phải có chuyên đề về
công tác quần chúng. Cấp uỷ cử cán bộ chuyên trách theo dõi, phụ trách công


19
tác quần chúng, đồng thời lãnh đạo đổi mới và nâng cao trách nhiệm của
chính quyền đối với công tác vận động quần chúng.
3.6. Tăng cường sự lãnh đạo của Huyện uỷ đối với các chi bộ, đảng
bộ cơ sở
Cấp uỷ cấp trên thường xuyên đi sâu sát cơ sở, để làm việc trực tiếp và
đối thoại với cơ sở nắm chắc và giải quyết những khó khăn của cơ sở theo sự
phân công. Thực hiện tốt chủ trương: tỉnh nắm chắc từng huyện, thành phố,
thị xã; huyện nắm chắc địa bàn từng xã, thị trấn trên địa bàn; các xã, thị trấn
nắm đến từng hộ gia đình. Cấp uỷ viên được phân công phụ trách địa bàn
từng xã, thị trấn phải thường xuyên đến với dân để nắm tình hình, phải bố trí
thời gian gặp gỡ, làm việc với đảng viên và nhân dân; giải quyết kịp thời
những vướng mắc, kiến nghị của đảng viên và nhân dân, đảm bảo lợi ích thiết
thực cho nhân dân, khắc phục bệnh quan liêu xa dân.
Tiến hành rà soát, đánh giá, nắm chắc đội ngũ cán bộ chủ chốt ở cơ sở

để bố trí hợp lý, đặc biệt với những cơ sở có vấn đề phức tạp cần tăng cường
cán bộ có trình độ, năng lực, có uy tín để thực hiện tốt nhiệm vụ. Xây dựng và
thực hiện giao ban định kỳ giữa Ban thường vụ Huyện ủy với Bí thư, Thường
trực Đảng uỷ, Chủ tịch UBND xã, thị trấn và các ban, ngành đoàn thể của
huyện để lãnh đạo, chỉ đạo tháo gỡ khó khăn cho cơ sở và thực hiện các
nhiệm vụ chính trị đột xuất trên địa bàn thành phố.
Các ban Đảng của Huyện uỷ cần nâng cao hơn nữa việc tham mưu, đề
xuất chủ trương, giải pháp nâng cao chất lượng tổ chức cơ sở đảng và đảng
viên. Tăng cường bám sát cơ sở, chủ động nắm tình hình, diễn biến ở cơ sở để
có biện pháp giải quyết kịp thời. Thường xuyên tiến hành đánh giá sơ, tổng
kết các chuyên đề về xây dựng đảng để phục vụ cho công tác lãnh đạo, chỉ
đạo đạt hiệu quả.


20
KẾT LUẬN
Tổ chức cơ sở đảng có vị trí đặc biệt quan trọng; là nền tảng của Đảng,
là hạt nhân chính trị ở cơ sở, là cầu nối liền giữa Đảng với nhân dân. Đảng có
hoàn thành vai trò lãnh đạo cách mạng hay không, một phần quan trọng là do
sự hoạt động của tổ chức cơ sở Đảng. Do đó, việc nâng cao năng lực lãnh đạo
và sức chiến đấu cho tổ chức cơ sở đảng là một trong những nhiệm vụ thường
xuyên trong công tác xây dựng Đảng. Đây là nhân tố quan trọng có ý nghĩa
tăng cường sức mạnh của Đảng, củng cố và đảm bảo cho sự lãnh đạo của
Đảng đối với toàn xã hội. Trong giai đoạn đẩy mạnh sự nghiệp công nghiệp
hoá, hiện đại hoá đất nước vì mục tiêu dân giàu, nước mạnh, dân chủ, công
bằng, văn minh. Vấn đề nâng cao năng lực lãnh đạo, sức chiến đấu của tổ
chức cơ sở đảng càng có ý nghĩa quan trọng.
Cùng với sự đổi mới của đất nước, trong những năm qua, Đảng bộ
huyện Thạch Thành, tỉnh Thanh Hóa đã tích cực đổi mới, tự chỉnh đốn nắm
vững và thực hiện có hiệu quả chủ trương: phát triển kinh tế là nhiệm vụ trọng

tâm, xây dựng Đảng là nhiệm vụ then chốt, xây dựng và phát triển nền văn
hóa tiên tiến, đậm đà bản sắc dân tộc là nền tảng tinh thần của xã hội. Nâng
cao nhận thức về vị trí, vai trò, chức năng, nhiệm vụ của tổ chức cơ sở Đảng
trong giai đoạn cách mạng hiện nay là nhiệm vụ của toàn Đảng bộ huyện,
nhằm phấn đấu thực hiện thắng lợi các mục tiêu mà Nghị quyết Đại hội Đảng
toàn quốc lần thứ XII, Nghị quyết Đại hội Đảng bộ Tỉnh Thanh Hóa, lần thứ
XVIII và Nghị quyết Đại hội Đảng bộ huyện Thạch Thành lần thứ XXIV
(nhiệm kỳ 2015 - 2020) đã đề ra.
Thực hiện thành công việc nâng cao năng lực lãnh đạo, sức chiến đấu
của tổ chức cơ sở đảng ở Đảng bộ huyện Thạch Thành, sẽ là tiền đề quan
trọng trong việc xây dựng Đảng bộ huyện vững mạnh toàn diện góp phần
thực hiện thành công sự nghiệp đổi mới do Đảng ta khởi xướng và lãnh đạo,
vì mục tiêu dân giàu, nước mạnh, dân chủ, công bằng, văn minh./.


21
DANH MỤC TÀI LIỆU THAM KHẢO
1. Đảng Cộng sản Việt Nam, Văn kiện Đại hội đại biểu toàn quốc lần
thứ XII, Văn phòng Trung ương Đảng, Hà Nội, 2016.
2. Đảng Cộng sản Việt Nam, Nghị quyết số 22-NQ/TW, ngày
02/02/2008, Hội nghị lần thứ sáu Ban Chấp hành Trung ương Đảng (khóa X)
Về nâng cao năng lực lãnh đạo, sức chiến đấu của tổ chức cơ sở đảng và
chất

lượng

đội

ngũ


cán

bộ,

đảng

viên,

/>3. Học viện Chính trị quốc gia Hồ Chí Minh, Tài liệu tham khảo phục
vụ học tập Cao cấp lý luận chính trị - Học phần xây dựng Đảng Cộng sản
Việt Nam, Hà Nội, 2018.
4. Viện Xây dựng Đảng, Học viện Chính trị quốc gia Hồ Chí Minh, Tài
liệu môn học Lý luận về Đảng và xây dựng Đảng trong điều kiện mới (Dành
cho các lớp cao học), Hà Nội, 2016.
5. Huyện ủy Thạch Thành, Báo cáo Tổng kết 10 năm thực hiện Nghị
quyết số 22-NQ/TW, ngày 02/02/2008 của Ban Chấp hành Trung ương khóa
X về nâng cao năng lực lãnh đạo, sức chiến đấu của tổ chức cơ sở đảng và
chất lượng đội ngũ cán bộ, đảng viên, 2018.
6. PGS. TS Nguyễn Minh Tuấn - PGS. TS Trần Khắc Việt (Đồng chủ
biên), 350 thuật ngữ xây dựng Đảng, Nxb Lý luận chính trị, Hà Nội, 2018.



×