Tải bản đầy đủ (.doc) (9 trang)

chuyên đề dạy phân hóa đối tượng học sinh

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (106.56 KB, 9 trang )

CHUYÊN ĐỀ
TỔ CHỨC DẠY HỌC PHÂN HÓA CHO LỚP
CÓ NHIỀU ĐỐI TƯỢNG HỌC SINH ( KHỐI 1)
I. Lý do mở chuyên đề:
- Xuất phát từ những vướng mắc trong giảng dạy của giáo viên trong tổ.
- Tổ lại có thành viên mới xuống khối, sự nhìn nhận về việc dạy phân hóa trong
một tiết học còn có nhiều chiều hướng khác nhau.
- Nhằm nâng cao chuyên môn của GV trong tổ hơn nữa.
- Giúp GV nắm vững hơn cách thức tổ chức dạy học phân hóa đối với lớp có nhiều
đối tượng.
II. Thực trạng:
1. Thuận lợi:
- Được sự quan tâm của BGH chỉ đạo sâu sát về hoạt động chuyên môn.
- Đội ngũ giáo viên nhiệt tình trong giảng dạy.
- Học sinh chăm ngoan đi học đều đúng giờ, một số em có hứng thú trong
học tập.
- Đa số phụ huynh có quan tâm đến việc học của học sinh.
2. Khó khăn:
- Việc hiểu và dạy phân hóa đối tượng học sinh của mỗi giáo viên còn hạn
chế.
- Khi tổ chức dạy học phân hóa giáo viên chưa thống nhất được cách tổ chức
tiết học theo hình thức dạy phân hóa đối tượng học sinh, hệ thống bài tập, câu hỏi
đưa ra cho học sinh chưa có tác dụng phát huy khả năng của học sinh (có khi quá
khó, hoặc quá dễ).
- Trong cùng một thời gian ngắn các lớp khối 1 phải dạy 4 trình độ học sinh:
Khá giỏi, trung bình, yếu nên chất lượng chưa cao, học sinh được luyện tập ít.
- Khả năng tư duy suy luận của một số em còn hạn chế.
- Một số phụ huynh chưa thật sự quan tâm đến việc học của con em mình
dẫn đến có sự chênh lệch về trình độ.

III. Quan điểm, cơ sở lý luận:


Dạy học phân hoá là một quan điểm dạy học tập trung vào việc thiết kế giảng
dạy xuất phát từ tình hình thực tế của học sinh, dựa vào đặc điểm cá nhân, tâm lí,
sinh lí, nhu cầu, động cơ, hứng thú, nguyện vọng, điều kiện hoàn cảnh… của các
em mà tìm cách dạy cho phù hợp, giúp cho mọi học sinh đều có cơ hội phát triển
toàn diện năng lực tiềm tàng của bản thân.
1


Việc dạy học phân hóa đối tượng HS sẽ làm cho tiết học không bị nhàm chán,
HS không bị áp đặt theo khuôn mẫu định sẵn, tạo nhiều cơ hội cho HS sáng tạo và
phát triển tư duy.
Đặc thù của dạy học phân hóa là dạy sao cho vừa sức với đối tượng: Học sinh ở
mức độ khá, giỏi thì dạy sao cho các em hứng thú, đam mê với việc học; Đối với
học sinh trung bình thì tạo động lực để các em vươn lên; Với học sinh yếu, kém thì
phải bù đắp được chỗ hổng về kiến thức để lĩnh hội được kiến thức cơ bản. Như
vậy, dạy học phân hóa xuyên suốt và chi phối mọi phương pháp dạy học.
1.Phân loại học sinh:
Ngay từ đầu năm học, giáo viên dựa vào kết quả cuối năm học trước, kết
hợp với việc dạy hằng ngày trên lớp để phân loại học sinh theo trình độ (khá – giỏi,
trung bình, yếu). Sau đó GV chia học sinh ngồi theo nhóm đối tượng.
2. Các hình thức dạy học phân hoá:
-

Phân hoá theo hứng thú:

+ Căn cứ vào đặc điểm hứng thú học tập của học sinh để tổ chức cho học sinh
tìm hiểu, khám phá nhận thức.
+ Biện pháp: Phân nhóm theo các mức độ hứng thú cao, trung bình, thấp của
học sinh với các môn học, một số môn học, một môn học nào đó. Từ các mức độ
hứng thú này, giáo viên có thể giao các nhiệm vụ cho từng nhóm học sinh, từng

học sinh. Nhằm học sinh có hứng thú cao với môn học, lĩnh vực nào đó thì có
nhiệm vụ tìm tòi và độc lập sáng tạo, nhóm có cường độ thấp thì có nhiệm vụ làm
theo mẫu,...
-

Phân hoá theo sự nhận thức:

+Lấy sự phân biệt nhịp độ lĩnh hội làm căn cứ phân hoá. Nhịp độ được tính
bằng lượng thời gian chuyển từ hoạt động này sang hoạt động khác, từ nhiệm vụ
này sang nhiệm vụ khác. Lớp học có rất nhiều nhịp độ, nhưng chỉ có thể phân hoá
theo một số nhóm điển hình, chẳng hạn, nhóm có nhịp độ nhận thức nhanh, nhóm
có nhịp độ nhận thức trung bình, nhóm có nhịp độ nhận thức chậm. Tương ứng với
từng nhóm lại có các nhiệm vụ nhận thức và các phương pháp, biện pháp khác
nhau.
+ Biện pháp: Tìm hiểu, phân loại các mức độ nhận thức của học sinh để chia ra
các nhóm học sinh có cùng trình độ nhận thức. Sau đó, xác định các mục tiêu, đưa
ra các nhiệm vụ học tập với các mức độ khác nhau căn cứ vào trình độ của tùng
nhóm. Các tiêu chí đánh giá cũng cần có sự khác biệt trên cơ sở nắm rõ mức độ học
tập của các nhóm.
-

Phân hoá theo sức học:

+ Căn cứ vào trình độ học lực có thực của học sinh để tổ chức những tác động
sư phạm phù hợp với từng học sinh nhằm phát huy cao nhất tính tích cực học tập
của mỗi em. Dựa trên các trình độ khá, trung bình, yếu mà giáo viên giao cho học
sinh những nhiệm vụ tương ứng.
2



+Biện pháp: Tìm hiểu, phân loại học sinh theo sức học, kết quả học tập khác
nhau. Đưa ra những nhiệm vụ học tập, bài tập nhận thức phù hợp vói từng em. Có
thể tiến hành dạy học phân hoá theo sức học trong các môn học khác nhau ở trên
lớp với từng học sinh.
-

Phân hoá giờ học theo động cơ, lợi ích học tập của học sinh:

Để chọn các tác động dạy học giúp học sinh thấy được lợi ích của việc học mà
chủ động tích cực học tập. Với học sinh có nhu cầu tìm tòi, hiểu biết cao, cần xác
định nhiệm vụ học tập cao hơn và đưa thêm nhiều nội dung, tài liệu học tập cho
học sinh tự học. Với nhóm học sinh có nhu cầu học tập không cao, việc phân hoá
dạy học phải chú ý đến nhiệm vụ, nội dung cơ bản và bổ sung những vấn đề thực tế
giúp học sinh hào hứng học tập.
-

Phân hoá dạy học đối với học sinh có nhu cầu đặc biệt:

+Mục đích của giáo dục đặc biệt đối với HS có vấn đề là giúp các em chuẩn bị
cho cuộc sống hiện tại cũng như tuơng lai của chính các em. vì vậy, chương trình
học và phuơng pháp dạy học phải mang tính chức năng nhằm tạo cho các em khả
năng sống càng độc lập càng tổt.
+Ở mỗi HS khác nhau, nhu cầu học các môn học đường chức năng cũng sẽ khác
nhau, vì vậy, để xác định được cái gì là quan trọng cho mỗi HS, các chuyên gia và
giáo viên phải nghiên cứu kĩ hoạt động hằng ngày của HS, dự đoán các nhu cầu
tuơng lai của các em để lập một thứ tự các ưu tiên. Việc học các môn học đúng
chức năng sẽ giúp học sinh trở nên độc lập và tự chủ hơn khi ờ nhà cũng như ở
trường, tại nơi làm việc cũng như trong cộng đồng.
VI. Một số chú ý khi tổ chức dạy phân hoá cho lớp có nhiều đối tượng ( trình
độ khác nhau )

1. Sắp xếp lớp theo nhóm có cùng trình độ:
- Phân hóa hoạt động của học sinh theo nhóm cùng trình độ.
Trong một lớp học, trình độ kiến thức, khả năng tư duy của học sinh không
đồng đều vì vậy không thể áp dụng cách dạy đồng loạt. Cách dạy này hạn chế khả
năng nhận thức của học sinh. Học sinh khá giỏi không có điều kiện để phát triển.
Học sinh yếu kém cũng không có cơ hội để vươn lên. Vì thế, để phát huy tính tích
cực của người học đòi hỏi phải có sự phân hóa về trình độ, cường độ, tiến độ hoàn
thành nhiệm vụ học tập…
Theo đó, đối với học sinh trung bình trở xuống cần dạy học bám sát chuẩn kiến
thức, kỹ năng, tránh ôm đồm kiến thức dẫn đến quá tải cho học sinh. Đối với học
sinh khá, giỏi, căn cứ vào chuẩn kiến thức, kỹ năng để mở rộng cung cấp kiến thức,
phát huy tính sáng tạo ở học sinh.
Khi phân hóa học sinh theo nhóm cùng trình độ không nên gọi tên nhóm là:
Giỏi, Khá, Trung bình, Yếu để tránh sự tự cao, tự đại hoặc tự ti mặc cảm trong học
3


sinh. Giáo viên có thể khắc phục bằng cách đặt tên nhóm theo màu hoặc theo tên
con vật, loài hoa,…
2. Ra bài tập phân hóa, phân bậc (cấp độ), số lượng.
Ý đồ của việc ra bài tập phân hóa là để những học sinh khác nhau có thể tiến
hành những hoạt động khác nhau.
Có thể phân hoá về yêu cầu bằng cách sử dụng những mạch bài tập phân bậc.
Việc phân bậc hoạt động có thể dựa vào những căn cứ như: Sự phức tạp của đối
tượng hoạt động, nội dung của hoạt động....(độ khó)
Cũng có thể phân hoá về số lượng: Để lĩnh hội một kiến thức, rèn luyện một kỹ
năng nào đó, số học sinh khá, giỏi có thể cần nhiều bài tập cùng loại hơn số học
sinh Trung bình hoặc yếu. Vì thế, giáo viên cần ra đủ liều lượng bài tập như vậy
cho từng loại đối tượng học sinh. Những học sinh còn thừa thời gian, đặc biệt là
học sinh giỏi, sẽ nhận thêm những bài khác để đào sâu và nâng cao (Các bài tập

nên thiết kế theo tinh thần tổng hợp của nhiều bài tập nhỏ, các ý liên quan đến
nhau).
Ví dụ: Môn Học vần
Bài 31:

Ôn tập (trang 61)

HS giỏi điền được các tiếng vào ô trống, HS yếu nhìn vào bảng đọc lại.

tr
ng
ngh

u
tru
ngu

ua
trua
ngua

ư
trư
ngư

ưa
trưa
ngưa

i

tri

ia
tria

nghi

nghia

+ HS nắm được quy tắc ngh chỉ ghép được với e,ê,i.
+ ng ghép được với các âm còn lại.
*HS giỏi đọc được các từ ứng dụng và đoạn thơ.
+ Tìm được tiếng có vần GV yêu cầu
* HS yếu đánh vần từng tiếng – mỗi em 1 hoặc 2 tiếng.
* Kể chuyện: Khỉ và Rùa
- HS khá giỏi nhìn tranh có thể kể được 1,2 câu.
- HS TB yếu nhìn tranh nêu tên nhân vật.
Ví dụ: Môn Toán
Bài: Phép trừ trong phạm vi 7( trang 69 )
Bài 1: tất cả HS làm (HS TB, yếu làm cả bài ).
Bài 2: HS TB, yếu làm 2 cột, đọc lại bài
HS khá, giỏi làm cả bài
Bài 3:HS khá, giỏi làm nêu cách thực hiện 2 bước
HS TB , yếu làm 1 cột nêu lại cách làm
Bài 4: HS khá, giỏi nêu đề bài toán qua hình vẽ, ghi phép tính ô trống
4


HS TB, yếu đọc lại phép tính
Ví dụ: Môn Toán

Bài: Luyện tập (Trang 70)
Bài 1: HS TB, yếu làm
Bài 2: HS TB, yếu làm cột 1, 2
HS khá, giỏi làm thêm cột 3; nhận xét được tính chất giao hoán của phép cộng và
mối quan hệ giữa phép cộng và phép trừ.
Bài 3: HS TB, yếu làm cột 1, 3
HS khá, giỏi làm thêm cột 2
Bài 4: HS TB, yếu làm cột 1, 2
HS khá, giỏi làm thêm cột 3
Bài 5: HS khá, giỏi nêu bài toán.
HS TB nêu hoặc ghi phép tính
HS yếu đọc lại.
Ví dụ: Môn Toán
Bài: Phép trừ dạng 17 - 7 (Trang 112)
* Bài mới:
- HS TB, yếu nêu được kết quả trừ (kết hợp trực quan), biết đặt tính và ghi
kết quả tính theo cột dọc.
- HS khá, giỏi dựa theo phép trừ nêu thành bài toán, nhận xét được kết quả
hàng đơn vị bằng 0.
* Bài tập:
Bài 1: HS TB, yếu làm cột 1, 3, 4. HS khá, giỏi làm hết 4 cột.
Bài 2: HS TB, yếu làm cột 1, 3. HS khá, giỏi làm hết 4 cột.
Bài 4: - HS TB, yếu dựa vào tóm tắt điền được phép tính.
- HS khá, giỏi dựa vào tóm tắt nêu thành bài toán, điền nhanh phép tính.
3. Phân hóa mức độ độc lập hoạt động của trò bằng cách quan tâm cá biệt
đến từng học sinh.
Cần tăng cường cá thể hoá hoạt động học tập theo nhu cầu và khả năng của mỗi
học sinh. Các bài học được thiết kế thành một chuỗi nhiệm vụ phù hợp với khả
năng nhận thức của từng đối tượng người học. Như vậy học tập cá thể đáp ứng
được trình độ của người học, phù hợp với phong cách học của mỗi cá nhân.

Qua đó người học rèn luyện ý thức tự lực, ý thức trách nhiệm với kết quả học
tập của mình.
Ở hoạt động này, giáo viên giao cho học sinh những nhiệm vụ đã được phân
hóa (thường thể hiện qua các phiếu học tập tại lớp) như:
Phân hoá về số lượng bài tập cùng loại phù hợp với từng loại đối tượng để
cùng đạt một yêu cầu (Đáp ứng chuẩn kiến thức kĩ năng).
5


Phân hoá về nội dung bài tập, nội dung kiểm tra bài cũ,… để tránh đòi hỏi
quá cao đối với học sinh yếu kém và quá thấp đối với học sinh giỏi.
Phân hoá yêu cầu về tính độc lập, bài tập cho đối tượng yếu kém chứa nhiều
yếu tố dẫn dắt hơn đối tượng khá giỏi.
Phân hoá bài tập về nhà: Ra riêng những bài tập nhằm tạo tiền đề xuất phát
cho đối tượng yếu kém để chuẩn bị cho bài học sau. Cũng như ra riêng những bài
tập nâng cao cho đối tượng học sinh giỏi để xây dựng mũi nhọn học tập trong lớp
học.
4) Việc soạn giảng của giáo viên:
Đối với trường Tiểu học chúng ta hiện nay thì dạy học phân hóa theo sức
học của học sinh là chủ yếu
- Ở mỗi tiết dạy GV nghiên cứu nắm vững mục tiêu, nội dung và yêu cầu của
từng nhiệm vụ trong bài học để lựa chọn các phương pháp dạy học cũng như các
hình thức tổ chức, vận dụng vào từng tình huống cụ thể cho hiệu quả nhằm đạt
được mục tiêu của bài học. GV thực hiện cẩn thận và xem xét nhiều khía cạnh khác
nhau của các bài tập trong tài liệu hướng dẫn học tập và lựa chọn nội dung bài tập
nâng cao cho HS làm thêm.
-Khi chuẩn bị bài phải dự kiến các câu hỏi, các tình huống và các yêu cầu ở
từng mức độ khác nhau cho học sinh trong từng phần. Để áp dụng việc dạy phân
hoá đòi hỏi mỗi GV phải nghiên cứu kĩ về kiến thức, kĩ năng của mỗi bài học để
điều chỉnh tài liệu hướng dẫn học phù hợp với từng đối tượng HS trong lớp, trong

từng bài học cụ thể.
- Trong mỗi tiết dạy, GV thiết kế bài dạy đầy đủ, chi tiết và giảng dạy phân
hóa theo từng nội dung, quan tâm làm việc đều khắp với các đối tượng HS, kèm
cặp học sinh yếu, chăm bồi học sinh khá giỏi (bài tập giảm tải có thể giao riêng
cho học sinh Khá Giỏi làm thêm ở nhà, hoặc phát biểu cách làm trước lớp,…)
- Học sinh yếu làm một số bài tập có thể ít hơn số học sinh khá giỏi nhưng
vẫn bảo đảm đúng Chuẩn KT – KN, thực hiện đúng nội dung giảm tải, vừa sức với
học sinh. Bảo đảm học sinh Hiểu, Biết và Vận dụng đúng kiến thức bài đã học.
(Mỗi tiết học GV có thể kéo dài thêm 05 – 10 phút hoặc có thể chậm 2 - 3 bài dạy
so với các lớp khác nhưng không chậm quá 01 tuần so với khung kế hoạch thời
gian chung).
a. Hệ thống câu hỏi phân hoá khi soạn giáo án:
* HS trung bình, yếu:
- Câu hỏi tái hiện kiến thức, nhớ lại và trình bày lại điều đã học. (Học sinh
theo dõi văn bản ở SGK, đề bài tập, đề bài toán.. là trả lời được).
- Câu hỏi dễ, đơn giản và có thêm nhiều câu hỏi gợi mở.
* HS khá giỏi :
6


Câu hỏi khó hơn, câu hỏi yêu cầu cao, câu hỏi vận dụng đòi hỏi sự thông
hiểu, kĩ năng phân tích, tổng hợp, so sánh,…(Liên hệ bài học rút ra kết luận hoặc
quy tắc, công thức tính.....). Loại câu hỏi này sử dụng khi học sinh đã có kiến thức
cơ bản.
+ Học sinh khá giỏi bài tập ở dạng phức tạp hơn phù hợp với khả năng phát
triển của học sinh.
+ Hệ thống câu hỏi phải được GV chọn lọc như:
- Câu hỏi tạo tình huống có vấn đề,
- Câu hỏi giúp HS phát hiện kiến thức mới,
- Câu hỏi tạo điều kiện HS giải quyết vấn đề,

- Câu hỏi đào sâu kiến thức, khai thác kiến thức, vận dụng kiến thức vào thực
tiễn,…
+ Các câu hỏi có khó hơn một chút so với trình độ hiện tại của HS nhằm kích
thích HS tích cực suy nghĩ hơn.
*Bên cạnh đó, giáo viên cần quan tâm: Động viên học sinh nào đó có phần
thiếu tự tin, lưu ý học sinh này hay nhầm dấu, nhắc nhở học sinh kia đừng chủ
quan, hấp tấp, cách trình bày bài,...Với cách làm này, HS được cuốn hút tham gia
vào các hoạt động học tập do giáo viên tổ chức và chỉ đạo, thông qua đó các em tự
lực khám phá, tìm tòi kiến thức không thụ động trông chờ vào việc truyền thụ của
giáo viên. Hs được hoạt động, được trực tiếp quan sát, thảo luận, giải quyết vấn đề,
vận dụng kiến thức vào thực tế cuộc sống theo khả năng nhận thức, khả năng sáng
tạo của mình.
* GV cần mạnh dạn áp dụng đổi mới phương pháp và hình thức tổ chức dạy
học mới để nhằm phát huy sự linh hoạt, phát huy tính chủ động, tự quản, thi đua
tích cực học tập của học sinh. Tích cực dạy học bằng giáo án điện tử, khai thác sử
dụng tranh, ảnh, mô hình, vật thật để kích thích hứng thú học tập tích cực cho học
sinh.
b.Giao bài tập phân hóa cho các đối tượng học sinh:
Hệ thống bài tập khi soạn giáo án :
* Trong tiết học GV hệ thống bài tập từ dễ đến khó và yêu cầu từng học sinh
hoàn thành bài làm.
+ Học sinh khá, giỏi: làm bài tập SGK, các bài tập vận dụng nâng cao: GV
chú ý hướng dẫn tìm đọc thêm các tài liệu liên quan và biết so sánh, liên hệ, đối
chiếu.. . ( mức 3, mức 4)
+ Học sinh TB, Yếu bài tập ở dạng đơn giản. GV khuyến khích để các em
phấn đấu làm một phần bài tập có trình độ cao hơn. ( GV hướng dẫn đọc SGK để
nắm được những kiến thức cơ bản, làm các bài tâp ở SGK, khuyến khích làm các
bài tập khó ở SGK.) GV gợi ý, làm mẫu ( mức 1, mức 2)
Ví dụ: Môn Toán
Bài: Luyện tập chung (Trang 114)

Bài 1: HS TB, yếu làm bài theo yêu cầu đề. HS khá, giỏi nhận xét được các
số tăng hoặc giảm trên tia số.
Bài 2: HS TB, yếu làm. HS khá, giỏi có thể trả lời thêm câu hỏi mở rộng của GV.
7


Bài 3: (tương tự BT2) HS TB, yếu làm. HS khá, giỏi có thể trả lời thêm câu hỏi mở
rộng của GV.
Bài 4: HS TB, yếu làm cột 1, 3. HS khá, giỏi làm hết 3 cột.
Bài 5: HS TB, yếu làm cột 1, 3 và nêu được thứ tự tính. HS khá, giỏi làm hết 3 cột.
Ví dụ: Môn Toán
Bài: Bài toán có lời văn (Trang 115)
Bài 1: HS TB, yếu dựa vào tranh để điền được số thích hợp và đọc bài toán. HS
khá, giỏi bước đầu nêu được bài toán có lời văn gồm có các số và câu hỏi.
Bài 2: (Tương tự BT1) HS TB, yếu dựa vào tranh để điền được số thích hợp và đọc
bài toán. HS khá, giỏi bước đầu nêu được bài toán có lời văn gồm có các số và câu
hỏi.
Bài 3: HS TB nêu tiếp câu hỏi. HS khá, giỏi nêu được các câu hỏi khác nhau. HS
yếu đọc lại.
Bài 4: HS khá, giỏi nêu số cần điền và câu hỏi để hoàn thành bài toán. HS TB, yếu
đọc lại.
5.Kiểm tra, đánh giá:
+ Hình thức: Học sinh đánh giá học sinh; Giáo viên đánh giá học sinh....
+ GV đánh giá: Áp dụng đánh giá học sinh theo thông tư 22/2016 và văn bản
hợp nhất số 03 của Bộ GD&ĐT thường xuyên nhằm động viên, tuyên dương khích
lệ học sinh một cách kịp thời đặc biệt là đối tượng học sinh chậm tiến.
- HS trung bình yếu: đánh giá theo hướng động viên, khuyến khích ...
- Học sinh Giỏi đánh giá theo sự sáng tạo, vận dụng vào thực tiễn của các
em.
V. Kết luận:

Phân hoá dạy học phù hợp với học sinh sẽ tạo ra động lực học tập cho các
em, tạo điều kiện thuận lợi cho sự phát triển tối đa tư chất và năng lực của các học
sinh có năng khiếu.
Chỉ có phân hoá dạy học mới có khả năng loại trừ tình trạng quá tải đối với
học sinh.
* Tóm lại: Để tổ chức DHPH lớp có nhiều đối tượng HS thành công, người
giáo viên cần tạo mối quan hệ dân chủ giữa thầy và trò, giữa trò và trò để giúp HS
cởi mở, tự tin hơn. Đặc biệt, trong DHPH cần tuân thủ quy trình 4 bước gồm:
- Điều tra, khảo sát đối tượng HS trước khi giảng dạy.
- Lập kế hoạch dạy học, soạn bài từ việc phân tích nhu cầu của học sinh.
- Trong giờ dạy, giáo viên phải kết hợp nhiều phương pháp dạy học, lựa chọn
những hình thức tổ chức dạy học phù hợp với mục tiêu bài học.
- Kiểm tra, đánh giá sự tiến bộ của HS trong suốt quá trình giảng dạy là một
yêu cầu đòi hỏi sự tích cực, nhiệt tình và luôn được trau dồi, cải tiến kỹ năng sư
phạm của người GV.
Việc dạy học phân hóa đối tượng học sinh là một việc làm quan trọng để
giúp HS tiếp thu và chiếm lĩnh kiến thức, để làm được điều này đòi hỏi người giáo
8


viên phải tâm huyết và vận dụng hết sức linh hoạt, tuân thủ các yêu cầu trong quá
trình phân hóa thì sẽ đạt được mục tiêu và nâng cao chất lượng học tập của học
sinh.
………, ngày 18 tháng 02 năm 2019
Người báo cáo

9




×