Tải bản đầy đủ (.docx) (13 trang)

BT học kỳ môn những nguyên lý cơ bản 1 Vận dụng nội dung quy luật quan hệ sản xuất phù hợp với trình độ lực lượng sản xuất trong việc phát triển kinh tế Việt Nam hiện nay

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (118.61 KB, 13 trang )

MỞ ĐẦU
Từ khi xuất hiện con người trên hành tinh này, đến ngày nay đã trải qua 5
phương thức sản xuất: công xã nguyên thuỷ, chiếm hữu nô lệ, xã hội phong kiến,
chủ nghĩa tư bản và chủ nghĩa xã hội. Tư duy nhận thức của con người không dừng
lại ở một chỗ mà ngày càng phát triển hoàn thiện hơn. Từ đó kéo theo sự thay đổi
phát triển lực lượng sản xuất cũng như quan hệ sản xuất. Từ hái lượm, săn bắt để
duy trì cuộc sống đến trình độ khoa học - kĩ thuật lạc hậu sử dụng chủ yếu sức
người , đến ngày nay trình độ khoa học - kĩ thuật phát triển con người chủ yếu sử
dụng máy móc hiện đại trong lao động sản xuất. Mà cốt lõi của nền sản xuất xã hội
chính là sự thống nhất biện chứng giữa quan hệ sản xuất với lực lượng sản xuất,
như Mác và Ănghen nói, đó là quy luật về sự phù hợp giữa quan hệ sản xuất và lực
lượng sản xuất. Từ quan điểm này của chủ nghĩa Mác , Đảng và Nhà nước ta đã
vận dụng vào quá trình phát triển kinh tế - xã hội nước ta trong giai đoạn từ đổi mới
đến nay. Để nền kinh tế của một đất nước phát triển thật sự nó được chi phối bởi rất
nhiều yếu tố, trong đó có quy luật quan hệ sản xuất phù hợp với tính chất và trình
độ phát triển của lực lượng sản xuất, đây là một quy luật hết sức phổ biến và đóng
vai trò quan trọng trong công cuộc xây dựng đất nước của mỗi quốc gia. Để hiểu
rõ hơn về mối quan hệ này em xin bàn về vấn đề: " Vận dụng nội dung quy luật
quan hệ sản xuất phù hợp với trình độ lực lượng sản xuất trong việc phát triển kinh
tế Việt Nam hiện nay ".

NỘI DUNG
I, Cơ sở lí luận của chủ nghĩa Mác – Lênin về quy luật quan hệ sản xuất phù
hợp với trình độ phát triển của lực lượng sản xuất
1.Một số khái niệm
a)Lực lượng sản xuất


-Lực lượng sản xuất biểu hiện mối quan hệ giữa con người với tự nhiên trong
quá trình sản xuất, đồng thời thể hiện năng lực thực tiễn của con người trong quá
trình sản xuất ra của cải vật chất.


-Lực lượng sản xuất bao gồm: người lao động với kĩ năng lao động của họ và
tư liệu sản xuất ( trước hết là công cụ lao động ). Các yếu tố trong lực lượng sản
xuất không thể tách dời nhau. Chúng có quan hệ hữu cơ với nhau trong đó yếu tố
con người lao động giữ vị trí hàng đầu, tư liệu sản xuất đóng vai trò rất quan trọng.
Người lao động là chủ thể của quá trình lao động sản xuất, với sức mạnh và kĩ năng
lao động của mình, sử dụng tư liệu lao động (công cụ lao động) tác động vào đối
tượng lao động để sản xuất ra của cải vật chất. Công cụ lao động do con người tạo
ra với mục đích "nhân" sức mạnh bản thân lên trong quá trình lao động sản xuất. Sự
cải tiến và hoàn thiện không ngừng của công cụ lao động đã làm biến đổi toàn bộ tư
liệu sản.
b)

Quan hệ sản xuất

Quan hệ sản xuất là quan hệ giữa người với người trong quá trình sản xuất (sản
xuất và tái sản xuất xã hội). Do con người không thể tách khỏi cộng đồng nên trong
quá trình sản xuất phải có những mối quan hệ với nhau. Vậy việc phải thiết lập các
mối quan hệ trong sản xuất tự nó đã là một vấn đề có tính quy luật. Nhìn tổng thể
quan hệ sản xuất gồm 3 mặt:
- Quan hệ sở hữu đối với tư liệu sản xuất: là quan hệ giữa người với tư liệu sản
xuất, nói cách khác là tư liệu sản xuất thuộc về ai.
- Quan hệ trong tổ chức và quản lý sản xuất: là quan hệ giữa người với người
trong sản xuất và trao đổi của cải vật chất như: phân công chuyên môn hoá và hợp
tác hoá lao động, quan hệ giữa người quản lý và công nhân…
- Quan hệ trong phân phối sản phẩm lao động: là quan hệ chặt chẽ giữa sản
xuất và sản phẩm với cùng một mục tiêu chung là sử dụng hợp lí và có hiệu quả tư
liệu sản xuất.


=> Ba mặt quan hệ này thống nhất với nhau, mỗi mặt đều có tác động kích

thích , thúc đẩy hoặc cản trở, kìm hãm những mặt khác. Trong đó, quan hệ sở hữu
đối với tư liệu sản xuất đóng vai trò quyết định hai mặt kia.
2. Quy luật quan hệ sản xuất phải phù hợp với trình độ phát triển của lực
lượng sản xuất
Lực lượng sản xuất và quan hệ sản xuất là hai mặt của phương thức sản
xuất, chúng tồn tại không tách rời nhau, tác động qua lại lẫn nhau một cách biện
chứng, tạo thành qui luật về sự phù hợp của quan hệ sản xuất với trình độ phát triển
của lực lượng sản xuất. Từ đó tạo nên qui luật cơ bản nhất của sự vận động, phát
triển xã hội. Khuynh hướng chung của sản xuất vật chất là không ngừng phát triển.
Sự phát triển đó xét đến cùng là bắt nguồn từ sự biến đổi và phát triển của lực
lượng sản xuất, trước hết là công cụ lao động. Sự phát triển của lực lượng sản xuất
được đánh dấu bằng trình độ của lực lượng sản xuất. Trình độ lực lượng sản xuất
trong từng giai đoạn lịch sử thể hiện trình độ chinh phục tự nhiên của con người
trong giai đoạn lịch sử đó. Trình độ lực lượng sản xuất biểu hiện ở trình độ công cụ
lao động, trình độ, kinh nghiệm và kĩ năng lao động của con người, trình độ tổ chức
và phân công lao động xã hội, trình độ ứng dụng khoa học vào sản xuất. Sự vận
động và phát triển của lực lượng sản xuất quyết định và làm thay đổi quan hệ sản
xuất cho phù hợp với nó. Khi một phương thức sản xuất mới ra đời thì yêu cầu
quan hệ sản xuất phải phù hợp với trình độ phát triển của lực lượng sản xuất. Sự
phù hợp này tạo điều kiện sử dụng và kết hợp một cách tối ưu giữa người lao động
với tư liệu sản xuất để lực lượng sản xuất có cơ sở để phát triển hoàn thiện. Sự phát
triển của lực lượng sản xuất đến một mức nhất định sẽ làm cho quan hệ sản xuất từ
chỗ phù hợp trở thành không phù hợp với sự phát triển của lực lượng sản xuất.
Điều này dẫn đến quan hệ sản xuất kìm hãm lực lượng sản xuất phát triển và yêu
cầu khách quan tất yếu là phải thay thế quan hệ sản xuất. Từ chỗ là những hình
thức của lực lượng sản xuất, những quan hệ ấy trở thành những xiềng xích của các
lực lượng sản xuất.


Lực lượng sản xuất quyết định quan hệ sản xuất, nhưng quan hệ sản xuất

cũng có tính độc lập tương đối và tác động trở lại sự phát triển của lực lượng sản
xuất. Quan hệ sản xuất quyết định mục đích của sản xuất, tác động đến thái độ của
con người trong lao động sản xuất, đến tổ chức phân công lao động xã hội, đến phát
triển và ứng dụng khoa học công nghệ… do đó tác động đến sự phát triển của lực
lượng sản xuất. Quan hệ sản xuất phù hợp sẽ thúc đẩy sự phát triển của lực lượng
sản xuất, ngược lại sẽ kìm hãm. Và khi quan hệ sản xuất kìm hãm sự phát triển của
lực lượng sản xuất thì theo quy luật chung, quan hệ sản xuất cũ sẽ được thay thế
bằng quan hệ sản xuất mới phù hợp để thúc đẩy lực lượng sản xuất phát triển. Quan
hệ sản xuất và lực lượng sản xuất vừa có tác động cho nhau lại vừa mâu thuẫn với
nhau. Việc phản ánh mâu thuẫn này là yêu cầu cần có. Nó phải thông qua nhận thức
và cải tạo xã hội của con người. Trong xã hội có giai cấp phải thông qua đấu tranh
giai cấp, qua cách mạng xã hội.
II, Thực tiễn sự vận dụng quy luật quan hệ sản xuất phù hợp với trình độ phát
triển của lực lượng sản xuất ở Việt Nam hiện nay
1.

Sự vận dụng quy luật sản xuất phù hợp với trình độ sản xuất trong đường lối

phát triển kinh tế nước ta hiện nay
1.1 Xây dựng cơ cấu kinh tế nhiều thành phần
Trước kia, ở nước ta tồn tại mô hình hợp tác xã, mô hình này trước thời kì
đổi mới là các hợp tác xã mang tính chất ép buộc ( buộc mọi người vào làm trong
hợp tác xã), tính công theo ngày không quan tâm tới năng suất, hiệu quả, tinh thần
trách nhiệm của mọi thành viên trong hợp tác, cũng như lợi ích của người lao động,
công cụ lao động thủ công nên người này chăm chỉ, người khác vẫn có thể lười
biếng. Từ thực trạng tiêu cực đó nước ta không thể duy trì hai thành phần kinh tế là
thành phần kinh tế quốc doanh thuộc sở hữu toàn dân và thành phần kinh tế hợp tác
xã thuộc sở hữu tập thể của nhân dân lao động nữa mà cần có sự đa dạng, mở rộng



với việc công nhận thêm các thành phần kinh tế khác: thành phần kinh tế nhà nước;
kinh tế tập thể; kinh tế cá thể, tiểu chủ, tư bản, tư nhân; kinh tế tư bản nhà nước;
kinh tế có vốn đầu tư nước ngoài. Trong đó, kinh tế nhà nước giữ vai trò chủ đạo.
Các thành phần kinh tế đều là bộ phận hợp thành quan trọng của nền kinh tế, bình
đẳng trước pháp luật, cùng phát triển lâu dài, hợp tác và cạnh tranh lành
mạnh dưới sự lãnh đạo của Đảng và sự quản lí của nhà nước nhằm tạo ra sự tăng
trưởng mạnh mẽ về kinh tế và giữ được sự ổn định về chính trị, gắn với công bằng
xã hội.
1.2 Qui luật quan hệ sản xuất phù hợp với trình độ phát triển của lực lượng
sản xuất được vận dụng trong quá trình công nghiệp hóa, hiện đại hóa đất
nước
Công nghiệp hóa hiện đại hóa (CNH-HĐH) được xem xét từ tư duy triết học
là thuộc phạm trù của lực lượng sản xuất trong mối quan hệ biện chứng của
phương thức sản xuất. Muốn CNH-HĐH đất nước cần phải có tiềm lực về kinh tế,
con người, trong đó lực lượng sản xuất là yếu tố vô cùng quan trọng. Ngoài ra phải
có sự phù hợp giữa quan hệ sản xuất với trình độ phát triển của lực lượng sản xuất.
Với tiềm năng lao động lớn nhưng công cụ lao động lại hết sức thô sơ lạc hậu,
CNH-HĐH đứng trước khó khăn lớn cần nhanh chóng khắc phục. Đảng ta đã thực
hiện một cơ cấu sở hữu hợp quy luật, gắn liền với một cơ cấu thành phần kinh tế
hợp lí và trong thời cơ cũng như thách thức to lớn hiện nay, đất nước ta đang có rất
nhiều tiềm năng phát triển, mà cốt lõi của sự phát triển ấy vẫn là quy luật quan hệ
sản xuất phải phù hợp với trình độ phát triển của lực lượng sản xuất. Mục tiêu
CNH-HĐH đất nước đang được nỗ lực thực hiện và đã đạt được nhiều thành tựu
đáng kể. Cùng với nó vẫn là những khó khăn, hạn chế song tương lai phát triển đất
nước vẫn mang nhiều yếu tố khả quan.


2. Thành tựu và hạn chế trong phát triển kinh tế của Việt Nam hiện nay
2.1 Thành tựu
- Trình độ của tư liệu sản xuất tiến bộ hơn so với thời kì trước đổi mới cụ thể:

+ Công cụ lao động hiện đại hơn với sự đầu tư, mua mới nhiều máy móc,
công cụ hiện đại vào trong quá trình sản xuất góp phần làm cho năng suất lao động
tăng cao, giảm bớt được chi phí sức lao động. Ví dụ: trước kia, cối xay quay bằng
tay rồi tiên tiến hơn là cối xay chạy bằng hơi nước và cái cối xay hiện nay không
phải quay bằng tay, không phải chạy bằng hơi nước mà là tự động hóa.
+ Đối tượng lao động hiện nay cũng hiện đại hơn rất nhiều: nếu trước đây
với nền văn minh nông nghiệp thì đối tượng lao động chủ yếu là ruộng đất còn
trong giai đoạn hiện nay, với nền văn minh cơ khí thì đối tượng lao động được mở
rộng với các nguyên liệu như: than đá, chất đốt, dầu khí,…Tất cả tạo điều kiện cho
sự phát triển ngày càng hiện đại của lực lượng sản xuất.
- Trình độ phát triển của lực lượng sản xuất: tỉ lệ người lao động đã qua đào tạo
có xu hướng tăng nhanh. Người lao động năng động, sáng tạo, cần cù, chịu khó, có
kinh nghiệm, có chuyên môn,…. Từ đó, trình độ tổ chức và phân công lao động,
trình độ ứng dụng khoa học công nghệ vào sản xuất ở Việt nam hiện nay đã có
nhiều tiến bộ. Qua đó, cho thấy trình độ chuyên môn tay nghề của lao động nước ta
đang có những chuyển biến tích cực đáp ứng ngày càng tốt hơn nhu cầu cũng như
đòi hỏi thực tế của nền kinh tế đất nước ta trong giai đoạn hiện nay.
- Cơ cấu kinh tế chuyển dịch theo hướng tiến bộ: chuyển từ khu vực I (Nông
nghiệp, lâm nghiệp và thuỷ sản) sang khu vực II (công nghiệp - xây dựng) và khu
vực III (dịch vụ), chuyển từ khu vực quốc doanh, hợp tác xã sang đa thành phần và
chuyển theo hướng hình thành 3 vùng kinh tế trọng điểm ở 3 miền Bắc- TrungNam. Áp dụng những tiến bộ khoa học- kỹ thuật vào lao động, sản xuất làm nền
kinh tế có bước phát triển tương đối ổn định:


+ Nông nghiệp phát triển toàn diện cả trồng trọt và chăn nuôi, sản lượng
lương thực tăng, Việt nam từ một nước thiếu lương thực đến nay đã trở thành đứng
thứ hai trên thế giới về xuất khẩu gạo.
+ Công nghiệp tăng liên tục do có sự đầu tư lớn ở cả trong và ngoài nước,
nhưng quan trọng là có sự đổi mới về cơ chế, chính sách quản lí của Nhà nước, xóa
bỏ bao cấp, nhận vốn đầu tư nước ngoài,…

+ Dịch vụ: thời gian qua, nước ta đã định hướng tập trung phát triển các
ngành dịch vụ có tiềm năng, lợi thế, có hàm lượng khoa học, công nghệ cao như
công nghệ thông tin, truyền thông, logistics, hàng không, tài chính, ngân hàng, du
lịch, thương mại điện tử... Mạng lưới thương mại và dịch vụ nhờ đó đã phát triển
mạnh trên phạm vi cả nước, đáp ứng tốt hơn yêu cầu phát triển kinh tế - xã hội.
- Đời sống vật chất và tinh thần của nhân dân được cải thiện rõ rệt: lao động
có việc tăng tăng nhanh; theo báo cáo của Chính phủ: năm 2017, quy mô GDP
(theo giá hiện hành) đạt khoảng 5 triệu tỷ đồng, tương đương khoảng 224,6 tỷ
USD, GDP bình quân đầu người ước đạt khoảng 2.400 USD.
Những thành tựu đạt được là kết quả của con đường đổi mới do Đảng khởi
xướng và lãnh đạo. Nó là kết quả của nhận thức đúng đắn quy luật quan hệ sản xuất
phù hợp với trình độ phát triển lực lượng sản xuất để phát triển kinh tế - xã hội hiện
nay.
2.2 Hạn chế
Dù nền kinh tế nước ta đang chuyển dần sang công nghiệp và dịch vụ
nhưng nền kinh tế nước ta hiện nay chủ yếu vẫn là nông nghiệp; công nghiệp còn
nhỏ bé, kết cấu hạ tầng kém phát triển, cơ sở vật chất kĩ thuật chưa xác được nhiều.
Mặc dù cơ cấu các ngành trong GDP có chuyển dịch rõ rệt nhưng cơ cấu lao động
chậm biến đổi. Sản xuất công nghiệp theo phương thức gia công là chủ yếu; sản
xuất nông nghiệp, công nghiệp chủ yếu bán nguyên liệu và xuất khẩu thô; tiến độ
cổ phần hóa, tái cơ cấu doanh nghiệp nhà nước còn chậm. Ví dụ như hoạt động


khai thác dầu khí ở Việt Nam hiện nay, nước ta khai thác dầu thô xuất khẩu ra nước
ngoài với giá rẻ, sau đó nhập khẩu dầu đã qua xử lí với giá thành cao hơn rất nhiều.
Vai trò quản lý của Nhà nước đối với nền kinh tế - xã hội còn yếu: khả năng kiềm
chế lạm phát còn chưa vững chắc, ngân sách thu không đủ chi, tỉ lệ bội chi ngân
sách còn cao. Tình trạng bất công xã hội, tham nhũng, buôn lậu, vi phạm kỉ cương
còn nặng và phổ biến. Nạn buôn lậu và tệ quan liêu được coi là quốc nạn, được
đưa vào chương trình nghị sự quan trọng hàng đầu của Việt Nam. Song hiện nay

vẫn chưa chống được, thậm chí còn có phần nghiêm trọng hơn.
2.3

Nguyên nhân hạn chế
Hạn chế trong nền kinh tế xã hội nước ta còn nhiều. Nguyên nhân của những

yếu kém đó là do hậu quả của nhiều năm trước để lại khi không hiểu rõ mối quan
hệ giữa quan hệ sản xuất và lực lượng sản xuất, sự phù hợp mang tính tất yếu của
chúng, đồng thời những bất lợi của tình hình thế giới hiện nay và những khuyết
điểm còn mang tính chủ quan duy ý chí trong công tác lãnh đạo của Đảng và quản
lý của Nhà nước ta.
III/Các giải pháp cơ bản để phát triển nền kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ
nghĩa ở Việt Nam.
Để phát triển nền kinh tế thị trường xã hội chủ nghĩa, cần thực hiện đồng
bộ nhiều giải pháp. Dưới đây là những giải pháp chủ yếu nhất:
- Thực hiện nhất quán chính sách kinh tế nhiều thành phần: đổi mới cơ
cấu sở hữu cũ bằng cách đa dạng hoá các hình thức sở hữu (sở hữu toàn dân, sở
hữu tập thể và sở hữu tư nhân, trong đó sở hữu nhà nước giữ vị trí chủ đạo và then
chốt trong nền kinh tế quốc dân), điều đó sẽ đưa đến sự hình thành các chủ thể kinh
tế độc lập, có lợi ích riêng, tức là khôi phục một trong những cơ sở của kinh tế hàng
hoá. Lấy việc phát triển sức sản xuất, nâng cao hiệu quả kinh tế - xã hội, cải thiện
đời sống nhân dân làm mục tiêu quan trọng để khuyến khích phát triển các thành
phần kinh tế và các hình thức tổ chức sản xuất kinh doanh.


- Đẩy mạnh công nghiệp hoá, hiện đại hoá, ứng dụng nhanh tiến bộ khoa
học - công nghệ, trên cơ sở đó đẩy mạnh phân công lao động xã hội.
- Hình thành và phát triển đồng bộ các loại thị trường: Phát triển thị trường
hàng hoá và dịch vụ thông qua việc đẩy mạnh sản xuất, thúc đẩy chuyển dịch cơ
cấu kinh tế, phát triển hệ thống giao thông và phương tiện vận tải để mở rộng thị

trường. Hình thành thị trường sức lao động có tổ chức để tạo điều kiện cho sự di
chuyển sức lao động theo yêu cầu phát triển kinh tế và sử dụng có hiệu quả nguồn
nhân lực. Xây dựng thị trường vốn, từng bước hình thành và phát triển thị trường
chứng khoán để huy động các nguồn vốn vào phát triển sản xuất. Quản lý chặt chẽ
đất đai và thị trường nhà ở. Xây dựng và phát triển thị trường thông tin, thị trường
khoa học công nghệ. Hoàn thiện các loại thị trường đi đôi với xây dựng khuôn khổ
pháp lý và thể chế, tăng cường sự kiểm tra, giám sát của nhà nước, để thị trường
hoạt động năng động, có hiệu quả, có trật tự, kỷ cương trong môi trường cạnh tranh
lành mạnh, công khai, minh bạch, hạn chế và kiểm soát độc quyền kinh doanh. Có
biện pháp hữu hiệu chống buôn lậu và gian lận thương mại.
- Mở rộng và nâng cao hiệu quả kinh tế đối ngoại: Trong điều kiện hiện nay,
chỉ có mở cửa kinh tế, hội nhập vào kinh tế khu vực và thế giới, mới thu hút được
vốn, kỹ thuật và công nghệ hiện đại để khai thác tiềm năng và thế mạnh của đất
nước nhằm phát triển kinh tế.
- Giữ vững sự ổn định chính trị, hoàn thiện hệ thống luật pháp: đây là điều
kiện để các nhà sản xuất kinh doanh trong nước và ngoài nước yên tâm đầu tư.
Muốn giữ vững sự ổn định chính trị ở nước ta hiện nay cần phải giữ và tăng cường
vai trò lãnh đạo của Đảng cộng sản Việt Nam, nâng cao hiệu lực quản lý của nhà
nước, phát huy quyền làm chủ của nhân dân. Hệ thống pháp luật đồng bộ là công
cụ quan trọng để nhà nước quản lý nền kinh tế hàng hoá nhiều thành phần, nó buộc
các doanh nghiệp chấp nhận sự điều tiết của nhà nước.
- Xoá bỏ triệt để cơ chế tập trung, quan liêu, bao cấp, hoàn thiện cơ chế quản lý
kinh tế của nhà nước. Việc xoá bỏ triệt để cơ chế tập trung, quan liêu, bao cấp, hình


thành đồng bộ và vận hành có hiệu quả cơ chế thị trường có sự quản lý của nhà
nước có ý nghĩa hết sức quan trọng đối với sự phát triển kinh tế nước ta hiện nay.
KẾT LUẬN
Quy luật quan hệ sản xuất phù hợp với tính chất và trình độ phát triển của lực
lượng sản xuất là quy luật phổ biến, tác động không chỉ tới một hình thái kinh tế xã

hội nào đó, mà tác động tới toàn bộ lịch sử phát triển của nhân loại. Quan hệ sản
xuất chúng ta thiết lập và xây dựng hiện nay là quan hệ sản xuất trong nền kinh tế
thị trường và định hướng xã hội chủ nghĩa. Đây là quan hệ xã hội xã hội chủ nghĩa
tiến bộ vì nó hơn hẳn quan hệ sản xuất phong kiến và quan hệ sản xuất tư bản chủ
nghĩa ( có bản chất bóc lột và ngày càng tỏ ra lỗi thời không phù hợp với lịch sử),
quan hệ sản xuất xã hội chủ nghĩa sẽ dần xóa bỏ áp bức bóc lột đưa mọi thành viên
trong bộ máy sản xuất và cả xã hội đến ấm no, hạnh phúc. Điều này đặc biệt có ý
nghĩa khi Việt Nam đi từ một nước phong kiến bỏ qua giai đoạn tư bản chủ nghĩa
tiến thẳng lên chủ nghĩa xã hội, mà thiếu cái “cốt vật chất” hiện đại của lực lượng
sản xuất tư bản chủ nghĩa, trong khi đó các nước khác phải mất hàng chục thậm chí
hàng trăm năm phát triển mới có được lực lượng sản xuất hiện đại. Mấu chốt ở đây
là các biện pháp, thủ tục hành chính, các điều kiện, hành lang pháp lý thuận lợi cho
các hoạt động giao lưu, hội nhập với kinh tế thế giới. Mong rằng với những nỗ lực
và quyết tâm đúng hướng của mình, Đảng ta sẽ sớm đưa đất nước đến cái đích “dân
giàu, nước mạnh, xã hội công bằng, dân chủ, văn minh” mà Đại hội VIII đã đề ra.


DANH MỤC TÀI LIỆU THAM KHẢO
1.

Giáo trình Những nguyên lý cơ bản của chủ nghĩa Mác – Lênin, Bộ Giáo dục

2.

và Đào tạo, NXB chính trị quốc gia, 2009
/>
3.

phat-trien-kinh-te-o-Viet-Nam-349.html
/>%E1%BB%A5ng-c%E1%BB%A7a-%C4%91%E1%BA%A3ng-ta-trong%C4%91%C6%B0%E1%BB%9Dng-l%E1%BB%91i-%C4%91%E1%BB


4.

%95i-m%E1%BB%9Bi-%E1%BB%9F/page/2
/>

MỤC LỤC



×