TRƯỜNG ĐẠI HỌC KINH TẾ QUỐC DÂN
Bài tập lớn môn:
Đường lối Cách mạng của Đảng Cộng sản Việt Nam
Đề bài:
1. Phân tích quan điểm Công nghiệp hóa gắn với hiện đại hóa, và Công
nghiệp hóa, hiện đại hóa gắn với phát triển kinh tế tri thức, bảo vệ tài
nguyên môi trường.
2. Liên hệ thực tiễn.
1
I.
Quan niệm về công nghiệp hóa, hiện đại hóa và kinh tế tri thức
1. Quan niệm về công nghiệp hóa
Thực tế lịch sử cho thấy, những nước đi đầu về CNH như Anh, Pháp và một số
nước Tây Âu khác vào thời điểm cuối thế kỷ XVIII, đầu thế kỷ XIX, đi liền với
cuộc cách mạng công nghiệp lần thứ nhất với công nghệ chủ đạo là máy hơi nước.
Trong điều kiện đó, CNH được hiểu là quá trình thay thế lao động thủ công bằng
lao động sử dụng máy móc, quá trình chuyển nền kinh tế từ nông nghiệp là chủ
yếu lên công nghiệp, biến một nước nông nghiệp truyền thống thành nước công
nghiệp.
Những biểu hiện đầu tiên của CNH được gắn với nội dung của cuộc cách mạng
công nghiệp lần thứ nhất. Đó là: (i) Chuyển chỗ làm việc từ gia đình vào các công
xưởng trên quy mô lớn; (ii) Tập trung dân cư ở các khu đô thị; (iii) Thay thế hệ
thống kỹ thuật thủ công dựa vào gỗ, sức cơ bắp, sức nước, sức gió và sức kéo động
vật bằng một hệ thống kỹ thuật cơ khí với nguồn động lực là máy hơi nước và
nguồn nguyên liệu, nhiên liệu và năng lượng mới là sắt và than đá, tạo ra sự đột
phá trong phát triển lực lượng sản xuất, tạo bước phát triển vượt bậc của công
nghiệp; (iv) Tạo ra những công việc kinh doanh mới nhờ có được những mạng lưới
giao thông, vận tải và thông tin liên lạc mới; (v) Tăng mạnh quy mô của thị trường
và việc sử dụng tín dụng, ngân hàng và các dịch vụ tài chính có liên quan; và (vi)
Áp dụng rộng rãi các phát minh mới. Với những biểu hiện đó, CNH còn được hiểu
là quá trình nâng cao tỷ trọng của công nghiệp trong toàn bộ các ngành kinh
tế của một vùng hay một nền kinh tế, quá trình chuyển nền kinh tế dựa chủ yếu vào
nông nghiệp lên nền kinh tế dựa chủ yếu vào công nghiệp. Đây không chỉ là quá
trình chuyển biến về kinh tế mà còn chuyển biến cả về văn hóa và xã hội để đạt tới
một xã hội mới - xã hội công nghiệp.
2. Quan niệm về hiện đại hóa
Theo cách hiểu thông thường, hiện đại hóa (HĐH) là quá trình “làm cho mang tính
chất của thời đại ngày nay”, Đó là quá trình biến đổi từ tính chất truyền thống cũ
lên trình độ tiên tiến của thời đại hiện nay.
Theo ý nghĩa về kinh tế - xã hội, HĐH là quá trình chuyển dịch căn bản từ xã hội
truyền thống lên xã hội hiện đại, quá trình làm cho nền kinh tế và đời sống xã hội
mang tính chất và trình độ của thời đại ngày nay.
HĐH về kinh tế vừa có sự thay đổi về tính chất, vừa có tính xác định về thời gian.
Giai đoạn đầu của hiện đại hóa được xác định trùng với thời kỳ diễn ra cuộc cách
2
mạng công nghiệp lần thứ nhất (còn gọi là thời kỳ CNH). Trong giai đoạn này,
CNH là nội dung cốt lõi của HĐH.
Đối với các nước phát triển, HĐH là quá trình chuyển dịch từ xã hội dựa trên nền
kinh tế công nghiệp lên xã hội dựa trên nền kinh tế tri thức
Đối với các nước đang phát triển, HĐH là quá trình tăng tốc, rút ngắn lộ trình phát
triển để đuổi kịp các nước đi trước và phát triển hơn. Do tiến hành CNH trong bối
cảnh mới của thế giới nên bên cạnh việc dựa vào các nguồn lực trong nước, các
nước đang phát triển còn tranh thủ các nguồn lực từ bên ngoài thông qua thu hút
đầu tư để tìm kiếm nguồn vốn và công nghệ mới. Đây chính là kiểu CNH rút ngắn
hiện đại. Nó khác với kiểu CNH rút ngắn cổ điển đã từng tiến hành ở các nước như
Liên Xô (cũ) và Nhật Bản vào cuối thế kỷ XIX đầu thế kỷ XX trước đây.
3. Quan niệm về kinh tế tri thức
Bên cạnh cách giải thích truyền thống về lịch sử phát triển nhân loại tiếp cận từ
phương thức sản xuất xã hội, vào đầu những năm 90 thế kỷ XX nhiều nhà khoa
học còn phân chia giai đoạn lịch sử văn minh nhân loại căn cứ vào trình độ phát
triển của lực lượng sản xuất. Theo cách này, nhân loại đã trải qua nền văn minh
nông nghiệp (từ khi xuất hiện xã hội loài người đến những năm 70 của thế kỷ
XVIII) lên nền văn minh công nghiệp (từ những năm 70 thế kỷ XVIII đến nay) và
đang trong giai đoạn quá độ chuyển lên một nền văn minh cao hơn gọi là nền văn
minh trí tuệ. Trong đó, nền kinh tế được chuyển từ kinh tế nông nghiệp lên kinh tế
công nghiệp và đang quá độ chuyển lên kinh tế tri thức.
Vào đầu những năm 90 thế kỷ XX, do nhận thức về vai trò quan trọng hàng đầu
của sản xuất, phân phối và sử dụng tri thức trong tăng trưởng kinh tế, các nhà khoa
học và tổ chức thực tiễn đã sử dụng thuật ngữ “kinh tế tri thức”. Thuật ngữ này
nhanh chóng được thừa nhận và đưa vào sử dụng rộng rãi. Tuy đã có nhiều quan
niệm và giải thích khác nhau về thuật ngữ này, song các nhà khoa học đều có sự
thống nhất trong nhận thức về bản chất của nền kinh tế tri thức khác với hai nền
kinh tế trước nó. Nếu trong quá trình sản xuất của cải của nền kinh tế nông nghiệp
dựa chủ yếu vào sức cơ bắp của con người và tài nguyên thiên nhiên, còn trong nền
kinh tế công nghiệp tuy đã có sự trợ giúp của máy móc nhưng sức cơ bắp của con
người và tài nguyên thiên nhiên vẫn giữ trọng yếu, thì trong nền kinh tế tri thức, tri
thức đóng vai trò quyết định hàng đầu đối với sự phát triển kinh tế - xã hội của một
quốc gia.
II.
Công nghiệp hóa, hiện đại hóa gắn với phát triển kinh tế tri thức
3
Bước vào thế kỷ XXI, nền kinh tế thế giới được phát triển theo xu hướng bao trùm
là sự phát triển của kinh tế tri thức và xu hướng toàn cầu hóa trong đó sự phát triển
kinh tế tri thức là cấp thiết đối với mọi quốc gia.
Sự phát triển của kinh tế tri thức
Phát triển kinh tế tri thức là xu hướng dựa trên trình độ rất cao của lực lượng sản
xuất hơn hẳn so với kinh tế công nghiệp. Theo xu hướng này, nền kinh tế thế giới
đang biến đổi sâu sắc và toàn diện cả về trình độ công nghệ, ngành sản xuất và cơ
cấu sản phẩm. Tri thức khoa học và công nghệ, kỹ năng của con người là những
yếu tố quyết định nhất của sản xuất và trở thành lực lượng sản xuất quan trọng
hàng đầu. Những yếu tố đó trở thành nguyên nhân trực tiếp của mọi biến đổi trong
đời sống kinh tế - xã hội thông qua việc tạo ra những ngành sản xuất mới với
những công nghệ mới, phương pháp sản xuất mới, những vật liệu và nguồn năng
lượng mới với những ưu thế vượt trội so với những công cụ, nguyên liệu, năng
lượng và phương pháp truyền thống do nền kinh tế công nghiệp tạo ra.
Với xu hướng này, tuy vai trò của con người trong lực lượng sản xuất không thay
đổi, họ vẫn là chủ thể của quá trình sản xuất, sáng tạo và áp dụng những thành tựu
mới của khoa học và công nghệ, nhưng tính chất hoạt động và yêu cầu đặt ra đối
với họ đã có sự thay đổi căn bản so với người lao động trong nền kinh tế nông
nghiệp và nền kinh tế công nghiệp. Trong nền kinh tế công nghiệp, cường độ lao
động của con người đã được giảm nhẹ đáng kể nhờ sự trợ giúp của máy móc, thiết
bị ngày càng hiện đại, để sử dụng chúng có hiệu quả, người lao động phải có sự
hiểu biết về tính năng, tác dụng của máy móc đó và về quá trình sản xuất nói
chung. Trong nền kinh tế tri thức, người lao động là người lao động trí óc, họ vừa
nghiên cứu vừa sản xuất, sản phẩm của họ là những phát minh được ứng dụng
ngay vào sản xuất. Tri thức khoa học và công nghệ là yêu cầu hàng đầu đối với
người lao động.
Trên thực tế, xu hướng phát triển kinh tế tri thức đã được khởi động cách đây hàng
chục năm, nhất là từ cuối những năm 70 thế kỷ XX khi trên thế giới bắt đầu diễn ra
cuộc cách mạng khoa học và công nghệ hiện đại. Theo xu hướng này, đến nay bên
cạnh những phát minh mới trong khoa học cơ bản, con người đã đi rất xa trong
việc sáng tạo ra các công cụ sản xuất mới (máy tính điện tử, máy tự động, hệ thống
máy tự động, robot..), những năng lượng mới (nguyên tử, nhiệt hạch, mặt trời, thủy
triều, gió…), vật liệu mới (pô-ly-me, vật liệu tổ hợp composite, gốm cao cấp như
siêu bền, siêu cứng, siêu dẫn…), công nghệ sinh học (có những đột phá phi thường
trong công nghệ di truyền tế bào, vi sinh, enzim… góp phần giải quyết nạn đói,
chữa bệnh), nông nghiệp (tạo được cuộc cách mạng xanh trong nông nghiệp: cơ
khí hóa, điện khí hóa .. lai tạo giống mới, không sâu bệnh, nhờ đó con người đã
4
khắc phục được nạn đói), giao thông vận tải và thông tin liên lạc (máy bay siêu âm,
tàu hỏa siêu tốc, cáp sợi thủy tinh quang dẫn,… truyền hình trực tiếp, điện thoại di
động, công nghệ chinh phục vũ trụ (vệ tinh nhân tạo, thám hiểm mặt trăng, du hành
vũ trụ…), công nghệ thông tin phát triển và bùng nổ mạnh trên toàn cầu, mạng
thông tin máy tính toàn cầu (Internet) ứng dụng sâu rộng trong mọi ngành kinh tế
và xã hội. Cuộc cách mạng khoa học và công nghệ hiện đại chính là bước quá độ
chuyển nền kinh tế công nghiệp lên nền kinh tế tri thức
Bối cảnh của kinh tế thế giới đã và đang làm xuất hiện những cơ hội mới và thời cơ
mới cho sự phát triển nhảy vọt của nước đi sau, tiến hành CNH muộn như Việt
Nam.
III.
Công nghiệp hóa, hiện đại hóa gắn với bảo vệ tài nguyên môi trường
Nước nào cũng vậy, phát triển công nghiệp thường kèm theo nguy cơ gây ra ô
nhiễm môi trường. Nếu không quan tâm phòng, chống ngay từ đầu thì hiểm họa sẽ
khôn lường. Trên thực tế đã có những quốc gia phát triển công nghiệp quá nhanh
đã phải trả giá đắt cho vấn đề này. Quá trình công nghiệp hóa thường kèm theo tốc
độ đô thị hóa nhanh, mức độ phát thải lớn, tốc độ khai thác tài nguyên thiên nhiên
cũng tăng đến mức tối đa và kết cục là môi trường bị hủy hoại do ô nhiễm mạnh,
tài nguyên thì cạn kiệt ảnh hưởng đến sức khỏe cộng đồng và đe dọa toàn bộ hệ
sinh thái.
Phát triển công nghiệp phải đảm bảo phát triển bền vững
Cụm từ “Phát triển bền vững” đã và đang trở thành tuyên ngôn và chiến lược hành
động của nhiều quốc gia trên thế giới. Kể từ Hội nghị Stockhom năm 1987 đến Hội
nghị Rio de Janeiro năm 1992 và Johanesbour năm 2002 thì trên 200 quốc gia
tham gia đã xác định vấn đề môi trường là yếu tố quyết định cho phát triển bền
vững. Ngày nay, bên cạnh những thành tựu kinh tế thì thế giới đang phải đối mặt
với nhiều thách thức về đói nghèo, thiên tai, thiếu năng lượng và nguyên liệu, bệnh
tật và suy thoái môi trường. Các nước ngày càng nhận thức rõ hơn các nguy cơ
tiềm ẩn đe dọa đến sự phát triển bền vững, hệ quả của quá trình công nghiệp hóa
thiếu cân nhắc về môi trường. Các chính phát triển bền vững sẽ giúp cho các ngành
kinh tế có sự cân nhắc sử dụng các nguồn lực sao cho tiết kiệm và hiệu quả nhất.
Các chính sách phát triển bền vững là công cụ điều chỉnh hướng tới những tư duy
cân bằng hơn trong cách thức giải quyết và đáp ứng các mục tiêu kinh tế - xã hội
và môi trường, nhằm tạo ra những tiền đề phát triển trong tương lai.
Phát triển công nghiệp xanh - giải pháp tích cực ứng phó với biến đổi khí hậu
5
Hiện nay, biến đổi khí hậu toàn cầu không còn là dự báo mà đã trở thành mối đe
dọa gây ra nhiều thảm họa và tai biến thiên nhiên trên toàn thế giới
Công nghiệp xanh đang được ứng dụng và phát triển mạnh mẽ ở Mỹ, Châu Âu,
Nhật Bản, Hàn Quốc… Công nghiệp Xanh là một chiến lược hoạt động mà các
ngành công nghiệp tại các quốc gia ở tất cả các giai đoạn phát triển có thể sử dụng
để đạt được phát triển bền vững bằng cách tách tăng trưởng kinh tế ra khỏi việc sử
dụng quá mức tài nguyên và gây ô nhiễm môi trường. Các ngành công nghiệp xanh
sẽ giảm thiểu lượng chất thải phát thải, sử dụng năng lượng một cách hiệu quả và
triển khai sử dụng các nguồn tài nguyên có thể tái tạo làm nguyên liệu cũng như
năng lượng đầu vào. Ngoài ra, các ngành công nghiệp xanh còn cung cấp hàng hóa
và dịch vụ môi trường, như quản lý chất thải, năng lượng tái tạo, v.v... theo cách có
thể dự đoán được để đảm bảo rằng môi trường làm việc, cộng đồng địa phương và
thiên nhiên nói chung được an toàn trước những rủi ro nguy hiểm về môi trường.
Công nghiệp Xanh là một cách tiếp cận toàn diện có tác động lan tỏa rộng rãi, bắt
đầu và tập trung vào công nghiệp, nhưng có liên quan đến tất cả mọi mặt của xã
hội. Sáng tạo và đổi mới kỹ thuật là động lực cho các ngành công nghiệp xanh của
tương lai, sẽ là tác nhân xúc tiến việc làm xanh, tăng trưởng trong tương lai, và
phát triển bền vững hơn.
IV.
Liên hệ thực tiễn tới Việt Nam
a. Công nghiệp hóa, hiện đại hóa gắn với phát triển kinh tế tri thức
ở Việt Nam
Mục tiêu của CNH, HĐH là làm cho nước ta sớm trở thành một nước công nghiệp
phát triển. Đại hội lần thứ XI của Đảng xác định: ra sức phấn đấu để đến
năm 2020 Việt Nam cơ bản trở thành nước công nghiệp, với tỷ trọng ngành công
nghiệp vượt trội hơn các ngành khác. Mức tăng trưởng tổng sản phẩm trong nước
(GDP) bình quân 7-8%/năm với tỷ trọng công nghiệp và dịch vụ chiếm khoảng
85% GDP. Giá trị sản phẩm công nghệ cao và sản phẩm ứng dụng công nghệ đạt
khoảng 45% trong tổng GDP. Giá trị sản phẩm công nghiệp chế tạo chiếm khoảng
40% trong tổng giá trị sản xuất công nghiệp. Nông nghiệp có bước phát triển theo
hướng hiện đại, hiệu quả, bền vững, nhiều sản phẩm có giá trị gia tăng cao.
Chuyển dịch cơ cấu kinh tế gắn với chuyển dịch cơ cấu lao động; tỷ lệ lao động
nông nghiệp khoảng 30-35% lao động xã hội. Nhiệm vụ đặt ra là “Từ nay đến giữa
thế kỷ XXI, toàn đảng, toàn dân ra sức phấn đấu đưa nước ta trở thành một nước
công nghiệp hiện đại, theo định hướng xã hội chủ nghĩa”.
Từ một nền kinh tế nông nghiệp đi lên CNXH, trong bối cảnh toàn cầu hóa, chúng
ta phải tiến thành đồng thời hai quá trình: Chuyển từ nền kinh tế nông nghiệp lên
kinh tế công nghiệp (CNH-HĐH); chuyển từ kinh tế nông-công nghiệp lên KTTT.
6
Trong khi ở các nước đi trước, đó là hai quá trình kế tiếp nhau, thì ở nước ta, tận
dụng cơ hội là nước đi sau, hai quá trình này được lồng ghép với nhau, kết hợp các
bước đi tuần tự với các bước phát triển nhảy vọt, tức là gắn CNH-HĐH với phát
triển KTTT.
Nội dung trung tâm của thực hiện CNH-HĐH gắn với phát triển KTTT là lựa chọn
để có thể bỏ qua một số thế hệ công nghệ trung gian, đi thẳng vào công nghệ cao,
công nghệ mới nhằm nhanh chóng chuyển dịch cơ cấu kinh tế theo hướng tăng
nhanh các ngành công nghiệp dịch vụ có hàm lượng tri thức, giá trị gia tăng cao.
Trong ''Chiến lược phát triển kinh tế xã hội 2011-2020, ngoài một số mục tiêu khối
lượng như: tăng trưởng GDP bình quân 7-8%/năm; GDP bình quân đầu người theo
giá thực tế đạt khoảng 3.000 USD... còn có một số chỉ tiêu về chất lượng, như là
những nấc thang trên lộ trình CNH-HĐH, phát triển KTTT. Cụ thể là: tỷ trọng các
ngành công nghiệp và dịch vụ chiếm khoảng 85% GDP; giá trị sản phẩm công
nghệ cao đạt 45% GDP; yếu tố năng suất tổng hợp đóng góp vào tăng trưởng đạt
35%; giảm tiêu hao năng lượng tính trên GDP 2,5-3%/năm; giảm tỷ lệ lao động
nông nghiệp xuống còn 30-35%...
Chúng ta phải đồng thời lồng ghép 2 qua trình là CNH-HĐH và phát triển KTTT,
do đó phải kết hợp các bước đi tuần tự với các bước phát triển nhảy vọt, với các đề
xuất sau:
-
Một là, xây dựng 2 trung tâm quốc gia về công nghệ cao ở Hà Nội và TP. Hồ
Chí Minh, lấy đây là đầu tàu, là mô hình tiêu biểu cho phát triển công nghệ
của cả nước và là nơi thu hút, nuôi dưỡng công nghệ và tri thức mới của
nhân loại.
-
Hai là, đẩy nhanh quá trình xây dựng thị trường khoa học-công nghệ theo
hướng mọi tri thức, công nghệ đều được trao đổi, mua bán, chuyển giao
thuận lợi trên thị trường, được nuôi dưỡng bằng tinh thần cạnh tranh bình
đẳng.
-
Ba là, sử dụng công cụ tín dụng và thuế nhằm khuyến khích các doanh
nghiệp bỏ qua các thế hệ công nghệ trung gian, đi thẳng vào các công nghệ
tiên tiến, công nghệ cao.
-
Bốn là, tạo môi trường thuận lợi để các tập đoàn xuyên quốc gia không chỉ
đầu tư xây dựng cơ sở sản xuất mà còn xây dựng cả cơ sở đào tạo tại chỗ
nguồn nhân lực chất lượng cao, thành thạo kỹ năng nghề nghiệp.
7
-
Năm là, khuyến khích du học sinh ra nước ngoài học tập và có chính sách
đãi ngộ thích đáng để thu hút số du học sinh này về nước làm việc hay lập
nghiệp.
-
Sáu là, cần có một chiến lược phát triển khoa học-công nghệ với những
bước đi thích hợp. Ở giai đoạn đầu, hướng về sự tiếp cận, tiếp thu, chuyển
giao công nghệ mới, trong đó ưu tiên xây dựng các khu công nghệ cao cấp
vùng để thu hút công nghệ mới. Hình thành một số cơ sở nghiên cứu-ứng
dụng đủ sức tiếp thu, cải tiến công nghệ và sáng tạo công nghệ mới gắn sản
xuất kinh doanh. Giai đoạn tiếp theo sử dụng cơ chế tài chính khuyến khích
đối tác nước ngoài hợp tác với cơ sở trong nước trong phát triển công nghệ
mới. Trên nền tảng đó, tạo ra năng lực nghiên cứu nội sinh giúp các nhà
khoa học và cơ sở sản xuất trong nước tiến tới vận dụng và làm chủ những
công nghệ và tri thức mới của nhân loại.
b. Công nghiệp hóa, hiện đại hóa với bảo vệ môi trường ở Việt Nam
Ngày 15-11-2004, Bộ Chính trị có Nghị quyết 41- NQ/TW "Về bảo vệ môi trường
trong thời kỳ đẩy mạnh công nghiệp hóa-hiện đại hóa đất nước” đã khẳng định
bảo vệ môi trường vừa là mục tiêu, vừa là một nội dung cơ bản của phát triển bền
vững trong thời kỳ đẩy mạnh CNH-HĐH. Năm 2005, Quốc hội đã thông qua Luật
bảo vệ môi trường. Tại Đại hội Đảng lần thứ XI, nội dung BVMT được nâng lên
một tầm cao mới, gắn chặt với quá trình CNH-HĐH: ''Đưa nội dung bảo vệ môi
trường vào chiến lược, quy hoạch, kế hoạch phát triển ngành, lĩnh vực, vùng và
các chương trình dự án đầu tư''. Một điểm mới so với Đại hội X là đưa thêm nội
dung ''chú trọng phát triển kinh tế xanh, thân thiện với môi trường; từng bước phát
triển năng lượng sạch, sản xuất sạch, tiêu dùng sạch”.
CHH-HĐH sẽ kéo theo đô thị hóa. Dân số đô thị năm 1996 là 19%, năm 2010 đạt
30% và dự kiến tăng lên 45% vào 2020. Đây thực sự là sức ép lớn về môi trường
trong quản lý đô thị. Theo nghiên cứu của Bộ KH-CN, các đô thị Hà Nội, TP. Hồ
Chí Minh, Việt Trì, Ninh Binh, Quy Nhơn, Nha Trang, Biên Hòa... là những tụ
điểm phát thải các chất độc hại. Riêng Hà Nội, mỗi năm thải vào môi trường nước
khoảng 3.600 tấn chất hữu cơ, 320 tấn dầu mỡ, hàng chục tấn kim loại nặng...
Song song với quá trình CNH-HĐH, chúng ta đang phải chịu những áp lực về thay
đổi cấu trúc và mô hình phát triển do sự cạn kiệt tài nguyên, ô nhiễm môi trường
ngày càng lộ rõ. Do đó, các mối quan tâm về môi trường cần được lồng ghép ngay
từ quá trình ra các quyết định về phát triến kinh tế và xã hội. Có nghĩa là, cần cụ
thể hóa nội dung chuyển dịch cơ cấu kinh tế theo hướng thân thiện với môi trường,
tiếp cận mô hình tăng trưởng xanh đã được đề cập trong văn kiện của Đại hội Đảng
8
lần thứ XI. Trong đó, Nhà nước cần dành sự quan tâm đặc biệt để xây dựng năng
lực nội sinh nhằm sử dụng và phát triển các công nghệ tiết kiệm tài nguyên,
nguyên liệu, năng lượng...; vì đây là động lực chủ yếu để thúc đẩy quá trình
chuyển dịch cơ cấu kinh tế nước ta theo hướng phát triển bền vững. Một nghiên
cứu của VCCI cho thấy, có khoảng trên 70% máy móc thiết bị ở nước ta sử dụng
công nghệ cũ; 70% đã khấu hao hết và gần 50% là máy móc cũ, hoặc vừa mới tân
trang được nhập vào. Thực tế này là một thách thức đòi hỏi phải có quyết tâm
chính trị lớn nhằm tạo ra bước đột phá lớn trong chuyển đổi mô hình tăng trưởng.
Bước đột phá ở đây là chuyển đổi quyết liệt từ cơ chế nặng về ''bao cấp”, ''xin cho”
sang cơ chế kinh tế hóa, tài chính hóa trong quản lý tài nguyên, môi trường. Thực
tế hiện nay, nhà nước bỏ ra rất nhiều kinh phí, trang thiết bị và nguồn nhân lực cho
công tác điều tra tài nguyên khoáng sản, khí tượng, thủy văn... nhưng thường là
cung cấp không hoặc với khoản phí không đáng kể cho các nhà đầu tư. Đó là sự bù
đắp không cân xứng dẫn đến không đủ nguồn lực cho công tác quy hoạch tài
nguyên
và
môitrường.
Nhà nước cũng cần sử dụng công cụ tài chính nhằm khuyến khích đầu tư vào các
ngành sản xuất các sản phẩm có giá trị gia tăng lớn, sử dụng công nghệ sạch; sản
xuất và sử dụng năng lượng sạch, năng lượng tái tạo, các sản phẩm và bao bì
không gây hại hoặc ít gây hại đến môi trường; tái chế và sử dụng các sản phẩm tái
chế.
9
Phần Tài liệu tham khảo:
(1) Đảng Cộng sản Việt Nam. Văn kiện Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ X. Nxb
Chính trị Quốc gia, Hà Nội, 2006, tr.23.
(2) Đảng Cộng sản Việt Nam. Sđd., tr. 87-88.
(3) Đảng Cộng sản Việt Nam. Cương lĩnh xây dựng đất nước trong thời kỳ quá độ
lên chủ nghĩa xã hội. Nxb Sự thật, Hà Nội, 1991, tr.9.
(4) Nguyễn Phú Trọng - Trần Đình Nghiêm. Nghiên cứu Nghị quyết Hội nghị đại
biểu toàn quốc giữa nhiệm kỳ của Đảng. Nxb Chính trị Quốc gia, Hà Nội, 1994,
tr.34.
(5) Đảng Cộng sản Việt Nam. Văn kiện Hội nghị lần thứ bảy Ban Chấp hành
Trung ương khoá VII. Hà Nội, 1994, tr.23-24.
(6) Đảng Cộng sản Việt Nam. Nghị quyết Hội nghị lần thứ hai Ban Chấp hành
Trung ương Đảng khóa VIII. Trích theo: Các nghị quyết của Trung ương Đảng
1996 - 1999. Nxb Chính trị Quốc gia, Hà Nội, 2000, tr.46.
(7) Đảng Cộng sản Việt Nam. Văn kiện Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ IX. Nxb
Chính trị Quốc gia, Hà Nội, 2001, tr.91.
(8) Đảng Cộng sản Việt Nam. Văn kiện Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ X. Nxb
Chính trị Quốc gia, Hà Nội, 2006, tr.112.
10
(9) Đảng Cộng sản Việt Nam. Sđd., tr. 27.
(10) Đảng Cộng sản Việt Nam. Sđd., tr. 25.
(11) Báo Tuổi trẻ cuối tuần, số 43, 2006, ngày 29 – 10 – 2006, tr.34.
11