MỞ ĐẦU
Xung đột pháp luật là hiện tượng hai hay nhiều hệ thống pháp luật của
các nước khác nhau cùng có thể được áp dụng để điều chỉnh một quan hệ dân
sự theo nghĩa rộng có yếu tố nước ngoài (quan hệ tư pháp quốc tế). Xung đột
pháp luật là cơ sở để hình thành nên những phương pháp giải quyết xung đột
pháp luật hay phương pháp điều chỉnh của Tư pháp quốc tế. Có thể hiểu,
phương pháp giải quyết xung đột pháp luật là việc các quốc gia lựa chọn một
hệ thống pháp luật nào đó để áp dụng giải quyết một quan hệ Tư pháp quốc
tế. Hiện nay, Tư pháp quốc tế Việt Nam có hai phương pháp giải quyết xung
đột cơ bản là: Phương pháp thực chất và Phương pháp xung đột. Việc sử dụng
phương pháp thực chất hay phương pháp xung đột thực chất là việc dùng quy
phạm thực chất hay quy phạm xung đột để điều chỉnh các quan hệ Tư pháp
quốc tế. Để tìm hiểu về thêm về hai loại quy phạm trên, nhóm em xin trình
bày về vấn đề: “Phân tích hệ thống các quy phạm pháp luật điều chỉnh mối
quan hệ tư pháp quốc tế”.1
NỘI DUNG
I. Một số vấn đề lý luận chung về hệ thống các quy phạm pháp luật điều
chỉnh mối quan hệ tư pháp quốc tế
1. Một số khái niệm cơ bản
Phương pháp giải quyết xung đột pháp luật là cách thức giải quyết vấn
đề khi có tình huống hai hay nhiều hệ thống pháp luật của các nước khác nhau
cùng có thể được áp dụng để điều chỉnh một quan hệ tư pháp quốc tế. Căn cứ
vào các quy định của pháp luật cũng như thực tiễn thì xung đột pháp luật
được điều chỉnh bằng các phương pháp sau:
1 Bộ bài tập nhóm môn Tư pháp quốc tế 4 tín chỉ - kỳ I năm học 2019 – 2020 của Bộ môn Tư pháp
quốc tế - Đại học Luật Hà Nội
- Phương pháp thực chất (xây dựng và áp dụng các quy phạm thực
chất): là phương pháp dùng quy phạm thực chất, trực tiếp điều chỉnh quan hệ
tư pháp quốc tế mà không cần qua bất kỳ các khâu trung gian nào.
- Phương pháp xung đột (xây dựng và áp dụng các quy phạm xung
đột): là phương pháp sử dụng các quy phạm xung đột để giải quyết xung đột
pháp luật.
Ngoài ra, trong trường hợp không có cả quy phạm thực chất lẫn quy
phạm xung đột để điều chỉnh quan hệ tư pháp quốc tế thì cách thức thường
được áp dụng là sử dụng tập quán quốc tế hoặc “pháp luật điều chỉnh các
quan hệ xã hội tương tự” trên cơ sở phù hợp với nguyên tắc cơ bản của pháp
luật quốc gia mình cũng như đường lối, chính sách đối ngoại của nhà nước.
2. Thứ tự áp dụng quy phạm pháp luật để giải quyết xung đột pháp luật
trong tư pháp quốc tế
2.1. Đối với các vụ việc tư pháp quốc tế thông thường
Điều chỉnh quan hệ tư pháp quốc tế có thể bằng nhiều phương pháp và
có thể có nhiều hệ thống pháp luật tham gia, vì vậy cần phải nắm rõ thứ tự áp
dụng pháp luật theo các bước sau:
Bước 1: Áp dụng quy phạm thực chất thống nhất
Bước 2: Áp dụng quy phạm xung đột thống nhất
Nếu quy phạm cho chọn luật áp dụng và đương sự chọn luật áp dụng là
pháp luật nước nào thì luật nước đó sẽ được áp dụng. Ví dụ: khoản 1 Điều 36
Hiệp định tương trợ tư pháp Việt Nam – Nga năm 1998 quy định: “Nghĩa vụ
phát sinh từ hợp đồng được xác định theo pháp luật của nước do các bên lựa
chọn, nếu điều đó không trái với pháp luật của các bên ký kết. Nếu các bên
không lựa chọn pháp luật áp dụng thì áp dụng pháp luật của bên ký kết nơi
bên phải thực hiện nghĩa vụ chính của hợp đồng thường trú, được thành lập
hoặc có trụ sở”.
Nếu quy phạm cho chọn mà đương sự không chọn hoặc quy phạm
không cho chọn thì sẽ áp dụng pháp luật nước được xác định bởi quy phạm.
Bước 3: Áp dụng quy phạm thực chất thông thường
Bước 4: Áp dụng quy phạm xung đột thông thường
Nếu quy phạm cho chọn luật áp dụng và và đương sự chọn luật áp dụng
là pháp luật nước nào thì luật nước đó sẽ được áp dụng.
Nếu quy phạm cho chọn mà đương sự không chọn hoặc quy phạm
không cho chọn thì sẽ áp dụng pháp luật nước được xác định bởi quy phạm.
Ví dụ: khoản 1 Điều 683 Bộ luật dân sự 2015 quy định:
“1. Các bên trong quan hệ hợp đồng được thỏa thuận lựa chọn pháp
luật áp dụng đối với hợp đồng, trừ trường hợp quy định tại các khoản 4, 5 và
6 Điều này. Trường hợp các bên không có thoả thuận về pháp luật áp dụng
thì pháp luật của nước có mối liên hệ gắn bó nhất với hợp đồng đó được áp
dụng.”
Bước 5: Áp dụng pháp luật của nước có mối liên hệ gắn bó nhất (có thể cả tập
quán hoặc tương tự pháp luật, án lệ hoặc lẽ công bằng).2
Các bước sau chỉ được áp dụng khi các bước trước không thể thực hiện
được.
2.2. Đối với các quan hệ tư pháp quốc tế đặc biệt
Một số quan hệ pháp luật mặc dù là quan hệ dân sự (theo nghĩa rộng)
có yếu tố nước ngoài nhưng khi phát sinh không phát sinh xung đột pháp luật,
do có những đặc thù trong đối tượng điều chỉnh (Ví dụ: các quan hệ sở hữu trí
tuệ). Đối với các quan hệ này khi nảy sinh, cơ quan có thẩm quyền sẽ căn cứ
vào điều ước quốc tế liên quan mà Việt Nam là thành viên điều chỉnh, thông
thường là các quy phạm thực chất thống nhất.
2 Tr. 33, 34, Giáo trình Hướng dẫn học Tư pháp quốc tế, Bộ môn Tư pháp quốc tế_Trường
đại học luật Hà Nội, Nxb. Chính trị quốc gia sự thật, 2017.
Nếu không có các điều ước quốc tế, hoặc đối tượng không thuộc phạm
vi điều chỉnh của điều ước (ví dụ: vụ việc liên quan đến quốc gia chưa tham
gia công ước) thì cơ quan có thẩm quyền sẽ áp dụng pháp luật quốc gia.
Trong trường hợp khi chủ thể tham gia quan hệ là nhà nước, nếu nhà
nước thực hiện quyền miễn trừ nhà nước thì quan hệ sẽ chấm dứt. Nếu nhà
nước từ bỏ quyền miễn trừ thì trình tự áp dụng pháp luật quay lại như các
quan hệ thông thường.
II. Hệ thống quy phạm pháp luật điều chỉnh mối quan hệ tư pháp quốc tế
2.1. Quy phạm thực chất
2.1.1. Khái niệm quy phạm thực chất
Quy phạm thực chất là loại quy phạm pháp luật quy định cụ thể cách
thức ứng xử của các chủ thể tham gia quan hệ Tư pháp quốc tế, hay quy phạm
này quy định rõ quyền và nghĩa vụ của các bên tham gia quan hệ, trực tiếp
điều chỉnh quan hệ, trực tiếp tác động đến quan hệ Tư pháp quốc tế.
Khi có quy phạm thực chất thì quan hệ có thể được giải quyết mà không
phải dẫn chiếu đến pháp luật của bất kỳ quốc gia nào nên có thể giải quyết
nhanh chóng, kịp thời, lại đơn giản hơn, tránh được những khó khăn khi giải
quyết tranh chấp.
Quy phạm thực chất có hai loại gồm quy phạm thực chất thông thường
và quy phạm thực chất thống nhất.
a, Quy phạm thực chất thống nhất:
Quy phạm thực chất thống nhất là loại quy phạm thực chất nằm trong
các điều ước quốc tế. Quy phạm thực chất thống nhất là kết quả của quá trình
đàm phán, thương lượng giữa các quốc giabằng cách các quốc gia kí kết điều
ước quốc tế.
Khi có quy phạm thực chất thống nhất thì các cơ quan giải quyết cũng
như các bên tham gia quan hệ có thể căn cứ vào đó để giải quyết vấn đề một
cách trực tiếp, mà không cần phải xem xét đến các phương pháp giải quyết
khác. Vì vậy, quy phạm thực chất thống nhất được coi là sự lựa chọn đầu tiên
cho việc giải quyết các quan hệ tư pháp quốc tế, chỉ khi không có loại quy
phạm này thì các quy phạm khác của tư pháp quốc tế mới được xem xét đến.
Ví dụ: “Một đề nghị ký kết hợp đồng gửi cho một hay nhiều người xác
định được coi là một chào hàng nếu có đủ chính xác và nếu nó chỉ rõ ý chí
của người chào hàng muốn tự ràng buộc mình trong trường hợp có sự chấp
nhận chào hàng đó. Một đề nghị là đủ chính xác khi nêu rõ hàng hóa và ấn
định số lượng về giá cả một cách trực tiếp hoặc gián tiếp hoặc quy định thể
thức xác định những yếu tố này.” (Điều 14 - Công ước Viên 1980).
b, Quy phạm thực chất thông thường:
Các quy phạm thực chất thông thường là những quy phạm được quy định
trong các văn bản pháp luật quốc gia, điều chỉnh các quan hệ dân sự - kinh tế
- thương mại, lao động, hôn nhân và gia đình,... có yếu tố nước ngoài.
Ví dụ: “Người đang cư trú hợp pháp tại Việt Nam được đi lại trên lãnh
thổ Việt Nam, được kết hợp du lịch, thăm người thân, chữa bệnh không phải
xin phép; trường hợp vào khu vực cấm hoặc khu vực hạn chế đi lại, cư trú
thực hiện theo quy định của pháp luật” (Điểm d khoản 1 Điều 44 Pháp lệnh
nhập cảnh, xuất cảnh, cư trú của người nước ngoài tại Việt Nam năm 2014).
Như vậy, những quy phạm thực chất được quy định trong các văn bản
pháp luật quốc gia đã thực hiện chức năng điều chỉnh các quan hệ dân sự kinh tế, thương mại,... có yếu tố nước ngoài.
2.1.2. Ưu, nhược điểm của quy phạm thực chất
a, Ưu điểm của quy phạm thực chất:
Việc sử dụng quy phạm thực chất chính là việc các cơ quan có thẩm
quyền giải quyết cũng như các bên tham gia quan hệ Tư pháp quốc tế sẽ chiếu
theo các quy phạm thực chất đã được quy định sẵn trong điều ước quốc tế
hoặc đã được quy định trong pháp luật quốc gia, đối chiếu để xem xét và giải
quyết các xung đột. Qua đây, có thể thấy ưu điểm của quy phạm thực chất:
Thứ Nhất, quy phạm thực chất giải quyết trực tiếp các quan hệ và nó chỉ
áp dụng trong các quan hệ, lĩnh vực cụ thể. Do đó, việc giải quyết các vấn đề
thuộc tư pháp quốc tế thông qua quy phạm này sẽ nhanh chóng, thuận tiện
hơn do không phải qua giai đoạn chọn hệ thống luật, hay quy phạm của hệ
thống luật đó để giải quyết.
Thứ Hai, quy phạm này được áp dụng đối với các bên tham gia quan hệ
một cách giới hạn và đôi khi áp dụng với các chủ thể cụ thể. Do đó, khi tham
gia vào quan hệ pháp luật cụ thể, phương pháp này vừa giúp các bên biết
trước được các điều kiện pháp lý để hợp tác với nhau trong quan hệ, vừa có
thể tránh được các xung đột có thể xảy ra.
Thứ Ba, quy phạm thực chất thống nhất làm giảm sự khác biệt, thậm chí
là giảm các mâu thuẫn giữa pháp luật các quốc gia. Do, để tạo ra “thành
phẩm” là quy phạm thực chất thống nhất, các nước tham gia ký kết phải thỏa
thuận kỹ lưỡng, phân tích, đánh giá rõ ràng. Hơn thế, quy phạm thực chất này
phải có những nét tương đồng nhất định với quy phạm của các nước thành
viên tham gia ký kết. Như vậy, có thể coi phương pháp này là ý chí chung
thống nhất của các quốc gia thành viên.
b, Nhược điểm của quy phạm thực chất:
Thứ Nhất, do tính cụ thể và trực tiếp, quy phạm thực chất đôi khi không
thể dự liệu được hết các tình huống có thể xảy ra, việc xử lý các vụ việc này
sẽ bị thu hẹp và chỉ được sử dụng trong một số ít trường hợp đã được dự liệu.
Thứ Hai, phần lớn các quốc gia thành viên tham gia ký kết có đặc điểm
về kinh tế - chính trị - xã hội khác nhau nên khó có thể đưa ra một ý chí thống
nhất và phải tốn rất nhiều thời gian, công sức để đi tới quyết định cuối cùng,
để xây dựng được một quy phạm thực chất phù hợp, các bên phải ngồi lại với
nhau, phải bỏ ra rất nhiều thời gian, tiền bạc cho việc xây dựng quy phạm này.
Trong khi đó, điều kiện kinh tế các quốc gia không phải lúc nào cũng cho
phép.
2.2. Quy phạm xung đột
2.2.1. Khái niệm quy phạm xung đột
Quy phạm xung đột là quy phạm ấn định luật pháp nước nào cần phải áp
dụng để điều chỉnh quan hệ tư pháp quốc tế trong môt tình huống cụ thể.
Quy phạm xung đột là một quy phạm pháp luật nhưng là một quy phạm
pháp luật đặc biệt bởi quy phạm xung đột không trực tiếp quy định quyền và
nghĩa vụ của các bên tham gia quan hệ mà chỉ nhằm xác định hệ thống luật áp
dụng.
Quy phạm xung đột gồm 2 loại đó là quy phạm xung đột thống nhất và
quy phạm xung đột thông thường.
a, Quy phạm xung đột thống nhất:
Quy phạm xung đột thống nhất là những quy phạm được các quốc gia
thỏa thuận xây dựng trong các điều ước quốc tế (song phương và đa phương),
hay nói cách khác, đó là những quy phạm được ghi nhận trong các điều ước
quốc tế. Là một loại của quy phạm xung đột, quy phạm xung đột thống nhất
cũng không quy định quyền và nghĩa vụ của các bên tham gia quan hệ, không
quy định các hình thức và biện pháp chế tài có thể được áp dụng đối với bên
vi phạm, mà nó chỉ xác định hệ thống pháp luật của quốc gia nào sẽ được áp
dụng để điều chỉnh quan hệ. Muốn giải quyết vấn đề thì cơ quan có thẩm
quyền cần căn cứ vào quy phạm xung đột thống nhất, áp dụng hệ thống pháp
luật mà quy phạm xung đột pháp luật thống nhất dẫn chiếu đến.
Trong tư pháp quốc tế, Việt Nam đã tiến hành ký kết các Hiệp định
tương trợ tư pháp với nhiều quốc gia trên thế giới, tạo thành một khối lượng
lớn các quy phạm xung đột thống nhất để điều chỉnh các quan hệ dân sự có
yếu tố nước ngoài. Có thể kể đến một số ví dụ như: Tại khoản 1 Điều 23 Hiệp
định tương trợ Tư pháp giữa Việt Nam và Cộng hòa Dân chủ nhân dân Lào
cũng quy định “Việc bồi thường thiệt hại ngoài hợp đồng được xác định theo
pháp luật về trách nhiệm bồi thường thiệt hại ngoài hợp đồng của nước ký kết
nơi xảy ra hành vi hoặc sự cố gây thiệt hại thuộc thẩm quyền của cơ quan Tư
pháp của nước ký kết nơi xảy ra hành vi hoặc sự cố gây thiệt hại đó”. Hay
trong Hiệp định tương trợ tư pháp giữa Việt Nam và Hàn Quốc, tại khoản 1
điều 9 có quy định : “Trong phạm vi pháp luật nước mình cho phép, Bên được
yêu cầu phải thực hiện yêu cầu tống đạt giấy tờ về hình sự.”
b, Quy phạm xung đột thông thường:
Quy phạm xung đột thông thường là những quy phạm xung đột nằm
trong pháp luật quốc gia. Khác với quy phạm xung đột thống nhất, quy phạm
xung đột thông thường dẫn chiếu đến cả phần pháp luật quy định về quyền,
nghĩa vụ lẫn các quy định về xác định pháp luật áp dụng. Ví dụ: Điều 677 Bộ
luật dân sự Việt Nam năm 2015 (viết tắt là BLDS) quy định: “Việc phân loại
tài sản là động sản, bất động sản được xác định theo pháp luật của nước nơi
có tài sản.” Đây là một quy phạm pháp luật nằm trong BLDS của Việt Nam có
nhiệm vụ xác định luật áp dụng trong việc phân loại tài sản.
Tuy nhiên trong nhiều trường hợp, các quy phạm xung đột ở các nước
khác nhau có các hệ thuộc luật khác nhau sẽ nảy sinh hiện tượng dẫn chiếu
ngược và dẫn chiếu đến pháp luật nước thứ ba.
Ví dụ: Theo Khoản 1, khoản 2 Điều 676 BLDS Việt Nam “năng lực pháp
luật dân sự của pháp nhân nước ngoài được xác định theo pháp luật của nước
nơi pháp nhân đó thành lập”. Doanh nghiệp A là doanh nghiệp nước ngoài và
thành lập tại Đức. Vậy pháp luật Đức là pháp luật điều chỉnh năng lực pháp
luật dân sự của doanh nghiệp A. Nhưng theo pháp luật Đức, vấn đề này được
điều chỉnh bởi pháp luật nơi doanh nghiệp có trụ sở thực tiễn và trong thực tế
thì doanh nghiệp A có trụ sở tại Bỉ. Do đó, pháp luật Đức dẫn đến pháp luật
Bỉ. Vậy hiện tượng dẫn chiếu đến pháp luật nước thứ ba có thể xảy ra ở Việt
Nam.
2.2.2. Ưu, nhược điểm của quy phạm xung đột
a, Ưu điểm của quy phạm xung đột:
Việc xây dựng các quy phạm xung đột đơn giản dễ dàng hơn quy phạm
thực chất vì nó hài hòa được lợi ích của các quốc gia, có tính bao quát và toàn
diện hơn; mang tính đặt thù quan hệ tư pháp quốc tế giúp các cơ quan có thẩm
quyền xác định được hệ thống pháp luật cần được áp dụng để điều chỉnh quan
hệ dân sự có yếu tố nước ngoài đó. Bên cạnh đó, quy phạm xung đột được
xây dựng một cách đơn giản hơn nên có số lượng nhiều hơn, có thể điều
chỉnh hầu hết các quan hệ Tư pháp quốc tế.
b, Nhược điểm của quy phạm xung đột:
Thứ Nhất, nội dung của quy phạm xung đột rất trừu tượng, phức tạp, đòi
hỏi phải có chuyên môn sâu trong lĩnh vực này mới có thể hiểu được đầy đủ.
Thứ Hai, quy phạm xung đột không quy định sẵn các quyền, nghĩa vụ
đối với các chủ thể tham gia quan hệ tư pháp quốc tế mà nó chỉ có vai trò xác
định hệ thống pháp luật nước nào sẽ được áp dụng, nói cách khác là quy phạm
xung đột chỉ làm động tác trung gian là dẫn chiếu đến một hệ thống pháp luật
của một nước khác mà không trực tiếp giải quyết được quan hệ tư pháp quốc
tế.
Thứ Ba, khi quy phạm xung đột dẫn chiếu đến áp dụng pháp luật nước
ngoài thì Tòa án, các cơ quan có thẩm quyền phải đối mặt với những vấn đề
hết sức phức tạp như việc giải thích và áp dụng pháp luật nước ngoài. Việc áp
dụng pháp luật nước ngoài không phải lúc nào cơ quan có thẩm quyền cũng
xác định được hệ thống pháp luật cần được áp dụng mà có thể dẫn đến các
trường hợp dẫn chiếu ngược và dẫn chiếu đến pháp luật của nước thứ ba hay
các nước vận dụng bảo lưu trật tự công cộng.
KẾT LUẬN
Trong xu thế hội nhập toàn cầu hiện nay, ít hay nhiều các quốc gia sẽ
xích lại gần nhau để cùng hợp tác và phát triển. Việt Nam, một quốc gia đang
trên đà phát triển cũng không nằm ngoài xu hướng đó. Xét về cơ sở lý luận
cũng như thực tiễn, tư pháp quốc tế ở các quốc gia khác nhau còn có nhiều sự
khác biệt, điều này tạo ra những rào cản, hạn chế sự giao lưu, hợp tác giữa các
quốc gia. Do đó, tư pháp quốc tế Việt Nam cần không ngừng củng cố và hoàn
thiện hơn nữa, nhất là với việc xây dựng ra một phương pháp giải quyết xung
đột pháp luật khách quan, hợp lý. Có như vậy mới tạo điều kiện thuận lợi cho
các cá nhân, tổ chức trong nước cũng như nước ngoài tham gia vào các quan
hệ pháp luật tư pháp, góp phần thúc đẩy nền kinh tế - xã hội đất nước ngày
càng phát triển.
DANH MỤC TÀI LIỆU THAM KHẢO
1. Trường Đại học luật Hà Nội, Giáo trình Tư pháp quốc tế, Nxb. Tư Pháp, Hà
Nội, 2019.
2. Bộ môn Tư pháp quốc tế_Trường đại học luật Hà Nội, Giáo trình Hướng
dẫn học Tư pháp quốc tế, Nxb. Chính trị quốc gia sự thật, 2017.
3. PGS.TS.Nguyễn Bá Diến, Giáo trình Tư pháp quốc tế, Nxb. Đại học quốc
gia Hà Nội.
4. Bộ luật Tố tụng dân sự năm 2015.
5. Bộ luật dân sự 2015.
6. Luật Hôn nhân và gia đình năm 2014.
7. Bản án số 28/2019/HNGĐ-ST ngày 22 tháng 5 năm 2019 của Tòa án nhân
dân tỉnh Kiên Giang về việc tranh chấp li hôn tại
Website: />8. Trần Lan, Ưu nhược điểm của các phương pháp giải quyết xung đột pháp
luật, />
PHỤ LỤC
I. Thực tiễn áp dụng quy phạm pháp luật để giải quyết xung đột pháp
luật
1.1. Thực tiễn áp dụng quy phạm thực chất
Để điều chỉnh các quan hệ dân sự có yếu tố nước ngoài, tư pháp quốc
tế, với vị trí, vai trò là một ngành luật độc lập trong hệ thống pháp luật quốc
gia cũng xây dựng những phương pháp điều chỉnh riêng biệt. Bên cạnh
phương pháp xung đột, tư pháp quốc tế còn sử dụng một phương pháp điều
chỉnh cơ bản nữa đó là phương pháp thực chất. Các quy phạm thực chất luôn
thể hiện những ưu thế trong việc xác định quyền và nghĩa vụ của các bên
tham gia quan hệ tư pháp quốc tế. Tuy nhiên, việc khó xây dựng các quy
phạm thực chất giải thích tại sao lại không nhiều các quy phạm thực chất
trong hệ thống pháp luật của các quốc gia hoặc các điều ước quốc tế. Mặc dù
vậy, trong bối cảnh hội nhập quốc tế hiện nay, Việt Nam nên xây dựng thêm
các quy phạm thực chất là điều cần thiết, nó làm giảm thiểu thời gian, công
sức, tiền bạc trong việc giải quyết xung đột pháp luật, có tính chất đơn giản
hóa và hữu hiệu hóa trong điều chỉnh các quan hệ tư pháp quốc tế.
Pháp luật Việt Nam đã chỉ rõ các phương thức giải quyết tranh chấp mà
không cần phải dẫn chiếu áp dụng luật của quốc gia nào. Ví dụ: Điều 14 Luật
đầu tư 2014 quy định về Giải quyết tranh chấp trong hoạt động đầu tư kinh
doanh như sau: “1. Tranh chấp liên quan đến hoạt động đầu tư kinh doanh
tại Việt Nam được giải quyết thông qua thương lượng, hòa giải. Trường hợp
không thương lượng, hòa giải được thì tranh chấp được giải quyết tại Trọng
tài hoặc Tòa án theo quy định tại các khoản 2, 3 và 4 Điều này.”
Quy phạm pháp luật thực chất tồn tại trong các điều ước quốc tế, tập
quán quốc tế, theo quy ước được gọi chung là quy phạm pháp luật thực chất
thống nhất. Hiện nay, Việt Nam đã tham gia và trở thành quốc gia thành viên
của rất nhiều điều ước quốc tế. Có thể kể đến như: Công ước Viena 1980 của
Liên hợp quốc về mua bán hàng hóa quốc tế; Công ước Berne 1986 về bảo hộ
quyền tác giả; Công ước Paris về bảo hộ quyền sở hữu công nghiệp; Thỏa ước
Marid 1891 và Nghị định thư Marid 1989 về đăng kí quốc tế nhãn hiệu hàng
hóa;..v..v.. Cho đến nay, Việt Nam cũng đã trở thành thành viên của nhiều
điều ước quốc tế đa phương và song phương, có thể liệt kê một số điều ước
quốc tế quan trọng như : Công ước Lahaye 1965 về tống đạt ra nước ngoài
giấy tờ tư pháp và ngoài tư pháp trong lĩnh vực dân sự và thương mại; Công
ước Lahaye 1993 về bảo vệ trẻ em và hợp tác trong lĩnh vực con nuôi quốc
tế;..v..v Bên cạnh quy phạm pháp luật thực chất thống nhất, còn có quy phạm
pháp luật thực chất nội địa hay còn gọi là quy phạm pháp luật thực chất thông
thường. Đây loại quy phạm được xây dựng trong pháp luật quốc gia. Hiện
nay, Việt Nam cũng đã xây dựng các quy phạm quy định về quyền và nghĩa
vụ của chủ thể nước ngoài. Đó là các quy định nằm trong Luật Thương mại
2005, Luật Nhà ở 2014,..v..v.
Việc tham gia kí kết và trở thành thành viên của nhiều các điều ước
quốc tế cho thấy Việt Nam đã có thiện chí trở thành đối tác, và là bạn bè quốc
tế của các quốc gia trên thế giới. Điều này mở ra cơ hội hợp tác và phát triển
rộng mở về mọi mặt đối với Việt Nam. Thông qua quá trình đàm phán và
thương lượng giữa các quốc gia, các quy phạm thực chất được ghi nhận và trở
thành cơ sở để các cơ quan, các bên tham gia quan hệ dựa vào đó để giải
quyết vấn đề một cách trực tiếp trên thực tế.
1.2. Thực tiễn áp dụng quy phạm xung đột
Để thấy rõ hơn việc áp dụng phương pháp xung đột ở Việt Nam như thế
nào, ta có thể xem xét trên những vấn đề sau:
- Vấn đề bảo lưu trật tự công: Các quy định về “bảo lưu trật tự công”
được Việt Nam thừa nhận thể hiện thông qua các văn bản pháp lý quan trọng
như: Hiến pháp 2013, Bộ luật dân sự 2015, Luật hôn nhân và gia đình Việt
Nam 2014, một số điều ước quốc tế,.... Nội dung của các quy định này làm rõ
“trật tự công cộng” là các nguyên tắc cơ bản tạo ra một trật tự pháp lý trong
chế độ xã hội chủ nghĩa, pháp luật nước ngoài sẽ không được áp dụng nếu hậu
quả của việc áp dụng pháp luật nước ngoài trái với nguyên tắc cơ bản của
pháp luật Việt Nam. Việc áp dụng bảo lưu trật tự công thể hiện tính chất chủ
quyền của quốc gia trong việc bảo đảm, giữ gìn an ninh, kinh tế, đạo đức, lối
sống… của nhà nước Cộng hòa xã hội chủ nghĩa Việt Nam. Tuy nhiên, cần
phải hiểu đó không phải là việc phủ nhận các hệ thống luật nước ngoài trên
thế giới mà chỉ là không áp dụng các quy định liên quan không phù hợp.Việc
vận dụng nguyên tắc này cần phải thận trọng trên cơ sở khách quan, nghiêm
túc nguyên tắc pháp chế xã hội chủ nghĩa.
- Vấn đề lẩn tránh pháp luật: Đây là hiện tượng đương sự dùng những
biện pháp, thủ đoạn để thoát khỏi hệ thống pháp luật đáng nhẽ phải được áp
dụng để điều chỉnh các quan hệ của họ và thay bằng một hệ thống pháp luật
khác có lợi hơn cho mình (VD: thay đổi quốc tịch, thay đổi nơi cư trú…). Về
vấn đề này, Việt Nam nghiêm khắc phản đối, không chấp nhận các hành vi lẩn
tránh pháp luật. Tuy thực tiễn hầu như chưa thấy xuất hiện hiện tượng này,
nhưng trong một số văn bản pháp quy đã có những quy định phòng trừ.
- Vấn đề dẫn chiếu ngược và dẫn chiếu pháp luật của nước thứ ba: Hiện
nay có hai quan điểm: một là không xảy ra dẫn chiếu ngược và luật thực chất
của nước được dẫn chiếu sẽ được áp dụng và quan điểm ngược lại là chấp
nhận dẫn chiếu ngược trở lại, cũng như dẫn chiếu đến luật pháp của nước thứ
ba. Quan điểm rõ ràng của Việt Nam về vấn đề này là chấp nhận việc dẫn
chiếu ngược trở lại. Khoản 2 Điều 668 BLDS 2015 quy định: Trường hợp dẫn
chiếu đến pháp luật Việt Nam thì quy định của pháp luật Việt Nam về quyền,
nghĩa vụ của các bên tham gia quan hệ dân sự được áp dụng.
Khi quy phạm xung đột dẫn chiếu đến pháp luật một nước, dù đó là
pháp luật Việt Nam hay đó là pháp luật nước ngoài thì về cơ bản cơ quan có
thẩm quyền của Việt Nam sẽ áp dụng pháp luật nơi được dẫn chiếu đến. Nếu
quy phạm xung đột dẫn chiếu tới áp dụng pháp luật Việt Nam thì cơ quan có
thẩm quyền của Việt Nam đương nhiên áp dụng pháp luật Việt Nam và việc
áp dụng này không gây khó khăn cho cơ quan áp dụng. Nhưng nếu luật nước
ngoài được được dẫn chiếu đến thì có nhiều vấn đề cần xem xét hơn, bởi pháp
luật nước ngoài là một hệ thống pháp luật khác biệt so với Việt Nam. Pháp
luật nước ngoài sẽ được áp dụng trong một số trường hợp sau đây:
~ Các bên được pháp luật cho phép lựa chọn pháp luật áp dụng và đã
lựa chọn pháp luật nước ngoài, khi đó pháp luật nước ngoài được áp dụng.
~ Quy phạm xung đột thống nhất trong điều ước quốc tế dẫn chiếu đến
pháp luật nước ngoài.
~ Quy phạm xung đột thông thường dẫn chiếu đến pháp luật nước
ngoài.
~ Khi quy phạm xung đột xác định áp dụng pháp luật nước nơi có mối
liên hệ gắn bó nhất, và trong các trường hợp cụ thể cơ quan có thẩm quyền
xác định pháp luật nước ngoài chính là pháp luật của nước có mối liên hệ gắn
bó nhất.
Ngoài những trường hợp trên, pháp luật nước ngoài không được áp
dụng trong trường hợp nào nữa.
- Về vấn đề xác định nội dung pháp luật nước ngoài: Bản chất của việc
áp dụng pháp luật nước ngoài là quá trình Toà án của quốc gia vận dụng, áp
dụng các quy phạm pháp luật cụ thể trong hệ thống pháp luật của một quốc
gia khác hoặc các tiểu bang, vùng lãnh thổ của quốc gia khác để giải quyết
một quan hệ hay một vấn đề pháp lý cụ thể trong Tư pháp quốc tế. Như vậy,
quá trình này phải được tiến hành theo những nguyên tắc nhất định nhằm thể
hiện sự tôn trọng hệ thống pháp luật của quốc gia nước ngoài. Toà án không
thể áp dụng pháp luật nước ngoài một cách tuỳ tiện theo cách hiểu hay theo
cách giải thích của bản thân mình, điều này sẽ làm sai lệch bản chất và phần
nào làm ảnh hưởng đến giá trị pháp lý của pháp luật nước ngoài.
Những văn bản pháp luật của Việt Nam trước đây đều chưa ghi nhận
những nguyên tắc cũng như những quy định cụ thể đối với việc áp dụng pháp
luật nước ngoài của Toà án. Đây là một trong những trở ngại lớn khi Toà án
giải quyết những vụ việc dân sự có yếu tố nước ngoài. Tuy nhiên, ở thời điểm
hiện tại, khuyết điểm này đã được khắc phục bằng những quy định cụ thể của
BLDS 2015 và BLTTDS 2015.
- Về trách nhiệm xác định và cung cấp pháp luật nước ngoài: Điều 481
BLTTDS 2015 quy định về vấn đề xác định và cung cấp pháp luật nước ngoài
để Tòa án áp dụng trong việc giải quyết vụ việc dân sự có yếu tố nước ngoài
là một quy định hoàn toàn mới trong Tư pháp quốc tế Việt Nam.
Quy định này đã xác định rõ trách nhiệm của đương sự cũng như các
cơ quan Nhà nước trong việc cung cấp và xác định pháp luật nước ngoài.
Theo đó, trong trường hợp các đương sự lựa chọn pháp luật nước ngoài để áp
dụng thì nghĩa vụ cung cấp pháp luật nước ngoài cho Toà án giải quyết vụ
việc dân sự thuộc về các bên. Các đương sự phải chịu trách nhiệm về tính
chính xác và hợp pháp của pháp luật nước ngoài đã cung cấp. Trong trường
hợp này, các cơ quan Nhà nước như Bộ Tư pháp, Bộ Ngoại giao, cơ quan đại
diện nước Cộng hoà xã hội chủ nghĩa Việt Nam ở nước ngoài chỉ có trách
nhiệm cung cấp pháp luật nước ngoài khi được Tòa án Việt Nam yêu cầu.
Ngược lại, trong trường hợp pháp luật nước ngoài cần được áp dụng
theo sự chỉ dẫn của quy phạm xung đột trong pháp luật Việt Nam hoặc trong
Điều ước quốc tế mà Việt Nam là thành viên thì việc cung cấp pháp luật nước
ngoài là quyền chứ không phải nghĩa vụ của các đương sự. Trong trường hợp
này, Toà án có quyền yêu cầu các cơ quan chức năng của Việt Nam cung cấp
pháp luật nước ngoài. Toà án cũng có thể yêu cầu cơ quan, tổ chức, cá nhân
có chuyên môn về pháp luật nước ngoài cung cấp thông tin về pháp luật nước
ngoài. Tuy nhiên, thông qua điều luật này có thể thấy pháp luật Việt Nam
không trực tiếp quy định về trách nhiệm của Toà án Việt Nam trong việc tìm
kiếm và xác định nội dung pháp luật nước ngoài. Điều này có thể sẽ là một kẽ
hở dẫn đến việc Toà án bỏ qua việc áp dụng pháp luật nước ngoài khi giải
quyết các tranh chấp về hợp đồng thương mại quốc tế.
- Về cách thức xác định nội dung pháp luật nước ngoài:
Trường hợp pháp luật nước ngoài được áp dụng nhưng có cách hiểu
khác nhau: liên quan đến việc áp dụng pháp luật nước ngoài nhưng có nhiều
cách hiểu khác nhau, Điều 667 BLDS 2015 quy định: “Trường hợp pháp luật
nước ngoài được áp dụng nhưng có cách hiểu khác nhau thì việc áp dụng phải
theo sự giải thích của cơ quan có thẩm quyền tại nước đó”. Đây là quy định
hoàn toàn mới so với BLDS 2005 và là một quy định hoàn toàn phù hợp với
nguyên tắc áp dụng pháp luật nước ngoài. Việc Toà án áp dụng pháp luật nước
ngoài cần phải tuân thủ theo đúng cách thức, tinh thần giải thích, áp dụng
những quy định pháp luật đó tại chính quốc gia nơi nó được ban hành. Toà án
Việt Nam khi áp dụng pháp luật nước ngoài không được tuỳ tiện giải thích
những quy định của pháp luật nước ngoài theo nguyên tắc pháp luật Việt
Nam.
Điều đó có nghĩa là cơ quan có thẩm quyền không thể dùng tư duy
pháp lý, cách thức giải thích, cách thức áp dụng của luật quốc gia mình để
giải thích và áp dụng pháp luật nước ngoài. Đây là nguyên tắc chung được
thừa nhận rộng rãi ở các nước. Khi Toà án của mỗi nước áp dụng pháp luật
nước ngoài mà áp dụng theo cách hiểu riêng của mình thì sẽ dẫn đến hệ quả là
pháp luật nước ngoài không được áp dụng một cách thống nhất, không bảo
đảm giá trị của pháp luật. Vì vậy nguyên tắc này ràng buộc Toà án của các
nước dù trong hoàn cảnh, điều kiện nào, ở quốc gia nào thì việc áp dụng một
hệ thống pháp luật nào đó phải luôn cho ra một kết quả giống như pháp luật
đó được áp dụng tại quốc gia đã ban hành.
Trường hợp áp dụng pháp luật nước ngoài có nhiều hệ thống pháp luật:
Trong quá trình áp dụng pháp luật nước ngoài, Toà án có thể gặp tình trạng
quy phạm xung đột dẫn chiếu đến pháp luật nước ngoài nhưng tại quốc gia có
hệ thống pháp luật nước ngoài đó tồn tại các hệ thống pháp luật khác nhau. Ví
dụ, trong Nhà nước liên bang, bên cạnh pháp luật của liên bang, mỗi một
bang đều có pháp luật của mình. Vì vậy đối với những Nhà nước liên bang, ví
dụ như Hoa Kỳ, cần xác định quy phạm xung đột dẫn chiếu đến pháp luật của
liên bang hay pháp luật của tiểu bang. Về nguyên tắc, xung đột pháp luật
được nghiên cứu trong Tư pháp quốc tế dưới góc độ chọn luật áp dụng giữa
các hệ thống pháp luật của các quốc gia có chủ quyền. Do đó, cần tôn trọng
các nguyên tắc giải quyết xung đột pháp luật trong nội bộ của các quốc gia
đối với các nhà nước liên bang và đối với các quốc gia cho phép tồn tại nhiều
hơn một hệ thống pháp luật. Trong trường hợp này, việc xác định hệ thống
pháp luật nào được áp dụng cần tuân theo nguyên tắc xác định pháp luật do
chính quốc gia nước ngoài đó quy định. Vấn đề này được ghi nhận tại Điều
669 BLDS 2015 “Trường hợp pháp luật của nước có nhiều hệ thống pháp luật
được dẫn chiếu đến thì pháp luật áp dụng được xác định theo nguyên tắc do
pháp luật nước đó quy định.” Đây là một quy định mới được đưa vào BLDS
2015 và là quy định phù hợp với Tư pháp quốc tế của nhiều nước.
III. Một số kiến nghị hoàn thiện quy định của pháp luật Việt Nam
Từ những phân tích trên đây, nhóm em xin đưa ra một số định hướng
nhằm hoàn thiện quy định của pháp luật Việt Nam, tạo điều kiện cho pháp
luật Việt Nam được áp dụng trên thực tiễn:
- Thứ nhất, tăng cường hợp tác với các nước trong khu vực về cung cấp
pháp luật nước ngoài. Điều này rất có ý nghĩa trong bối cảnh Việt Nam vừa
gia nhập Cộng đồng kinh tế ASEAN (gọi tắt là AEC). Mặc dù AEC thực chất
chưa thể được coi là một cộng đồng kinh tế gắn kết như Cộng đồng Châu Âu,
bởi AEC không có cơ cấu tổ chức chặt chẽ và những điều lệ, quy định có tính
chất ràng buộc cao và rõ ràng như EC, tuy nhiên AEC vẫn mở ra cơ hội cho
các nước thành viên trong khu vực có thể thiết lập những thoả thuận hợp tác
pháp lý, cụ thể là liên quan đến việc cung cấp thông tin pháp luật nước ngoài.
Nói đến áp dụng pháp luật nước ngoài cho các quan hệ dân sự có yếu tố
nước ngoài nói chung, trở ngại lớn nhất cho các cơ quan có thẩm quyền là
việc tiếp cận và giải thích nội dung pháp luật nước ngoài. Rào cản về ngôn
ngữ, về chính sách pháp luật, tư duy lập pháp… của các nước đã tạo nên rất
nhiều khó khăn cho các chủ thể áp dụng pháp luật. Đây là thực trạng không
phải chỉ tồn tại trong Tư pháp quốc tế Việt Nam mà còn cả ở các nước phát
triển trên thế giới. Vì vậy, nếu có thể xây dựng được một cơ chế cung cấp,
trao đổi thông tin pháp luật nước ngoài giữa các nước thành viên AEC sẽ là
một giải pháp hữu hiệu để khắc phục những khó khăn đang tồn tại đối với các
cơ quan có thẩm quyền của Việt Nam.
- Thứ hai, ngoài giải pháp khai thác quy phạm xung đột đã tồn tại bằng
cách giải thích luật, để hoàn thiện Tư pháp quốc tế nước ta về vấn đề xung đột
pháp luật, chúng ta có thể xây dựng thêm quy phạm xung đột mới để điều
chỉnh. Theo đó, sẽ áp dụng pháp luật của nước Việt Nam hoặc pháp luật của
nước ngoài tùy thuộc vào từng trường hợp cụ thể. Bên cạnh đó, cần sớm hoàn
thiện cụ thể hơn nữa các quy định về thẩm quyền lựa chọn và áp dụng pháp
luật thuộc về ai khi các quan hệ tư pháp quốc tế phát sinh.
- Thứ ba, thực tế số lượng hiệp định tương trợ tư pháp về lĩnh vực dân
sự mà Việt Nam đã ký kết là khá ít. Vì vậy, để giải quyết xung đột pháp luật
thuận lợi hơn, Nhà nước cần tích cực xem xét hợp tác và ký kết các hiệp định
tương trợ tư pháp về lĩnh vực tư pháp với các nước mà Việt Nam đã và đang
gắn bó hợp tác trong các lĩnh vực.
- Thứ tư, hoàn thiện yếu tố con người trong quá trình thực thi pháp luật:
Đây là nhóm giải pháp mang tính bổ trợ, không trực tiếp liên quan đến các
quy định của pháp luật tuy nhiên nếu các giải pháp bổ trợ này được triển khai
hiệu quả cũng sẽ giúp cho các quy định pháp luật liên quan đến việc áp dụng
pháp luật nước ngoài đi vào thực tiễn dễ dàng hơn. Thực tiễn xét xử của Toà
án cho thấy, trong quá trình xác định nội dung pháp luật nước ngoài, Toà án
có thể nhận sự hỗ trợ rất hiệu quả từ phía các chuyên gia nghiên cứu pháp
luật. Do đó, việc đẩy mạnh công tác trang bị kiến thức pháp luật nước ngoài
cho nhóm đối tượng này cũng là một giải pháp cần thiết.
III. Phân tích Bản án số 28/2019/HNGĐ-ST ngày 22 tháng 5 năm 2019
của Tòa án nhân dân tỉnh Kiên Giang về việc tranh chấp li hôn
Để hiểu rõ hơn về việc áp dụng quy phạm pháp luật để điều chỉnh mối
quan hệ Tư pháp quốc tế, nhóm em xin phân tích bản án số28/2019/HNGĐST ngày 22 tháng 5 năm 2019 của Tòa án nhân dân tỉnh Kiên Giang về việc
tranh chấp li hôn như sau:
Tóm tắt nội dung vụ án: Ông D Vo (quốc tịch Canada) và bà Huỳnh
Vũ L (quốc tịch Việt Nam) quen biết và đăng ký kết hôn với nhau, được Ủy
ban nhân dân tỉnh Kiên Giang cấp giấy chứng nhận kết hôn ngày 03/8/2010,
vào sổ đăng ký kết hôn số 196, quyển số 02/2010. Sau khi kết hôn được vài
tháng thì ông D Vo trở về Canada. Thời gian đầu ông và bà L còn liên lạc,
nhưng sau đó ông và bà L xảy ra bất đồng quan điểm sống, phong tục tập
quán không phù hợp, việc xa cách về địa lý dẫn đến tình cảm phai nhạt và
không thể hàn gắn được. do đó, ông D Vo gửi đơn yêu cầu xin ly hôn lên Tòa
án của Việt Nam, cụ thể là TAND tỉnh Kiên Giang về việc chấm dứt quan hệ
vợ chồng với bà Huỳnh Vũ L. Hai bên không có con chung, tài sản chung, nợ
chung nên không yêu cầu giải quyết.
Theo đó, Tòa án căn cứ quy định tại khoản 1 Điều 28, khoản 1 Điều 37,
Điều 227, điểm d khoản 1 Điều 469, Điều 479 Bộ luật Tố tụng dân sự năm
2015; khoản 1 Điều 56 Luật Hôn nhân và gia đình năm 2014
Trong đó:
Khoản 1 Điều 28 quy định ly hôn là một trong những trường hợp tranh
chấp về hôn nhân và gia đình thuộc thẩm quyền giải quyết của Tòa án. Trong
trường hợp trên, ông D Vo nộp đơn yêu cầu tòa án giải quyết ly hôn, và việc
Tòa án thụ lý, giải quyết yêu cầu của ông D Vo là có cơ sở.
Hơn nữa, tại điểm d khoản 1 Điều 469 quy định về việc tòa án Việt
Nam có thẩm quyền giải quyết các vụ việc dân sự có yếu tố nước ngoài trong
trường hợp:
“d) Vụ việc ly hôn mà nguyên đơn hoặc bị đơn là công dân Việt Nam
hoặc các đương sự là người nước ngoài cư trú, làm ăn, sinh sống lâu dài tại
Việt Nam.”
Căn cứ theo quy định này thì tòa án của Việt Nam, cụ thể là Tòa án
nhân dân tỉnh Kiên Giang có thẩm quyền giải quyết yêu cầu ly hôn của ông D
Vo và bà Huỳnh Vũ L:
- Thứ nhất, yêu cầu xin giải quyết việc ly hôn trên có bà Huỳnh Vũ L
(bị đơn) là công dân Việt Nam.
- Thứ hai, hai bên ông D Vo và bà L đăng ký kết hôn tại Ủy ban nhân
dân tỉnh Kiên Giang (cơ quan có thẩm quyền của Việt Nam). Do đó, vụ việc
trên có căn cứ xác lập để được giải quyết tại Tòa án của Việt Nam. Quy định
trên đây là quy phạm thực chất bởi nó đã trực tiếp giải quyết quan hệ pháp lý
phát sinh bằng cách xác định trực tiếp quyền và nghĩa vụ của các bên tham
gia quan hệ, cụ thể là quan hệ pháp lý giữa Tòa án nhân dân tỉnh Kiên Giang
và ông D Vo, bà L được điều chỉnh trực tiếp bởi điểm d khoản 1 Điều 469,
trong đó chỉ rõ quyền, lợi ích hợp pháp và nghĩa vụ của các bên liên quan.
Tòa án nhân dân tỉnh Kiên Giang có thẩm quyền giải quyết vụ việc ly hôn có
yếu tố nước ngoài mà một bên là công dân Việt Nam như trong trường hợp
trên, ngược lại bên đương sự là công dân Việt Nam hoặc các đương sự là
người nước ngoài cư trú, làm ăn, sinh sống lâu dài tại Việt Nam cũng có nghĩa
quyền được Tòa án xét xử để đưa ra quyết định công bằng, khách quan, chính
xác nhất. Vì đối với những đơn yêu cầu ly hôn có yếu tố nước ngoài còn được
quy định tại Điều 37 Bộ luật Tố tụng dân sự 2015 quy định về việc yêu cầu
dân sự, hôn nhân và gia đình, kinh doanh, thương mại, lao động quy định tại
các điều 26, 28, 30 và 32 của BLTTDS, trừ những tranh chấp thuộc thẩm
quyền giải quyết của Tòa án nhân dân cấp huyện quy định tại khoản 1 và
khoản 4 Điều 35 BLTTDS thì thuộc thẩm quyền giải quyết của Tòa án nhân
dân tỉnh, cụ thể là tỉnh nơi nguyên đơn hoặc bị đơn cư trú. Trong trường hợp
này, bà Huỳnh Vũ L đang cư trú tại tỉnh Kiên Giang, nên việc gửi đơn yêu cầu
lên Tòa án nhân dân tỉnh Kiên Giang là hợp lý.
Điều 479 BLTTDS quy định về thời hạn kháng cáo của bản án, quyết
định của Tòa án xét xử vụ án dân sự có yếu tố nước ngoài. Đây là quy phạm
thực chất bởi quy phạm này đã quy định trực tiếp quyền của đương sự. Chẳng
hạn, khoản 1 Điều 479 quy định đương sự Việt Nam có quyền kháng cáo bản
án, quyết định của Tòa án trong thời hạn quy định tại… Do đó, ông D Vo có
quyền kháng cáo bản án, quyết định của tòa án Việt Nam theo thời hạn quy
định tại khoản 2, khoản 3 Điều này.
Ngoài ra, trong quá trình tố tụng, Tòa án nhân dân tỉnh Kiên Giang căn
cứ vào khoản 1 Điều 56 Luật Hôn nhân và gia đình năm 2014 để giải quyết ly
hôn theo yêu cầu của một bên là ông D Vo với vợ của mình (bà L). Ngoài ra,
tòa án còn dựa trên Điều 227 BLTTDS 2015 xử vắng mặt ông D Vo và bà
Huỳnh Vũ L do 2 bên đã có đơn xin vắng mặt trong quá trình giải quyết vụ
án. Nghị quyết 326/UBTVQH14 ngày 30/12/2016 của Ủy ban thường vụ
Quốc hội quy định về mức thu, miễn, giảm, nộp, quản lý và sử dụng án phí và
lệ phí Tòa án cũng được áp dụng để tính án phí dân sự đối với nguyên đơn là
ông D Vo.