Tải bản đầy đủ (.doc) (56 trang)

Thuyet minh cheatomium 18 6 20011

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (335.26 KB, 56 trang )

Phụ lục II
MẪU THUYẾT MINH NHIỆM VỤ NGHỊ ĐỊNH THƯ
(Ban hành kèm theo Quyết định số 14/2005/QĐ-BKHCN, ngày 08/9/2005
của Bộ trưởng Bộ Khoa học và Công nghệ)
THUYẾ T MINH NHIỆM VỤ HỢP TÁC QUỐC TẾ VỀ KHOA HỌC
VÀ CÔNG NGHỆ THEO NGHỊ ĐỊNH THƯ (*)
I. THÔNG TIN CHUNG VỀ NHIỆM VỤ
1

Tên nhiệm vụ

2

Mã số

Nghiên cứu sản xuất chế phẩm Chaetomium trừ nấm gây
bệnh trên cây chè, cà phê và cao su
3

Thời gian thực hiện 36 tháng

4

(Từ tháng 01/2012 đến tháng 12/2014)

Cấp quản lý
NN Bộ,
CS
Tỉn
h


5

Thuộc Chương trình, Đề tài độc lập cấp nhà nước (nếu có)
Chương trình Công nghệ sinh học Nông nghiệp
6
Thuộc Nghị định thư với (nước):
Thái Lan
Khóa họp ..... ngày..... tháng ..... năm ..... tại ....
7
Họ tên chủ nhiệm phía Việt Nam:
Lê Quốc Doanh
• Học hàm, học vị, chuyên môn : PGS., TS., Nông nghiệp
• Chức danh khoa học: Nghiên cứu viên chính.
.
• Điện thoại cơ quan: 02103. 732288
• Điện thoại nhà riêng: 043.7843837
• Điện thoại di động: 0913.234754
• E mail:

• Địa chỉ cơ quan: Xã Phú Hộ - Thị xã Phú Thọ - Tỉnh Phú Thọ.
• Địa chỉ nhà riêng: Số nhà 6 - Ngõ 204 – Đường Trần Duy Hưng – TP. Hà Nội.
8
Cơ quan chủ trì Việt Nam:
• Cơ quan chủ trì: Viện khoa học kỹ thuật nông lâm nghiệp miền núi phía Bắc.
• Địa chỉ:
Xã Phú Hộ - Thị xã Phú Thọ - Tỉnh Phú Thọ.
• Điện thoại:
02103. 732288
• Fax:
0210. 865931

• Email:

• Website:
www.nomafsi.com.vn

1


Họ và tên chủ nhiệm đối tác nước ngoài: Kasem Soytong.
9
• Học hàm, học vị, chuyên môn: GS. TS
• Chức danh khoa học: Assoc. President, Agricultural Technology in Southeast Asia
Association (AATSEA).
Biocontrol Reseach Unit and Mycology Section, Faculty of Agricultural Technology,
King’s Mongkut’s Institute of Technology Ladkrabang (KMITL), Bangkok, Thailand.
• Điện thoại cơ quan:
• Điện thoại nhà riêng:
• Điện thoại di động:
(66) 818304766
• Email:

• Tóm tắt lý lịch khoa học của đối tác (có thể có phụ lục kèm theo):
10 Cơ quan đối tác nước ngoài: King’s Mongkut’s Institute of Technology, Thái
• Địa chỉ:
Ladkrabang, Bangkok,Thailand.
• Điện thoại:
• Fax:
• Email:
• Website:
• Tóm tắt về năng lực khoa học và công nghệ của cơ quan đối tác nước ngoài (có thể có

phụ lục kèm theo):
1
2
3

11

Xuất xứ thỏa thuận đã có với đối tác nước ngoài:
Thời gian ký kết thoả thuận:
23/05/2011
Cấp ký kết thoả thuận: Viện
Các nội dung thoả thuận chính:

3.1

Trao đổi kỹ thuật viên phòng thí nghiệm giữa hai bên.

3.2

Đẩy mạnh sản xuất và chứng nhận nông nghiệp sạch và nông nghiệp hữu cơ.

3.3
3.4

Trao đổi thông tin và các vật liệu mà hai bên quan tâm.
Phụ cấp, phí đi lại và ăn ở sẽ được cung cấp thông qua hợp tác nghiên cứu cho các
tổ chức quốc tế và các quỹ liên quan. Cả hai bên cam kết cùng nỗ lực tìm kiếm sự
hỗ trợ ở mỗi bên.

II. NỘI DUNG KHOA HỌC VÀ CÔNG NGHỆ CỦA NHIỆM VỤ

12

Mục tiêu của Nhiệm vụ

1

- Sản xuất được chế phẩm sinh học Chaetomium cho Việt nam trên cơ sở công
nghệ Thái Lan phục vụ sản xuất nông nghiệp sạch và bền vững.

2

- Đào tạo đội ngũ cán bộ kỹ thuật nắm vững và khai thác có hiệu quả công nghệ
được chuyển giao.

3

- Phòng trừ một số loài nấm bệnh hại chính từ đó góp phần tăng năng suất, chất
lượng đối với chè, cà phê và cao su phục vụ tiêu dùng và xuất khẩu.

13

Tình hình nghiên cứu ở trong nước
2


• Tình trạng nhiệm vụ
Mới
Kế tiếp nhiệm vụ đã kết thúc giai đoạn trước
Tổng quan tình hình nghiên cứu ở trong nước thuộc lĩnh vực của nhiệm vụ (thể hiện sự hiểu biết
cần thiết của tổ chức, của chủ nhiệm về lĩnh vực nghiên cứu, nắm được những công trình nghiên

cứu có liên quan đến nhiệm vụ, những kết quả nghiên cứu mới nhất trong lĩnh vực nghiên cứu của
nhiệm vụ ở trong nước):
• Liệt kê danh mục các công trình nghiên cứu trong nước có liên quan (theo trình tự thời gian mới
nhất):
• Nêu và đánh giá về những khó khăn đang gặp phải trong quá trình nghiên cứu về lĩnh vực
nghiên cứu của Nhiệm vụ ở trong nước (về bí quyết công nghệ, về trang thiết bị để phân tích mẫu,
về thời gian, ...):

Ứng dụng các biện pháp sinh học (BPSH) trong sản xuất nông nghiệp nói chung và
phòng trừ dịch hại cây trồng nói riêng đang dần khẳng định vai trò và ưu thế bởi sản xuất
nông nghiệp hiện nay đang hướng tới nền sản xuất bền vững và an toàn, tạo ra các sản
phẩm sạch đảm bảo sức khỏe con người và môi trường.
Trong ¼ thế kỷ qua việc nghiên cứu ứng dụng BPSH trừ hại dịch nông nghiệp nhận
được sự quan tâm xúc tiến của nhiều nhà khoa học và nhiều cơ quan chức năng. Các
nghiên cứu này chủ yếu tập trung vào các BPSH phòng trừ sâu hại: Nghiên cứu khu hệ
thiên địch của sâu hại, đánh giá vai trò của thiên địch trong hạn chế số lượng sâu hại;
Nghiên cứu sinh học, sinh thái học của một số loài thiên địch phổ biến; Nghiên cứu sử
dụng ong mắt đỏ...Nghiên cứu và sản xuất chế phẩm (Bt) để trừ sâu hại, các chế phẩm
phòng trừ virus, nấm, vi khuẩn còn rất hạn chế (Phạm Văn Lầm 1995; Trung tâm đấu tranh
sinh học, 1996). Các chế phẩm này chủ yếu được nhập nội từ Trung Quốc (Theo số liệu
danh mục đăng ký thuốc BVTV- Cục BVTV 2004) [11].
Ở nước ta, Bacillus thuringiensis (Bt) được bắt đầu nghiên cứu từ những năm 80. Một
số cơ quan khoa học như như viện công nghệ sau thu hoạch, Viện Công nghệ sinh học,
Viện công nghiệp thực phẩm, Viện Di truyền nông nghiệp đã tập trung phân lập các chủng
B. thuringiensis (Bt) từ các nguồn tự nhiên và nhập nội. Công trình nghiên cứu công nghệ
lên men sản xuất một số chủng B. thuringiensis (Bt) phân lập ở Việt Nam cho thấy: Phần
lớn các chủng B. thuringiensis (Bt) ở Việt Nam mang các gen cryl, cry2 và cry5. Đặc biệt
có chủng B. thuringiensis mang bào tử, tinh thể hình quả trám nhưng lại không mang các
nhóm gen Cry này, và cũng không có hoạt lực diệt sâu ... Cũng tác giả Nguyễn Thùy Châu
(2004), đã nghiên cứu thành công công nghệ sản xuất chế phẩm sinh học B. thuringiensis

dạng bột để phòng trừ côn trùng bọ cánh cứng và cánh vảy hại nông sản bảo quản và nông
sản ngoài đồng. Chế phẩm B. thuringiensis đã được ứng dụng và có hiệu lực diệt từ 7580% ở kho thóc và ngô của chi cục dự trữ quốc gia Bắc Thái Thái Bình. Chế phẩm cũng đã
được áp dụng để phòng trừ côn trùng như sâu tơ, sâu khoang, sâu xanh trên các loại rau,
sâu bông trên cây bông, sâu cuốn lá trên cây lúa, sâu hàm nhai, rầy xanh và bọ cánh tơ trên
cây chè. Hiệu quả diệt sâu của chế phẩm đạt từ 80-95% đối với từng loại sâu khác nhau.
Phạm Thị thùy (2001) ở Viện BVTV đã nghiên cứu và triển khai thành công chế phẩm
trừ côn trùng trên cây dừa, hiệu quả phòng trừ lên đến 90-95%. Gần đây nhất cũng tác giả
Phạm Thị Thùy (2005) đã đưa ra một chế phẩm vi nấm Metarhizium để phòng trừ mối,
hiệu quả cao tới 90-95%.
Cho đến nay, tác nhân sinh học trừ bênh hại được nghiên cứu nhiều hơn cả là nhóm
nấm đối kháng (NĐK) Trichoderma. Việc nghiên cứu nấm Trichoderma được bắt đầu từ
3


năm 1988 tại Viện Bảo vệ thực vật. Kết quả của một số thí nghiệm trong phòng và thí
nghiệm chậu vại cho thấy có thể sản xuất nấm Trichoderma để sử dụng trong phòng trừ
nấm Corticium sakii gây bệnh khô vằn hại lúa và nầm S. rofsii gây nên bệnh héo lạc (Lê
Minh Thi và cs, 1989) [16]. Năm 1990, với sự tài trợ của chương trình VNM 8910-030
(của tổ chức Bánh mỳ thế giới) Viện BVTV đã triển khai đề tài nghiên cứu sử dụng nấm
Trichoderma để phòng trừ một số loài nấm bệnh hại cây trồng nông nghiệp. Trần Thị
Thuần đã điều tra thu thập được 10 nguồn nấm Trichoderma và cũng chính tác giả đã đề
xuất quy trình sản xuất và sử dụng chế phẩm nấm Trichoderma để phòng trừ một số loài
nấm bệnh hại cây trồng ở quy mô thủ công, sừ dụng các loại phế liệu như bã mía, cám gạo
bã đậu phụ [18],... Chế phẩm sản xuất được vừa là chế phẩm sinh học trừ nấm, vừa là
nguồn phân bón sinh học, liều lượng bón 80 kg/ha. Thời gian bảo quản tối đa không được
quá 9 tháng (1999). Về sau, chế phẩm này cũng đã được Trần Thị Thuần và cs cải tiến quy
trình sản xuất cho chất lượng và khả năng phòng chống cao hơn (2004). Chế phẩm này đã
được ứng dụng vào thực tiễn sản xuất, có khả năng phòng trừ một số bệnh như khô vằn hại
ngô (giảm được 51,3 - 59,8% bệnh), những nơi sử dụng chế phẩm đã giảm được lượng
thuốc BVTV hóa học, đã giảm được đầu vào của sản xuất góp phần bảo vệ môi trường và

sức khỏe của người sản xuất [8].
Chế phẩm sinh học trừ nấm Ketomium của Thái Lan được sản xuất từ các chủng
Chaetomium globosum và Chaetomium cupreum tỏ ra có hiệu lực rất cao trong phòng trừ
nhiều loại nấm bệnh hại cây trồng trong đất (Soilborn disease) và có hiệu quả cả với một số
loại nấm bệnh hại lan truyền qua không khí (airborn disease).
Ở Việt Nam, nấm đối kháng Chaetomium lần đầu tiên được nghiên cứu ở Viện Di
truyền nông nghiệp vào năm 1999. Các nghiên cứu, tìm kiếm, định danh các loài
Chaetomium đã được thực hiện. Sau khi đã phân lập và định danh được 4 loài
Chaetomium, các nghiên cứu thử khả năng đối kháng của 2 loài Chaetomium globosum và
Chaetomium cupreum đã được thực hiện trong phòng thí nghiệm, chúng tỏ ra có khả năng
đối kháng cao với với nhiều loại nấm bệnh hại như: Curvularia lunata, Fusarium
olucopersici, Sclerotium rolfsii, Pyricularia oryzae, P. palmyvora, P. Parasitica,
Colletotrichum gloeosporioides [8].
Năm 2002-2003 Viện Di truyền nông nghiệp đã sản xuất thử thành công chế phẩm trừ
nấm sinh học từ các chủng Chaetomium được tìm thấy ở Việt Nam, với tên là Chae VDT
và đã tiến hành thử hiệu lực chế phẩm trừ nấm sinh học này lên một số loài cây trồng như:
Cam Canh, Thông, hoa Hồng và hoa Cúc, Cà Chua [8].
Khi nghiên cứu ứng dụng nấm Chaetomium để sản xuất chế phẩm vi sinh Bảo vệ thực
vật phòng chống các bệnh nấm hại, Lê Ánh Hồng (2005) cho biết, ngoài Chaetomium và
Trichoderma còn có những loài NĐK khác cũng có hiệu quả phòng trừ nhiều loại nấm
bệnh hại trên cây trồng nông nghiệp. Việc tìm và phân loại chúng rất cần thiết để làm tăng
thêm bộ sưu tầm và hiểu biết hơn về sự đa dạng của vi sinh vật đối kháng (VSVĐK) ở Việt
Nam để có thể sử dụng sự đa dạng của VSVĐK trong sản xuất các chế phẩm sinh học bền
vững trong phòng chống bệnh hại cây trồng [8].
Nghiên cứu về nấm bệnh gây hại trên cây Cao su:
Cây cao su được du nhập vào Việt Nam từ năm 1897 bằng giống nhập từ Indonesia về
trồng tại Bến Cát - Bình Dương, Diên Khánh - Khánh Hoà và vườn thực vật Huế, sau thời
gian thử nghiệm, năm 1906 – 1907 hình thành các đồn điền có quy mô ở Đông Nam Bộ,
4



đánh dấu giai đoạn sản suất lớn của ngành cao su Việt Nam. Cao su đến Tây Nguyên năm
1923 và phát triển mạnh trong giai đoạn 1960- 1962 [6].
Hiện nay, ở nước ta, chính phủ có chủ trương phát triển nhanh cây cao su ra các vùng
ít thuận lợi (Tây Nguyên, miền Trung, miền Bắc) và tập trung ở khu vực tiểu điền như một
loại cây trồng đa mục tiêu. Từ 1976, Viện Nghiên cứu Cao su đã bắt đầu chương trình cải
tiến giống cao su, từ năm 1981 đến nay đã liên tục đưa ra các giống mới cải tiến và khuyến
cáo cơ cấu giống tiến bộ trong sản xuất. Các tiến bộ về giống cao su đã đóng vai trò chủ
lực trong việc rút ngắn thời gian KTCB từ 7 – 9 năm xuống còn 6 – 7 năm và đưa năng
suất mủ bình quân từ 800kg/ha ở thập niên 1980 lên năng suất bình quân cả nước đạt
khoảng 1.4 – 1.5 tấn/ha (2005); năng suất bình quân của Tập đoàn Cao su Việt Nam đạt 1.7
tấn/ha trong đó có 78.000 ha đạt năng suất ≥ 2 tấn/ha (2005). Theo thông tấn xã Việt Nam
ra ngày 25/ 08/ 2007: tổng diện tích cao su trong cả nước chiếm khoảng hơn 500.000 ha,
trong đó các tỉnh Đông Nam Bộ có diện tích: 339.000 ha, các tỉnh Tây Nguyên là: 113.000
ha, các tỉnh Bắc Trung Bộ có diện tích là: 41.000 ha, vùng Duyên Hải Nam Trung Bộ là:
6.500 ha [6].
Những bệnh liên quan đến cây cao su ở Việt Nam bắt đầu được nghiên cứu vào năm
1960. Có khoảng 19 loại bệnh ảnh hưởng đến cao su của Việt Nam trong đó một số bệnh
hại phổ biến, có ý nghĩa kinh tế như các bệnh:
- Bệnh xì mủ và loét sọc miệng cạo (Do nấm Phytophthora sp.)
Nấm Phytophthora sp. Còn là nguyên nhân gây các bệnh rụng lá, loét sọc miệng cạo
và sùi thân làm mất mủ cao su.
Giá mủ cao su trên thế giới thường dao động, những thời kỳ giá tăng cao làm cho thị
trường cao su trong nước và xuất khẩu sôi động, vì vậy việc gia tăng cường độ cạo ở các
vườn cao su trong thời kỳ khai thác là một trong những nguyên nhân chủ yếu làm phát sinh
không ít các loại bệnh hại từ đó làm giảm sản lượng mủ, giảm tuổi khai thác của cây...
[22].
Bệnh loét sọc miệng cạo là bệnh phổ biến ở hầu hết các vùng trồng cao su ở nước ta:
Báo cáo của Sở Nông nghiệp và PTNT Tỉnh Thừa Thiên Huế trên trang web ra ngày
24/ 11/ 2008 đã đăng tin: “Trong thời gian qua thời tiết ẩm ướt, thuận lợi cho bệnh loét sọc

miệng cạo phát triển và lây lan, tỷ lệ bệnh phổ biến 3-10%, nơi cao 30% ( Hương BìnhHương Trà, Hương Hoà-Nam Đông).
Theo báo cáo của Chi cục Bảo vệ thực vật tỉnh Bình Phước năm 2008, bệnh loét sọc
miệng cạo gây mất mủ cao su gây hại phổ biến ở tất cả các vùng trồng cao su trong tỉnh,
bệnh gây hại nặng nhất ở các huyện Đồng Phú, Bù Đăng, các vườn bị bệnh nặng tỷ lệ
nhiễm bệnh lên đến 65%, làm giảm 40% năng suất mủ so với các năm trước.
Thông tin của Trung tâm khuyến nông tỉnh Bình Dương (2009) cho biết bệnh loét
sọc miệng cạo xảy ra phổ biến ở vùng mưa nhiều, ẩm độ cao, nhiệt độ thấp. Những khu
vực bị bệnh nặng tỷ lệ nhiễm bệnh lên tới 45 - 50%, vết bệnh xuất hiện trên vết thương và
đường cạo mới của cây cao su khai thác trong mùa mưa. Ban đầu là những sọc đen nhỏ,
thẳng đứng trên mặt cạo, các vết bệnh sẽ liên kết thành sọc lớn, vỏ thối nhủn, mủ và nước
vàng chảy ra có mùi hôi thối. Bên dưới vỏ bệnh có đệm mủ. Bệnh nặng có thể gây chết
một phần hoặc cả mặt cạo. Các giống dễ nhiễm bệnh là: RRIM600, PB 310, PB 255. Biện
pháp phòng trừ là vệ sinh vườn cây sạch cỏ, thông thoáng, làm vệ sinh mặt cạo. Khi cây đã
nhiễm bệnh, xử lý bằng metalaxyl + mancozeb pha ở nồng độ 2%, quét băng rộng 1- 1,5cm
5


trên miệng cạo sau khi thu mủ. Các cây bị bệnh nặng phải cho nghỉ cạo để trừ bệnh.
Theo Phan Thành Dũng (2006), hiện nay ở Việt Nam chưa có dòng cao su vô tính nào
hoàn toàn miễn dịch với các bệnh Phytophthora, một số dòng có khả năng kháng bệnh
như: PB 235, PB 5/51 và một số dòng vô tính RRIC, một số dòng vô tính nhiễm bệnh nặng
như: PB 86, GT 1, PB 310, RRIM 600 [4].
- Bệnh rụng lá mùa mưa (Do nấm Phytophthora sp.)
Theo Chi cục Bảo vệ thực vật Tỉnh Đăk Lăk, năm 2008 bệnh rụng lá mùa mưa gây
hại thành dịch ở một số vùng ở Tây Nguyên, bệnh thường xuất hiện vào mùa mưa. Độ cao
cũng ảnh hưởng đến mức độ nhiễm bệnh, Mang Yang có độ cao trên 650m là nơi bệnh gây
hại nặng hơn các vùng khác. Đây là bệnh chủ yếu gây hại cho cây cao su ở các vùng của
Tây Nguyên.
Triệu chứng đặc trưng nhất là cuống lá có cục mủ màu đen hoặc trắng tại trung tâm
vết bệnh mầu nâu hoặc xám và lá bị bệnh rụng khi còn xanh. Tán lá rụng không ra lại mà

phải đến mùa ra lá sinh lý hàng năm, điều này ảnh hưởng lớn đến quang hợp làm giảm sản
lượng mủ trầm trọng [4].
Theo Đặng Vũ Thị Thanh, Ngô Vĩnh Viễn (2004), ở vùng cao nguyên Nam Trung
Bộ, tỷ lệ bệnh rụng lá khá cao 45% và của bệnh sọc đen là 34%. Bệnh gây hại trong mùa
mưa, bệnh rụng lá ở Đồng Nai và Bình Long thường nguy hiểm hơn so với ở Dầu Tiếng
và Tây Ninh. Sự kết hợp của 2 loại bệnh này hàng năm có thể làm giảm sản lượng cao su
từ 23 - 36,8%. Sử dụng thuốc Ridomil 72 WP và Difolatan có hiệu quả trong phòng trừ
bệnh.
Theo kết quả nghiên cứu của Viện nghiên cứu cao su một số dòng cao su vô tính có
khả năng nhiễm bệnh cao như: GT1, RRIM 600, PR 107, PB 86. Sử dụng dung dịch
Bordeaux 1% (2000-3000lít/ ha), phải xử lý 2 – 4 tuần trước mùa bệnh mới có hiệu quả
giảm bệnh.
- Một số kết quả nghiên cứu chế phẩm sinh học trong phòng trừ bệnh do nấm
Phytophthora gây ra.
Trong những năm gần đây đã có một số công trình nghiên cứu thành công trong sử
dụng nấm đối kháng Trichoderma để phòng trừ một số bệnh hại cây trồng như: chế phẩm
Trichoderma thử nghiệm trên cây rau tại huyện Củ Chi, TP. Hồ Chí Minh của Viện Sinh
học Nhiệt đới, chế phẩm Trichoderma thử nghiệm trên cây xà lách xoong ở Vĩnh Long của
Trường Đại học Cần Thơ, chế phẩm Trichoderma sử dụng trên cây rau của Trường Đại học
Nông Lâm TP. HCM. Chế phẩm Trichoderma hazianum của Viện Bảo vệ thực vật ứng
dụng trong phòng trừ bệnh chết nhanh hồ tiêu do nấm Phytophthora capsici; chế phẩm
Trichoderma spp. phòng trừ bệnh thối quả ca cao do nấm Phytophthora palmivora của
Viện Nông Lâm nghiệp Tây Nguyên [35, 39].
Theo Dương Minh và cộng sự (2003) các chủng nấm Trichoderma spp. được phân
lập từ các vườn trồng cam quýt tại Tiền Giang, Đồng Tháp, Vĩnh Long và Cần Thơ có khả
năng khống chế sự phát triển của nấm Fusarium solani gây bệnh thối rễ cam quýt. Các
chủng Trichoderma spp. có khả năng tiết chitinase (chitinolytic enzym) cao đều đối kháng
tốt với nấm bệnh Fusarium solani gây bệnh thối rễ trên cam quýt.
Phạm Thị Ánh Hồng và cộng sự (2005) đã phân lập được 18 dòng nấm
Trichoderma từ đất trồng các cây lương thực, cây công nghiệp và cây ăn quả của các tỉnh

6


Đồng Nai, Bình Dương, Bình Phước, Tây Ninh, Bà Rịa - Vũng Tàu và TP.Hồ Chí Minh.
Nhóm tác giả cũng đã xác định khả năng sinh tổng hợp enzym của 18 dòng nấm này bằng
phương pháp định tính[8] .
Nguyễn Văn Tuất và Lê Văn Thuyết (2001) đã phát hiện những điểm kí sinh hoặc sự
quấn của sợi nấm đối kháng lên sợi nấm bệnh. Đôi khi còn thấy hiện tượng sợi nấm bị
quăn lại, chết từng đoạn mà không cần có sự ký sinh trực tiếp. Điều này chứng tỏ nấm
Trichoderma có thể tạo ra độc tố có hại cho nấm bệnh. Bên cạnh sự tác động qua lại trong
quần thể nấm đối kháng và nấm bệnh, nấm Trichoderma còn có tác động trực tiếp lên sự
phát triển của cây trồng, do nấm này sản sinh ra các men phân hủy glucose, cellulose trong
hoạt động sống của mình. Nhờ các men này các chất hữu cơ có trong đất được phân hủy
nhanh hơn, làm tăng chất dinh dưỡng dưới dạng dễ hấp thu cho cây trồng, tạo điều kiện
cho cây sinh trưởng và phát triển tốt.
Theo Trần Thị Thuần và cộng tác viên (2004), Trichoderma có thể phát triển và hình
thành bào tử trên môi trường có nhiều cellulose như: bã đậu phụ, lõi ngô, cám gạo, thóc, bã
bia. Đặc biệt trên môi trường bã đậu phụ nấm phát triển tốt nhất với lượng bào tử sản sinh
là 7,5 x 109 bào tử/ g. Tuy nhiên việc bảo quản chế phẩm này rất khó khăn do ẩm độ cao.
Trên môi trường thóc tuy lượng bào tử sản sinh ít hơn, mật độ khoảng 3,2 x 10 9 bào tử/ g
nhưng việc bảo quản dễ dàng hơn. Trong thời gian nhân nuôi, nấm Trichoderma cần có
điều kiện thoáng khí sau khi vô trùng để làm cho môi trường xốp bằng cách lắc để chúng
không kết lại thành mảng. Nếu bị kết mảng bào tử hình thành rất ít thậm chí sợi nấm không
lan vào được [18].
Theo Phạm Ngọc Dung và cộng sự (2007) nấm Trichoderma hazianum có khả năng
ức chế cao đối với sự phát triển của sợi nấm Phytophthora capsici, trên môi trường bằng
phương pháp cấy đối xứng, sợi nấm Phytophthora bị tiêu diệt sau 3 ngày nuôi cấy. Cũng
theo tác giả, một số chủng nấm Trichoderma spp. vừa có khả năng ức chế sự phát triển của
sợi nấm, sự nảy mầm của bào tử Phytophthora đồng thời có khả năng phân hủy tốt một số
loại tàn dư thực vật, hữu dụng trong quá trình ủ phân hữu cơ, cung cấp phân hữu cơ cho

các vườn hồ tiêu [3].
Nghiên cứu về nấm bệnh gây hại trên cây Chè:
Ở nước ta chè được trồng nhiều ở trung du miền núi, tây bắc, tây nguyên. Trong quá
trình sinh trưởng cây chè thường bị nhiều loại bệnh hại. có loại bênh chủ yếu hại búp chè,
lá chè như bệnh phồng lá, bệnh chấm xám, chấm nâu, đốm mắt cua, tảo đỏ. Có loại chỉ hại
thân, nhưng có loại chỉ hại rễ làm cho cây chết khô thường xây ra ở những lô chè lớn tuổi,
trồng ở đất có độ phì cao [15].
Bệnh phồng lá chè (Exobasidium vexans Massee) là bệnh phổ biến gây hại ở nhiều
nước trồng chè trên thế giới, ở Việt Nam, bệnh này gây hại nặng vào thời kỳ từ tháng 2 đến
tháng 5 gây ra những vết bỏng trên búp và lá non, làm thất thu sản lượng chè vụ xuân [15].
Tuy nhiên vài chục năm trở lại đây, bệnh này ít phát sinh thành dịch, trở thành bệnh thứ
yếu, chỉ gây hại ở một số vùng chè gần các hồ nước, nơi có độ ẩm cao [23].
Bệnh chấm nâu (Colletotrichum camelliae Massee) có phổ gây hại rộng trên nhiều
loại cây trồng. Trên lá chè, vết bệnh xuất hiện ở chót lá hoặc rìa lá rồi lan rộng vào phiến lá
biến thành màu nâu. Ở mặt trên của lá có nhiều hạt đen nhỏ nổi lên là những đĩa cành của
nấm gây bệnh. Nấm bệnh phát sinh mạnh ở điều kiện nhiệt độ 27-29 oC. Bệnh ưa nóng ẩm
7


nên thường phát sinh vào tháng 7-8. Sauk hi mưa liên tục 10-15 ngày bệnh phát triển rất
nặng.
Bệnh thối búp chè (Colletotrichum theae Petch.) thường xuất hiện ở lá non, cuống lá
và cành non. Trong vườn ươm, bệnh thường nặng hơn nương chè hái búp.
Bệnh than thư (Gloesporium theae sinensis Migake) gây hại ở tất cả các vùng chè ở
nước ta. Cây chè bị bệnh lá rụng, cây mọc yếu. Trên vết bệnh thường có chấm đen, vết
bệnh có khi rộng cả nửa lá. Bào tử nấm hình thoi, hai đầu hơi nhọn, trong suốt, nhỏ hơn
bào tử nấm đốm nâu [23].
Bệnh hại chè thường diễn biến phức tạp, đặc biệt là bệnh hại ở vườn ươm. Tuy nhiên
phòng trừ bệnh hại trên chè hầu hết đều sử dụng thuốc hóa học, chưa có nhiều nghiên cứu
sử dụng chế phẩm sinh học trừ bệnh cho chè.

Nghiên cứu về nấm bệnh gây hại trên cây Cà phê:
Để sản xuất cà phê đạt năng suất, chất lượng ngày một cao và bền vững, thì cần phải
áp dụng thâm canh, đảm bảo đầy đủ các yêu cầu kỹ thuật, yêu cầu sinh thái. Tuy nhiên, khi
thâm canh cao thì sẽ kéo theo sự phức tạp về sâu bệnh hại. Những bệnh hại cà phê phổ
biến như:
Bệnh khô cành, khô quả (Anthracnose, Die Back):
Do nấm Colletotrichum coffeanum Noack gây nên. Bệnh thường phát triển từ đầu
mùa mưa nhưng thể hiện rõ rệt khi quả non đã ở được 6 - 7 tháng tuổi. Bệnh gây hiện
tượng khô cành, khô quả, khô lá thành từng vết hay thành từng mảng trên phiến lá. Khi
bệnh nặng có thể làm cho cà phê bị chết khô không hồi phục lại được [15].
Theo Vũ Thị Trâm và ctv, 2005. Bệnh khô cành khô quả là một trong những bệnh hại chính
trên cây cà phê. Bệnh có mặt ở hầu hết các diện tích trồng cà phê. Đáng kể nhất là ở các tỉnh Sơn
La, Yên Bái, Hà Tây, Thanh hóa, Nghệ An, Quảng Trị, TT Huế… loại bệnh này gây hại nặng nề
nhất đối với cây cà phê.
• Danh mục các công trình nghiên cứu trong nước có liên quan (theo trình tự thời gian mới nhất):

1.
2.
3.
4.
5.
6.
7.

Burgess W. Lester, Phan Thúy Hiền. Cẩm nang chẩn đoán bệnh cây. Tr 24 – 42.
Dương Quang Diệu (1994). Kết quả nghiên cứu khoa học và triển khai công nghệ về
cây chè (1983 – 1993). NXB nông nghiệp Hà Nội.
Phạm Ngọc Dung, Ngô Vĩnh Viễn và CTV (2008). Một số kết quả phòng trừ bệnh
chết nhanh hại hồ tieu tại Đăk Nông. Tạp chí bảo vệ thực vật.
Phan Thành Dũng, Vi văn Toàn (2000). Tình hình bệnh cây cao su tại Tây Nguyên,

hiện trạng và hướng giải quyết. Báo cáo hội thảo KH&CN TP. HCM và tỉnh Gia Lai
phục vụ phát triển kinh tế xã hội. Viện nghiên cứu cao su.
Nguyễn Hải Đường, Hồ Ngọc Thành, Trần Đoàn, Nguyễn Thị Ngọc Yến, Thân Thị
Minh Tâm, Phan Thành Dũng, Lê Thị Thanh Phượng. Sâu và bệnh trên cây cao su ở
Việt Nam. Viện nghiên cứu cao su Việt Nam.
Nguyễn Hải Đường, Lý Ngọc Hùng và Phan Thành Dũng. Bệnh nấm hồng trên cây
cao su và ứng dụng VALINDACIN A trong phòng trị. Viện nghiên cứu cao su Việt
Nam.
Nguyễn Thị Hiền (Chủ biên), Phan Thị Kim, Trương Thị Hòa, Lê Thị Lan Chi (2003).
8


8.
9.
10.
11.
12.

13.
14.
15.
16.
17.
18.
19.
20.
21.
22.
23.


Vi sinh vật tạp nhiễm trong lương thực – thực phẩm. NXB Nông nghiệp, 238 tr.
Lê Thị Ánh Hồng (2005). Nghiên cứu ứng dụng nấm Chaetomium trong sản xuất các
chế phẩm vi sinh bảo vệ thực vật phòng chống các bệnh nấm hại. Báo cáo tổng kết
khoa học kỹ thuật, đề tài cấp nhà nước.
J. Cramer, Lehre (1968). Phương pháp quản lý mẫu bệnh thực vật. R.W.G Dennis theo
British Ascomycetes. Germany.
Z. Kinaly, Z. Klement và cộng sự. Người dịch Vũ Khắc Nhượng, Hà Minh Trung
(1983). Những Phương Pháp Nghiên cứu bệnh cây. NXB Matxocơva, tr 148.
Phạm Văn Lầm. Biện pháp sinh học phòng chống dịch hại Nông nghiệp. NXB Nông
nghiệp Hà Nội. 1976, tr. 200.
Đào Thị Lương, Trần Thị Lệ Quyên, Dương Văn Hợp (2008). Nghiên cứu đa dạng
sinh học của nấm men phân lập từ lá cây ở vùng ô nhiễm Dioxin sân bay quân sự
Đà Nẵng. Chuyên san công nghệ sinh học. Viện di truyền nông nghiệp Việt Nam, 16
tr.
Vũ Triệu Mân. Giáo trình bệnh cây chuyên khoa, Trường ĐH Nông nghiệp I Hà Nội,
2007.
Trần Ánh Pha và CS (2007). Nghiên cứu thăm dò khả năng đối kháng của nấm
Trichoderma đối với một số nấm gây bệnh chính trên cây cao su, bằng phương pháp
Invitro và In vivo. Thông tin khoa học – công nghệ cao su thiên nhiên. Tr 9-16.
Lê lương Tề (1977). Giáo trình bệnh cây. Vụ Đào tạo bộ nông nghiệp. NXB nông
nghiệp 1977.
Lê Minh Thi, Lệ Bích Thủy, Dương Thị Hồng (1989). Thông báo kết quả bước đầu
tính đối kháng của nấm Trichoderma spp. Thông tin BVTV số 2. tr 39 -42.
Nguyễn Đức Trí, Nguyễn Kim Vân và cs. Giáo trình bệnh cây nông nghiệp, trường
đại học nông nghiệp I Hà Nội. tr 168-172.
Trần Thị Thuần (1998). Nghiên cứu nấm đối kháng Trichoderma và ứng dụng trong
phòng trừ bệnh hại cây trồng. Luận án thạc sỹ. Bộ GD & ĐT. Viện KHKT NN Việt
Nam.
Phạm Văn Ty và cộng sự (1990). Báo cáo nghiệm thu đề tài: Nghiên cứu phân hủy rác
hữu cơ và thức ăn chăn nuôi bằng biện pháp vi sinh vật. Đề tài cấp nhà nước. 54 tr.

Cẩm nang khuyến nông (2001). Kỹ thuật trồng và chăm sóc cây cao su. NXB Nông
nghiệp.
Công ty cao su Dầu Tiếng (2007). Nâng cao hiệu quả khai thác vườn Cao su. Báo
thương mại.
Tạp chí cao su Việt Nam (15/08/2007). Giá trị sản xuất và xuất khẩu cao su. Số 249.
Nguyễn Văn Hùng (1998), Sâu, bệnh, cỏ dại hại chè. NXB NN, Hà Nội 1998.

• Nêu và đánh giá về những khó khăn đang gặp phải trong quá trình nghiên cứu về lĩnh vực nghiên
cứu của Nhiệm vụ ở trong nước (về bí quyết công nghệ, về trang thiết bị để phân tích mẫu, về thời
gian, ...):

Hiện nay ở nước ta, Chè, Cà phê và Cao su là những loại cây trồng cho thu nhập cao
được bộ nông nghiệp xác định là 3 trong 9 nhóm hàng nông sản xuất khẩu chủ lực đến năm
2015. Vì vậy diện tích các loại cây trồng này đang được phát triển nhanh chóng, đặc biệt là
cây cao su, với quy mô rộng lớn trên địa bàn các tỉnh phía Bắc.
9


Đối với cây cao su, cả nước hiện nay có khoảng hơn 500.000 ha được trồng tập trung
ở Đông Nam Bộ (339.000 ha), Tây Nguyên (113.000 ha), Bắc Trung Bộ (41.500 ha và
Duyên Hải Nam Trung Bộ (6.500 ha). Theo hiệp hội Cao Su Việt Nam, hiện cao su là mặt
hàng nông sản có kim nghạch xuất khẩu lớn thứ 2 của Việt Nam (sau Gạo). Năm 2006,
cao su thiên nhiên xuất khẩu của Việt Nam đã đạt sản lượng gần 708.000 tấn, với tổng giá
trị xấp xỉ gần 1,3 tỉ USD (Bao gồm cả cao su thiên nhiên nhập khẩu từ các nước láng
giềng).
Chè là cây công nghiệp lâu năm, chiếm vị trí quan trọng đối với sự phát triển của
nền kinh tế quốc dân. Hiện nay ở Việt Nam có 35 tỉnh trồng chè, diện tích chè cả nước
khoảng 130.000 ha, sản xuất khoảng 160.000 tấn chè khô. Đối với vùng trung du miền núi
nước ta thì Chè là một trong những cây trồng mũi nhọn. Phát triển cây chè đã tạo công ăn
việc làm cho hàng triệu lao động, góp phần điều hoà sự phân bố dân cư miền núi, cây chè

còn có vai trò to lớn trong việc che phủ đất trống đồi núi trọc và bảo vệ môi trường sinh
thái.
Cà phê là cây trồng có thế mạnh làm giàu cho nười sản xuất. Cây cà phát triển mạnh
ở vùng Tây nguyên, một số tỉnh miền núi phía Bắc thích hợp cho phát triển cà phê chè.
Cho đến nay, diện tích cà phê trên cả nước khoảng 500.000 ha và sản lượng có khi
lên đến 900.000 tấn. Hiện nay Việt Nam là nước xuất khẩu cà phê đứng thứ 2 trên thế giới.
Tuy nhiên, việc thâm canh tăng suất, cũng sẽ kéo theo sự phát sinh nhiều loại dịch
bệnh hại ảnh hưởng nặng nề đến năng suất và sản lượng sản phẩm. Qua các tài liệu nghiên
cứu và thực tế sản xuất, chúng tôi nhận thấy có các bệnh xuất hiện phổ biến và phá hại
nghiêm trọng trên 3 loại cây chè, cà phê và cao su Việt Nam hiện nay như sau:
Nấm bệnh hại trên chè:
- Bệnh thối búp chè do nấm Colletotrichum theae Petch
- Bệnh thán thư do nấm Gloesporium theaesinensis Migake
- Bệnh đốm nâu do nấm Colletotrichum Camellia Masse.
Nấm bệnh hại Cà Phê :
- Bệnh khô cành khô quả do nấm Colletotrichum coffearum Noach
- Bệnh nấm than do nấm Colletotrichum gloeosporioides
Nấm bệnh hại cây Cao Su :
- Bệnh loét sọc miệng cạo do nấm Phytopthora palmivora
- Bệnh phấn trắng do nấm Oidium heveae Stein.
Đây là những bệnh thường gây hại nặng nề trên các cây ký chủ tương ứng, gây nhiều
thiệt hại đến năng suất, chất lượng sản phẩm.
Đã có những nghiên cứu ở nước ta về các loại nấm bệnh hại này về các đặc điểm
10


phát sinh gây hại và biện pháp phòng trừ bằng hóa học và canh tác. Gần đây, có một số
nghiên cứu mới về một số loại chế phẩm sinh học và được sản xuất từ nấm đối kháng có
hoạt tính diệt trừ nấm hại trên một số cây trồng nông nghiêp. Tuy nhiên chưa có nghiên
cứu cụ thể nào về việc tìm và sản xuất một loại chế phẩm có hoạt lực cao đối với các loại

nấm bệnh gây hại trên cây chè, cà phê và cao su.
Tại các vùng sản xuất chè, cà phê, cao su trong cả nước, biện pháp hóa học vẫn là
chủ yếu để phòng trừ các loại sâu bệnh hại. Việc sử dụng thuốc hóa học hiện nay đang là
một vấn nạn lớn đối với môt trường và sức khỏe cộng đồng. Mặt khác, đối với cao su và cà
phê là loại cây có chiều cao gây khó khăn cho việc áp dụng phun thuốc hóa học vì thuốc
phải được phủ trên lá, thân, cành mới phát huy được hiệu lực của thuốc. Những khó khăn
đó có thể khắc phục khi sử dụng chế phẩm vi sinh, vì hoạt chất của chế phẩm là bào tử
sống dễ dàng lan truyền nhờ gió và các tác nhân khác mà xâm nhập vào vùng nấm bệnh,
Chế phẩm sinh học Chaetomium đã được sản xuất và sử dụng rộng rãi tại Thái Lan và
ở nhiều nước trên thế giới. Tuy nhiên với điều kiện khác biệt về khí hậu, đất đai, địa hình,
đặc tính của riêng của cây chè, cà phê và cao su ở Việt Nam sử dụng chế phẩm có sẵn sẽ
khó phát huy được hiệu quả vốn có. Với mong muốn ứng dụng những chủng đặc hiệu của
loài nấm Chaetomium có khả năng đối kháng mạnh mẽ với các loài nấm bệnh hại trên 3
loại cây trồng này, và công nghệ sản xuất phù hợp với điều kiện Việt Nam để tạo ra một
loại chế phẩm đặc hiệu phục vụ nhu cầu sản xuất, tiến hành nghiên cứu sản xuất chế phẩm
Chaetomium từ công nghệ của Thái Lan, góp phần giúp cho ngành sản suất Chè, Cà phê,
Cao su nói riêng và nền nông nghiệp việt nam nói chung phát triển một cách bền vững và
bảo vệ được môi trường sinh thái.
Các vấn đề và nội dung đề tài cần thiết phải giải quyết:
- Lựa chọn chủng nấm đối kháng và nấm hại
+ Thu thập và lựa chọn một số loài nấm đối kháng mạnh với các chủng nấm gây hại
11


chính trên các loài cây chè, cà phê và cao su trong số các chủng nấm Chaetomium được
chuyển giao từ Thái Lan ( gọi là nấm đối kháng NĐK).
+ Thu thập, phân lập các chủng nấm hại chính trên cây chè, cà phê và cao su.
- Nghiên cứu nuôi nhân nấm đối kháng và nấm bệnh
+ Nhân nuôi nấm đối kháng.
+ Nghiên cứu nuôi cấy nhân tạo nấm bệnh.

- Đánh giá hoạt tính của NĐK đối với một số loài nấm hại chính trên cây chè, cà
phê và cao su trong điều kiện phòng thí nghiệm.
+ Đánh giá hoạt tính của từng chủng NĐK đối với nấm bệnh.
+ Đánh giá hoạt tính của tổ hợp các chủng NĐK đối với nấm bệnh.
- Nghiên cứu sản xuất chế phẩm sinh học Chaetomium phòng trừ nấm bệnh hại
cây chè, cà phê và cây cao su tại việt nam
+ Nghiên cứu sản xuất chế phẩm sinh học phòng trừ nấm hại.
+ Đánh giá hiệu lực của chế phẩm đối với một số bệnh hại chủ yếu trên chè, cà phê
và cao su.
+ Phương pháp bảo quản chế phẩm sinh học Chaetomium.
+ Sản xuất 1 tấn chế phẩm.
- Xây dựng mô hình
+ Lựa chọn địa điểm xây dựng mô hình
+ Sử dụng chế phẩm cho mô hình
+ Tập huấn, tuyên truyền sử dụng chế phẩm sinh học
Những vấn đề khó khăn đang gặp phải:
Hiện nay ở nước ta, nghiên cứu và ứng dụng về lĩnh vực công nghệ vi sinh chưa
nhiều, nên kinh nghiệm cũng như kỹ thuật, công nghệ về chúng còn rất hạn chế. Các kỹ
thuật về thu thập, phân lập, làm thuần và đặc biệt là công nghệ sản xuất chế phẩm sinh học
từ nấm và các loài vi sinh vật có ích là còn rất sơ khai và yếu kém.
Chế phẩm sản xuất ở Thái Lan sử dụng tốt ở điều kiện của Thái Lan, khi sản xuất
chế phẩm ở Việt Nam, cần thiết phải phù hợp với điều kiện sản xuất ở Việt Nam, nên việc
tìm kiếm giải pháp để chế phẩm phát huy hiệu lực ở điều kiện Việt Nam là khó khăn và hết
sức cần thiết.
Mặt khác, còn nhiều khó khăn trong việc tiếp cận, học tập công nghệ, kinh nghiệm
của nước ngoài. Vì vậy, cần có sự đầu tư thích đáng cho đào tạo cán bộ nghiên cứu về lĩnh
vực này và liên kết với đối tác để nghiên cứu và ứng dụng lĩnh vực quan trong này vào
thực tiễn Việt Nam.
14 Tình hình nghiên cứu ở ngoài nước
12



Tổng quan tình hình nghiên cứu ở ngoài nước của nhiệm vụ (thể hiện sự hiểu biết cần thiết của tổ
chức, chủ nhiệm về lĩnh vực nghiên cứu, nắm được những công trình nghiên cứu có liên quan đến
nhiệm vụ, những kết quả nghiên cứu mới nhất trong lĩnh vực nghiên cứu của nhiệm vụ ở ngoài
nước):
Liệt kê danh mục các công trình nghiên cứu ở nước ngoài có liên quan (theo trình tự thời gian mới
nhất):
Nêu và đánh giá việc với kinh nghiệm, tính ưu việt và khả năng đi trước của đối tác sẽ giúp giải
quyết vấn đề nghiên cứu của Nhiệm vụ hiện trong nước đang gặp khó khăn:

14.2.1. Đại cương về nấm Chaetomium:
Chaetomium là một loại nấm hoại sinh có khả năng phân giải cellulose và các hợp
chất hơux cơ. Chaetomium thường có mặt trong các phân trộn hữu cơ và trong đất, là một
trong những chi lớn nhất thuộc lớp nấm túi hoại sinh Ascomycetes. Chúng gồm có 300 loài
phân bố ở khắp nơi trên thế giới ( Von Ax và cộng sự), 1986; Gustav Kunze phân lập, dựa
trên các đặc tính của Chaetomium globossum. Các loài Chaetomium khác nhau đã được
phân lập từ nhiều nguồn và nhiều phương pháp khác nhau [66]. Theo Seth thông báo rằng
phân chuồng và các sanr phẩm cellolose khác ngoài đồng ruộng được giữ trong phòng thí
nghiệm dưới điều kiện ẩm độ phòng và nhiệt độ 25 -27 0C, sẽ thu được các quả thể dưới
kính hiển vi nổi hai chiều. Còn theo Soytong và Quimio (1989) thông báo rằng các loài
Chaetomium được phân lập nhờ phương pháp bẫy nấm bằng giấy ẩm đạt trên bề mặt đất
ẩm trong đĩa petri. Khả năng phân hủy cellulose của Chaetomium là do bản thân nó có
enzyme cellulase. Vì có khă nang phân hủy cellulose nên nhiều nhà khoa học, nhiều nhà
nghiên cứu trên thế giới đã bị thu hút vào việc nghiên cứu ứng dụng chúng để phục vụ
cuộc sống con người [47]. Từ đó có nhiều báo cáo và ứng dụng các loại nấm Chaetomium
trong phòng chống một số bệnh nấm hại thực vật, trong đó nhiều nhất phải kể đến là
Chaetomium globosum và Chaetomium Cupreum.
Theo kết quả nghiên cứu của nhiều nhà ngiên cứu trên thế giới và đặc biệt là các nhà
khoa học Thái Lan trong nhiều năm qua về Chaetomium spp. Đã được thử nghiệm thành

công trong việc phòng trừ các bệnh nấm hại cây trồng, đặc biệt là các bệnh nấm lan truyền
trong đất như Pyricularia oryzae, Curvularia lunata, Rhizoctonia oryzae, Phytophthora
palmivora, Phytophthra parasitica (Soytong, 1989; Soytong 1992a ). Venturia inequalis (
Bordeau và Andrew); Cullen và CS, (1984); Cullen và Andrew, 1984; Heye và Andrew,
1983. Fusadium oxysporum f.sp Lycopersici, Sclerotium rolfsii ( Soytong 1991a ),
Phythium ultimum (Di-Pietro và cs.., 1991), Alternaria brassicicola (Vannacci và harman,
1987) và có tiềm năng giảm lượng gây ô nhiễm khởi đầu của Bostrytis cineria ( Kohl và cs,
1995). Hơn thế nữa, một dòng của Ch. Cupreum còn được biết đến là đối kháng với nấm
Phomosis và với nấm Collectotrichum, tác nhân gây bệnh trên đậu tương ( Mannandhar và
cs, 1986)...Chúng còn có khả năng kích thích sinh trưởng phát triển của cây từ đó tăng
được sức đề kháng cho cây, tăng độ mùn, tăng năng suất và chất lượng nông sản [53, 54,
30, 32, 38, 55].
Tất cả các thành viên của chi Chaetomium là nấm hoại sinh có khả năng phân hủy
cellulose bao gồm cả vải bông và đặc biệt một số chủng trong số chúng có khả năng phân
hủy cả giấy hoặc làm mủn rơm rạ, các loài phân bắc, phân chuồng, kể cả các loại gỗ khi
các loại này tiếp xúc với đất, một số loài của Chaetomium có khả năng phân hủy cả gạch
vữa, thừng chão đặc biệt là những vùng địa lý có khí hậu nhiệt dứi và cận nhiệt đới [8].
13


11.2.2. Đặc điểm hình thái của nấm Chaetomium
Chi Chaetomium được phân lập đầu tiên năm 1817 do Gustav Kunze dựa và loài
Chaetomium globosum. Đây là một trong những lớp nấm hoại sinh lớn nhất ( Von Arx và
cs.,1986) với trên 300 loài được miêu tả. Có một số loài là đồng nghĩa và một số loại phải
đổi tên. Chaetomium thuộc họ Chaetomiacae thứ Chaetomial, seris Pyrenomycetes, lớp
phụ Hymenoascomycetidae II [66].
Quả thể của Chaetomium rất đa dạng, có thể mô tả tóm tắt như sau: Với bề ngoài có
hình dạng phình ra ở giữa, có màu tối, có lông bao bên ngoài cứng [gồm có lông bề mặt
(terminal hair) và lông bên (lateral hair)] với các kiểu dáng và độ dày mỏng khác nhau: Có
loại xoăn lọn, có loại lông dày tùy theo từng loài. Sự phát triển quả thể của chi

Chaetomium rất khác nhau giữa các loài. Quả bào tử lúc còn non có hình cavat đến hình
gậy chứa đựng từ 4-8 bào tử màu nâu. Khi quả thể chín các giống nhu cột trụ nhú lên từ
đầu của quả thể. Các nang bào tử có màu, thành tế bào nhẵn, có nhiều hình dạng khác nhau
( chủ yếu là hình quả chanh) với 1 lỗ mầm [8].
11.2.3. Đặc điểm phân loại của nấm Chaetomium
Nấm Chaetomium được chia thành nhiều loại khác nhau dựa trên các đặc điểm sau:
Hình dáng quả thể.
Lông bề mặt và lông bên của quả thể.
Chi tiết quả bào tử.
Trong thực tế Chaetomium rất đa dạng về hình dáng quả thể, đa dạng của lông bao.
Khi nghiên cứu nhận dạng và phân loại Chaetomium cần phải dựa trên các mẫu điển
hinhfvif rất nhiều kết quả mô tả bị sai lệch. Hầu hết các tác giả đều dựa trên sự phân nhánh
và cách cuộn xuawns của lông bao bên ngoài quả thể làm tiêu chí chính cho phân loại dựa
trên đặc điểm của nang bào tử và đặc điểm của lông mao, trong khi đó Von Arx và cs
(1986) phát biểu rằng để có thể thành công hơn trong vieecjnghieen cứu phân loại loài
Chaetomium có thể dựa trên đặc điểm của nang bào tử, quả bào tử và dựa vào bề mặt thành
của nang bào tử [66].
Trong khuôn khổ chi Chaetomium, có trên 300 loài đã được nghiên cứu và mô tả.
Tuy nhiên trong đó có một số chủng đac được thay đổi sau khi phân loại lại hoawcjcos
những ý kiến về sự giống nhau của chúng từ các nghiên cứu của các tác giả khác nhau.
Hiện nay còn nhiều ý kiến trong mô tả , cấu tạo thành tế bào của quả thể, về quả bào tử và
nang bào tử.[8]
Năm 1935, ở Philippin, Teodoro mới ddinhjdanh được 5 loài nấm Chaetomium, trong
đó, Ch. Cumingii, Ch. Comatum, Ch. Funicolum và Ch. Ovlivaceum chủ yếu tìm thấy trên
các sợi phế thải họ chuối: Đến năm 1983 . Follosco báo cáo về Ch. Globosum được tìm
thấy trong đất ở các tỉnh Quezon (Philippine), vì khả năng đôi kháng cao của loài này nên
sự cần thiết tìm kiếm thêm nhiều loài Chaetomium đã thúc đẩy các nhà nghiên cứu không
chỉ ở Philippine mà ở rất nhiều nước khác trên thế giới, trong đó có Thái Lan. Năm 1989,
dưới sự tài trợ của trung tâm nông nghiệp vùng nam á. Nghiên cứu sinh K. Soytong và GS.
Quiomio T.H. đã nghiên cứu và phân loại được 19 loài Chaetomium ở Philippine, chúng có

trong đất, phân chuồng, rơm, rạ, trong các lớp đất ròng, chủ yếu là trồng lúa v.v... Ở Thái
Lan theo Udagawa thì Ch. Apiculatum Lodha, Ch. variosporum Udagawa và Horie, Ch.
venezuelense Ames tìm thấy trong đất trồng lúa. Năm 1989; K.Soytong, Thái Lan đã phân
14


loại được 15 loài Chaetomium có trong đất trồng lúa, trồng cây ăn quả, cây công nghiệp,
phân chuồng hoai mục...[8].
Trong các phân loại có phân loại của K. Soytong và T.H. Quimio là có những mô tả
và hình ảnh rõ ràng nhất từ quả thể, lông bao quả thể ( đặc điểm của lông, sự phân nhánh
của lông), hình dạng quả bào tử, hình dạng nang bào tử [53, 54].
11.2.4. Cơ cế đối kháng của nấm Chaetomium
a. Sản sinh ra kháng sinh:
Vấn đề then chốt khi sử dụng nấm Chaetomium là nó sản sinh ra các bào tử trong
vùng đất của rễ, càng nhiều phân hoai mục cang tốt, các bào tử nấm hoại sinh phát triển có
khả năng cạnh tranh mạnh hơn so với nấm bệnh, nhất là trong điều kiện đất có nhiều mùn
hơn. Điều đáng lưu ý nhất là Chaetomium được biết đến là một loại nấm có khă năng tổng
hợp được các chất hoạt hóa sinh học có hoạt tính hóa học, đó là Chaetobloboosin C, là chất
có hoạt tính kháng nấm ( Di Petro và cs. 1992), đó là các chất kháng sinh hoại sinh có khă
nang tiêu diệt các tế bào bệnh bằng cách phá hủy màng tế bào, làm cho nguyên sinh chất bị
phá vỡ ra ngoài và mất đi độc tính của nấm bệnh, kết quả là làm giẩm hiệu quả của tác
nhân gây bệnh cũng như mức độ nhiễm bệnh [35].
b. Kích thích sinh trưởng phát triển của cây:
Người ta nhận thấy rằng, thực tế khi xử lý chế phẩm sinh học được sản xuất từ các
chủng nấm Chaetomium , cây sinh trưởng phát triển mạnh và cho năng suất, chất lượng cao
hơn, cả trong điều kiện nhà kính và ngoài đồng ruộng. Và ở điều kiện khô hạn nó vẫn sinh
trưởng phát triển tốt và tạo ra nhiều khuẩn lạc và rất quan trọng là Chaetomium có khả
nảng sản sinh một lượng cơ chất ergosterol. Chính ergosterol đã cải tạo đất làm cho đất
thêm màu mỡ, tăng độ phì nhiêu của đất, kích thích sự phát triển của cây [8].
c. Tăng sức đề kháng của cây:

Một cơ chế nữa cũng phải kể đến là chính Chaetoglobosin C do Chaetomium
globosum sản sinh ra đóng vai trò kích thích tính miễn dịch của cây trồng. Khả năng này
thực hiện vai trò kích thích tính miễn dịch của cây trồng lamfcho nó có khả năng kháng
bệnh. Sự oxy hóa mạnh mẽ trong thực vật có thể phân loại nhừ khả năng sinh sản nhanh
chóng của các loài có ôxy hoạt hóa tức thời sau khi có biểu hiện của một vài streses. Các
loài có ôxy hoạt hóa đóng vai trò quan trọng trong việc tạo ra các tín hiệu ban đầu phản
ứng lại với các stress ( Doke, 1997). Hiện tượng ôxy hóa mạnh mẽ này được coi là đèn tín
hiệu trong các mô tế bào thực vật chống lại sự tấn công của các vi sinh vật gây bệnh, bảo
vệ chính bản thân nó ( Doke và cs, 1991). Khẳ năng làm tăng tính kháng cho cây nhờ vào
việc kích thích Phytoalexin trong cây trồng trong cây trồng là chất kích thích hệ miễn dịch
của cây hình thành các phản ứng bảo vệ của cây và kìm hãm sự phát triển của nấm bệnh.
[33, 34]
d. Cạnh tranh:
Còn một cơ chế nữa cũng phải kể đến là các bảo tử nấm hoại sinh Chaetomium phát
triển có khẳ năng cạnh tranh mạnh hơn so với nấm bệnh nhất là trong điều kiện có nhiều
mùn. Tính cạnh tranh thể hiện qua sự tăng trưởng phát triển và cạnh tranh thức ăn.[8]
Các loài Chaetomium còn cho ta nhiều loài hợp chất có hoạt tính sinh học, phần lớn
15


trong số chúng có độc tố kháng nấm. Khi tách chiết từ Ch. globosum và Ch. cupreum thu
được ergosterol, rotiorin (1), rotioriol (2), ruborotiorin (3). Còn từ Ch. cupreum thu được
ergosterol, ergosterol palmitate, 1,8-dihidroxy-3-methyl anthraquinone (4), rotiorinol (2),
ruborotiorin (3), chaetoglobosin C (5), alternariol
monomethyl ether (6), riêng Ch.
globosum còn cho một hợp chất có hoạt tính sinh học nữa là diketopiperizine alkaloid
Echinulin (7). Chính vì thế mà ở Thái Lan đã khai thác các loài nấm Chaetomium này vào
việc sản xuất các chế phẩm sinh học phòng trừ nấm bệnh hại cây trồng [8].
Nghiên cứu về hình thái của nấm Chaetomium.
a. Nghiên cứu về sự phân bố của nấm Chaetomium:

Nấm Chaetomium là một trng những nhóm nấm lớn nhất trông hệ VSV đất. Chúng
phân bố rộng rãi trong tự nhiên, và sự phân bố của chúng cũng tuân theo quy luật như các
loài VSV khác. So với VSVĐK khác như nấm Trichoderma, nấm Penicilline, nấm
Asperillusn...thì sự hiện diện của nấm Chaetomium trong đất mang tính chất thường xuyên.
Số lượng của nấm Chaetomium chủ yếu nằm trong các tầng đát dưới. Đặc biệt ở tầng đất
sâu 25-30 cm thì số lượng Chaetomium có nhiều nhất ( Bannier, G. (1910); Chives, A.H.
(1915); K.Soytong and T.H Quimio (1989) [29, 31, 53, 54].
Trong các tài liệu tham khảo có rất ít các tài liệu công bố về sự phân bố của các
chủng Chaetomium . Theo K. Soytong và cs. (1989); (1991a); (1991b); (2002). Thì nấm
Chaetomium là một loài có phân bố rất rộng rãi. Chúng có thể tìm thấy ở các nước ôn dới
như Dức, Nhật Bản, một số vùng ôn đới của Trung Quốc, đến tận các vùng có khí hậu
nhiệt dới như: Thái Lan, Philippine, Việt Nam,...Và ở điều kiện khô hạn chúng vẫn sinh
trưởng và phát triển tốt tạo ra các lạc khuẩn vì Chaetomium có khẳ năng sản sinh ra một
lượng cơ chất ergosterol. Chính ergosterol đã cải tạo đất làm cho đất thêm màu mỡ, tăng
độ phì của đất, kích thích sự phát triển của cây. Tuy nhiên Chaetomium phát triển và có khẳ
năng mạnh hơn so với nấm bệnh khi tồn tại trong cùng điều kiện thuận lợi [53, 54, 55].
b. Yếu tố dinh dưỡng, sinh trưởng và phát triển của nấm Chaetomium :
- Nguồn các bon:
Cũng giống như bất cứ một loại nấm nào khác, Chaetomium cũng cần lựa chọn cho
mình một môi trường cung cấp cac bon hữu cơ để tổng hợp năng lượng. K. Soytong (1990)
cho hay khẳ năng hấp thụ nguồn các bon khác nhau của các chủng nấm Chaetomium được
sử dụng việc sản xuất chế phẩm sinh học phòng trừ nấm bệnh hại cây trồng. Tác giả cho
thấy các chủng nấm này hấp thụ tốt một số loại đường: Sacarose, glocose, frutose,
xenlubioza, D- lactoza, D-maltosa, tinh bột, rỉ đường, axit malic, L-arabinosa để tổng hợp
năng lượng. Chúng hấp thụ kém đối với rượu, N-amylic, axit citric... [8].
Bainier, G. 1910. đã nghiên cứu chế độ dinh dưỡng một số loài Chaetomium kết quả
cho thấy Chaetomium sử dụng rất tốt với các loại đường fructose, sacaroza, galactoza,
riboza, xenlobioza. Riêng rượu mannit, dextri và arabinoza thì ức chế sinh trưởng của nấm
Chaetomium tham gia vào thí nghiệm. .[28]
Kết quả nghiên cứu của Chives, A. H. 1915, thì nấm Chaetomium phát triển tốt ở các

môi trường lactoza, fructoza, sacaroza và lactoza. Còn trên môi trường có chứa các loại
đường maltoza, arabinoza, rượu mannit Chaetomium phát triển kém. [31] Tuy nhiên có thí
nghiệm của Bordeau, M .A và J.H. Andrew. 1987 Cho rằng các nguồn các bon chính của
Chaetomium bostryochodes là tinh bột hòa tan và đường maltosa và rượu mannit [56].
16


Nhưng có những nghiên cứu nuôi cấy nấm cho rằng, với Chaetomium trong môi
trường không cần cho thêm đường thì Chaetomium vẫn phát triển tốt ( Brauschweig), dẫn
theo Soytong, 1992) [56].
- Nguồng Nitơ:
Nitơ là nguồn nguyên liệu để tổng hợp protein và vitamin đó chính là nguồn dinh
dưỡng chính để sinh ra hoạt tính đói kháng của nấm Chaetomium. Khi nguồn dinh dưỡng
đạm cao sé tăng cường khẳ năng sinh men và trao đỏi chất cao hơn. Nhiều loài nấm
Chaetomium sử dụng nguồn đạm nitrat tốt hơn nguồn đạm amon, K.Soytong (1989), K.
Soytong (1991b) [53, 55].
Theo K.Soytong (1988), K.soytong và Quimio (1988); Cullen 1984; Bordeau, M.A.
và J.H. Andrew. 1987 thì các loài của Chaetomium hấp thụ cả hợp chất vô cơ và hữu cơ có
chứa nitơ, nhưng chúng ưa môi trường có chứa L-tptophan và L-glutamic. Prolin nhanh
chóng bị phân giải bởi Ch.glbosum và nó sử dụng các sản phẩm của quá trình phân giải đó.
Các nguồn Ch. cupreum, Ch. globosum, Ch. lucknowense ưa thích nitrat natri. Nitrat amon
chúng sử dụng kém hơn. Cũng theo soytong 1991b thì có những loài hấp thụ tốt muối
amon đó là Ch. mollicellum, Ch. Funicolumr [53, 54, 32, 30, 38].
Braunschweig thông báo những hợp chất hữu cơ có chứa nitơ là nguồn dinh dưỡng
tốt nhất cho jsinh trưởng và phát triển của nấm Chaetomium ví dụ: tyrosin,
asparagin,prolin, và alanin... Trên môi trường có chứa casein ước chế sinh trưởng của
nhiều loài Chaetomium.
Cũng như nhiều loài nấm đối kháng khác, Chaetomium được phân bố ở nhiều vùng
sinh thái khác nhau, vì thế chúng có đặc điểm sinh lý sinh hóa khác nhau để thích nghi với
điều kiện sống và thích ứng với những môi trường khác nhau. Cũng vì thế chúng chúng có

những khác biệt trong việc sử dụng các loại dinh dưỡng [8].
- Các nguồn dinh dưỡng khác:
Đối với nấm Chaetomium đã có nhiều tác giả nghiên cứu và phân loại và thử khả
năng đối kháng của chúng. Song khác với Trichoderma, loài được đưa vào sử dụng để sản
xuất chế phẩm sinh học phòng trừ nấm bênh hại cây trồng ở mức độ thương mại hóa mới
chỉ được áp dụng tại Thái Lan, còn Trung Quốc đã mua patent của Thái Lan. Vì thế tài liệu
công bố về các nghiên cứu yếu tố ảnh ngrleen sự sinh trưởng phát triển của Chaetomium
không có nhiều đặc biệt là ảnh của các chất vi dinh dưỡng và vitamin. Theo K. Soytong
1988; K. Soytong và Quimio 1988, K. Soytong 1991b, Braunschweig dẫn theo K. Soytong
1991b cho biết các hợp chất của Na, K Fe, Mn và đặc biệt của Mg đã kích thích sinh
trưởng của nấm Chaetomium [53,55].
Sự sinh trưởng phát triển Chaetomium phụ thuộc nhiều vào sự có mặt cuẩ muối
Nitơrat Natri trong môi trường: Nguồn vitamin và các vi dinh dưỡng như: NaH 2PO4; FeCl3.
6H2O; EDTA; H3PO4; Cl; ZnSO4; Na2MoO4. 2 H2O; CoCl.6H2O; CuSO4 .5H2O; Thiamin
chlonide; Biotin và Vitamin B12. Có ảnh hưởng rắt đến sự sinh trưởng phát triển của nấm
Chaetomium . Nếu sự dụng vitamin B 12 ở nồng độ 1.10-5% thì kích thích sinh trưởng của
nấm Chaetomium. Còn nếu ở nồng độ khác sẽ không cho kết quả mong đợi, Boudreau,
M.A và Adrew (1987); (Ames L.M. 1963); Von Arx (1984) [30, 65].
c. Một số yếu tố môi trưởng ảnh hưởng lên sự sinh trưởng và phát triển của nấm
Chaetomium.
17


- Độ ẩm tương đối:
Một trong các yếu tố chính ảnh hưởng đến sự nảy mầm của bảo tử và phát triển cavs
cơ quan dinh dưỡng của nấm là độ ẩm tương đối. Khác với nấm Trichoderma , loài nấm
này đòi hỏi ẩm đội tương đối phù hợp là 70-100%, còn bào tử của chúng có thể nảy nầm
trong một phổ tương đối rộng. Sekita, S(1976), nó có thể nảy mầm ngay cả khi ở các vùng
đất khô hạn vì bản thân nó tiết ra ergosterol như đã giải thích ở phần kích thích sinh trưởng
của cây. Theo Sekita 1981, Seth,1981, Soytong và Quimio 1989, Soytong 1991a, 1991b,

thì sự phát triển và khả năng nảy mầm của bào tử nấm Chaetomium trong phổ 30-100%
[53, 55].
- Nhiệt độ:
Điều kiện nhiệt độ cũng là một yếu tố vô cùng quan trong tác động lên sự sinh trưởng
phát triển của loài nấm Chaetomium. Nấm Chaetomium phát triển trong một phổ nhiệt độ
rộng Chives, A.H. (1915); Von Arx (1984). [31, 65] Các loài Chaetomium có thể phát triển
trong một phổ nhiệt độ từ 3-520C (Soytong 1991b) [55]. Ch. globosum, Ch. cupreum sinh
trưởng ử khoảng nhiệt độ 4-420C, còn Ch. lucknowense phổ nhiệt độ từ 3-500C Theo
Udagwa, S. 1973; Soytong 1991a, 1991b thì nguồn gốc xuất xứ của nguốn nấm rất quan
trọng. Nếu cùng Ch. globosum, nhưng khi phát hiện ở Trung Quốc trong các vùng khí hậu
ôn đới thì chúng sẽ phát triển tốt ở nhiệt độ 12 – 15 0C và phát triển tối ưu cả ở nga, nhưng
cũng loài đó khi phân lập ở Thái Lan thì chúng sinh trưởng phát triển thích ở nhiệt độ 25300C. Khi nhiệt độ lên cao quá thì loài nấm Chaetomium bị chậm sinh trưởng, bề mặt của
chúng mấp mô, không bằng phẳng/ Tuy nhiên nhiệt độ không ảnh hưởng rõ rệt đến hoạt
tính đối kháng của nấm Chaetomium, Boudreau, M.A. và Adrew (1987); ( Bainier, G.
1910); Von Arx (1984) [30, 37, 28, 65].
- Ánh sáng:
Có rất ít tài liệu công bố về những ảnh hưởng của ánh sáng lên sự phát triển của nấm
Chaetomium. Theo Umeda, P. Và cs 1981; Heye. C.C 1983; Soytong và Quimoio (1988);
Soytong, 1991b; Dipietro, A. (1991), cho thấy ánh sáng có ảnh hưởng đến hoạt động và
quá trình sinh trưởng của nấm Chaetomium. Trong điều kiện tối, quá trình sinh bào tử
chậm hơn trong điều kiện chiếu sáng, nhưng khối lượng bảo tử điềụ kiện chiếu sáng liên
tục sẽ ít hơn so với điều kiện tối. Đặc biệt nếu ở điều kiện sáng xen tối thì lượng bào tử và
lượng nấm sinh khối thu được là cao nhất. Sự chiếu sáng liên tục làm ức chế sự tạo thành
sinh khối, sự hình thành bào tử và sự tăng trưởng phát triển của sợi nấm.[64, 38, 53, 35].
Nhưng theo Heye. C.C 1983; thì ánh sáng không có ảnh hưởng rõ rệt đến một số chủng
nấm Chaetomium trong những thí nghiệm của ông [38].
- pH:
Đây là một yếu tố vô cùng quan trọng liên quan đến sự sinh tồn của nấm Chaetomium.
Từ các yếu tố môi trường khác như: Nhiệt độ, ánh sáng, độ ẩm đang là yếu tố tối thích cho
Chaetomium nhưng độ pH thay đổi theo hướng bất lợi nghĩa là quá cao hay quá thấp đều

gây ra tình trạng ngừng phát triển của Chaetomium. Mặc dù các loài Chaetomium khác
nhau có thể phat triển trong các mức pH khác nhau: Ch. globosum và Ch. cupreum ( pH 56), nhưng Ch. lucknowense (pH 3-8) Theo Soytong (1991b); Siridej (2003) [55].
Mặc dù có những loài Chaetomium có phổ pH rộng, song trong những loài cụ thể cần
phải kiểm tra và xác định độ pH tối ưu cho từng loài.
Nghiên cứu về sản xuất chế phẩm sinh học phòng trừ hại nấm:
18


Hiện nay trên thế gới chế phẩm sinh học phòng trừ sâu hại được thương mại hóa nhiều
hơn so với chế phẩm phòng trừ nấm sinh học. Chề phẩm sinh học được sản suất nhiều nhất
là chế phẩm Bt. Drake và smith (1963). Đã sản xuất công nghiệp B.thuringinensis Ở USA
với môi trường chứa 6-10% chất dinh dưỡng ( môi trường gồm 6,8% bột mỳ, 0,64%
sacharoza, 1,94 % casein, 4,7% cao ngô, 0,6% nấm men và 0,6% đệm photphat) dịch lên
men cuối cùng đạt 14x109 bào tử/ ml [8].
Bonnefoi (1960) trong Patent đã dùng môi trường có 0,6 -1% (axit amin), 1-2% đường,
các khoáng vi lượng calcium, Zn, Mg. Sản phẩm được làm khô và trộn với chất mang để
tạo chế phẩm bột.
Chế phẩm sinh học được sử dụng để phòng trừ một số loại nấm bệnh hại lan truyền
qua đất, qua hạt, qua không khí ... Trong quá trình sản xuất người ta quan tâm đến:
(1) khối lượng bào tử và
(2) các độc tố nấm đóng vai trò chính trong hoạt tính diệt nấm [8].
Trong thực tế sản xuất hiện nay đã có một vài chế phẩm phòng trừ nấm hại được
thương mại hóa ngoài sản xuất. Chế phẩm được dùng rộng rãi nhất là Trichoderma, sản
phẩm từ nấm Trichoderma. Trong thực tế sản xuất các chế phẩm sinh học BVTV thì bất cứ
một loại nấm nào cũng cần phải lựa chọn cho nó 1 môi trường trong đó cung cấp các bon
hữu cơ để tổng hợp năng lượng, cung cấp nguồn nitơ để tổng hợp protein, vitamin cùng
một số loại khoangs và nguồn nuôi dinh dưỡng. Môi trường nuôi cấy có thể là cứng hoặc
lỏng. Phụ thuộc vào mục đích nghiên cứu. Môi trường thích hợp để tạo ra lượng lớn bào tử
là vấn đề hết sức cần thiết. Ở Israel, người ta dùng cám lúa mì hoặc than bùn để làm chất
phụ gia cho việc sản xuất chế phẩm, còn ở Pháp người ta dùng hạt yến mạch và agar. Ở Ấn

độ người ta lại dùng các loại phế liệu nông sản như: Vỏ quả cây cà phê, ở Đài Loan dùng
vỏ trấu làm môi trường sản xuất chế phẩm trừ nấm sinh học. Một trong những nước nghiên
cứu nhiều về phương pháp sản xuất chế phẩm sinh học phòng trừ nấm bệnh là Liên Xô cũ.
Các tác giả khác nhu đã dùng các nguồn nguyên liệu khác nhau làm phẩm sinh học và
chúng có tên là Trichodermin. Họ có thể dụng 4 loại môi trường khác nhau:
(1) Trichodermin được sản xuất trên môi trường dinh dưỡng giàu chất đam và tinh bột
như hạt mì, đại mạch, ngô và agar;
(2) Trichodermin 2 được sản xuất trên môi trường rưm, cỏ được nghiền nhỏ;
(3) Trichodermin 3 được nhân trên than bùn đã được sấy khô và khử độc;
(4) Trichodermin 4 được sản xuất theo phương pháp lên men chìm (Egurazdova và cs,
1979) [36].
Và mới đây mỹ cho ra thị trường sản phẩm trừ nấm sinh học Trichoderma, được sản
xuất dưới dạng bột và dạng nước (Lê Văn út, 2005), đó là các chế phẩm được sản xuất từ
các công nghệ công nghiệp, tiên tiến, công nghệ lên men chìm sục khí [8].
Ở Thái Lan cũng đã sản xuất chế phẩm trừ nấm sinh học, các chủng nấm được sử dụng
trong chế phẩm này gồm có 22 chủng nấm Chaetomium globosum và Ch. cupreum chế
phẩm có tên thương mại là Ketomium. Công ty sản xuất ra chế phẩm này là công ty NOVA
SCIENCE, song họ không cho biết cụ thể mọi điều kiện và môi trường lên men. Quá trình
lên men luôn dựa theo Patent Soytong (1991b) như sau: Nấm được nuôi cấy ở ống thạch
nghiêng sau đó nhân giống cấp 1 trong bình tam giác rồi chuyển sang nhân giống cấp 2
trong tăng con của hệ thống lên men. Môi trường canh thăng cho nhân giống và và môi
trường cho sản xuất như sau: Nguồn Nitơ NaNO 3, Nguồn các bon: Rỉ đường và một số
muối khoáng KH2PO4, KH2PO4, MgSO4.7 H2O, KCl, vitamin và Yeast extract. Khi bào tử
19


1.
2.
3.
4.


được hình thành, ly tâm trộn với chất phụ gia ( chất mang: talc và alginate và một vài phụ
gia khác), sấy khô, sau đó chế phẩm được đóng gói. Theo Soytong, chế phẩm Kitomium
trừ nấm sinh học có hoạt tính diệt nấm, Lượng bào tử phải đạt 3,2 x 10 7 bao tử/g. Các
chủng nấm Chaetomium của Thái Lan được sử dụng trong sản xuất chế phẩm sinh học
phòng trừ nấm bệnh hại cây trồng là những chủng có hoạt tính đối kháng rất cao [8].
Kolombet (2002) qua nghiên cứu đã cho biết rằng: Dùng môi trường có 1% rỉ đường,
2-3%nấm men để sản xuất thử chế phẩm sinh học phòng trừ một số loại nấm bệnh từ một
số chủng Chetomium [8].
Dulmage (1970) nghiên cứu sự tạo bào tử của các chủng nấm khác nhau bằng phương
pháp nuôi cấy chìm. Theo ông, cũng giống như quan điểm của Soytong hoạt tính diệt nấm
hay chất lượng của chế phẩm phụ thuộc vào môi trường và đặc biệt là chủng giống. Nếu
tìm được các chủng có hoạt tính đối kháng cao, sẽ có chế phẩm tốt hơn [8].
Hầu hết các tiến bộ gần đây trong việc sản xuất chế phẩm BVTV sinh học với quy mô
công nghiệp dùng phụ gia talc, Kaolin, bột mì, bột đậu tương đã cho thấy môi trường kinh
tế trong sản xuất thương mại [8].
Dùng 4-6% lactoza đã kết tủa với bảo tử giúp cho sản phẩm dễ tạo thành hỗn dịch.
+) Tạo chế phẩm:
Mục đích của việc tạo chế phẩm sinh học trừ nấm là tạo ra một loại chế phẩm có khẳ
năng bền vững hơn trong quá trình bảo quản và quá trinhf sử dụng ở ngoài đồng ruộng
hoặc trên các nông sản bảo quản. Chế phẩm thường được làm đậm đặc và tạo chế phẩm ở 4
dạng:
Chế phẩm dạng hỗn dịch hay chế phẩm lỏng.
Chế phẩm dạng bột.
Chế phẩm dạng hạt.
Chế phẩm dạng bán thủ công (các loại môi trường dinh dưỡng là những dạng phế liệu của
nông nghiệp như bã đậu phụ, bã bia, vỏ cà phê...)[8].
Nghiên cứu về nấm bệnh gây hại trên cây Cao Su:
Trước năm 1912, hầu hết cây cao su trồng trên thế giới là cây hoang dại có nguôn
gốc từ các cây có nguồn gốc từ vùng rừng amzon ( caosu hevea ) và một phần nhỏ được

trồng ở các nước nhiệt đới châu phi ( Cao su Puritamia, landolphia, và Castilles). Sau đó
cây cao su trồng dần chiếm ưu thế và được trồng rộng ưe nhiều nước như: Một số nước ở
vùng bờ biển tây bắc Ấn Độ, Indonesia, Malaysia, Campuchia, Trung Quốc, Thái Lan, Việt
Nam...Sản lượng cao su tăng nhanh, không những do tăng diện tích mà còn có nhiều phát
minh trong công nghiệp chế biến cao su khô, cao su mủ nước và mở rộng về công dụng
của cao su. Đặc biệt trong khâu kỹ thuật chọn giống, trồng, khai thác và sư chế cao su, từ
năm 1928 sau khi tác giả Trimen ở Srilanka (1884) và Ridely ở Singapo (1889) đề xuất
phương pháp cạo mủ và ghép cây, kỹ thuật cạo vòng xoắn ốc và kỹ thuật ghép được áp
dụng một cách rộng rãi. Từ những năm đầu thập kỷ 1950, người ta đã bắt đầu áp dụng các
kỹ thuật sử dụng chất kích thích chảy mủ và kích thích mọc rễ. Do áp dụng các tiến bộ kỹ
thuật trồng và khai thác, đồng thời sử dụng các giống tốt hơn, nên nhiều nước đã rút ngắn
được chu kỳ thời kỳ đầu xây dựng cơ bản của vườn từ 6-7 năm xuống còn 4,5-5 năm, năng
suất cao su tăng từ 4-5 ta/ha lên 30 ta/ha và hy vọng cây cao su thuần hóa với các giống
tuyển chọn và lai taooj từ nguồn di truyền phong phú nói trên, sẽ đưa năng suất cao su lên
cao hơn nữa có thể đạt 50-70ta/ha [20].
20


Hiện nay Thái Lan, Indonesia, và Malaysia là những nước sản xuất cao su lớn nhất,
thứ 2 và thứ 3 thế giới. Theo Luckchai Kiptipol, chủ tịch hiệp hội cao su Thái Lan, Xuất
khẩu cao su nước này năm 2008 sẽ giữ vững ở mức 2,9 triệu tấn của năm 2007, thấp hơn
so với mức 3 triệu tấn của năm 2006. Nước sản xuất cao su lớn thứ 2 thế giới là Indonesia,
có thể chỉ duy nhất với mức 2,8 triệu tấn của năm 2007 vào năm 2008 do thời tiêt không
thuận và năng suất thấp [20].
Tiêu thụ cao su thiên nhiên thế giới năm 2008 đạt khoảng 10,1 triệu tấn, trong khi
sản lượng dạt khoảng 9,7-9,8 triệu tấn. Nguồn cung cấp cao su thiên nhiên dự báo sẽ còn
khan hiếm ít nhất cho tới năm 2012 [21].
Việc phát triển cao su theo xu hướng hàng hóa và đẩy mạnh về các kỹ thuật canh tác
và khai thác nhằm rút ngắn thời gian kiến thiết cơ bản nhằm tăng năng suất mủ. Một mặt
đây là một việc làm mang lại nhiều giá trị về mặt kinh tế cho người sản xuất nhưng đồng

thời với điều này là tình trạng sâu bệnh hại gia tăng. Và nguy cư phát thành dịch hại lớn.
Đây là một mối đe dọa lơn lao đối với hầu hết các nước trên thế giới như: Bệnh loet sọc
miệng nạo, bệnh xì mủ, bệnh rụng lá mùa mưa, bệnh phấn trắn và bệnh nấm hồng,...Các
loại bệnh này đã làm giảm đáng kể đến sản lượng và chất lượng mủ cao su ở các vùng bị
nhiễm [20].
1. Bệnh xì mủ và loét sọc miệng cạo:
Kết quả điều tra của hiệp hội nghiên cứu và phát triển cao su quốc tế đã chỉ ra bệnh xì
mủ gây mất mủ ở nhiều nước trên thế giới như: Brazil, Camerol, Trung Quốc, Ấn Độ,
Coote d’voire, Indonesia, Malaysia, Thái Lan, Việt Nam, ...Bệnh gây hại đầu tiên và
nghiêm trọng ở các nước: Trung Quốc, Ấn Độ, Coote d’voire, Srilanka, sau đó lan sang Ấn
Độ, Malaysia, Thái Lan, Việt Nam,... Và gây thành những dịch lớn ở các nước này. Bệnh
dấn đến giảm 25-30% sản lượng mủ cao su. Nguyên nhân gây bệnh là do một số loài
Phytophthora gây ra, tuy nhiên các loài và các chủng gây hại tùy thuộc vào từng nước khác
nhau [4].
Các nghiên cứu về bệnh do nấm Phytophthora gây mất mủ cao su và biện pháp phòng
trừ bệnh được quan tâm từ những năm 1990 ở Malaysia. Thông thường bệnh gây hại tất cả
các bộ phận của cây cao su, nguyên nhân gây ra bệnh chủ yếu do 2 loại nấm Phytophthora
palmivora và Phytophthora botryosa. Bệnh loét sọc cạo gây mất mủ cao su được xác định
nguyên nhân gây hại là loại nấm Phytophthora palmivora (Lee, B.S và Lum, K.Y., 2004)
[5].
Theo Ratana Sdoodee (2004), bệnh loét sọc nạo gây mất mủ cao su gây hại hầu hết ở
các vùng cao su của Thái Lan. Bệnh làm suy giảm lượng mủ do mặt cạo bị nấm tấn công
và gây hại. Bệnh xuất hiện trong suốt mùa mưa. Các kết quả nghiên cứu ở Srilaka cho thấy
có ít nhất 6 loài Phytophthora cộng hợp gây hại trên cây cao su và có sự liên quan giữa
bệnh rụng lá mùa mưa và loet sọc cạo. Bênh rụng lá thường xuất hiện và gây hại trước, sau
đó bệnh loét sọc mới xuất hiện. Các mẫu lá và quả bị rụng phân lập gần hết là do nấm
Phytophthora meadii, Mẫu bị loét sọc nạo chủ yếu do nấm Phytophthora palmivora [5].
2. Bệnh rụng lá mừa mưa (Phytophthora Leaf Fall).
Theo nghiên cứu của các tác giả Jayasuriya, K.E. và cs (2004), bệnh rụng lá mùa mưa
gây mất mủ cao su xuất hiện đầu tiên vào đầu thế kỷ 20 tại Ấn Độ, Srilanka và Myanmar

21


(1905), Malaysia (1966). Hiện nay bệnh đã xuất hiện ở tất cả các quốc gia trồng cao su,
làm giảm 30-56% sản lượng vườn cao su khai thác. Tại Bahia ( Brazil) bệnh này có mức
độ tàn phá tương đương với bệnh cháy lá Nam Mỹ. Tác nhân gây bệnh được xác định là do
loài nấm Phytophthora meadii, nấm tồn tại ở phạm vi nhiệt độ từ 5-350C, thích hợp nhất ở
25-280C. Triệu chứng đặc trưng là trên cuống lá có cục mủ màu đen hoặc trắng, tại trung
tâm vết bệnh đã được xá định do loài Phytophthora botryosa bằng ứng dụng sinh học phân
tử ( ITS Fingerprinting)[5].
Hiện nay, bệnh loét miệng cạo và bệnh rụng lá mùa mưa gây mất mủ cao su là 2 loại
bệnh gây hại phổ biến ở Philippine, được xác định là do nấm Phytophthorapalmivora gây
ra. Bệnh phát sinh mạnh khi thời tiết ẩm ướt, có mưa, Ở các vùng trồng của tỉnh Mindanao
thuộc Philippine, bệnh gây hại làm giảm 25 – 35% sản lượng mủ, có những vùng năng suất
giảm 65% (Tangona N. G, 2006)[5].
Nghiên cứu về nấm bệnh gây hại trên cây Chè:
Chè là một mặt hàng xuất khẩu quan trọng khu vực châu phi, được trồng ở nhiều quốc
gia. Tổng số diện tích chè được trồng ở châu phi khoảng hơn 190.000 ha. Năm 1988 châu
phi sản suất được khoản 282.000 tấn chè chiến 11,4% sản lượng của cả thế giới. (P. S.
Rattan, 1992).
Chè cũng như nhiều mặt hàng nông sản khác, nó cũng bị tác động mạnh mẽ bởi nhiều
loại sâu bệnh hại.
Kết quả nghiên cứu ở Châu Phi cho biết, tất cả các loại bệnh gây ra bởi nấm chúng phá
hại trên tất cả các bộ phận của cây. Chúng tác động làm rụng lá, ức chế sự sinh trưởng phát
triển của cây, làm cây suy yếu dần và dẫn đến chết. Tùy thuộc và từng loại nấm phá hại
trên từng bộ phận khác nhau của cây mà ta có các biện pháp phòng trừ khác nhau. Bệnh hại
rễ chè thường xuất hiện ở những vùng chè được trồng trên đất rừng mới được khai hoang.
Loại bệnh này thường phá hủy hệ thống rễ của cây chè. Nấm bệnh hại rễ thường biểu hiện
rất phức tạp [1].
Theo Sarmah Satya Rajjan, Dutta Prasanta, 2005. Trong số những tác nhân vi sinh vật

được thử nghiệm ở những vùng trồng chè đông bắc India, Trichoderma virideg T.
Harzianum tỏ ra có hiệu quả trong việc phòng trừ bệnh hại rễ.
Nghiên cứu về nấm bệnh gây hại trên cây Cà Phê:
Cà phê là cây nông sản của vùng nhiệt đới, hạt cà phê chứa một số vitamin nhóm B,
tiền vitamin PP và một số chất khác. Cà phê rang có một hương vị đặc biệt, chính các axít
và hương vị độc đáo có trong hạt cà phê đã làm cho cà phê trở thành một loại đồ uống
được nhiều người ưa thích. Hiện nay nhu cầu của người tiêu dùng trên thế giới vẫn không
ngừng tăng lên. Vì vậy việc trồng, xuất khẩu, nhập khẩu loại hàng hóa đặc biệt này có một
ý nghĩa kinh tế to lớn đối với nhiều quốc gia. Tuy nhiên bên cạnh đó một thực trạng khó
khăn luôn đe dọa năng suất, sản lượng cũng như chất lượng cà phê là tình hình sâu bệnh
hại. Hiện nay, tại các vùng sản xuất cà phê trên thế giới đã xuất hiện nhiều loại bệnh hại
nguy hiểm, chúng phát triển mạnh mẽ và lan ra trên diện rộng. Năm 1868 đến 1878 ở
Srilanca, bệnh Rỉ sắt đã phá hại nặng trên cây cà phê và gây tôn thất 50 triệu đến 350 triệu
Franc và phải chặt bỏ phần lớn số lượng cây. Bệnh rỉ sắt là bệnh do nấm gây ra. Ngày nay,
bệnh đã gây hại ở khắp các vùng trồng cà phê chủ yếu của thế giới như: Ấn Độ, Philippine,
Thái Lan, Indonesia; các nước châu mỹ: Mỹ, Cu Ba, Mehico, Brazin; Các nước châu phi:
22


Công Gô, Kenya…Bệnh thường gây ra hiện tượng rụng lá, vàng lá, giảm tỷ lệ ra hoa, đậu
quả. Gây hiện tượng quả nhỏ, quả bị khô, lép, gây chết cành, làm giảm năng suất, phẩm
chất cà phê nghiêm trọng. Bệnh còn để lại hậu quả nặng nề cho các vụ sau.
Bệnh Nấm Hồng cà phê ( Corticium salmonicolor B et Br.) là bệnh phổ biến ở khắp vùng
trồng cà phê trên thế giới ( Nhất là trên cà phê chè). Bệnh được Ridley phát hiện đầu tiên
vào năm 1897 ở Malaisia. Bệnh hại ở thân, cành làm cho cành khô chết, lá vàng héo, quả
thâm rụng. Trên thân cành bị rụng xuất hiện một lớp mốc mỏng, mịn màu trắng hồng. Bệnh
lan rộng ra, cành khô dần, lớp màu hồng đậm dần bám kín trên vỏ. Vỏ cành khô chết, màu
nâu, nứt tách bong dần. Khi vết bệnh đã cũ, mất màu hồng ban đầu, chuyển sang màu xám
đen thường do các loại phụ sinh khác phá hại kèm theo.
Liệt kê danh mục các công trình nghiên cứu ở nước ngoài có liên quan (theo trình tự thời gian mới

nhất):

24.
25.
26.
27.
28.
29.
30.
31.
32.
33.
34.

35.
36.

23. Adam, B.P. the potential of mycoparasites for biological control of plant
Ames, LM. 1963. A. Monograph of the Cheatomiaceae. U.S. Army Res. Dev., Ser. 2:
p. 125.
Ames, LM. 1995. New species of cellulose destroying fungi. Mycologia 42: pp.
642-645.
Ames, LM. 1950. New species of cellulose destroying fungi. Mycologia 42: pp.
642-645.
Anuratha C., and Gnanamanickam S. (1990), Biological control of bacterial wilt
caused by Pseudomonas solanacearum.
Anikuma, T.B,K.T.P. Gowda. Possible use of the Trichoderma.
Bainier, G. 1910. Monographie des Chaetomium et des Chaetomium. Bull. Soc.
Mycol. Fr. 25: pp. 191-237.
Bordeau, M.A. and J.H Andrew. 1987. Factors influencing antagonism of

Chaetomiu golobosum to venturia inaequalis : A case study in failed biocontrol.
Phytopathology 77: pp. 1470-01475.
Chives, A. H. 1915. A monograph of the genera Chaetomium and Ascotricha. Mem.
Torrey Bot. Club. 14: pp. 155-240.
Cullen and cs; 1984 Chaetomium golobosum antogonizis the apple sab pathoge,
venturia and under field conditions. Canadian Journal of Botany 62: 1814-1818.
Doke, N.,(1997). Oxydative burst: Role in signal transduction and plant stress.
Oxidative stressand and the Molecular Bioology of Antioxydant Defanses cold
spring Harbor Labora, ventory Press.
Doke, N., Miura, Y., Chai, H.B. and Kawakita, K. (1991). Involement of action
oxygens induction of plant defense response against infection and injury. In:
active oxygen/oxidative stressand plant metabolism (eds E.J. Pell and
K.L>teffen). American Society of plant Physiology, Rockville, MD:84-96
Di-pietro, A., R.Kung, M, Gutrella and F.J. Schwinn. 1991. Parameters influencing
eficacy of Chaetomium globosum in control Pythium ultimum damping off of
sugar - beet. J. Plant Diseases and prtection 98, pp. 565-573.
Elad, Y., I. Chet, J.Kantan J.Trichoderma harzianum: A biocontrol agent effective
against Sclerotium rolfsii and Rhizoctoria solani. Phytopathology. Vol.
23


37.
38.
39.
40.
41.
42.

43.
44.


70(2),1980, pp. 119-121.
Geels and Schippers. (1983), Selection of Antagonistic Fluorescent Pseudomonas
sp. and their Root Colonization and Persistance following Treatment of Seed
Potato, Phytopath. Z, 108, pp. 193-206.
Heye, C.C. and J.H. Andrew 1983. Antagonism of Athelia bombacina and
Chaetomium globosum to the Scab Pathogen, Venturia naequalis. Phytopath. 73:
pp. 650-654.
International rubber research and development board (2007). Black stripe disease.
Rubber/.
Jayasuriya, K.E., Wijesundera, R.L.C., Jayasinghe, C.K. and B.I. Thennakoon (2004). A
comparative study of Phytophthora meadii isolates from rubber (Hevea brasiliensis)
plantations in Sri Lanka. Mycopathologia, Springer Netherlands. Pp: 125-132.

Kaewchai. S, Soytong. K and Hyde, K.D (2008). Mycofungicides and fungal
biofertilizers. Reviews, sritiques and new Ideas. Fungal disvesity. Page 25-50.
Karden Mulya., Minoru Watanabe., Masao Goto., Yuichi Takikawa., and Shinji
Tsuyumu. (1996), Suppression of Bacterial wilt Disease of Tomato by Rootdipping with Pseudomonas fluorescens PfG32 - The Role of Antibiotic
Substances and Siderophore Production, Ann. Phytopath. Soc. Japan 62, pp. 134140.
Kean. S, Soytong. K f Plant Proteand To-anun.C. (2010). Application of Biological
to control citrus root rot under field condition in Cambodia. Journal of
agriculture technology 2010. Page 219-230.
Kasem Soytong (1988). Identification of specis of Chaetomium in the Philippine s
and screening for their Biocontrol properties agains seed borne fungi of rice.
Doctor ò Philosophy ( plant phathology). Page 103.

45.

Lee, B.S; Lum and K.Y. (2004). Phytophthora diseases in Malaysia. In “Diversity and
Management of Phytopht


46.

Lukezic, F.L., W.M. Sackett, S.J. Fleischer, M.D. Orzolek, and F.E. Gildow. 1996.
Influence of the concentration of Erwinia tracheiphila cells on the development
of wilt symptoms in field grown cucumber and cantaloupe plants.
Phytopathology 86:123.
Mackiewicz, D., Gildow, F.E., Blua M., Fleischer, S. J., and Lukezic, F. L. 1998.
Herbaceous Weeds Are Not Ecologically Important Reservoirs of Erwinia
tracheiphila. Plant Disease. 82:521-529.
Manahar, PN., P.N. Thaoliyal and J.B. Scinclair. 1986. Potential biocontrol for
Ceylon. FAO plant Prot. Bull. 11: pp. 121-128.
Meyer, J.-M., and A. Stintzi. (1998), Iron metabolism and siderophores in
Pseudomonas and related species, In T. C. Montie, pp. 201-243.
Sarmah Satya Rajjan, Dutta prasantr and coworker. Microbial bioagents for
controlling disease of tea. 767-776.
Sherf, A. F., and MacNab, A. A. 1986. Cucurbits:Bacterial wilt. Pages 307-311 in:
VegetableDiseases and Their Control. 2nd ed. John Wiley and Sons Publishers,
New York.
Sequiera L. (1992), Bacterial wilt: Past, Present, and Future. Bacterial wilt ACIAR
proc, 45 (Hartman G.L., and Hayward A.C. eds), ACIAR, Canberra Australia,

47.
48.
49.
50.
51.
52.

24



53.
54.
55.
56.
57.
58.
59.
60.
61.
62.

63.
64.
65.
66.
67.

68.

pp. 12-.
Soytong, K. And T.H. Quimio. 1989. A taxonomic study on the philippine species of
Chaetomium . The philippine Agriculturist. 72: pp. 59-72.
Soytong, K. And T.H. Quimio. 1989. Antagonism of Chaetomium cupreum to
Piricularia oryzae: a case study to biocontrol of a rise blast disease. Thai
Phytopathology 9: pp. 28-33.
Soytong, K. 1991a; Species of Chaetomiumin Thailan soil; Thai Phytopathology; 11
86-94.
Soytong, K. 1992a. Antagonism of Chaetomium cupreum to Piricularia oryzae.

Journal of Plant Protecition in the Tropics. 9: pp. 17-24.
Soytong, K. 1994. Development of Chaetomium cupreum as a soil mycofungicide
for controlling tomato wilt. The Fifth International Mycological Congress.
August, pp. 14-21. Vancouver, British Columbia, Canada.
Soytong K. 1995. Chaetomium as a biocontrol agent against plant pathogens. The
XII International plant Congress. Hagne, Netherland, 2-7 july, 1995.
Soytong. K. And. 1996. Proc. 1st International Symposium on Boipesticides. Pp.
124-132.
Soytong, K, Usuwan P and cs. Integrated biological of Phytophthora rot of sweet
orange using mycofungicides in Thailand.
Trigalet A. (2002), Biological control of bacterial wilt caused by Pseudomonas
solanacearum. State of the Art and Understanding, Journal of Genral Plant
Pathology 68, pp. 125-231.
Thurton H.D. (1976), Resistance to bacterial wilt. In: Proceeding of the First
Iternational Planning Conference and Workshop on the Ecology and Control of
bacterial wilt caused by Ralstonia solanacearum. Raleigh, North Carolina, pp.
58-67.
Udagawa, S. 1973. There new Species from Thailand soil. Rep. Tottori Mycol. Inst.
10: pp. 429-435.
Umeda. 1981. Micotoxinn production by Chatomium spp. And related fungi, Can. J.
Bot. 27: pp. 766-772.
Von Arx, J.A., M. Dreyfuss and E. Muller. 1984. A revolution of Chaetomium and
the Chaetomia-ceae. Persoonia. 12: 169-179.
Von Arx, J.A., J. Guarro and M.J. Figuers. 1986. The Ascomycetes Genus
Chaetomium. Nova Hedwigia 84: pp. 1-162.
Ghahfarokhy, M.R., Goltapeh, E.M., Purjam, E., Pakdaman, B.S., Modarres Sanavy,
S.A.M. and Varma, A. – Potential of mycorrhiza-like fungi Trichoderma species
in biocontrol of Take-all Disease of wheat under greenhouse condition. 185-195.
Agricultural technology an internatinal journal (2011).
Shternshis, M., Tomilova, O., Shpayova, T. and Soytong, K. Evalution of

Ketomium-mycofungicide on Siberian isolates of phytopathogenic fungi. 247253. Agricultural technology an internatinal journal (2005).

Nêu và đánh giá việc với kinh nghiệm, tính ưu việt và khả năng đi trước của đối tác sẽ giúp giải
quyết vấn đề nghiên cứu của Nhiệm vụ hiện trong nước đang gặp khó khăn:
25


×