BỘ GIÁO DỤC VÀ ĐÀO TẠO
TRƯỜNG ĐẠI HỌC KINH TẾ QUỐC DÂN
--- ---
BÀI TẬP LỚN
ĐƯỜNG LỐI CÁCH MẠNG CỦA ĐẢNG CỘNG SẢN VIỆT NAM
Đề bài:
1.
2.
Phân tích quan điểm Công nghiệp hóa gắn với hiện đại hóa, và Công
nghiệp hóa, hiện đại hóa gắn với phát triển kinh tế tri thức, bảo vệ tài
nguyên môi trường
Liên hệ thực tiễn
Hà Nội- /2020
1
A. PHÂN TÍCH QUAN ĐIỂM
Khái niệm công nghiệp hoá, hiện đại hóa
Đảng cộng sản Việt Nam tại Hội nghị Trung ương lần thứ bảy khóa VII (năm
1994) đã nêu quan điểm: “Công nghiệp hóa, hiện đại hóa là quá trình chuyển đổi
căn bản, toàn diện các hoạt động sản xuất kinh doanh, dịch vụ và quản lý kinh tế xã hội, từ sử dụng lao động thủ công là chính sang sử dụng một cách phổ biến sức
lao động với công nghệ, phương tiện, phương pháp tiên tiến hiện đại, dựa trên sự
phát triển của công nghiệp và tiến bộ khoa học công nghệ, tạo ra năng suất lao
động xã hội cao”.
I. CÔNG NGHIỆP HÓA GẮN VỚI HIỆN ĐẠI HÓA.
1. Tính tất yếu khách quan của công nghiệp hoá, hiện đại hóa
Nhiệm vụ quan trọng nhất của nước ta trong thời kỳ quá độ lên chủ nghĩa xã hội
không qua chế độ tư bản chủ nghĩa, là phải xây dựng cơ sở vật chất - kỹ thuật của
chủ nghĩa xã hội, trong đó có công nghiệp và nông nghiệp hiện đại, có văn hoá và
khoa học tiên tiến. Muốn thực hiện thành công nhiệm vụ quan trọng nói trên, nhất
thiết phải tiến hành công nghiệp hoá, tức là chuyển nền kinh tế nông nghiệp lạc
hậu thành nền kinh tế công nghiệp.
Chủ nghĩa xã hội muốn tồn tại và phát triển, cũng cần phải có một nền kinh tế tăng
trưởng và phát triển cao dựa trên lực lượng sản xuất hiện đại và chế độ công hữu
xã hội chủ nghĩa về tư liệu sản xuất. Cơ sở vật chất - kỹ thuật của chủ nghĩa xã hội
cần phải xây dựng trên cơ sở những thành tựu mới nhất, tiên tiến nhất của khoa học
và công nghệ. Cơ sở vật chất - kỹ thuật đó phải tạo ra được một năng suất lao động
xã hội cao. Công nghiệp hoá chính là quá trình tạo ra nền tảng cơ sở vật chất-kỹ
thuật đó cho nền kinh tế quốc dân xã hội chủ nghĩa.
Trong xu thế khu vực hoá và toàn cầu hoá về kinh tế đang phát triển mạnh mẽ,
trong điều kiện cách mạng khoa học - kỹ thuật và công nghệ hiện đại phát triển rất
nhanh chóng; những thuận lợi và khó khăn về khách quan và chủ quan, có nhiều
thời cơ và cũng có nhiều nguy cơ, vừa tạo ra vận hội mới, vừa cản trở, thách thức
nền kinh tế của chúng ta, đan xen với nhau, tác động lẫn nhau. Vì vậy, đất nước
chúng ta phải chủ động sáng tạo nắm lấy thời cơ, phát huy những thuận lợi để đẩy
nhanh quá trình công nghiệp hoá, tạo ra thế và lực mới để vượt qua những khó
khăn, đẩy lùi nguy cơ, đưa nền kinh tế tăng trưởng, phát triển bền vững.
2
2. Tác động của công nghiệp hóa - hiện đại hóa
- Công nghiệp hoá, hiện đại hóa ở nước ta trước hết là quá trình thực hiện mục tiêu
xây dựng nền kinh tế xã hội chủ nghĩa. Đó là một quá trình thực hiện chiến lược
phát triển kinh tế - xã hội nhằm cải tiến một xã hội nông nghiệp thành một xã hội
công nghiệp, gắn với việc hình thành từng bước quan hệ sản xuất tiến bộ, ngày
càng thể hiện đầy đủ hơn bản chất ưu việt của chế độ xã hội mới xã hội chủ nghĩa.
- Công nghiệp hoá, hiện đại hóa là quá trình tạo ra những điều kiện vật chất - kỹ
thuật cần thiết về con người và khoa học - công nghệ, thúc đẩy chuyển dịch cơ cấu
kinh tế nhằm huy động và sử dụng có hiệu quả mọi nguồn lực để không ngừng
tăng năng suất lao động làm cho nền kinh tế tăng trưởng nhanh, nâng cao đời sống
vật chất và văn hoá cho nhân dân, thực hiện công bằng và tiến bộ xã hội, bảo vệ và
cải thiện môi trường sinh thái.
- Công nghiệp hoá, hiện đại hóa tạo ra cơ sở vật chất để làm biến đổi về chất lực
lượng sản xuất, nhờ đó mà nâng cao vai trò của người lao động - nhân tố trung tâm
của nền kinh tế xã hội chủ nghĩa; tạo điều kiện vật chất cho việc xây dựng và phát
triển nền văn hoá Việt Nam tiên tiến, đậm đà bản sắc dân tộc.
- Công nghiệp hoá, hiện đại hóa tạo ra tiền đề kinh tế cho sự phát triển đồng bộ về
kinh tế - chính trị, văn hoá - xã hội, quốc phòng và an ninh.
II. CÔNG NGHIỆP HÓA, HIỆN ĐẠI HÓA GẮN VỚI PHÁT TRIỂN KINH TẾ
TRI THỨC VÀ BẢO VỆ TÀI NGUYÊN MÔI TRƯỜNG
1. Công nghiệp hóa, hiện đại hóa gắn với phát triển kinh tế tri thức.
a)
Khái niệm Kinh tế tri thức
Tổ chức Hợp tác và Phát triển kinh tế (OECD) đưa ra định nghĩa: Kinh tế tri thức
là nền kinh tế trong đó sự sản sinh ra, phổ cập và sử dụng tri thức giữ vai trò quyết
định nhất đối với sự phát triển kinh tế, tạo ra của cải, nâng cao chất lượng cuộc
sống.
b)
Tính tất yếu của việc gắn kết:
CNH, HĐH của Việt Nam được tiến hành bối cảnh xu hướng trên thế giới đang
chuyển mạnh lên nền kinh tế tri thức và xu hướng toàn cầu hóa kinh tế đã và đang
tác động sâu sắc với tốc độ cao đến đời sống kinh tế - xã hội của mọi quốc gia,
3
trong khi đó Việt Nam vẫn trong tình trạng của một nước có điểm xuất phát thấp,
nhiều yếu tố lạc hậu, phát triển thiếu bền vững. Trong bối cảnh nhiều cơ hội và
thách thức đan xen, để đi tới một nền kinh tế hiện đại, Việt Nam phải có những giải
pháp bứt phá. Sự lựa chọn giải pháp đẩy mạnh CNH, HĐH gắn với phát triển kinh
tế tri thức là cấp thiết.
-
Đẩy mạnh CNH, HĐH gắn với phát triển kinh tế tri thức là cách thức để đất
nước sớm thoát khỏi tình trạng lạc hậu
-
Đẩy mạnh CNH, HĐH gắn với phát triển kinh tế tri thức là yêu cầu bắt buộc
để tạo ra cơ sở vật chất-kỹ thuật của chủ nghĩa xã hội
-
Đẩy mạnh CNH, HĐH gắn với phát triển kinh tế tri thức bắt nguồn từ yêu
cầu hội nhập kinh tế quốc tế sâu hơn, đầy đủ hơn
-
Đẩy mạnh CNH, HĐH gắn với phát triển kinh tế tri thức còn do tác động
nhiều mặt của quá trình này đối với đời sống kinh tế, chính trị và xã hội
c)
Định hướng phát triển các ngành và lĩnh vực kinh tế trong quá trình CNH –
HĐH gắn với kinh tế tri thức.
•
Nông nghiệp
- Chuyển dịch mạnh cơ cấu nông nghiệp và kinh tế nông thôn theo hướng tạo ra
giá trị gia tăng ngày càng cao, gắn với công nghiệp chế biến và thị trường; đẩy
nhanh tiến bộ khoa học kỹ thuật và công nghệ sinh học vào sản xuất, nâng cao
năng suất, chất lượng và sức cạnh tranh của nông sản hàng hóa, phù hợp đặc điểm
từng vùng, từng địa phương
- Tăng nhanh tỷ trọng giá trị sản phẩm và lao động các ngành công nghiệp và dịch
vụ, giảm dần tỷ trọng sản phẩm và lao động nông nghiệp
•
Công nghiệp
- Khuyến khích phát triển công nghiệp công nghệ cao, công nghiệp chế tác, công
nghiệp phần mềm và công nghiệp bổ trợ có lợi thế cạnh tranh, tạo nhiều sản phẩm
xuất khẩu và thu hút nhiều lao động; phát triển một số khu kinh tế mở và đặc khu
kinh tế, nâng cao hiệu quả của các khu công nghiệp, khu chế xuất.
- Khuyến khích và tạo điều kiện để các thành phần kinh tế tham gia phát triển các
ngành công nghiệp sản xuất hàng tiêu dùng và hàng xuất khẩu; sản xuất tư liệu sản
4
xuất quan trọng theo hướng hiện đại; ưu tiên thu hút đầu tư của các tập đoàn kinh
tế lớn nước ngoài và các công ty lớn xuyên quốc gia.
- Tích cực thu hút vốn trong và ngoài nước để đầu tư thực hiện các dự án quan
trọng để khai thác dầu khí, lọc dầu và hóa dầu luyện kim, cơ khí chế tạo, hóa chất
cơ bản, phân bón, vật liệu xây dựng. Có chính sách hạn chế xuất khẩu tài nguyên
thô. Thu hút chuyên gia giỏi, cao cấp của nước ngoài và trong cộng đồng người
Việt định cư ở nước ngoài.
- Xây dựng đồng bộ kết cấu hạ tầng kỹ thuật kinh tế - xã hội nhất là các sân bay
quốc tế, cảng biển, đường cao tốc, đường ven biển, đường đông tây, mạng lưới
cung cấp điện, hạ tầng kỹ thuật và hạ tầng xã hội ở các đô thị lớn, hệ thống thủy
lợi, cấp thoát nước. Phát triển công nghiệp năng lượng gắn với công nghệ tiết kiệm
năng lượng. Tăng nhanh năng lực và hiện đại hóa bưu chính viễn thông.
•
Dịch vụ
- Tạo bước phát triển vượt bậc của các ngành dịch vụ, nhất là những ngành có chất
lượng cao, tiềm năng lớn và có sức cạnh tranh, đưa tốc độ phát triển của ngành
dịch vụ cao hơn tốc độ tăng GDP.
- Tận dụng tốt thời cơ hội nhập kinh tế quốc để tạo bước phát triển ngành “công
nghiệp không khói” này.
- Tiếp tục mở rộng và nâng cao chất lượng các ngành dịch vụ truyền thống như vận
tải, thương mại, ngân hàng, bưu chính viễn thông, du lịch. Phát triển mạnh các dịch
vụ phục vụ sản xuất nông, lâm, ngư nghiệp, phục vụ đời sống ở khu vực nông
thôn.
2. Công nghiệp hóa, hiện đại hóa gắn với bảo vệ tài nguyên môi trường.
a)
Tính tất yếu khách quan của việc gắn kết:
Bảo vệ môi trường là một trong những vấn đề sống còn của nhân loại; là nhân tố
bảo đảm sức khoẻ và chất lượng cuộc sống của nhân dân; góp phần quan trọng vào
việc phát triển kinh tế - xã hội, ổn định chính trị, an ninh quốc gia và thúc đẩy hội
nhập kinh tế quốc tế của nước ta.
Đất nước càng phát triển, công nghiệp hóa, hiện đại hóa càng đẩy mạnh thường
kèm theo nguy cơ gây ra ô nhiễm môi trường. Nếu không quan tâm phòng, chống
5
ngay từ đầu thì hiểm họa sẽ khôn lường. Trên thực tế đã có những quốc gia phát
triển công nghiệp hóa, hiện đại hóa quá nhanh mà không quan tâm đến bảo vệ tài
nguyên môi trường nên đã phải trả giá đắt cho vấn đề này. Quá trình công nghiệp
hóa thường kèm theo tốc độ đô thị hóa nhanh, mức độ phát thải lớn, tốc độ khai
thác tài nguyên thiên nhiên cũng tăng đến mức tối đa và kết cục là môi trường bị
hủy hoại do ô nhiễm mạnh, tài nguyên thì cạn kiệt ảnh hưởng đến sức khỏe cộng
đồng và đe dọa toàn bộ hệ sinh thái.
Chính vì vậy, đất nước muốn phát triển bền vững thì phải biết gắn công nghiệp
hóa, hiện đại hóa với bảo vệ tài nguyên môi trường.
b)
Chủ trương của Đảng
Ngày 15-11-2004, Bộ Chính trị có Nghị quyết 41- NQ/TW "Về bảo vệ môi
trường trong thời kỳ đẩy mạnh công nghiệp hóa-hiện đại hóa đất nước” đã khẳng
định bảo vệ môi trường vừa là mục tiêu, vừa là một nội dung cơ bản của phát triển
bền vững trong thời kỳ đẩy mạnh CNH-HĐH.Năm 2005, Quốc hội đã thông qua
Luật bảo vệ môi trường. Tại Đại hội Đảng lần thứ XI, nội dung BVMT được nâng
lên một tầm cao mới, gắn chặt với quá trình CNH-HĐH: ''Đưa nội dung bảo vệ môi
trường vào chiến lược, quy hoạch, kế hoạch phát triển ngành, lĩnh vực, vùng và các
chương trình dự án đầu tư''. Một điểm mới so với Đại hội X là đưa thêm nội dung
''chú trọng phát triển kinh tế xanh, thân thiện với môi trường; từng bước phát triển
năng lượng sạch, sản xuất sạch, tiêu dùng sạch”.
B. LIÊN HỆ THỰC TIỄN
Đối với Việt Nam, cùng với quá trình đổi mới, việc thực hiện các chủ trương,
đường lối về CNH, HĐH đã góp phần quan trọng trong quá trình phát triển, đưa
đất nước thoát nghèo và lạc hậu, nâng cao mức sống của người dân. Đánh giá
chung về thành tựu thực hiện CNH, HĐH ở Việt Nam trong những năm qua có thể
khái quát trên một số nét như sau:
-
Phát triển văn hóa, thực hiện tiến bộ và công bằng xã hội: Cùng với thúc đẩy
tăng trưởng, Việt Nam cũng đã giải quyết có hiệu quả mối quan hệ giữa tăng
trưởng kinh tế với phát triển văn hoá, thực hiện tiến bộ và công bằng xã hội.
Công tác giải quyết việc làm, xoá đói giảm nghèo vượt mục tiêu phát triển
Thiên niên kỷ. Tổng sản phẩm trong nước (GDP) năm 2019 đạt kết quả ấn
tượng, tăng trưởng kinh tế năm 2019 đạt 7,02%, vượt mục tiêu của Quốc hội
đề ra từ 6,6-6,8%. Đây là năm thứ hai liên tiếp tăng trưởng kinh tế Việt Nam
6
đạt trên 7% kể từ năm 2011. Mức tăng trưởng năm nay tuy thấp hơn mức
tăng 7,08% của năm 2018 nhưng cao hơn mức tăng của các năm 2011 2017.
-
Công nghệ sản xuất công nghiệp đã có bước thay đổi về trình độ theo hướng
hiện đại. Tỷ trọng công nghiệp chế tạo, chế biến trong giá trị sản xuất công
nghiệp tăng, tỷ trọng công nghiệp khai thác giảm dần; cơ cấu xuất khẩu
chuyển dịch phù hợp với tiến trình công nghiệp hóa, hiện đại hóa.
-
Cơ cấu kinh tế theo ngành dần chuyển dịch theo hướng giảm tỷ trọng ngành
nông - lâm - ngư nghiệp, tăng tỷ trọng các ngành công nghiệp và dịch vụ,
xây dựng. Đóng góp vào kết quả tăng trưởng GDP 2016-2018 là tăng trưởng
của khu vực công nghiệp và xây dựng đạt 7,72%, dịch vụ đạt 7,26%; khu
vực nông, lâm nghiệp và thủy sản chỉ đạt 2,52%. Theo dự kiến của Bộ
KH&ĐT, tăng trưởng GDP bình quân giai đoạn 2019-2020 đạt 6,9%, trong
đó, khu vực nông, lâm nghiệp và thủy sản đạt 3,5%; công nghiệp và xây
dựng đạt 7,89%; dịch vụ đạt 7,39%.
-
Tăng trưởng kinh tế đã và đang dần dịch chuyển sang chiều sâu. Điều này
thể hiện rõ ở mức đóng góp của năng suất các nhân tố tổng hợp (TFP) trong
tăng trưởng của nền kinh tế ngày một lớn. Tính chung cả giai đoạn 20112015, đóng góp của TFP vào tăng trưởng GDP là 33,58%; đóng góp của vốn
là 51,2%; đóng góp của lao động là 15,22%. Trong 3 năm đầu của giai đoạn
2016 - 2020, đóng góp của TFP vào tăng trưởng GDP tăng lên đáng kể, đạt
42,18% - tăng khoảng 8,6% so với giai đoạn 2011 - 2015.
-
Công nghiệp hóa nông nghiệp, nông thôn có chuyển biến; nông nghiệp phát
triển toàn diện hơn theo hướng khai thác những lợi thế của nền nông nghiệp
nhiệt đới; ứng dụng khoa học - công nghệ và mức độ cơ giới hóa được nâng
lên; xây dựng nông thôn mới có nhiều tiến bộ”. Đẩy mạnh tiến trình CNHHĐH nông nghiệp nông thôn là động lực lớn phát triển các làng nghề. Theo
thống kê, cả nước có gần 1500 làng nghề và tạo ra 11 triệu việc làm thường
xuyên và không thường xuyên
-
Hội nhập kinh tế quốc tế được đẩy mạnh. Việt Nam đã tham gia hội nhập
trên tất cả các cấp độ, từng bước tham gia vào mạng sản xuất và chuỗi giá trị
cung ứng, đưa hoạt động của doanh nghiệp và nền kinh tế vào môi trường
cạnh tranh toàn cầu. Xuất khẩu tăng nhanh và là động lực quan trọng cho
tăng trưởng kinh tế. Tốc độ tăng xuất khẩu bình quân thời kỳ 2001 - 2005
7
đạt 17,9%, thời kỳ 2006 - 2010 đạt 18,27% và thời kỳ 2011 - 2015 ước đạt
17,96%.
Tuy nhiên, bên cạnh những thành công nói trên, quá trình thực hiện đổi mới và đẩy
mạnh CNH, HĐH ở Việt Nam thời gian qua cũng đang phải đối mặt với một số
vấn đề, trong đó, đáng chú ý là:
-
Tuy nền kinh tế đạt được tốc độ tăng trưởng khá cao và liên tục trong những
năm đổi mới, nhưng sự phát triển không bền vững, hiệu quả chưa cao.
-
Chuyển dịch cơ cấu kinh tế bao gồm cả cơ cấu ngành, cơ cấu lao động đã
“chững lại” trong nhiều năm nhưng chậm có sự điều chỉnh phù hợp
-
Các ngành dịch vụ thâm dụng tri thức, khoa học công nghệ phát triển còn
chậm.
-
Nền kinh tế vẫn ở trạng thái nhập siêu. Cơ cấu mặt hàng xuất nhập khẩu
chưa thể hiện đầy đủ mục tiêu xây dựng nền kinh tế tự chủ và hội nhập kinh
tế quốc tế.
-
CHH-HĐH sẽ kéo theo đô thị hóa. Dân số đô thị năm 1996 là 19%, năm
2010 đạt 30% và dự kiến tăng lên 45% vào 2020. Đây thực sự là sức ép lớn
về môi trường trong quản lý đô thị. Theo nghiên cứu của Bộ KH-CN, các đô
thị Hà Nội, TP. Hồ Chí Minh, Việt Trì, Ninh Binh, Quy Nhơn, Nha Trang,
Biên Hòa... là những tụ điểm phát thải các chất độc hại. Riêng Hà Nội, mỗi
năm thải vào môi trường nước khoảng 3.600 tấn chất hữu cơ, 320 tấn dầu
mỡ, hàng chục tấn kim loại nặng...
-
283 khu công nghiệp (KCN) với hơn 550.000m3 nước thải/ngày, đêm; 615
cụm công nghiệp (CCN) trong đó chỉ khoảng hơn 5% có hệ thống xử lý
nước thải tập trung; các CCN còn lại, hoặc các cơ sở sản xuất tự xử lý nước
thải hoặc xả trực tiếp ra môi trường.
-
Hơn 500.000 cơ sở sản xuất trong đó có nhiều loại hình sản xuất ô nhiễm
môi trường, công nghệ sản xuất lạc hậu;
-
Có 787 đô thị với 3.000.000 m3 nước thải ngày/đêm nhưng hầu hết chưa
được xử lý; lưu hành gần 43 triệu mô tô và trên 2 triệu ô tô tạo ra nguồn phát
thải lớn đến môi trường không khí.
8
-
Hàng năm, có 100.000 tấn hóa chất bảo vệ thực vật được sử dụng. Trong
đó, khoảng 80% lượng thuốc bảo vệ thực vật đang được sử dụng không
đúng quy định; hiệu suất sử dụng chỉ đạt 25-60%; công tác thu gom, lưu giữ
và xử lý bao bì chưa được quan tâm, nhiều nơi thải bỏ ngay tại đồng ruộng
gây phát sinh mùi, khí thải.
-
Hơn 23 triệu tấn rác thải sinh hoạt, 7 triệu tấn chất thải rắn công nghiệp, hơn
630 nghìn tấn chất thải nguy hại; hiện có 458 bãi chôn lấp rác thải, trong đó
có 337 bãi chôn lấp không hợp vệ sinh; có hơn 100 lò đốt rác sinh hoạt công
suất nhỏ, có nguy cơ phát sinh khí dioxin, furan.
Một số giải pháp:
-
Đẩy mạnh thực hiện chủ trương “khoa học - công nghệ là nền tảng, động lực
của CNH, HĐH”, gắn với phát triển kinh tế tri thức và chủ động tích cực hội
nhập quốc tế
-
Khai thác và sử dụng có hiệu quả các nguồn lực, gắn với đẩy mạnh hợp tác
quốc tế nhằm tạo nguồn vốn cho quá trình CNH, HĐH đất nước.
-
Đổi mới giáo dục - đào tạo, nâng cao chất lượng nguồn nhân lực, đồng thời
phát triển, ứng dụng tiến bộ khoa học - công nghệ, đặc biệt là công nghệ
sinh học, công nghệ vật liệu mới, công nghệ năng lượng sạch, công nghệ
thông tin phục vụ CNH, HĐH đất nước.
-
Đẩy mạnh cơ cấu lại các ngành dịch vụ, duy trì tốc độ tăng trưởng các ngành
dịch vụ cao hơn tốc độ tăng trưởng GDP
-
Đổi mới và hoàn thiện chính sách và nâng cao năng lực thực thi pháp luật về
môi trường
Phần Tài liệu tham khảo:
(1) Đảng Cộng sản Việt Nam. Văn kiện Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ X. Nxb
Chính trị Quốc gia, Hà Nội, 2006, tr.23.
9
(2) Đảng Cộng sản Việt Nam. Sđd., tr. 87-88.
(3) Đảng Cộng sản Việt Nam. Cương lĩnh xây dựng đất nước trong thời kỳ quá độ
lên chủ nghĩa xã hội. Nxb Sự thật, Hà Nội, 1991, tr.9.
(4) Nguyễn Phú Trọng - Trần Đình Nghiêm. Nghiên cứu Nghị quyết Hội nghị đại
biểu toàn quốc giữa nhiệm kỳ của Đảng. Nxb Chính trị Quốc gia, Hà Nội, 1994,
tr.34.
(5) Đảng Cộng sản Việt Nam. Văn kiện Hội nghị lần thứ bảy Ban Chấp hành
Trung ương khoá VII. Hà Nội, 1994, tr.23-24.
(6) Đảng Cộng sản Việt Nam. Nghị quyết Hội nghị lần thứ hai Ban Chấp hành
Trung ương Đảng khóa VIII. Trích theo: Các nghị quyết của Trung ương Đảng
1996 - 1999. Nxb Chính trị Quốc gia, Hà Nội, 2000, tr.46.
(7) Đảng Cộng sản Việt Nam. Văn kiện Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ IX. Nxb
Chính trị Quốc gia, Hà Nội, 2001, tr.91.
(8) Đảng Cộng sản Việt Nam. Văn kiện Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ X. Nxb
Chính trị Quốc gia, Hà Nội, 2006, tr.112.
(9) Đảng Cộng sản Việt Nam. Sđd., tr. 27.
(10) Đảng Cộng sản Việt Nam. Sđd., tr. 25.
(11) Báo Tuổi trẻ cuối tuần, số 43, 2006, ngày 29 – 10 – 2006, tr.34.
10