Tải bản đầy đủ (.docx) (29 trang)

Tư tưởng hồ chí minh về xây dựng đảng

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (211.68 KB, 29 trang )

BỘ GIÁO DỤC VÀ ĐÀO TẠO
TRƯỜNG ĐẠI HỌC KINH TẾ QUỐC DÂN

BÀI TẬP LỚN
CHỦ ĐỀ: TƯ TƯỞNG HỒ CHÍ MINH VỀ XÂY DỰNG
ĐÁNG CỘNG SẢN VIỆT NAM

Họ và tên: Lê Hồng Giang - 11181220
Lớp học phần: Tư tưởng Hồ Chí Minh(219)_19
Năm học: 2019-2020

1


LỜI MỞ ĐẦU
Là người sáng lập, Đảng Cộng sản Việt Nam, giáo dục và rèn luyện Đảng ta,
chủ tịch Hồ Chí Minh đặc biệt coi trọng công tác xây dựng Đảng cả về tư tưởng, lý
luận, chính trị và tổ chức. Bắt nguồn từ học thuyết của Mác về Đảng cộng sản và
trực tiếp từ học thuyết về Đảng kiểu mới của giai cấp công nhân đã được Lê nin
đưa ra từ những năm đầu của thế kỷ XX, Nguyễn Ái Quốc đã tiếp thu có chọn lọc
và phát triển lý luận của Chủ nghĩa Mác - Lênin về Đảng cộng sản, đồng thời
chuẩn bị về mặt chính trị, tư tưởng và tổ chức cho sự ra đời của Đảng cách mạng Đảng Cộng sản Việt Nam. Những luận điểm của Người về Đảng cộng sản và xây
dựng Đảng, đặc biệt trong điều kiện Đảng cầm quyền là một phần rất quan trọng,
vì theo Hồ Chí Minh, Đảng Cộng sản Việt Nam là nhân tố quyết định hàng đầu, để
đưa cách mạng Việt Nam đến thắng lợi.
Thể hiện tư tưởng này, Hồ Chí Minh khẳng định: Cách mạng “trước hết phải có
Đảng cách mệnh, để trong thì vận động và tổ chức dân chúng, ngoài thì liên lạc với
các dân tộc bị áp bức và vô sản giai cấp mọi nơi”. Hồ Chí Minh giải thích: “cách
mạng muốn thắng lợi thì phải có một Đảng lãnh đạo, Đảng phải làm cho quần
chúng giác ngộ vì đâu mà họ bị áp bức bóc lột; phải dạy cho quần chúng hiểu các
quy luật phát triển của xã hội, để họ nhận rõ mục đích gì mà đấu tranh, chỉ rõ con


đường giải phóng cho quần chúng...". Vì theo Người: Cách mạng là sự nghiệp của
“cả dân chúng chứ không phải của một hai người”, nhưng sức mạnh của dân chúng
chỉ trở thành vô địch và “không một quân lính, súng ống nào thắng nổi” khi được
giác ngộ, được tổ chức, được lãnh đạo.
2


Đảng cách mạng là Đảng lấy chủ nghĩa Mác - Lênin làm nền tảng tư tưởng và
kim chỉ nam cho hành động. Trong Đường cách mệnh, Nguyễn Ái Quốc đã mở đầu
bằng một câu theo ý của Lê nin: “Không có lý luận cách mệnh, thì không có cách
mệnh vận động... chỉ có lý luận cách mệnh tiền phong, Đảng cách mệnh mới làm
nổi trách nhiệm cách mệnh tiền phong”. Người đã chỉ rõ: “ Đảng muốn vững thì
phải có chủ nghĩa làm cốt, trong Đảng ai cũng phải hiểu, ai cũng phải theo chủ
nghĩa ấy. Đảng mà không có chủ nghĩa cũng như người không có trí khôn, tàu
không có bàn chỉ nam” và Người cho rằng: “Bây giờ học thuyết nhiều, chủ nghĩa
nhiều, nhưng chủ nghĩa chân chính nhất, chắc chắn nhất, cách mệnh nhất là chủ
nghĩa Lê nin”. Tuy nhiên, Hồ Chí Minh cũng chỉ rõ rằng: lấy chủ nghĩa Mác Lênin “làm cốt” không có nghĩa là giáo điều theo từng câu từng chữ của Mác, của
Lê nin, mà như Hồ Chí Minh nói, là nắm vững tinh thần chủ nghĩa Mác - Lênin,
nắm vững lập trường, quan điểm và phương pháp của chủ nghĩa Mác - Lênin, đồng
thời tiếp thu những tinh hoa văn hóa dân tộc và nhân loại, tham khảo kinh nghiệm
các nước, vận dụng sáng tạo vào hoàn cảnh cụ thể của Việt Nam để đưa ra đường
lối chính sách đúng đắn cho cách mạng. Với tinh thần độc lập, tự chủ và sáng tạo,
Hồ Chí Minh đã nêu lên một chuẩn mực cho mọi người cách mạng về sự vận dụng
và phát triển chủ nghĩa Mác - Lênin để giải quyết thành công vấn đề cách mạng
Việt Nam cũng như cách mạng thế giới đặt ra.

3


1.Xây dựng Đảng-quy luật tồn tại và phát triển của Đảng

1.1. Vì sao phải xây dựng Đảng trong sạch vững mạnh
Theo tư tưởng Hồ Chí Minh, xây dựng Đảng là một nhiệm vụ tất yếu thường
xuyên để Đảng hoàn thành vai trò chiến sĩ tiên phong trước giai cấp, dân tộc và
nhân dân. Xây dựng, chỉnh đốn Đảng gắn liền với sự tồn tại của Đảng. Sự nghiệp
cách mạng do Đảng lãnh đạo là một quá trình, bản than Đảng phải tự chỉnh đốn, tự
đổi mới để vươn lên làm tròn trọng trách trước giai cấp và dân tộc. Đảng sống
trong xã hội, mỗi cán bộ đảng viên đều chịu ảnh hưởng, tác động của môi trường
xã hội, thường xuyên chú ý chỉnh đốn Đảng nhằm ngăn chặn, đẩy lùi cái ác, cái
xấu, bảo vệ cái tốt, cái thiện, làm cho Đảng luôn luôn là biểu tượng của đạo đức,
văn minh. Xây dựng, chỉnh đốn Đảng là cơ hội để mỗi cán bộ, đảng viên tự rèn
luyện, giáo dục và tu dưỡng tốt hơn, hoàn thành các nhiệm vụ mà Đảng và nhân
dân giao phó, đặc biệt là giữ được các phẩm chất đạo đức cách mạng tiêu biểu.
Trong điều kiện Đảng đã trở thành Đảng cầm quyền, việc xây dựng, chỉnh đốn
Đảng lại được Hồ Chí Minh coi là công việc càng phải tiến hành thường xuyên
hơn để hạn chế, ngăn chặn, đẩy lùi và tẩy trừ mọi tệ nạn do thoái hóa biến chất gây
ra. TTHCM về cây dựng ĐCS Việt Nam trong sạch vững mạnh chiếm một vị trí
đặc biệt quan trọng trong toàn bộ di sản tư tưởng của Người. Với Hồ Chí Minh,
xây dựng Đảng là một nhiệm vụ tất yếu, thường xuyên để Đảng hoàn thành vai trò
chiến sĩ tiên phong trước giai cấp, dân tộc, nhân dân.
1.2. Căn cứ quyết định tính khách quan của công tác xây dựng Đảng
Sự nghiệp cách mạng do Đảng lãnh đạo là một quá trình, bao gồm nhiều thời
kỳ, nhiều giai đoạn; mỗi thời kỳ, giai đoạn có những mục tiêu, nhiệm vụ cụ thể và
4


những yêu cầu riêng. Trước diễn biến của yêu cầu khách quan, bản thân Đảng phải
tự chỉnh đốn, tự đổi mới để vươn lên làm tròn trọng trách trước giai cấp và dân tộc.
Đảng là một bộ phận cấu thành của xã hội, mỗi cán bộ, đảng viên sẽ luôn chịu
những ảnh hưởng, tác động của môi trường xã hội (cả những yếu tố tích cực, tiến
bôh lẫn những yếu tố tiêu cực, phản tiến bộ). Phải thường xuyên chỉnh đốn Đảng

để phát huy những mặt tích cực chống lại những thói xấu trong mỗi cán bộ, đảng
viên, làm cho Đảng trong sạch, vững mạnh.
Xây dựng, chỉnh đốn Đảng là cơ hội để mỗi cán bộ, đảng viên tự rèn luyện,
giáo dục và tu dưỡng tốt hơn, giữ vững đạo đức cách mạng, hoàn thành các nhiệm
vụ do Đảng và nhân dân giao phó.
Trong điều kiện Đảng trở thành Đảng cầm quyền thì công tác xây dựng, chỉnh
đốn Đảng càng cần được nhấn mạnh. Vì, theo Hồ Chí Minh, quyền lực có tính hai
mặt: một mặt, nó có sức mạnh to lớn để cải tạo xã hội cũ, xây dựng xã hội mới nếu
biết sử dụng đúng; mặt khác, quyền lực cũng có sức phá hoại ghê gớm nếu người
nắm quyền lực bị tha hóa, biến chất, tham quyền lực, lộng quyền,… Đảng phải đặc
biệt quan tâm đến việc chỉnh đốn, đổi mới để hạn chế, ngăn chặn, đầy lùi, tẩy trừ
mọi tệ nạn do thoái hóa, biến chất gây nên. Tóm lại, theo Hồ Chí Minh, xây dựng
và chỉnh đốn Đảng là vấn đề mang tính quy luật và là nhu cầu tồn tại phát triển của
bản thân Đảng. Chỉnh đốn và đổi mới Đảng là nhằm làm cho Đảng thực sự trong
sạch, vững vàng cả về chính trị, tư tưởng và tổ chức; làm cho đội ngũ cán bộ, đảng
viên không ngừng nâng cao phẩm chất và năng lực trước yêu cầu, đòi hỏi ngày
càng cao, càng phức tạp của nhiệm vụ cách mạng. Đổi mới và chỉnh đốn Đảng sẽ
làm cho Đảng trở thành một khối thống nhất, vững mạnh, đủ sức lái con thuyền
cách mạng Việt Nam vượt qua những khúc quanh đầy thử thách để cập bến thắng
lợi.

5


2. Nội dung công tác xây dựng ĐCS Việt Nam
Là người sáng lập và rèn luyện Đảng ta, Chủ tịch Hồ Chí Minh luôn dành một
sự quan tâm đặc biệt cho công tác xây dựng Đảng. Với Người, xây dựng Đảng
trước hết là nhằm nâng cao sức mạnh chiến đấu, năng lực và trí tuệ Đảng, là làm
cho Đảng ta luôn xứng đáng với vai trò "một Đảng cầm quyền", luôn "xứng đáng
là người lãnh đạo, là người đầy tớ thật trung thành của nhân dân", "một lòng một

dạ phục vụ giai cấp, phục vụ nhân dân, phục vụ Tổ quốc". Với Người, xây dựng
Đảng là làm cho Đảng ta ngày càng trở nên trong sạch, vững mạnh cả về chính trị,
tư tưởng lẫn tổ chức.
2.1. Nội dung xây dựng Đảng về tư tưởng, lý luận
Để đạt mục tiêu cách mạng, Hồ Chí Minh chỉ rõ: phải dựa vào lý luận cách
mạng và khoa học của chủ nghĩa Mác - Lênin. Khi huấn luyện cho cán bộ cách
mạng từ năm 1925 đến năm 1927, Hồ Chí Minh khẳng định:"Đảng muốn vừng thi
phải có chủ nghĩa làm cốt, trong đảng ai cũng phải hiểu, ai cũng phải theo chủ
nghĩa ấy. Đảng mà không có chủ nghĩa cũng như người không có trí khôn, tàu
không có bàn chỉ nam"; "chủ nghĩa" ấy là chủ nghĩa Mác - Lênin. Hồ Chí Minh đã
ví chủ nghĩa Mác - Lênin như trí khôn của con người, như bàn chỉ nam định hướng
cho con tàu đi, điều đó nói lên vai trò cực kỳ quan trọng của lý luận ấy trong tất cả
các thời kỳ cách mạng. Với ý nghĩa đó, theo Người, chủ nghĩa Mác - Lênin trở
thành "cốt", trở thành nền tảng tư tưởng và kim chỉ nam cho mọi hành động của
Đảng Cộng sản Việt Nam.
Trong việc tiếp nhận và vận dụng chủ nghĩa Mác - Lênin. Hồ Chí Minh lưu ý
những điểm sau đây:
Một là, việc học tập nghiên cứu, tuyên truyền chủ nghĩa Mác-Lênin phải luôn
phù hợp với từng đối tượng.

6


Hai là,việc vận dụng chủ nghĩa Mác-Lênin phải luôn luôn phù hợp với từng
hoàn cảnh. Theo Hồ Chí Minh, vận dụng chủ nghĩa Mác-Lênin phải tránh giáo
điều, đồng thời chống lại việc xa rời các nguyên tắc cơ bản của chủ nghĩa MácLênin. Điều này hoàn toàn đúng với lời căn dặn của C.Mác, Ph.Ăngghen, V.I.Lênin
đối với những người cộng sản trên thế giới khi các ông cho rằng: những quan điểm
của các ông chỉ là phương pháp chỉ dẫn hành động trong thực tế.
Ba là, trong quá trình hoạt động, Đảng ta phải chú ý học tập, kế thừa những
kinh nghiệm tốt của các Đảng cộng sản khác, đồng thời Đảng ta phải tổng kết kinh

nghiệm của mình để bổ sung vào chủ nghĩa Mác- Lênin. Chủ nghĩa Mác - Lênin là
học thuyết nêu lên những vấn đề cơ bản nhất, trên cơ sở đó, mỗi Đảng vận dụng
vào hoàn cảnh, điều kiện riêng của mình. Trong quá trình vận dụng, mỗi đảng lại
giải quyết thành công những vấn đề mới, tổng kết thành những vấn đề lý luận bổ
sung và làm giàu thêm nội dung lý luận Mác- Lênin. Đây là thái độ và trách nhiệm
thường xuyên của Đảng ta.
Bốn là, Đảng ta phải tăng cường đấu tranh bảo vệ sự trong sáng của chủ nghĩa
Mác- Lênin. Chú ý chống giáo điều, cơ hội, xét lại chủ nghĩa Mác - Lênin; chống
lại những luận điểm sai trái, xuyên tạc, phủ nhận chủ nghĩa Mác-Lênin.
2.2. Nội dung xây dựng Đảng về chính trị
Trong tư tưởng Hồ Chí Minh, xây dựng Đảng về chính trị, thực chất là nâng
cao trình độ lý luận cho mỗi cán bộ, đảng viên của Đảng. Ngay từ khi mới ra đời,
Đảng ta đã lấy chủ nghĩa Mác - Lênin làm nền tảng tư tưởng và kim chỉ nam cho
mọi hoạt động của mình. Xa rời chủ nghĩa Mác - Lênin, không thể đưa một Đảng
cách mạng đến thành công. Thấu hiểu điều đó hơn ai hết, Chủ tịch Hồ Chí Minh đã
khẳng định, bây giờ chủ nghĩa nhiều, học thuyết nhiều, nhưng chủ nghĩa chắc chắn
nhất, chân chính nhất là chủ nghĩa Mác - Lênin. Chỉ có trang bị chủ nghĩa Mác Lênin thì sức sống của Đảng mới trường tồn. Và, cũng chỉ có chủ nghĩa Mác Lênin mới là "cái cẩm nang thần kỳ" để đưa cách mạng đến thành công.
7


Tư tưởng Hồ Chí Minhtrong việc xây dựng Đảng về chính trị có nhiều nội
dung bao gồm: xây dựng đường lối chính trị, bảo vệ chính trị,xây dựng và thực
hiện nghị quyết, xây dựng và phát triển hệ tư tưởng chính trị, củng cố lập trường
chính trị, nâng cao bản lĩnh chính trị...trong đó, theo Hồ Chí Minh, đường lối chính
trị là một vấn đề cốt tử trong sự tồn tại và phát triển của Đảng. Hoạch định đường
lối chính trị trở thành một trong những vấn đề cực kỳ quan trọng trong xây dựng
Đảng.
Đảng cộng sản Việt Namcó vai trò định hướng và phát triển toàn xã hội. Xây
dựng Đảng về hệ thống chính trị phải trên cơ sở kiên định chủ nghĩa Mác - Lê-nin,
tư tưởng Hồ Chí Minh, kiên định mục tiêu độc lập dân tộc và chủ nghĩa xã hội,

phát huy dân chủ xã hội chủ nghĩa. Xây dựng Đảng và hệ thống chính trị là những
vấn đề căn cốt của đổi mới chính trị, liên quan sống còn đến chế độ chính trị, phải
trên cơ sở kiên định những vấn đề nguyên tắc mà vận dụng và đổi mới sáng tạo.
Kiên định nguyên tắc, lập trường tư tưởng phải đi đôi với đấu tranh chống bảo thủ,
trì trệ; đổi mới sáng tạo phải gắn liền với chống cơ hội chính trị.
Đảm bảo tính đúng đắn của đường lối chiến lược, sách lược của cương lĩnh
cách mạng trong từng thời kỳ khác nhau. Trong tư tưởng của Người, xây dựng
cương lĩnh, đường lối chiến lược, sách lược là sự cụ thể hoá chủ nghĩa Mác - Lênin
vào những điều kiện lịch sử cụ thể của cách mạng Việt Nam. Và, trong toàn bộ
hoạt động của mình, Đảng phải luôn đảm bảo tính đúng đắn đó của cương lĩnh, của
đường lối chính trị, dù là trong giai đoạn cách mạng dân tộc dân chủ nhân dân hay
cách mạng xã hội chủ nghĩa.
Đảng phải thật sự là đội tiên phong dũng cảm, là bộ tham mưu sáng suốt của
giai cấp công nhân, của nhân dân lao động và của cả dân tộc.Hồ Chí Minh lưu ý
cần phải giáo dục đường lối, chính sách của Đảng, thông tin thời sự cho cán bộ,
đảng viên để họ luôn luôn kiên định lập trường, giữ vững bản lĩnh chính trị trong
mọi hoàn cảnh. Đồng thời, Người cũng cảnh báo nguy cơ sai lầm về đường lối
8


chính trị sẽ gây hậu quả nghiêm trọng đối với vận mệnh tổ quốc, sinh mệnh chính
trị của hàng triệu đảng viên cũng như của hàng triệu nhân dân lao động.
Chủ tịch Hồ Chí Minh luôn yêu cầu mỗi cán bộ, đảng viên của Đảng phải ra
sức học tập chủ nghĩa Mác - Lênin. Học chủ nghĩa Mác - Lênin, theo Người, là học
tinh thần biện chứng của nó. Nếu học mà không hiểu, hoặc hiểu mà không biết vận
dụng sáng tạo vào điều kiện nước ta thì sẽ không đưa lại kết quả mong muốn.
Người nói: "Lý luận như cái kim chỉ nam, nó chỉ phương hướng cho chúng ta trong
công việc thực tế”. Lý luận cốt để áp dụng vào công việc thực tế. Lý luận mà
không áp dụng vào thực tế là lý luận suông... Mỗi cán bộ, mỗi đảng viên phải học
lý luận, phải đem lý luận áp dụng vào công việc thực tế...

2.3.Xây dựng Đảng về tổ chức, bộ máy và cán bộ
2.3.1. Hệ thống tổ chức của Đảng:
Một tổ chức (organization) được định nghĩa là hai hay nhiều người làm việc,
phối hợp với nhau để đạt kết quả chung.
Hồ Chí Minh khẳng định sức mạnh của Đảng bắt nguồn từ tổ chức, một tổ
chức tiên phong chiến đấu của giai cấp công nhân.Hệ thống tổ chức của Đảng từ
trung ương đến cơ sở phải chặt chẽ, có tính kỷ luật cao. Mỗi cấp độ tổ chức có
chức năng, nhiệm vụ riêng.
Trong hệ thống tổ chức Đảng. Hồ Chí Minh rất coi trọng vai trò của chi bộ. Bởi
lẽ, đối với bản thân Đảng, chi bộ là tổ chức hạt nhân, quyết định chất lượng lãnh
đạo của Đảng; là môi trường tu dưỡng, rèn luyện và cũng là nơi giám sát đảng
viên: chi bộ có vai trò quan trọng trong việc gắn kết giữa Đảng và quần chúng
nhân dân.
2.3.2. Các nguyên tắc tổ chức sinh hoạt đảng:
-Tập trung dân chủ

9


Đây là nguyên tắc cơ bản trong xây dựng Đảng. Giữa "tập trung" và"dân chủ"
có mối quan hệ khăng khít với nhau, đó là hai vế của một nguyên tắc. Hồ Chí Minh
viết về mối quan hệ đó như sau: Tập trung trên nền tảng của dân chủ: dân chủ dưới
sự chỉ đạo tập trung hoặc. Người viết "Chế độ ta là chế độ dân chủ, tư tưởng phải
được tự do. Tự do là thế nào? Đối với mọi vấn đề mọi người tự do bày tỏ ý kiến
của mình, góp phần tìm ra chân lý. Đó là một quyền lợi mà cũng là một nghĩa vụ
của mọi người. Khi mọi người đã phát biểu ý kiến, đã tìm thấy chân lý, lúc đó
quyền tự do tư tưởng hóa ra quyền tự do phục tùng chân lý".
Tập thể lãnh đạo, cá nhân phụ trách Hồ Chí Minh giải thích về tập thể lãnh đạo
như sau: "Vì sao cần phải có tập thể lãnh đạo?
Vì một người dù khôn ngoan, tài giỏi mấy, dù nhiều kinh nghiệm đến đâu, cũng

chỉ trông thấy, chỉ xem xét được một hoặc nhiều mặt của một vấn đề, không thể
trông thấy xem xét tất cả mọi mặt của một vấn đề. Vì vậy, cần phải có nhiều người,
nhiều người thì nhiều kinh nghiệm.Người thì thấy rõ mặt này, người thì trông thấy
rõ mặt khác của vấn đề đó.
Góp kinh nghiệm và sự xem xét của nhiều người, thì vấn đề đó được thấy rõ
khắp mọi mặt. Mà có thấy rõ khắp mọi mặt, thì vấn đề ấy mới được giải quyết chu
đáo, khỏi sai lầm" về cá nhân phụ trách, Hồ Chí Minh cho rằng: "việc ai đã được
đông người bàn bạc kỹ lưỡng rồi, kế hoạch định rõ ràng rồi, thì cần phải giao cho
một người hoặc một nhóm người phụ trách theo kế hoạch đó mà thi hành. Như thế
mới có chuyên trách, công việc mới chạy. Nếu không có cá nhân phụ trách thì sẽ
sinh ra cái tệ người này ủy cho người kia, người kia ủy cho người nọ, kết quả là
không ai thi hành. Như thế thì việc gì cũng không xong".
Thực hiện nguyên tắc này trong công tác xây dựng Đảng phải chú ý khắc phục
tệ độc đoán chuyên quyền, đồng thời phải chống lại cả tình trạng dựa dẫm tập thể,
không dám quyết đoán, không dám chịu trách nhiệm.
-Tự phê bình và phê bình
10


Mục đích của tự phê bình và phê bình là để làm cho phần tốt trong mỗi con
người nảy nở như hoa mùa xuân, làm cho mỗi tổ chức tốt lên, phần xấu bị mất dần
đi, tức là nói đến sự vươn tới chân, thiện, mỹ. Mục đích này được quy định bởi tính
tất yếu trong quá trình hoạt động của Đảng ta.Bởi vì, Đảng là một thực thể của xã
hội.Đảng bao gồm các tầng lớp xã hội. đội ngũ của Đảng bao gồm những người ưu
tú, những trong Đảng cũng không tránh khỏi những khuyết điểm, không phải mọi
người đều tốt, mọi việc đều hay, mỗi con người đều có cái thiện và cái ác ở trong
lòng. Chính vì vậy, Hồ Chí Minh cho rằng, thang thuốc tốt nhất là tự phê bình và
phê bình.
Thái độ, phương pháp tự phê bình và phê bình được Hồ Chí Minh nêu rõ ở
những điểm như: phải tiến hành thường xuyên như người ta mà mặt hằng ngày:

phải thẳng thắn, chân thành, trung thực, không nể nang, không giấu giếm mà cũng
không thêm bớt khuyết điểm; "phải có tình thương yêu lẫn nhau".
- Kỷ luật nghiêm minh, tự giác
Sức mạnh của một tổ chức cộng sản và của mỗi đảng viên bắt nguồn từ ý thức
tổ chức kỷ luật nghiêm minh, tự giác. Tính nghiêm minh của kỹ luật Đảng đòi hòi
tất cả mọi tổ chức đảng, tất cả mọi đảng viên đều phải bình đẳng trước Điều lệ
Đảng, trước pháp luật của Nhà nước, trước mọi quyết định của Đảng. Đồng thời
Đảng ta là một tổ chức gồm những người tự nguyện phấn đấu cho lý tưởng cộng
sản chủ nghĩa cho nên tự giác là một yêu cầu bắt buộc đối với mọi tổ chức Đảng và
đảng viên. Tính nghiêm minh, tự giác đòi hỏi đảng viên phải gương mẫu trong
cuộc sống, công tác.Uy tín của Đảng bắt nguồn từ sự gương mẫu của mỗi đảng
viên trong việc tự giác tuân thủ kỷ luật của Đảng, của Nhà nước, của đoàn thể nhân
dân.
- Đoàn kết thống nhất trong Đảng
Sự đoàn kết thống nhất của Đảng phải dựa trên cơ sở lý luận của Đảng là chủ
nghĩa Mác - Lênin: cương lĩnh, điều lệ Đảng; đường lối, quan điểm của Đảng; nghị
11


quyết của tổ chức đảng các cấp Đồng thời, muốn đoàn kết thống nhất trong Đảng
phải thực hành dân chủ rộng rãi ở trong Đảng, thường xuyên và nghiêm chỉnh tự
phê bình và phê bình, thường xuyên tu dưỡng đạo đức cách mạng, chống chủ nghĩa
cá nhân và các biểu hiện tiêu cực khác, phải "sống với nhau có tình, có nghĩa", có
đoàn kết tốt thì mới tạo ra cơ sở vững chắc để thống nhất ý chí và hành động, làm
cho "Đảng ta tuy đông người nhưng khi tiến đánh chỉ như là một người".
2.3.3. Cán bộ, công tác cán bộ của Đảng
Hồ Chí Minh đề ra một hệ thống các quan điểm về cán bộ và công tác cán bộ.
Người nhận thức rất rõ vị trí, vai trò của cán bộ trong sự nghiệp cách mạng. Cán bộ
là cái dây chuyền của bộ máy, là mất khẩu trung gian nối liền giữa Đảng, Nhà nước
với nhân dân. Muốn việc thành công hay thất bại là do cán bộ tốt hay kém. Người

cán bộ phải có đủ đức và tài, phẩm chất và năng lực, trong đó, đức, phẩm chất là
gốc.
Hồ Chí Minh cho rằng, công tác cán bộ là công tác gốc của Đảng. Nội dung
của nó bao hàm các mật khẩu liên hoàn, có quan hệ chặt chẽ với nhau: tuyển chọn
cán bộ, đào tạo, huấn luyện, bồi dưỡng cán bộ; đánh giá đúng cán bộ, tuyển dụng,
sắp xếp, bố trí cán bộ; thực hiện các chính sách đối với cán bộ.
2.4.Nội dung xây dựng Đảng về đạo đức
Song song với nhiệm vụ xây dựng Đảng về chính trị, tư tưởng và tổ chức, xây
dựng Đảng về đạo đức là một nhiệm vụ quan trọng hiện nay. Qua đó, nhằm tạo sự
chuyển biến về chất để Đảng ta tiếp tục nâng cao hơn nữa năng lực lãnh đạo, sức
chiến đấu, lãnh đạo đất nước thực hiện thắng lợi nhiệm vụ xây dựng và bảo vệ
vững chắc Tổ quốc.
2.4.1. Về lý thuyết

12


Xây dựng Đảng về đạo đức là tư tưởng nhất quán của Chủ tịch Hồ Chí Minh
ngay từ khi thành lập Đảng, có giá trị hiện thực trong suốt quá trình đấu tranh cách
mạng của Đảng. Trong tác phẩm Đường cách mệnh, Người đã nêu 23 điểm về “tư
cách” người cách mạng để giáo dục những chiến sĩ cách mạng trẻ tuổi tìm hiểu về
chủ nghĩa Mác - Lênin. Tổng kết 30 năm lịch sử Đảng, bên cạnh việc khẳng định
“30 năm lịch sử Đảng là một kho lịch sử bằng vàng”, Chủ tịch Hồ Chí Minh đã
yêu cầu Đảng phải thực sự trở thành “là đạo đức, là văn minh”.Mệnh đề này
ngày càng trở thành mệnh lệnh và yêu cầu sống còn trong công tác xây dựng Đảng
để giữ vững vị trí, vai trò, bản chất và năng lực của một Đảng cầm quyền.
Xây dựng Đảng là đạo đức trước hết phải kiên định mục tiêu, lý tưởng của
Đảng, của cách mạng, xuất phát từ mục đích cao quý của Đảng để hy sinh, phấn
đấu. Đảng ta không có lợi ích nào khác ngoài lợi ích của giai cấp, của dân tộc, của
nhân dân. Trong Di chúc, Chủ tịch Hồ Chí Minh mong muốn: "Toàn Đảng,

toàn dân ta đoàn kết phấn đấu, xây dựng một nước Việt Nam hòa bình, thống
nhất, độc lập, dân chủ và giàu mạnh”. Hồ Chí Minh khẳng định: Một Đảng
chân chính cách mạng phải có đạo đức. Đạo đức tạo nên uy tín, sức mạnh của
Đảng, giúp Đảng đủ tư cách lãnh đạo, hướng dẫn quần chúng nhân dân.
Đạo đức của Đảng ta là đạo đức mới, đạo đức cách mạng. Đạo đức đó
mang bản chất của giai cấp công nhân, cũng là đạo đức Mác – Lênin, đạo đức cộng
sản chủ nghĩa mà nội dung cốt lõi là chủ nghĩa nhân đạo chiến đấu. Giáo dục đạo
đức cách mạng là một nội dung quan trọng trong việc tu dưỡng rèn luyện của cán
bộ, đảng viên. Nó gắn chặt với cuộc đấu tranh chống chủ nghĩa cá nhân dưới mọi
hình thức nhằm làm cho Đảng luôn luôn thật sự trong sạch. Hồ Chí Minh chỉ rõ:
Đảng ta là một Đảng cầm quyền. Mỗi đảng viên và cán bộ phải thật sự thấm nhuần
đạo đức cách mạng, thật sự cần, kiệm, liêm, chính, chí công vô tư. Có đạo đức
cách mạng trong sáng, Đảng ta mới lãnh đạo nhân đân đấu tranh giải phóng dân

13


tộc, làm cho Tổ quốc giàu mạnh, đồng bào sung sướng. Đó là mục tiêu, lý tưởng
của Đảng và cữn là tư cách số một của Đảng cầm quyền.


Trong suốt quá trình lãnh đạo cách mạng, Đảng ta và Chủ tịch Hồ Chí Minh rất
coi trọng công tác giáo dục, rèn luyện đạo đức cho cán bộ, đảng viên; xác định
đạo đức là gốc của người cách mạng.
Đặc biệt quan tâm đến vấn đề đạo đức, gắn đạo đức với tư cách của một Đảng
chân chính cách mạng, Hồ Chí Minh đã góp phần bổ sung, mở rộng, phát triển
quan điểm của chủ nghĩa Mác Lênin về nội dung công tác xây dựng Đảng phù hợp
với truyền thống văn hóa, lịch sử của các nước phương Đông, trong đó có Việt
Nam.
2.4.2. Thực tế bối cảnh Việt Nam hiện nay

Vấn đề đạo đức trong xây dựng Đảng hiện này lại chưa được đặt xứng tầm với
các nội dung khác.
Tình trạng suy thoái về đạo đức, lối sống của một bộ phận không nhỏ cán bộ,
đảng viên và nhiều tầng lớp trong xã hội, nhất là lớp trẻ đang là vấn đề nhức nhối
trong đời sống hiện nay.
Vấn nạn này được coi là một trong bốn nguy cơ đe dọa đến vai trò lãnh đạo của
Đảng, đòi hỏi Đảng phải đối diện và có trách nhiệm lớn đối với vấn đề văn hóa,
đạo đức để xây dựng và phát triển nguồn lực con người nhằm thực hiện thắng lợi
công cuộc đổi mới.



Vì vậy, Đại hội XII của Đảng xác định: “Xây dựng Đảng trong sạch, vững
mạnh về chính trị, tư tưởng, tổ chức và đạo đức”.
Đây là lần đầu tiên trong văn kiện, Đảng ta đưa thành tố “đạo đức” vào nội
dung xây dựng Đảng, ngang hàng cùng với thành tố: chính trị, tư tưởng và tổ chức,
coi đó là một nội dung quan trọng của công tác xây dựng Đảng hiện nay.

14


Đại hội XII của Đảng xác định nhiệm vụ: “Tăng cường rèn luyện phẩm chất
đạo đức cách mạng, chống chủ nghĩa cá nhân, cơ hội, thực dụng”. Tập trung thực
hiện mục tiêu: “Xây dựng Đảng trong sạch, vững mạnh về chính trị, tư tưởng, tổ
chức và đạo đức”.
2.4.3. Nội dung xây dựng Đảng “là đạo đức là văn minh”
Một là, “Đảng muốn vững thì phải có chủ nghĩa làm cốt”
Đảng phải lấy chủ nghĩa Mác - Lênin làm nền tảng tư tưởng. Trung thành với
những nguyên lý lý luận cơ bản của chủ nghĩa Mác - Lênin, đồng thời phải biết vận
dụng đúng đắn, sáng tạo và phát triển chủ nghĩa Mác - Lênin vào điều kiện cụ thể

của mình trong mỗi giai đoạn cách mạng. Phải thường xuyên tổng kết thực tiễn, rút
ra những bài học kinh nghiệm cho mình và bổ sung, làm phong phú thêm kho tàng
lý luận của chủ nghĩa Mác - Lênin. Để giữ vững nền tảng tư tưởng, Đảng phải đấu
tranh chống những biểu hiện của chủ nghĩa cá nhân, cơ hội, thực dụng, xuyên tạc,
xét lại chủ nghĩa Mác - Lênin, bảo vệ sự trong sáng của chủ nghĩa Mác - Lênin.
Tăng cường việc nghiên cứu, quán triệt, học tập chủ nghĩa Mác - Lênin, để xây
dựng Đảng trong sạch trên cơ sở “có lý, có tình”, tình đồng chí, thương yêu lẫn
nhau, làm hạt nhân cho sự đoàn kết thống nhất toàn dân tộc.
Hai là, phải thực hiện tốt các nguyên tắc tổ chức và sinh hoạt đảng.
Theo tư tưởng Hồ Chí Minh, Đảng là một tổ chức chặt chẽ, thống nhất ý chí và
hành động. Đảng phải thực hiện tốt các nguyên tắc cơ bản tổ chức và sinh hoạt
đảng.
Ba là, quan tâm xây dựng, rèn luyện đội ngũ cán bộ, đảng viên có đức, có
tài để Đảng xứng đáng "là đạo đức, là văn minh".
Yêu cầu về phẩm chất, tư cách của đội ngũ cán bộ, đảng viên gồm: Suốt đời
phấn đấu hy sinh cho mục tiêu, lý tưởng của Đảng. Tuyệt đối trung thành với
Đảng, với sự nghiệp cách mạng. Đặt quyền lợi của Đảng, của Tổ quốc lên trên hết
15


và lên trước hết. Thường xuyên tu dưỡng, rèn luyện đạo đức cách mạng. Có đời tư
trong sáng; là tấm gương sáng trong cuộc sống để nhân dân tin và noi theo.
Yêu cầu về năng lực của cán bộ, đảng viên gồm: Có năng lực lãnh đạo, tổ chức
thực hiện đường lối, chủ trương, chính sách của Đảng, Nhà nước và các đoàn thể
nhân dân. Có mối liên hệ mật thiết với nhân dân. Luôn luôn học tập để nâng cao
trình độ về mọi mặt.
Bốn là, tăng cường mối quan hệ gắn bó giữa Đảng và dân.
Đảng ta gắn bó với dân vì “Đảng là con nòi của nhân dân”; mục đích của Đảng
là “Đoàn kết toàn dân, phụng sự Tổ quốc".
Đảng vừa là người lãnh đạo, vừa là người đầy tớ thật trung thành của nhân dân.

Mỗi đảng viên phải bằng hành động thực tế của mình để có niềm tin yêu của nhân
dân, chứ không phải “dán lên trán hai chữ cộng sản” là được dân tin, dân yêu, dân
kính, dân phục.
Đảng phải nêu cao tinh thần trách nhiệm đối với dân; phải “không ngừng nâng
cao đời sống của nhân dân”. Đảng phải thường xuyên lắng nghe ý kiến của nhân
dân, hiểu rõ tâm tư, nguyện vọng của nhân dân; tổ chức và vận động nhân dân
tham gia xây dựng Đảng.
Năm là, Đảng phải thường xuyên tự đổi mới, tự chỉnh đốn.
Thường xuyên tự đổi mới, tự chỉnh đốn bản thân Đảng là yêu cầu của sự
nghiệp cách mạng của Đảng, của dân tộc. Trong điều kiện cách mạng chuyển sang
giai đoạn mới càng cần quan tâm đến công tác xây dựng Đảng; “việc cần phải làm
trước tiên là chỉnh đốn lại Đảng”.
Đảng tự đổi mới, tự chỉnh đốn trên những nội dung sau đây:
+Tăng cường công tác xây dựng Đảng cả về chính trị, tư tưởng, tổ chức,
phương thức lãnh đạo, đạo đức, lối sống...
+ Luôn luôn chú ý đề phòng và khắc phục những biểu hiện tiêu cực, thoái hóa,
biến chất; giữ gìn Đảng thật trong sạch, vững mạnh. Thực hiện lời dạy của Chủ
16


tịch Hồ Chí Minh: “một Đảng mà giấu giếm khuyết điểm của mình là một Đảng
hỏng”.
+ Giáo dục, rèn luyện đội ngũ cán bộ, đảng viên để đội ngũ này luôn luôn toàn
tâm, toàn ý phục vụ Tổ quốc, phục vụ cách mạng, phục vụ nhân dân.
+ Đảng phải vươn lên đáp ứng kịp yêu cầu của tình hình và nhiệm vụ mới. Để
làm được việc đó, Đảng phải phát huy dân chủ trong nội bộ, phát huy và tập hợp
được trí tuệ của toàn Đảng, phấn đấu thực sự trở thành “đạo đức, văn minh”.
2.4.4. Nhiệm vụ chủ yếu xây dựng Đảng về đạo đức trong giai đoạn hiện nay
Tiếp tục đẩy mạnh việc học tập và làm theo tư tưởng, đạo đức, phong cách Hồ
Chí Minh; coi đó là công việc thường xuyên của các tổ chức đảng, các cấp chính

quyền, các tổ chức chính trị - xã hội, địa phương, đơn vị gắn với chống suy thoái
về tư tưởng chính trị, đạo đức, lối sống và những biểu hiện “tự diễn biến”, “tự
chuyển hóa” trong nội bộ.
Kiên quyết đấu tranh chống quan liêu, tham nhũng, lãng phí, chủ nghĩa cá
nhân, lối sống cơ hội, thực dụng, bè phái, “lợi ích nhóm”, “nói không đi đôi với
làm”
Xây dựng và thực hiện tốt các quy định để phát huy vai trò gương mẫu trong
rèn luyện phẩm chất đạo đức, lối sống, phong cách, tác phong, lề lối công tác của
cán bộ, đảng viên, nhất là cán bộ lãnh đạo các cấp, người đứng đầu các cơ quan,
đơn vị.
Thực hiện nghiêm cơ chế kiểm tra, giám sát, kiểm soát của tổ chức đảng, giám
sát và phản biện xã hội của Mặt trận Tổ quốc, các tổ chức chính trị - xã hội và của
nhân dân về phẩm chất đạo đức, lối sống của cán bộ, đảng viên.

17


3. Vận dụng tư tưởng Hồ Chí Minh về xây dựng Đảng
Nhờ vận dụng tư tưởng Hồ Chí Minh về xây dựng Đảng vào trong thực tiễn mà
trong suốt thời kì đổi mới đất nước hiện nay, Đảng ta luôn khẳng định xây dựng
Đảng là nhiệm vụ then chốt. Vì:
Đảng có vai trò xây dựng đường lối, chủ trương chính sách đúng đắn, phù hợp,
kịp thời.
Đảng có vai trò thức tỉnh, kêu gọi, tập hợp tổ chức quần chúng nhân dân, tuyên
truyền giáo dục cho họ, lãnh đạo họ, chỉ ra con đường đấu tranh, động viên, cổ vũ
họ, củng cố niềm tin của họ vào con đường đã chọn.
Đảng có vai trò xác định phương pháp đấu tranh, kết hợp phương pháp đấu
tranh đúng đắn, phù hợp, kịp thời.
Đảng có vai trò nhận diện và giải quyết các mối quan hệ giữa các cuộc cách
mạng trong nước, giữa cách mạng Việt Nam và cách mạng thế giới.

Công tác xây dựng Đảng qua gần 30 năm đổi mới đã đạt được những thành
tựu nhất định, cả về nhận thức lý luận và thực tiễn, đồng thời, cũng còn những hạn
chế, khuyết điểm. Cụ thể:
3.1. Thành tựu
Nhận thức lý luận về xây dựng Đảng trong 30 năm qua đạt được những thành
tựu nhất định.
Một là, Đảng ta đã xác định rõ hơn, đầy đủ hơn bản chất của Đảng: Tiếp tục
khẳng định Đảng ta là đội tiên phong của giai cấp công nhân như các đại hội trước,
Đại hội X đã bổ sung Đảng Cộng sản Việt Nam đồng thời là đội tiên phong của
nhân dân lao động và của dân tộc Việt Nam.
Cương lĩnh xây dựng đất nước trong thời kỳ quá độ lên chủ nghĩa xã hội (bổ
sung, phát triển năm 2011) đã xác định, Đảng Cộng sản Việt Nam là đội tiền phong
của giai cấp công nhân, đồng thời là đội tiên phong của nhân dân lao động và của

18


dân tộc Việt Nam; đại biểu trung thành lợi ích của giai cấp công nhân, nhân dân lao
động và của dân tộc.
Hai là, quy định rõ hơn vai trò, thẩm quyền và trách nhiệm của Đảng: Đảng
Cộng sản Việt Nam lãnh đạo hệ thống chính trị, đồng thời là bộ phận của hệ thống
đó.
Đảng gắn bó mật thiết với nhân dân, phục vụ nhân dân, chịu sự giám sát của
nhân dân, chịu trách nhiệm trước nhân dân về những quyết định của mình; tôn
trọng và phát huy quyền làm chủ của nhân dân, dựa vào nhân dân để xây dựng
Đảng.
Các tổ chức của Đảng và đảng viên Đảng Cộng sản Việt Nam hoạt động trong
khuôn khổ Hiến pháp và pháp luật.
Xác định rõ hơn yêu cầu, nhiệm vụ của Đảng cầm quyền trong điều kiện mới,
phải không ngừng hoàn thiện nhận thức về chủ nghĩa xã hội và con đường xây

dựng chủ nghĩa xã hội phù hợp với quy luật khách quan và điều kiện cụ thể của
Việt Nam; lãnh đạo nhân dân thực hiện hai nhiệm vụ chiến lược là xây dựng chủ
nghĩa xã hội và bảo vệ vững chắc Tổ quốc Việt Nam xã hội chủ nghĩa.
Ba là, đã xác định ngày càng rõ hơn, đầy đủ hơn nền tảng tư tưởng của Đảng.
Tại Đại hội VII, Đảng ta khẳng định lấy chủ nghĩa Marx-Lenin, tư tưởng Hồ Chí
Minh làm nền tảng tư tưởng, kim chỉ nam cho hành động của Đảng.
Đến Đại hội IX, Đảng ta đã xác định khái niệm, nguồn gốc, nội dung, vị trí, vai
trò của tư tưởng Hồ Chí Minh.
Đến Đại hội XI, Đảng ta đã khẳng định, tư tưởng Hồ Chí Minh là một hệ thống
quan điểm toàn diện và sâu sắc về những vấn đề cơ bản của cách mạng Việt Nam,
kết quả của sự vận dụng và phát triển sáng tạo chủ nghĩa Marx-Lenin vào điều kiện
cụ thể của nước ta, kế thừa và phát triển các giá trị truyền thống tốt đẹp của dân
tộc; tiếp thu tinh hoa văn hóa nhân loại; là tài sản tinh thần vô cùng to lớn và quý

19


giá của Đảng và dân tộc ta, mãi mãi soi đường cho sự nghiệp cách mạng của Nhân
dân ta giành thắng lợi.
Đảng ta luôn nhấn mạnh yêu cầu phải vận dụng và phát triển sáng tạo chủ
nghĩa Marx-Lenin, tư tưởng Hồ Chí Minh. Đây là bước phát triển quan trọng trong
nhận thức và tư duy lý luận của Đảng ta.
Bốn là, nhận thức rõ yêu cầu đối với Đảng lãnh đạo, Đảng cầm quyền. Cương
lĩnh xây dựng đất nước trong thời kỳ quá độ lên chủ nghĩa xã hội (bổ sung, phát
triển năm 2011) đã chỉ rõ: Đảng phải nắm vững, vận dụng sáng tạo, góp phần phát
triển chủ nghĩa Marx-Lenin và tư tưởng Hồ Chí Minh, không ngừng làm giàu trí
tuệ, nâng cao bản lĩnh chính trị, phẩm chất đạo đức và năng lực tổ chức để đủ sức
giải quyết các vấn đề do thực tiễn cách mạng đặt ra.
Mọi đường lối, chủ trương của Đảng phải xuất phát từ thực tế, tôn trọng quy
luật khách quan. Phải phòng và chống những nguy cơ lớn: Sai lầm về đường lối,

bệnh quan liêu và sự thoái hóa, biến chất của cán bộ, đảng viên.
Năm là, ngày càng xác định đầy đủ hơn, sâu sắc hơn về vị trí, nội dung, nhiệm
vụ công tác xây dựng Đảng trong điều kiện Đảng cầm quyền, xây dựng Nhà nước
pháp quyền xã hội chủ nghĩa, phát triển kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ
nghĩa và hội nhập quốc tế.
Trên lĩnh vực xây dựng Đảng về chính trị, Đảng ta luôn khẳng định phải kiên
định mục tiêu độc lập dân tộc gắn liền với chủ nghĩa xã hội; kiên định nền tảng tư
tưởng, bản chất cách mạng, khoa học và nguyên tắc hoạt động của Đảng; kiên định
đường lối đổi mới; chống giáo điều, bảo thủ, trì trệ hoặc chủ quan, nóng vội, đổi
mới vô nguyên tắc; thường xuyên nâng cao năng lực hoạch định đường lối, chính
sách của Đảng.
Trên lĩnh vực xây dựng Đảng về tư tưởng, Đảng ta luôn khẳng định sự cần
thiết phải đẩy mạnh công tác nghiên cứu lý luận, tổng kết thực tiễn; nâng cao nhận
thức, vận dụng, phát triển sáng tạo chủ nghĩa Marx-Lenin, tư tưởng Hồ Chí Minh
20


và tiếp thu tinh hoa văn hóa nhân loại; nâng cao khả năng tự đề kháng trước những
quan điểm, tư tưởng sai trái, thù địch; coi trọng đấu tranh tư tưởng làm thất bại âm
mưu, hoạt động “diễn biến hòa bình” của các thế lực thù địch.
Trên lĩnh vực xây dựng Đảng về tổ chức, Đảng ta luôn khẳng định tính đồng
bộ, toàn diện trong xây dựng Đảng ở mọi cấp, thấy rõ hơn, sâu sắc hơn sự tác động
qua lại giữa xây dựng tổ chức đảng ở cấp cơ sở và cấp trên cơ sở, mối quan hệ giữa
xây dựng tổ chức với việc nâng cao chất lượng đảng viên. Đã bổ sung, phát triển
các nguyên tắc tổ chức, hoạt động của Đảng trong tình hình mới. Thấy rõ hơn tính
đồng bộ của công tác cán bộ, từ phát hiện, quy hoạch đến đào tạo, bồi dưỡng, đánh
giá, sử dụng, luân chuyển cán bộ...
Công tác tư tưởng được coi trọng và tăng cường hơn, góp phần tạo sự thống
nhất trong Đảng, sự đồng thuận xã hội về các chủ trương, đường lối của Đảng,
chính sách, pháp luật của Nhà nước.

3.2. Hạn chế và khuyết điểm
Bên cạnh những thành tựu trên, nhận thức lý luận và thực tiễn xây dựng Đảng
có những hạn chế, khuyết điểm.
Về nhận thức, lý luận về Đảng cầm quyền trong điều kiện phát triển kinh tế thị
trường định hướng xã hội chủ nghĩa, xây dựng Nhà nước pháp quyền xã hội chủ
nghĩa và hội nhập quốc tế đến nay chưa đủ rõ cả về khái niệm, nội dung, mô hình,
phương thức cầm quyền.
Nội dung và phương thức lãnh đạo của Đảng trong điều kiện một đảng cầm
quyền, nói chung, phương thức lãnh đạo của Đảng đối với Nhà nước, đối với hệ
thống chính trị và toàn xã hội, nói riêng, chưa được xác định thật rõ và cụ thể.
Chậm cụ thể hóa mối quan hệ “Đảng lãnh đạo, Nhà nước quản lý, nhân dân làm
chủ.”

21


Nhận thức về nội dung công tác xây dựng Đảng mới dừng lại ở mức độ nhận
thức chung là Đảng phải vững mạnh về chính trị, tư tưởng và tổ chức, nhiều vấn đề
chưa được cụ thể hóa thành các quy định để thực hiện.
Nhận thức về dân chủ trong điều kiện một đảng cầm quyền còn hạn chế. Nhiều
vấn đề lý luận đặt ra từ thực tiễn công tác xây dựng Đảng chưa được lý giải đầy đủ.
Chưa thấy hết được tầm quan trọng về xây dựng văn hóa, đạo đức trong Đảng;
chưa coi trọng đúng mức xây dựng đạo đức, lối sống của cán bộ, đảng viên.
Về thực tiễn, công tác xây dựng Đảng còn nhiều hạn chế, khuyết điểm: Nhiều
hạn chế, khuyết điểm qua các nhiệm kỳ chậm được khắc phục. Việc chỉ đạo thực
hiện các chủ trương, nghị quyết về xây dựng Đảng, kể cả những nghị quyết khi ban
hành được toàn Đảng, toàn dân cho rằng rất đúng, rất trúng như Nghị quyết Trung
ương sáu (lần 2) (Khóa VIII), Nghị quyết Trung ương bốn (Khóa XI), nhưng kết
quả đạt được thấp, chưa thực hiện được mục tiêu đề ra.
Các nguyên tắc xây dựng Đảng, như nguyên tắc tập trung dân chủ, tự phê bình

và phê bình ở nhiều tổ chức đảng còn bị vi phạm. Phương thức cầm quyền chưa
được xác định rõ; hiệu lực, hiệu quả cầm quyền còn hạn chế.
Công tác nghiên cứu lý luận, tổng kết thực tiễn còn bất cập, chưa đáp ứng được
đòi hỏi của thực tiễn diễn biến nhanh chóng, phức tạp; chưa giải đáp được nhiều
vấn đề do thực tiễn đặt ra, chưa làm tốt chức năng định hướng cho hoạt động thực
tiễn, cung cấp cơ sở khoa học cho hoạch định đường lối, chính sách, pháp luật của
Đảng và Nhà nước.
Công tác tư tưởng còn thiếu sắc bén, sức thuyết phục chưa cao, tính chiến đấu
còn hạn chế; công tác giáo dục chính trị, tư tưởng chưa đạt hiệu quả như mong
muốn. Tình trạng suy thoái về tư tưởng chính trị, đạo đức, lối sống trong một bộ
phận không nhỏ cán bộ, đảng viên; tình trạng tham nhũng, lãng phí, quan liêu, tiêu
cực và tệ nạn xã hội chưa được ngăn chặn, đẩy lùi, thậm chí có biểu hiện ngày
càng phức tạp.
22


Đấu tranh phản bác các quan điểm sai trái, thù địch, phòng, chống “diễn biến
hòa bình,” “tự diễn biến,” “tự chuyển hóa” hiệu quả còn hạn chế.
Công tác tổ chức, cán bộ còn nhiều hạn chế, yếu kém. Tổ chức của một số cơ
quan đảng, nhà nước và tổ chức chính trị-xã hội chưa tinh gọn, hiệu quả. Thiếu
biện pháp chỉ đạo để khắc phục có hiệu quả tình trạng yếu kém của nhiều tổ chức
cơ sở đảng; còn lúng túng trong việc xây dựng tổ chức cơ sở đảng trong các doanh
nghiệp tư nhân, doanh nghiệp có vốn đầu tư nước ngoài.
Việc đổi mới công tác cán bộ còn chậm, thiếu cơ chế, chính sách cụ thể. Chưa
có những đổi mới mạnh mẽ các khâu của công tác cán bộ; đánh giá cán bộ vẫn còn
là một khâu yếu; chưa có cơ chế hiệu quả để phát hiện, trọng dụng người tài đức,
loại bỏ kịp thời những người yếu kém, không đáp ứng được yêu cầu, nhiệm vụ.
Tình trạng chạy chức, chạy quyền, chạy tuổi, chạy bằng cấp,… không được ngăn
chặn, đẩy lùi.
Đội ngũ cán bộ cấp Trung ương, cấp chiến lược chưa được tập trung xây dựng

đúng mức. Chưa quan tâm đầy đủ đến việc xây dựng đội ngũ cán bộ tham mưu, tư
vấn cấp chiến lược.
Năng lực lãnh đạo và sức chiến đấu của nhiều tổ chức đảng còn thấp, quản lý
đảng viên chưa chặt chẽ; chế độ trách nhiệm không rõ ràng, nhất là trách nhiệm
của người đứng đầu.
Nhiều cấp ủy, tổ chức đảng chưa làm tốt công tác kiểm tra, giám sát và thi hành
kỷ luật đảng, chất lượng và hiệu quả kiểm tra, giám sát chưa cao, chưa đủ sức góp
phần ngăn chặn, đẩy lùi tham nhũng, tiêu cực trong Đảng.
Nhiều khuyết điểm, sai phạm của tổ chức đảng, đảng viên chậm được phát hiện
để kiểm tra, xử lý, nên kỷ cương, kỷ luật ở một số tổ chức đảng chưa nghiêm, một
số cấp ủy còn thiếu sự đoàn kết. Công tác dân vận còn nhiều bất cập; phương thức
vận động nhân dân còn mang tính hành chính, tính thuyết phục chưa cao.

23


Phương thức lãnh đạo của Đảng đối với Nhà nước, Mặt trận Tổ quốc và các tổ
chức chính trị-xã hội chậm đổi mới, có mặt còn lúng túng. Chưa thật sự phát huy
vai trò của tổ chức đảng, đảng viên, cấp ủy viên hoạt động trong các cơ quan nhà
nước, Mặt trận Tổ quốc và các tổ chức chính trị-xã hội. Chưa tập trung đúng mức
lãnh đạo, chỉ đạo tổ chức thực hiện các nghị quyết, chỉ thị, kết luận của Đảng.
3.3. Nguyên nhân
3.3.1. Khách quan:
Ảnh hưởng của mặt trái nền kinh tế thị trường, chịu ảnh hưởng từ sự sụp đổ
của mô hình CNXH ở Liên Xô và Đông Âu.
Xây dựng Đảng cầm quyền trong điều kiện phát triển nền kinh tế thị trường
định hướng xã hội chủ nghĩa, xây dựng Nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa và
hội nhập quốc tế là vấn đề mới mẻ, phải vừa làm, vừa tìm tòi, tổng kết rút kinh
nghiệm để đổi mới, hoàn thiện.
Công tác tổng kết thực tiễn còn chậm, thiếu hiệu quả, dẫn đến chưa kịp đổi

mới, bổ sung giải quyết vấn đề mới phát sinh.
3.3.2. Chủ quan:
Chưa coi trọng đúng mức nghiên cứu lý luận về xây dựng Đảng cầm quyền.
Chậm đổi mới tư duy về công tác xây dựng Đảng trong điều kiện mới. Nhận thức
chưa đầy đủ và sâu sắc, có mặt chưa rõ, chưa thống nhất một số vấn đề quan trọng
ở tầm quan điểm, chủ trương. Chưa có cơ quan chuyên trách đủ mạnh nghiên cứu
về đường lối, chính sách nói chung, về xây dựng Đảng nói riêng.
Việc tổ chức thực hiện các nghị quyết, chủ trương về xây dựng Đảng có lúc,
có nơi chưa nghiêm, còn thiếu các biện pháp cụ thể, khả thi. Nhiều cấp ủy đảng và
bí thư cấp ủy chưa đầu tư đúng mức thời gian, công sức cho công tác xây dựng
Đảng. Lãnh đạo, chỉ đạo kiện toàn tổ chức, đổi mới công tác cán bộ thiếu kiên
quyết, hiệu quả thấp.
24


Do ý thức kém của một số cán bộ Đảng viên trong tu dưỡng và rèn luyện,
kèm theo đó là những hạn chế trong công tác xây dựng Đảng.
Công tác bồi dưỡng tư tưởng – lý luận ở một số nơi còn mang tính hình
thức, lý luận suông, chưa đi vào thực tiễn để sáng tạo và bổ sung.
Đời sống của một số bộ phận nhân dân còn khó khăn, thiếu thốn nên họ
chưa đủ niềm tin vào Đảng, vào tư tưởng của Hồ Chí Minh, chủ nghĩa Mác –
Lênin.
3.4. Giải pháp
Tiếp tục nhận thức và vận dụng sáng tạo tư tưởng Hồ Chí Minh về xây dựng
Đảng để áp dụng phù hợp trong thực tiễn ở Việt Nam hiện nay
Tăng cường sự lãnh đạo của Đảng, thường xuyên đổi mới về nội dung, hình
thức công tác lãnh đạo.
Tăng cường giáo dục, bồi dưỡng kiến thức cho cán bộ Đảng viên, công tác
giáo dục phải nhằm nâng cao nhận thức chính trị, đạo đức, lối sống của mỗi cán
bộ. Các Đảng viên phải kiên định trong mục tiêu, lý tưởng cách mạng của Đảng,

hết lòng phấn đấu hy sinh vì độc lập, tự do và hạnh phúc của nhân dân.
Các cán bộ Đảng viên phải nghiêm túc thực hiện việc phê bình và tự phê
bình trong công tác. Tăng cường công tác quản lý, kiểm tra, giám sát cán bộ Đảng
viên.
Cảnh giác, ngăn ngừa, đấu tranh chống lại các quan điểm phản động để bảo
vệ tư tưởng Hồ Chí Minh.
.

25


×