1
1. Mở đầu:
Một trong những yêu cầu quan trọng để thúc đẩy sự phát triển đất nước
theo yêu cầu xây dựng Nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa, công nghiệp
hóa, hiện đại hóa và hội nhập quốc tế là phải hoàn thiện thể chế, hoàn thiện hệ
thống pháp luật. Xây dựng pháp luật là một trong những phương diện hoạt
động quan trọng nhất của nhà nước, nhằm mục đích trực tiếp tạo nên các quy
phạm pháp luật, sửa đổi, hủy bỏ, bổ sung, hoàn thiện hệ thống các quy phạm
để điều chỉnh các quan hệ xã hội đang diễn ra. Đối với bất kỳ nhà nước nào,
mặc dù xây dựng pháp luật của mỗi nước đều có những điểm đặc thù nhưng
tất cả đều hướng đến việc xây dựng, hoàn thiện hệ thống các quy phạm pháp
luật thống nhất, đồng bộ, không mâu thuẫn, không chồng chéo.
Xây dựng pháp luật là một quy trình phức tạp và phải bảo đảm tuân thủ
các yêu cầu chặt chẽ khác nhau tùy thuộc vào thể chế và quan điểm của từng
quốc gia, từng giai đoạn phát triển của lịch sử và điều kiện kinh tế - xã hội
nhất định. Song quy trình hay thể chế nào thì các nguyên tắc nguyên nghĩa
của pháp luật cũng phải được tôn trọng và nhằm thực hiện mục tiêu vì con
người, hướng tới xây dựng một xã hội, một quốc gia phồn vinh và văn minh.
Chính vì vậy, trong bối cảnh toàn cầu hóa, hội nhập kinh tế thế giới sâu rộng
và xu hướng dân chủ hóa, minh bạch trong quản lý nhà nước hiện nay đã và
đang đặt ra những yêu cầu mới, đòi hỏi các nhà lập pháp, các nhà hoạch định
chính sách phải đổi mới nhiều hơn nữa không chỉ về nội dung của pháp luật,
hệ thống pháp luật mà còn cả quy trình lập pháp, trong đó đảm bảo nguyên
tắc dân chủ để bảo đảm sự tham gia nhiều hơn của các chủ thể trong xã hội,
huy động tối đa sáng kiến, trí tuệ của mọi công dân, tổ chức trong xã hội.
Do đó, nhằm nâng cao nhận thức về nguyên tắc dân chủ trong xây dựng
pháp luật, em lựa chọn chủ đề “Bảo đảm nguyên tắc dân chủ trong xây
dựng pháp luật ở nước ta hiện nay" làm bài thu hoạch kết thúc môn Nhà
nước và pháp luật.
2
2. Nội dung:
2.1. Một số vấn đề chung về nguyên tắc dân chủ và xây dựng pháp luật
2.1.1. Các khái niệm cơ bản
* Khái niệm dân chủ:
Dân chủ (demokratos) là thuật ngữ xuất hiện từ thời Hy Lạp cổ đại, là từ
ghép của hai từ “demos” và “kratos” có nghĩa là “nhân dân’ và “chính quyền”
tạo thành. Dân chủ từng được hiểu là quyền lực nhà nước thuộc về nhân dân
hay nhân dân cai trị. Theo đó, khái niệm dân chủ có thể được giản lược thành
những mệnh đề khác nhau như: tất cả quyền lực thuộc về nhân dân; quyền lực
nhà nước của dân, do dân và vì dân…
Như vậy, có thể hiểu dân chủ là quyền của nhân dân tự mình quyết định
hoặc tham gia với nhà nước quyết định những vấn đề nhất định.
* Khái niệm pháp luật:
Pháp luật là hệ thống những qui tắc xử sự mang tính bắt buộc chung do
nhà nước ban hành hoặc thứa nhận và đảm bảo thực hiện, thể hiện ý chí của
giai cấp thống trị và là nhân tố điều chỉnh các quan hệ xã hội pháp triển phù
hợp với lợi ích của giai cấp mình.
* Khái niệm xây dựng pháp luật:
Đây là một hoạt động đề ra cơ sở pháp lí cho việc tổ chức và hoạt động
của các cơ quan, nhân viên nhà nước, các tổ chức xã hội khác và sự ứng xử của
các cá nhân trong toàn xã hội. Vì vậy có thể hiểu đây là một hoạt động nhằm
đưa ý chí nhà nước lên thành pháp luật. Hoạt động này luôn đòi hỏi tính sáng
tạo, quá trình nhận thức đúng đắn và có tính tổ chức rất chặt chẽ, được diễn ra
theo những quy trình và nguyên tắc nhất định mà hình thức pháp lí của nó chủ
yếu là văn bản quy phạm pháp luật.
Tóm lại, xây dựng pháp luật là gồm nhiều hoạt động của các cơ quan nhà
nước có thẩm quyền, các cá nhân được Nhà nước trao quyền, có mối quan hệ chặt
3
chẽ với nhau, theo những trình tự thủ tục luật định nhằm chuyển hóa ý chí của giai
cấp cầm quyền và ý chí chung của toàn xã hội thành các quy định pháp luật.
Khái niệm nguyên tắc xây dựng pháp luật:
Nguyên tắc xây dựng pháp luật là những tư tưởng chỉ đạo phản ánh khái
quát những sự việc khách quan liên quan đến quá trình nâng ý chí nhà nước
lên thành pháp luật. Đây là những cơ sở quan trọng của toàn bộ quá trình xây
dựng pháp luật, đòi hỏi tất cả các chủ thể tham gia vào quá trình ban hành,
sửa đổi hay bãi bỏ các quy phạm pháp luật phải nghiêm chỉnh tuân theo.
Hoạt động xây dựng pháp luật ở Việt Nam hiện nay được tiến hành theo
các nguyên tắc cơ bản sau: Đảm bảo sự lãnh đạo của Đảng đối với hoạt động
xây dựng pháp luật; Nguyên tắc khách quan, công khai, minh bạch; Nguyên
tắc dân chủ trong xây dựng pháp luật; Nguyên tắc pháp chế trong xây dựng
pháp luật; Nguyên tắc lôgic và khoa học.
2.1.2. Cơ sở, nội dung, nội dung và tầm quan trọng của nguyên tắc dân
chủ trong xây dựng pháp luật
* Cơ sở của nguyên tắc dân chủ trong xây dựng pháp luật:
Nhà nước xã hội chủ nghĩa là nhà nước mang bản chất giai cấp công
nhân, đại diện cho lợi ích và ý chí của nhân dân lao động. Đảng ta đã khẳng
định, Đảng Cộng sản Việt Nam mang bản chất giai cấp công nhân, đồng thời
là đại biểu trung thành cho lợi ích của nhân dân lao động và của cả dân tộc.
Nhà nước ta là nhà nước của dân, do dân, vì dân. Trong chế độ, nhà nước dân
chủ, quần chúng nhân dân là người làm chủ. Quyền lực, lợi ích thuộc về nhân
dân, sức mạnh và quyền lực đều nằm trong dân. Đó chính là cơ sở chính trị
chứng tỏ dân chủ là nguyên tắc cơ bản trong hoạt động xây dựng pháp luật.
Cơ sở pháp lí của nguyên tắc dân chủ trong hoạt động xây dựng pháp
luật được quy định tại Hiến pháp năm 2013. Cụ thể như: Điều 28 quy định:
Công dân có quyền tham gia quản lý nhà nước và xã hội, tham gia thảo luận
4
và kiến nghị với cơ quan nhà nước về các vấn đề của cơ sở,địa phương và cả
nước. Nhà nước tạo điều kiện để công dân tham gia quản lý nhà nước và xã hội;
công khai, minh bạch trong việc tiếp nhận, phản hồi ý kiến, kiến nghị của công
dân: Điều 29 quy định: Công dân đủ mười tám tuổi trở lên có quyền biểu
quyết khi Nhà nước tổ chức trưng cầu ý dân.
* Nội dung, ý nghĩa của nguyên tắc dân chủ trong xây dựng pháp luật:
Nguyên tắc này đảm bảo sự tham gia của động đảo các tầng lớp nhân
dân vào hoạt động xây dựng pháp luật nhằm làm cho pháp luật thể hiện được
ý chí, nguyện vọng của các thành viên trong xã hội. Mặt khác nó cho phép
phát huy được trí tuệ của đông đảo các tầng lớp nhân dân trong xã hội vào
hoạt động xây dựng pháp luật đồng thời cũng góp phần nâng cao hơn ý thức
pháp luật của người dân.
Nguyên tắc dân chủ trong hoạt động xây dựng pháp luật có ý nghĩa vô
cùng quan trọng trong việc củng cố, nâng cao vị trí, vai trò của pháp luật
trong đời sống, nhà nước và xã hội. Pháp luật đã và đang là cơ sở pháp lí
vững chắc cho việc tổ chức và hoạt động của bộ máy nhà nước, ghi nhận và
đảm bảo tất cả các quyền lực nhà nước thuộc về nhân dân, mở rộng nền dân
chủ xã hội chủ nghĩa, thực hiện quyền làm chủ của nhân dân. Hoạt động xây
dựng pháp luật dựa trên nguyên tắc dân chủ sẽ nâng cao ý thức pháp luật của
người dân, mỗi lần xây dựng pháp luật người dân sẽ tích lũy cho mình một
lượng kiến thức về pháp luật nhất định, sẽ làm cho pháp luật đi sâu vào tiềm
thức của người dân, để pháp luật trở nên có hiệu lực.
* Tầm quan trọng của nguyên tắc dân chủ trong xây dựng pháp luật:
Thứ nhất, nguyên tắc dân chủ của xây dựng pháp luật bắt nguồn từ đời
sống thực tiễn của mọi người dân. Pháp luật sinh ra không những phải thể
hiện được ý chí của nhân dân, của Nhà nước mà còn phải trở thành một công
cụ điều tiết hợp lý mọi mặt, mọi mối quan hệ của đời sống xã hội. Nó vừa quy
5
định nghĩa vụ pháp lý, vừa bảo vệ quyền, lợi ích hợp pháp của mỗi công dân.
Đồng thời, nó còn gián tiếp tác động vào đời sống của nhân dân thông qua
việc bản thân nó quy định về các vấn đề trọng đại của đất nước. Như vậy,
pháp luật vừa tác động trực tiếp, vừa tác động gián tiếp tới đời sống của nhân
dân. Do đó việc dân chủ trong xây dựng pháp luật chính là nhu cầu tất yếu
của mọi người dân để có thể tự bảo vệ chính mình.
Thứ hai, nguyên tắc này còn xuất phát từ bản chất xã hội và giai cấp của
pháp luật trong Nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa. Và việc xây dựng
pháp luật chính là một trong những vấn đề chung, quan trọng mà điều luật của
đất nước. Do vậy, việc tham gia của nhân dân vào xây dựng pháp luật không
chỉ là nhu cầu của người dân mà còn là quyền và lợi ích hợp pháp được Nhà
nước bảo vệ và ghi nhận trong các văn bản quy phạm pháp luật đã ban bố.
Thứ ba, nguyên tắc này xuất phát từ tính hợp lý của pháp luật. Pháp luật
ra đời từ chính nhu cầu thiết yếu của đời sống xã hội. Nó không thể chỉ là sản
phẩm của những người ngồi bàn giấy, những nhà lập pháp xa rời dân chúng.
Nếu như vậy thì thật sự có lẽ pháp luật cũng chẳng hơn gì những tờ giấy
không hồn vứt đi, không thể đi sâu vào trong đời sống. Pháp luật nếu không
có sự tham gia của nhân dân, không gắn với thực tế thì sẽ chỉ là pháp luật chủ
quan duy ý chí của giai cấp cầm quyền, lãnh đạo áp đặt vào thực tại khách
quan của xã hội mà thôi. Điều này thực sự sẽ đưa lại những hậu quả vô cùng
nặng nề mà chủ thể phải gánh chịu không phải chỉ đơn thuần là một cá nhân
cụ thể nào đó, hậu quả đó sẽ giáng thẳng xuống cả đất nước, dân tộc ta.
Thứ tư, nguyên tắc dân chủ góp phần nâng cao hơn nữa ý thức pháp luật
của nhân dân. Khi chủ động tham gia vào việc xây dựng pháp luật, nhân dân
sẽ có thể hiểu hơn về những khó khăn của Nhà nước trong quản lý xã hội.
Đồng thời nhân dân còn biết và hiểu về những nghĩa vụ mà mình phải làm,
biết vì sao nghĩa vụ đó lại tồn tại và cách thức để thực hiện được nghĩa vụ đó.
6
Khi đã hiểu biết được thì người dân mới có thể tự giác chấp hành, tuân thủ
theo những quy định của pháp luật. Hơn nữa, như đã nói ở trên, pháp luật do
nhân dân xây dựng ra nên sẽ sát với cuộc sống thật, phù hợp với khả năng
thực hiện, nguyện vọng của nhân dân.
2.2. Việc thực hiện nguyên tắc dân chủ trong xây dựng pháp luật ở
nước ta hiện nay
2.2.1. Những kết quả đạt được:
Ở nước ta hiện nay, nhân dân có thể tham gia trực tiếp hoặc gián tiếp
vào hoạt động xây dựng pháp luật qua các hình thức như: trưng cầu dân ý,
tham gia góp ý kiến và trả lời khi được hỏi để xây dựng các văn bản quy
phạm pháp luật, các bộ luật, đạo luật…
* Việc góp ý của nhân dân cho các dự án pháp luật:
Việc lấy ý kiến của nhân dân vào các dự án pháp luật đã được Nhà nước
ta tổ chức ra từ lâu và được quy định cụ thể tại Điều 6, Luật Ban hành văn bản
quy phạm pháp luật năm 2015. Đây chính là một hoạt động nằm trong chuỗi
lập pháp của Nhà nước, các nhà làm luật và các cơ quan có thẩm quyền tổ
chức ra để nhằm mục đích tạo điều kiện cho nhân dân cùng tham gia thảo
luận, đóng góp ý kiến cho các dự thảo để xây dựng pháp luật. Bên cạnh đó,
thông qua việc làm này, Nhà nước và các nhà làm luật cũng muốn thu thập và
nghe ý kiến của đông đảo các tầng lớp nhân dân về những điều luật mà mình
đã thảo ra để xem nó có phù hợp với thực tại hay không.
Hiện nay nhân dân có thể dễ dàng tham gia đóng góp trực tiếp hoặc gián
tiếp vào việc xây dựng pháp luật. Nhân dân có thể thông qua các tổ chức xã
hội mà mình là thành viên, thông qua các đại biểu trong các cơ quan quyền
lực đại diện cho ý chí, nguyện vọng nhân dân để nói lên tiếng nói của mình.
Các đại biểu có trách nhiệm sẽ thường xuyên liên hệ với cử tri để nắm bắt ý
dân và tại cơ quan quyền lực nhà nước, khi các dự án được đem ra thảo luận,
7
xem xét sẽ phát biểu ý kiến. Đó không chỉ là ý kiến cá nhân, nhân danh chính
mình mà đó còn là ý kiến chung, phản ánh ý kiến cử tri.
Bên cạnh đó người dân có thể đóng góp trực tiếp ý kiến của mình và
tham gia thảo luận các dự thảo qua các trang website mà Nhà nước ta tổ chức
ra để thu thập ý kiến nhân dân như trang duthaoonline.quochoi.vn của Quốc
hội hoặc của Chính phủ và các mục lấy ý kiến nhân
dân về các văn bản quy phạm pháp luật của các Bộ. Ngoài ra, người dân có
thể tham gia các diễn dàn để thảo luận về các vấn đề pháp lý, các nội dung
chính sách và tìm hiểu những thông tin cơ bản về quy trình lập pháp của nước
ta. Ở đây, những người quan tâm có thể dễ dàng truy cập, tải toàn văn, và xem
các bản dự thảo mới nhất, đồng thời xem được các luồng ý kiến xung quanh
đó. Các ý kiến đóng góp sẽ được Trung tâm Thông tin, Thư viện và Nghiên
cứu khoa học tập hợp, tổng hợp và báo cáo lại để nghiên cứu trong xây dựng
và chỉnh lý dự thảo văn bản. Có thể nói đây là một bước tiến mới, một hình
thức mới thuận lợi mà công nghệ thông tin đem lại cho chúng ta.
* Việc trưng cầu dân ý trong xây dựng pháp luật:
Trưng cầu dân ý chính là khả năng Nhà nước tạo điều kiện cho nhân dân
quyết định các vấn đề trọng đại của quốc gia và một trong những vấn đề trọng
đại đó chính là vấn dề mà chúng ta đang đề cập tới ở đây - vấn đề xây dựng
pháp luật. Đây là hình thức dân chủ trực tiếp và ý kiến của nhân dân mang ý
nghĩa quyết định.
Xét về lịch sử lập hiến, chế định về trưng cầu ý dân đã được ghi nhận
trong tất cả các Hiến pháp của chúng ta. Hiến pháp 1946 quy định về quyền
phúc quyết của nhân dân tại Điều thứ 32. Hiến pháp 1959 quy định Uỷ ban
Thường vụ Quốc hội có thẩm quyền quyết định việc trưng cầu ý kiến nhân dân
tại Điều 53. Hiến pháp 1980 quy định Hội đồng Nhà nước có thẩm quyền quyết
định việc trưng cầu ý kiến nhân dân tại Điều 100. Hiến pháp 1992, tại Điều 53
8
tiếp tục quy định về quyền biểu quyết của công dân khi Nhà nước tổ chức trưng
cầu ý dân. Điều 29, Hiến pháp năm 2013 quy định: “Công dân đủ mười tám
tuổi trở lên có quyền biểu quyết khi Nhà nước tổ chức trưng cầu ý dân”.
Ngày 25 tháng 11 năm 2015, Quốc hội đã ban hành Luật Trưng cầu ý
dân 2015 với những quy định cụ thể về việc trưng cầu ý dân; nguyên tắc trưng
cầu ý dân; nhiệm vụ, quyền hạn của cơ quan, tổ chức trong trưng cầu ý dân;
trình tự, thủ tục quyết định việc trưng cầu ý dân và tổ chức trưng cầu ý dân;
kết quả và hiệu lực của kết quả trưng cầu ý dân.
Với những quy định đó, ta có thể thấy nguyên tắc dân chủ ở nước ta đã
phần nào được thực hiện. Nhà nước đã tạo điều kiện cho nhân dân có thể
tham gia góp ý vào việc xây dựng pháp luật. Đồng thời, hệ thống pháp luật
nước ta đang dần dần được Đảng và Nhà nước từng bước hoàn thiện để đáp
ứng nhu cầu của nhân và giúp nhân dân phát huy quyền làm chủ của mình.
2.2.2. Một số tồn tại, hạn chế
Bên cạnh những thành tựu đạt được, việc thực hiện nguyên tắc dân chủ
trong xây dựng pháp luật ở nước ta vẫn còn những tồn tại, hạn chế nhất định.
Đôi khi dân chủ trong lập pháp nước ta còn là dân chủ hình thức. Cùng với đó
nhân dân ta hiện giờ vẫn còn chưa nhận thức được việc tham gia xây dựng
pháp luật là thiết yếu, trình độ pháp lý, hiểu biết cũng chưa cao. Việc tham gia
đó mang tính chất còn rất thụ động. Hơn nữa trong quá trình xây dựng pháp
luật, bên cạnh ý kiến của nhân dân, một số phần tử cơ hội, phản động còn lợi
dụng để chĩa mũi nhọn vào hệ thống pháp luật nước ta và đưa ra luồng ý kiến
xuyên tạc khiến nhân dân hiểu lầm. Trong đời sống xã hội, nhiều nơi tính dân
chủ không được đảm bảo, vẫn còn nhiều sai phạm xảy ra, còn những ý kiến
đóng góp của người dân không được để ý và giải quyết. Nguyên tắc dân chủ
sẽ không được đảm bảo nếu như các sai sót này không được chú ý và giải
quyết, sẽ gây ảnh hưởng đến hoạt động xây dựng pháp luật, dẫn đến pháp luật
không nói lên ý chí, nguyện vọng của nhân dân.
9
Trong thực tế hiện nay còn không ít xã, phường, thị trấn cán bộ lãnh đạo
chưa thực hiện đúng nguyên tắc dân chủ trong hoạt động xây dựng pháp luật
như trưng cầu ý kiến, ý kiến, góp ý của nhân dân. Điều đó làm ảnh hưởng
không nhỏ đến chức năng, uy tín của các cán bộ xã, phường, thị trấn đối với
cá nhân. Không ít các trường hợp các cơ quan có thẩm quyền chưa thông báo
công khai các hoạt động trưng cầu ý dân, xây dựng pháp luật, dẫn đến tình
trạng người dân hoàn toàn không biết về các hoạt động đó, làm cho người dân
bị động, thiếu an tâm, giảm sút tính dân chủ trong nhân dân. Đến khi người
dân có vi phạm pháp luật hay có trách nhiệm pháp luật cũng không biết mình
nên làm gì và phải làm như thế nào.
Ngoài ra, cho đến nay mặc dù đã ban hành Luật Trưng cầu ý dân 2015,
nhưng Nhà nước ta vẫn chưa từng tổ chức trưng cầu ý dân. Hình thức dân chủ
trực tiếp quan trọng này vẫn còn xa lạ với đời sống chính trị - pháp lý của
nước ta, nó chỉ mang tính chất sách vở, lý thuyết.
2.3. Một số giải pháp nhằm đảm bảo nguyên tắc dân chủ trong xây
dựng pháp luật ở nước ta hiện nay
Thứ nhất, bảo đảm sự tham gia của các cơ quan, tổ chức, cá nhân thông
qua việc cho ý kiến đối với dự án, dự thảo văn bản quy phạm pháp luật. Trong
quá trình xây dựng, ban hành văn bản quy phạm pháp luật, các cơ quan nhà
nước cần phải lấy ý kiến, lắng nghe ý kiến của người dân để bàn bạc, nghiên
cứu tiếp thu nhằm làm cho các chính sách được đề xuất sau khi được luật hóa
sẽ phù hợp và đáp ứng được yêu cầu của cuộc sống. Sự tham gia này là một
trong những điều kiện quan trọng và không thể thiếu giúp bảo đảm tính khả
thi của văn bản trong thực tiễn thi hành, bảo đảm pháp luật sát dân, gần dân,
phản ánh được ý chí, nguyện vọng của đông đảo quần chúng nhân dân góp
phần bảo đảm hài hòa các quyền, lợi ích trong xã hội.
Thứ hai, bảo đảm quyền tiếp cận văn bản quy phạm pháp luật của các cơ
quan, tổ chức, cá nhân sau khi văn bản được ban hành. Sau khi văn bản quy
10
phạm pháp luật được thông qua hoặc ký ban hành, cơ quan nhà nước, người
có thẩm quyền có trách nhiệm thực hiện một số hoạt động như: công bố văn
bản quy phạm pháp luật; đăng Công báo; đăng tải văn bản quy phạm pháp
luật trên Cơ sở dữ liệu quốc gia về pháp luật và đưa tin trên phương tiện
thông tin đại chúng. Các hoạt động nêu trên là hết sức quan trọng, để bảo đảm
công khai văn bản với người dân, giúp mọi người biết được quyền, nghĩa vụ
của mình để thực hiện cho đúng pháp luật.
Thứ ba, đào tạo, bồi dưỡng đội ngũ cán bộ, công chức chuyên nghiệp và
chuyên môn hóa, thành thạo nghiệp vụ, am hiểu pháp luật, có thái độ tận tụy
và khả năng sáng tạo trong những nhiệm vụ được giao, giữ nghiêm kỉ luật và
quy chế trong khi đang thi hành công vụ, gương mẫu trong quan hệ và ứng xử
với nhân dân theo chuẩn mực của văn hóa pháp luật và văn hóa dân chủ.
Thứ tư, xây dựng cơ chế thực hiện dân chủ và thực hiện nguyên tắc dân
chủ trong hoạt động xây dựng pháp luật trong đời sống cộng đồng, cần cụ thể
hóa nguyên tắc dân chủ trong nghị quyết, nghị định có hiệu lức pháp lí. Tiếp
tục nghiên cứu, phân cấp quản lí, tránh tình trạng chồng tréo nhiệm vụ và
thẩm quyền.
Thứ năm, nâng cao dân trí trong xã hội, mở rộng các kênh truyền thông
về pháp luật, cần có chủ trưởng triển khai các cuộc vận động, tuyên truyền
một cách cụ thể về nguyên tắc dân chủ trong hoạt động xây dựng pháp luật.
Đồng thời, tăng cường lấy ý kiến nhân dân trong các dự thảo văn bản pháp
luật. Như vậy, ý chí và nguyện vọng của nhân dân mới thực hiện được rõ rệt,
từ đó Nhà nước mới có thể vì nhân dân phục vụ tốt hơn.
3. Kết luận
Trong đời sống xã hội của hiện nay, pháp luật đã trở thành một công cụ
thiết yếu và không thể thiếu của mọi nhà nước để quản lý, duy trì trật tự, an
toàn xã hội. Chính vì thế việc xây dựng hệ thống pháp luật đã trở thành một
11
nhiệm vụ quan trọng của mỗi quốc gia. Đặc biệt là đối với các nước xã hội
chủ nghĩa như Việt Nam hiện nay, việc xây dựng pháp luật không những phải
chặt chẽ mà còn phải đảm bảo được nguyên tắc cơ bản là dân chủ.
Trong những năm qua, nguyên tắc dân chủ trong xây dựng pháp luật ở
nước ta đã phần nào được thực hiện. Nhà nước đã tạo điều kiện cho nhân dân
có thể tham gia góp ý vào việc xây dựng pháp luật. Đồng thời với đó hệ thống
pháp luật nước ta đã dần được Đảng và Nhà nước ta từng bước được hoàn
thiện hơn nữa để đáp ứng nhu cầu của nhân và giúp nhân dân phát huy quyền
làm chủ của mình.
Tóm lại, việc áp dụng nguyên tắc dân chủ vào hoạt động xây dựng pháp
luật là vô cùng quan trọng để đảm bảo quyền tự do, phát huy vị thế làm chủ
của nhân dân trong thời đại mới bởi pháp luật chính là công cụ quản lý trực
tiếp ảnh hưởng đến đời sống của họ. Đối với nhà nước Cộng hoà xã hội chủ
nghĩa Việt Nam, pháp luật không chỉ đơn thuần thể hiện ý chí của nhà nước
mà là ý chí của nhà nước của nhân dân. Do chịu sự tác động của nhiều yếu tố
khách quan khiến quá trình áp dụng nguyên tắc dân chủ ở nước ta còn tồn tại
nhiều bất cập, nhưng đây sẽ là một nhiệm vụ quan trọng trong những năm sắp
tới của không chỉ các cấp chính quyền mà còn của nhân dân để có thể xây
dựng một Nhà nước Cộng hoà cã hội chủ nghĩa Việt Nam trong tương lai thật
sự dân chủ, thật sự là nhà nước “ của dân, do dân và vì dân”./.