BÀI
Những Lưu Ý Đặc Biệt
7
Trong Bài 7 bạn sẽ học
† Những tình huống đặc biệt có thể làm cho việc hồi
sức khó khăn và những vấn đề tiếp tục diễn tiến
† Những điều trò tiếp theo cho trẻ sau khi hồi sức
† Làm thế nào để có thể áp dụng những nguyên lý
này cho trẻ cần hồi sức khi đã qua thời điểm ngay
sau sinh hoặc ở ngoài phòng sanh của bệnh viện
7-1
Những Lưu Ý Đặc Biệt
Trẻ sanh ra
Bạn nên lưu ý những biến chứng
gì khi trẻ vẫn chưa tốt sau những
can thiệp hồi sức ban đầu?
Tuy nhiên, một nhóm nhỏ trẻ sơ sinh
khác ban đầu đáp ứng với các biện pháp
hồi sức nhưng sau đó vẫn bò tổn thương.
Những trẻ này có thể có dò tật bẩm sinh
hoặc nhiễm trùng hoặc đã bò một biến
chứng lúc sanh hoặc lúc hồi sức. Đôi khi
bạn có thể biết trước những vấn đề này
nhờ vào siêu âm hoặc một số phương
pháp chẩn đoán tiền sản.
Những khó khăn sau đó mà bạn phải đối
diện sẽ khác nhau tùy thuộc vào vấn đề
tiềm ẩn của từng trẻ. Bạn có thể không
thông khí được cho vài trẻ dù bạn đã cố
gắng tối đa cho thở áp lực dương. Bạn
có thể thông khí dễ dàng cho một số trẻ
nhưng chúng vẫn tím tái và có nhòp tim
chậm kéo dài. Những trẻ khác vẫn chưa
có nhòp tự thở dù bạn đã thông khí áp
lực dương hiệu quả.
Cách tiếp cận hiệu quả nhất đối với
những trẻ không tiếp tục cải thiện sau
hồi sức tùy thuộc vào biểu hiện lâm sàng
đặc hiệu.
• Thông khí áp lực dương không thể
thông khí đầy đủ cho phổi?
• Trẻ vẫn tím tái và chậm nhòp tim dù
được thông khí tốt?
• Trẻ vẫn chưa tự thở được?
Mỗi câu trong 3 câu hỏi này sẽ được đề
cập riêng.
Không
30 giây
Thời gian Ước tính
Bạn đã học rằng hầu hết trẻ sơ sinh bò
tổn thương sẽ đáp ứng với kích thích và
các biện pháp cải thiện thông khí thích
hợp. Một số ít có thể cần đến ấn ngực và
thuốc, một số rất ít sẽ chết dù có tất cả
các biện pháp hồi sức thích hợp.
† Đủ tháng?
† Nước ối trong?
† Trẻ có thở hoặc khóc?
† Trương lực cơ tốt?
30 giây
† Giữ ấm
† Chỉnh tư thế; làm sạch
đường thở* (nếu cần)
† Lau khô, kích thích thở,
đặt lại tư thế trẻ
† Đánh giá hô hấp, tần số
tim và màu da trẻ
Ngưng thở
hoặc TS
tim <100
Trẻ thở, TS tim > 100
nhưng tím
† Cung cấp oxy
Tím kéo dài
† Cung cấp thông khí
áp lực dương *
TS tim <60
30 giây
TS tim >60
† Cung cấp thông khí áp lực dương*
† Tiến hành ấn tim*
TS tim <60
† Cho epinephrine*
* Có thể cân nhắc đặt nội khí
quản trong một số bước.
Kiểm tra lại hiệu quả của
† Thông khí
† Ấn ngực
† Nội khí quản
† Epinephrine
Xem xét khả năng của
† Giảm thể tích
NT< 60/ tím tái kéo dài
hoặc thông khí thất bại
7-2
Xem xét:
† Dò tật đường thở
† Vấn đề ở phổi, như:
- Tràn khí màng phổi
- Thoát vò hoành
† Bệnh tim bẩm sinh
Bài
7
Điều gì xảy ra nếu thông khí áp lực dương không
thông khí đủ cho phổi?
Nếu bạn đã làm sạch đường thở, đặt đầu trẻ đúng tư thế hơi
ngưœa, bảo đảm mặt nạ áp kín vào mặt trẻ và sử dụng thông khí
áp lực dương đầy đủ thì nhòp tim, màu da, trương lực cơ phải
cải thiện. Nếu nhòp tim vẫn còn chậm, bạn phải chắc chắn rằng
lồng ngực có nâng lên theo mỗi lần bóp bóng và nghe rõ được
luồng khí ra và vào phổi khi nghe phổi. Nếu bạn không thấy
lồng ngực di động và cũng không nghe rõ được luồng khí, có
thể có một trong những vấn đề sau:
Tắc nghẽn cơ học đường thở, có thểõ do:
• Phân su hoặc chất nhày trong hầu hoặc trong khí quản
• Hẹp lỗ mũi sau
• Dò dạng đường thở vùng hầu (như hội chứng Robin)
• Các tình trạng hiếm gặp khác (như màng ngăn thanh quản)
Suy yếu chức năng phổi, có thểõ do:
• Tràn khí màng phổi
• Tràn dòch màng phổi bẩm sinh
• Thoát vò hoành bẩm sinh
• Thiểu sản phổi
• Cực non
• Viêm phổi bẩm sinh
7-3
Những Lưu Ý Đặc Biệt
Tắc nghẽn cơ học đường dẫn khí
Tắc nghẽn vùng hầu họng
sau bẩm sinh
Tắc nghẽn do đàm nhớt hay do phân su
Hãy nhớ rằng cho đến khi sinh, đường dẫn khí chưa bao giờ
được kiểm tra. Nếu việc hút phân su ban đầu hay sử dụng các
biện pháp không xâm lấn khác như chỉnh lại tư thế đầu và
hút mũi miệng không thể làm thông thoáng đường thở thì nên
hút sâu hơn trong miệng và mũi với ống hút lớn hơn (cỡ 10
và 12 F).
Cách tốt nhất để hút đàm nhớt hay phân su trong đường thở
là đặt ống nội khí quản và nối vào bộ phận hút (như đã mô tả
trong Bài 2 và 5). Đôi khi ở em bé bò tẩm nhuận phân su, đường
thở có thể bò tắc nghẽn bởi những khối phân su lớn.
Hình 7.1. Tắc mũi sau
Hẹp lỗ mũi sau
Giải phẫu đường mũi của trẻ phải thông để khí có thể đi vào
phổi trong suốt thời kỳ thở tự phát. Trẻ không thể thở dễ dàng
bằng đường miệng trừ khi khóc to. Do đó nếu đường mũi bò tắc
nghẽn bởi phân su hay đàm nhớt hay lỗ mũi sau bò hẹp, trẻ có
thể bò suy hô hấp nặng (Hình 7.1). Dù ta vẫn có thể thông khí
cho trẻ bò hẹp lỗ mũi sau với áp lực dương qua đường miệng
hầu nhưng trẻ lại không thể tự thông khí qua đường mũi hầu
đã bò tắc.
Kiểm tra tình trạng hẹp lỗ mũi sau bằng cách đưa một ống hút
đường kính nhỏ vào vùng hầu sau qua từng lỗ mũi. Hướng ống
Ống thông đường thơœ qua miệng
hút vuông góc với mặt trẻ theo hướng nền của đường mũi. Nếu
ống thông không qua được khi đã hướng ống đúng cách, có thể
trẻ bò hẹp lỗ mũi sau. Khi đó cần đặt một ống thông đường thở
bằng chất dẻo hoặc một ống nội khí quản đưa qua miệng (Hình
7.2) đến vùng hầu sau (mà không cần đưa vào tận khí quản) để
thông khí qua miệng.
Dò dạng đường thở vùng hầu (hội chứng Robin)
Trẻ sinh ra có hàm dưới nhỏ làm hẹp đường thở vùng hầu đáng
kể (Hình 7.3). Trong vài tháng đầu sau sinh, hàm dưới sẽ phát
triển làm đường thở đủ rộng, nhưng ngay sau sinh trẻ sẽ thở khó
khăn. Vấn đề chính lúc sinh là lưỡi nằm ở phía sau tụt sâu vào
vùng hầu làm tắc đường thở ngay phía trên thanh quản.
Hình 7.2. Đặt ống miệng - họng khi
hẹp mũi sau
7-4
Bài
Cằm
Lưỡi
7
Hàm nhoœ
bất thường
Lưỡi làm tắc
nghẽn đường
thơœ ơœ vùng
hầu sau
Sơ sinh bình thường
Sơ sinh với hội chứng Robin
Hình 7.3. Trẻ sơ sinh bình thường và trẻ sơ sinh mắc hội chứng Robin
Động tác đầu tiên cần làm là đặt trẻ nằm sấp. Điều này thường
giúp lưỡi ngã ra trước và mở thông đường thở. Nếu vẫn không
thành công, biện pháp hiệu quả nhất tiếp theo là đặt một ống
thông lớn (cỡ 12F) hoặc một ống nội khí quản nhỏ (2.5 mm) qua
đường mũi vào đến tận vùng hầu sau (Hình 7.4). Ống này giúp
trẻ nút tốt hơn mà không làm lưỡi bít đường thở. Hai biện pháp
trên (đặt trẻ nằm sấp và đặt ống thông mũi hầu) thường giúp trẻ
có thể tự thở tốt mà không cần thông khí áp lực dương.
!
Đặt nội khí quản ở trẻ bò hội chứng Robin thường rất khó
khăn. Đặt trẻ nằm sấp và đặt ống thông mũi hầu thường đủ
để làm thông đường thở
Trong trường hợp tất cả các biện pháp trên đều thất bại, và thử
đặt nội khí quản cũng không thành công, vài bác só lâm sàng
lại thấy đặt ống mặt nạ thanh quản có thể giúp thông khí tốt
(Xem Bài 5).
Hình 7.4. Nằm sấp và đặt ống thông
vào vùng hầu sau thường thông được
đường thở ở trẻ mắc hội chứng Robin
Những tình huống hiếm gặp khác
Các dò tật bẩm sinh, như màng ngăn thanh quản, u nang nhầy
hay phình giáp bẩm sinh đã được ghi nhận là những nguyên
nhân hiếm gặp gây tắc nghẽn đường thở ở trẻ sơ sinh. Đa số,
nhưng không phải là tất cả, những bất thường này có thể được
nhận biết qua thăm khám bên ngoài. Nếu không thể đưa ống
nội khí quản qua được, phải mở khí quản cấp cứu. Thủ thuật
này không được mô tả ở đây.
7-5
Những Lưu Ý Đặc Biệt
Suy giaœm chức năng phổi
Sự tích tụ bất kỳ chất nào giữa vùng ngoài phổi và trong lồng
ngực đều cản trở phổi dãn nở trong lồng ngực. Điều này gây
suy hô hấp, trẻ có thể tím kéo dài và chậm nhòp tim.
Tràn khí màng phổi
Không hiếm gặp trường hợp những dò khí nhỏ
diễn tiến nặng lên vì phổi trẻ sơ sinh đầy khí.
Khả năng bò tràn khí tăng cao khi có thông
khí áp lực dương, nhất là trong trường hợp hít
phân su hay thoát vò hoành (Xem trang 7-8).
Khí thoát ra từ phổi và tích tụ trong khoang
màng phổi được gọi là tràn khí màng phổi
(Hình 7.5). Khi lượng khí trong khoang màng
phổi đủ lớn sẽ tạo áp lực ngăn phổi dãn nở
và cũng có thể ngăn máu lên phổi gây suy hô
hấp, tím tái và chậm nhòp tim.
Không khí tạo áp
lực trong khoang
màng phổi
Phổi phaœi bò chèn ép bơœi
tràn khí màng phổi
Giảm phế âm bên bò tràn khí. Chẩn đoán xác
đònh bằng X quang. Soi đèn qua lồng ngực là
một phương pháp tầm soát hữu ích.
Hình 7.5. Tràn khí màng phổi làm suy giảm chức năng phổi
!
Lưu ý: Mất phế âm bên phổi trái cũng có thể do đặt nội khí
quản vào quá sâu trong phế quản gốc phải.
Nếu tràn khí màng phổi gây suy hô hấp trầm trọng, nên đặt một
kim luồn, kim tiêm xuyên da hay một ống dẫn lưu vào khoang
màng phổi (xem trang 7.7). Tràn khí màng phổi lượng ít có thể
tự hấp thu và không cần điều trò gì.
Tràn dòch màng phổi
Tích tụ dòch trong khoang màng phổi có thể gây triệu chứng
giống như tràn khí màng phổi. Đôi khi dòch phù, dưỡng trấp
hay máu tích tụ trong khoang màng phổi làm cản trở sự dãn
nở của phổi. Thường trẻ có những triệu chứng khác gợi ý bệnh
nguyên, như phù toàn thân (phù nhau thai).
Chẩn đoán sự hiện diện của dòch trong khoang màng phổi dựa
vào X quang. Nếu suy hô hấp nặng nên đặt một kim luồn, kim
tiêm xuyên da hay ống dẫn lưu dòch vào khoang màng phổi,
như mô tả trong phần sau.
7-6
Bài
7
Chi tiết cách đặt ống dẫn lưu màng phổi không nằm trong nội
dung chương trình này. Tuy nhiên, trong tình huống cấp cứu,
khi trẻ bò suy hô hấp do tràn khí hay tràn dòch màng phổi, có
thể đặt một kim luồn hoặc kim tiêm xuyên da để dẫn lưu.
!
Nếu nhòp tim chậm dần kèm với tím tái và mất phế âm một
bên sau hồi sức ban đầu, cần chọc cấp cứu một kim luồn
hay kim tiêm xuyên da vào trong khoang màng phổi bên
giảm phế âm trong khi chờ kết quả X quang.
Đặt trẻ ở tư thế nghiêng bên
với phía tràn khí hướng lên
trên cho khí dâng lên. Đâm
kim luồn 18 hay 20 theo hướng
vuông góc với lồng ngực, ở
ngay bờ trên xương sườn trong
khoảng gian sườn 4 đường nách
Kim đưa vào trong một
trước (Hình 7.6 - trên). Khoảng
nòng an toàn
gian sườn 4 nằm trên đường
nối hai núm vú. Rút nòng kim
ra và nối kim luồn vào một ba
chia có gắn sẵn một ống tiêm
20 mL (Hình 7.6). Mở khóa
ba chia cho kim luồn thông
thương với ống tiêm rồi dùng
ống tiêm hút khí hoặc dòch ra.
Khi ống tiêm đầy, đóng khóa
ba chia hướng về phía lồng
ngực lại trong khi làm trống ống tiêm. Sau đó, mở khóa
3-chia phía lồng ngực lại và tiếp tục hút thêm khí hoặc
dòch ra cho đến khi tình trạng trẻ được cải thiện. Nên
chụp lại X quang để kiểm tra tình trạng khí, dòch còn
tồn dư trong khoang màng phổi.
Nếu không có kim luồn xuyên da cỡ thích hợp, có
thể sử dụng kim cánh bướm số 19 hay 21. Lúc đó có
thể gắn trực tiếp khóa 3-chia vào bầu kim luồn. Tuy
nhiên, khó chọc dò màng phổi bằng kim bướm để hút
khí hoặc dòch ra.
Hình 7.6. Đâm kim luồn xuyên da để dẫn lưu tràn khí hoặc tràn dòch
màng phổi (xem bài). Chú ý rằng kim tiêm đã được rút ra sau khi hút
và chỉ có kim luồn được lưu lại trong khoang màng phổi
7-7
Những Lưu Ý Đặc Biệt
Thoát vò hoành bẩm sinh
Bình thường, cơ hoành phân cách các tạng bụng với tạng ngực.
Khi cơ hoành không được hình thành hoàn chỉnh, vài tạng bụng
(thường là ruột non, dạ dày và đôi khi là gan) sẽ chui vào lồng
ngực và ngăn phổi bên thoát vò phát triển bình thường. Thoát
vò hoành thường được chẩn đoán trước sinh bằng siêu âm. Nếu
không được chẩn đoán tiền sản, trẻ sinh ra sẽ bò suy hô hấp
không thể lường trước được.
Trẻ bò thoát vò hoành có biểu hiện suy hô hấp kéo dài, bụng
phẳng bất thường (lòng thuyền), vì lúc đó bụng chứa ít tạng
hơn. Phế âm giảm bên thoát vò. Trẻ cũng bò tăng áp động mạch
phổi kéo dài, và do đó, có thể tím tái kéo dài do lưu lượng máu
phổi kém.
Hình 7.7. Suy giảm chức năng phổi
do thoát vò hoành bẩm sinh
Khi trẻ được sinh ra, phần phổi giảm sản không thể dãn nở bình
thường. Nếu hồi sức bằng thông khí áp lực dương qua mặt nạ,
một phần khí sẽ vào dạ dày và ruột (Hình 7.7). Vì ruột nằm trong
lồng ngực nên phổi càng lúc càng kém dãn nở. Hơn nữa, áp lực
dương vào vùng phổi giảm sản dễ gây tràn khí màng phổi.
!
7-8
ƠŒ trẻ nghi ngờ hay biết chắc có thoát vò hoành, không được
hồi sức kéo dài với áp lực dương qua mặt nạ. Phải đặt nội
khí quản và đặt ống thông miệng dạ dày cỡ lớn (10F) để làm
trống dạ dày (Hình 7.8). Một ống thông hai nòng (Replogle)
là hiệu quả nhất.
Hình 7.8. Điều trò ổn đònh bệnh cho trẻ bò thoát vò hoành (nội khí quản nằm đúng chỗ và ống
thông dạ dày ở trong dạ dày)
Bài
7
Thiểu sản phổi
Cần phải có nước ối để phổi có thể phát triển bình thường. Bất
cứ nguyên nhân nào gây thiểu ối nặng (ví dụ bất sản thận) đều
có thể gây thiểu sản phổi. Cần thông khí với áp lực bóp cao
nên dễ bò tràn khí màng phổi. Trẻ bò thiểu sản phổi trầm trọng
thường không thể sống sót.
Cực non
Khó thông khí cho trẻ có phổi cực non, ngay cả khi đã dùng áp
lực bóp rất cao (Xem Bài 8).
Viêm phổi bẩm sinh
Dù cho viêm phổi bẩm sinh thường hiện diện như là một bệnh
phổi nặng dần sau sinh, vài bệnh lý nhiễm trùng quá nặng (như
bệnh do Streptococcus nhóm B) có thể gây suy hô hấp lúc sinh.
Hít nước ối, nhất là nếu có phân su, cũng có thể gây suy hô
hấp nặng.
Điều gì xảy ra nếu trẻ vẫn tím tái và nhòp tim chậm
dù đã thông khí tốt?
Đầu tiên phải chắc chắn rằng lồng ngực di động đủ, phế âm
nghe đều hai bên lồng ngực và đã cung cấp oxy 100%. Nếu
trẻ vẫn tím tái và/hoặc nhòp tim chậm, có thể có bệnh tim bẩm
sinh. Cần chụp X quang, đo ECG, và/hoặc siêu âm tim để xác
đònh chẩn đoán. Tuy nhiên, trong trường hợp này, cần nhớ rằng
nguyên nhân block tim bẩm sinh hoặc tim bẩm sinh tím hiếm
gặp hơn là thông khí không đủ.
!
Trẻ bò bệnh tim bẩm sinh ít khi biểu hiện nặng ngay sau
sinh. Vấn đề đi kèm với hồi sức hầu như luôn là do thông
khí không thành công.
7-9
Những Lưu Ý Đặc Biệt
Điều gì xảy ra nếu trẻ không tự thở?
Nếu thông khí áp lực dương đã giúp nhòp tim và màu da trở lại
bình thường nhưng trương lực cơ vẫn yếu và trẻ không thể tự
thở, hoạt động não hoặc cơ của trẻ có thể bò ức chế do
•Tổn thương não (bệnh lý não do thiếu oxy mô-thiểu dưỡng
[HIE]), toan máu nặng hay rối loạn thần kinh cơ bẩm sinh
hoặc
•Tác dụng của các thuốc giảm đau (đã được chỉ đònh cho mẹ
trước đó) đi qua nhau đến thai.
Thuốc giảm đau có thuốc phiện được chỉ đònh ở bà mẹ đang
chuyển dạ có thể gây ức chế điều hòa hô hấp và cử động của
trẻ sơ sinh. Trong trường hợp này, cần chỉ đònh naloxone (chất
đối vận của thuốc phiện) cho trẻ nhằm đối kháng tác dụng của
thuốc phiện.
Naloxone hydrochloride:
Khuyến cáo về nồng độ =
Dung dòch 1 mg/mL
Khuyến cáo về đường dùng =
Tốt nhất là tónh mạch; có thể
dùng đường tiêm bắp nhưng
tác dụng sẽ chậm hơn. Chưa
có nghiên cứu về tính hiệu quả
của đường qua nội khí quản.
Khuyến cáo về liều =
0,1 mg/kg.
7 - 10
!
Liệu pháp điều chỉnh đầu tiên cho trẻ không tự thở không
phải là chất đối kháng thuốc phiện. Hành động điều chỉnh
trước tiên là thông khí áp lực dương.
Khi chỉ đònh chích naloxone, cần có cả hai điều kiện sau đây :
•Hô hấp vẫn bò ức chế dù thông khí áp lự dương đã giúp nhòp
tim và màu da trở về bình thường.
và
•Mẹ có tiền sử dùng thuốc có thuốc phiện trong vòng 4 giờ qua.
Sau khi chích naloxone, tiếp tục thông khí áp lực dương cho đến
khi trẻ thở bình thường. Cần theo dõi trẻ thật sát vì tình trạng ức
chế hô hấp có thể tái phát, do thời gian tác dụng của naloxone
ngắn hơn của thuốc phiện; trong trường hợp này cần lặp lại các
liều naloxone.
!
Lưu ý: Không tiêm naloxone cho trẻ có mẹ nghiện thuốc
phiện hay đang trong giai đoạn duy trì methadone vì có thể
gây co giật cho trẻ.
Các thuốc khác dùng cho mẹ như magne sulfat, thuốc gây mê
hay giảm đau không có thuốc phiện cũng có thể gây ức chế hô
hấp ở trẻ nhưng không đáp ứng với naloxone. Trong trường hợp
mẹ không dùng thuốc có thuốc phiện khi hay naloxone không
thể giúp trẻ tự thở, nên chuyển trẻ đến phòng dưỡng nhi để
đánh giá và kiểm tra sâu hơn trong khi vẫn tiếp tục thông khí
áp lực dương.
Bài
✔
7
Ôn tập
(Đáp án ở phần trước và ở cuối bài học.)
1.Có thể loại trừ hẹp lỗ mũi sau bằng cách nào?
2.Những trẻ có hội chứng Robin bò tắc nghẽn đường hô hấp
trên có thể cải thiện được bằng cách đặt một
và đặt trẻ trong tư thế
. Đặt nội khí
quản ở những trẻ này thường (dễ) (khó).
3.Nên nghó đến tràn khí màng phổi hay thoát vò hoành nếu phế
âm nghe (đều) (không đều) ở hai phế trường.
4.Nên nghi ngờ thoát vò hoành nếu bụng
. Không nên hồi sức những trẻ này bằng
.
5.Nhòp tim chậm kéo dài và tím tái trong suốt giai đoạn hồi sức
thường do (các vấn đề về tim) (thông khí không đủ).
6.Trẻ không có nhòp tự thở và mẹ chúng có dùng thuốc có
thuốc phiện trước đó, trước tiên cần được
và sau đó, nếu vẫn không có nhòp tự thở,
có thể sử dụng
.
7 - 11
Những Lưu Ý Đặc Biệt
Trẻ sanh ra
Bạn cần làm gì sau khi hồi sức trẻ
thành công?
† Đủ tháng?
† Nước ối trong?
† Trẻ có thở hoặc khóc?
† Trương lực cơ tốt?
Những trẻ cần thông khí áp lực dương kéo dài,
đặt nội khí quản và/hoặc ấn ngực thì có khả
năng đã chòu stress nặng nề và có nguy cơ cao
bò tổn thương đa cơ quan mà có thể không biểu
hiện ngay lập tức.
Không
Thời gian Ước tính
30 giây
30 giây
† Giữ ấm
† Chỉnh tư thế; làm sạch
đường thở* (nếu cần)
† Lau khô, kích thích thở,
đặt lại tư thế trẻ
† Đánh giá hô hấp, tần số
tim và màu da trẻ
Ngưng thở
hoặc TS
tim <100
!
Đừng xem một trẻ vừa mới được hồi sức
thành công như một trẻ khỏe mạnh và có
thể điều trò thường qui như một trẻ sơ sinh
bình thường.
Trẻ thở, TS tim > 100
nhưng tím
Sau hồi sức, một số trẻ sẽ tự thở, trong
khi một số trẻ khác vẫn tiếp tục cần
thông khí hỗ trợ. Tất cả những trẻ này
Tím kéo dài
cần có nhòp
tim trên 100 l/p
† Cung cấp thông khí Thông khí hiệu quả,
và hồng trung
Chăm sóc sau hồi sức
áp lực dương *
TS tim >100
ương.
† Cung cấp oxy
và hồng
TS tim <60
30 giây
TS tim >60
† Cung cấp thông khí áp lực dương*
† Tiến hành ấn tim*
TS tim <60
† Cho epinephrine*
* Có thể cân nhắc đặt nội khí
quản trong một số bước.
Kiểm tra lại hiệu quả của
† Thông khí
† Ấn ngực
† Nội khí quản
† Epinephrine
Xem xét khả năng của
† Giảm thể tích
TS tim< 60/ tím tái kéo dài
hoặc thông khí thất bại
7 - 12
Xem xét:
† Dò tật đường thở
† Vấn đề ở phổi, như
- Tràn khí màng phổi
- Thoát vò hoành
† Bệnh tim bẩm sinh
Một khi đã cần
hồi sức thật sự,
trẻ cần được theo dõi ở một nơi có đầy
đủ phương tiện chăm sóc. Như đã đề
cập trong Bài 1, việc chăm sóc sau hồi
sức bao gồm kiểm soát thân nhiệt, theo
dõi sát dấu hiệu sinh tồn và dự phòng
các biến chứng. Cần tiếp tục theo dõi
độ bão hòa oxy, nhòp tim và huyết áp.
Cần làm các xét nghiệm như Hct và
đường huyết. Khí máu động mạch cũng
có thể cần thiết.
Khả năng xuất hiện các biến chứng sau
hồi sức tăng theo thời gian và qui mô
của cuộc hồi sức. Đo pH và kiềm thiếu
từ máu cuống rốn hoặc máu của trẻ
ngay sau hồi sức có thể giúp ích trong
việc đánh giá mức độ tổn thương.
Những biến chứng thường gặp ở trẻ
sơ sinh đã phải hồi sức sẽ được mô tả
sau đây.
Bài
7
Cao áp phổi
Như đã giải thích trong Bài 1, mạch máu phổi bào thai co thắt
mạnh. Sự thông khí và oxy hóa máu lúc sinh là kích thích chủ yếu
làm dãn nở các mạch máu, cho phép máu lên phổi để lấy oxy.
Mạch máu phổi ở những trẻ đã bò stress nặng lúc sinh có thể
vẫn giữ nguyên trạng thái co thắt, gây ra hạ oxy máu do cao
áp phổi và cần phải cung cấp oxy hỗ trợ. Cao áp phổi nặng
gây ra hạ oxy máu có thể cần điều trò bằng các liệu pháp tối
tân, như hít nitric oxide hay oxy hóa máu qua màng ngoài cơ
thể (ECMO).
Tình trạng co thắt mạch máu phổi thêm vào có thể dự phòng được
bằng cách tránh các cơn hạ oxy máu sau khi đã hồi sức trẻ.
!
Hãy dùng máy đo độ bão hòa oxy và/hoặc làm khí máu để
chắc chắn rằng trẻ vẫn được oxy hóa máu đầy đủ sau khi
hồi sức.
Viêm phổi và các biến chứng khác ở phổi
Các trẻ cần hồi sức có nguy cơ cao bò viêm phổi, do hội chứng
viêm phổi hít hoặc do một bệnh lý nhiễm trùng bẩm sinh là
nguyên nhân gây ra tình trạng suy sụp chu sinh. Viêm phổi sơ
sinh cũng kết hợp với cao áp phổi.
Nếu một trẻ sau khi hồi sức vẫn tiếp tục cho thấy bất kỳ triệu
chứng của suy hô hấp tiến triển nào hoặc vẫn cần phải thở oxy,
cần truy tìm viêm phổi hay nhiễm trùng huyết do vi trùng và
khởi đầu kháng sinh đường tiêm.
Nếu trẻ có tình trạng suy sụp hô hấp cấp tính xảy ra trong hoặc
sau khi hồi sức, hãy kiểm tra xem có tràn khí màng phổi không;
hoặc; nếu vẫn còn lưu ống nội khí quản sau hồi sức, hãy xem
ống có bò tuột ra hay bò tắc không.
Toan chuyển hóa
Dù cho việc sử dụng sodium bicarbonate trong khi hồi sức còn
đang bàn cãi, có thể vẫn cần phải điều chỉnh toan chuyển hóa
do tích tụ lactic acid. Lactic acid được hình thành khi mô bò thiếu
oxy. Toan chuyển hóa nặng làm giảm co thắt cơ tim và gây co
thắt mạch máu phổi, do đó lưu lượng máu lên phổi kém và sự
oxy hóa máu ở phổi bò hạn chế.
Tuy nhiên, sodium bicarbonate có thể gây hại, đặc biệt là nếu
chỉ đònh quá sớm trong khi hồi sức. Hãy bảo đảm rằng đã thông
khí phổi tốt. Sodium bicarbonate kết hợp với acid sẽ tạo ra
carbon dioxide (CO2). Phổi phải được thông khí tốt để thải CO2
ra ngoài.
7 - 13
Những Lưu Ý Đặc Biệt
!
Không được chỉ đònh sodium bicarbonate trừ khi đã thông
khí phổi đầy đủ.
Nếu quyết đònh cho sodium bicarbonate, hãy nhớ rằng thuốc
này ăn mòn mạnh và rất ưu trương nên phải cho trong một tónh
mạch lớn có hồi lưu máu tốt. Thường dùng 2 mEq/kg/liều dung
dòch 4,2% (0,5 mEq/mL) với tốc độ không quá 1mEq/kg/phút.
!
Sodium bicarbonate rất ăn mòn và KHÔNG BAO GIỜ được
chỉ đònh qua đường nội khí quản trong quá trình hồi sức.
Tụt huyết áp
Tổn thương chu sinh có thể làm thương tổn cơ tim và/hoặc giảm
trương lực mạch máu, gây tụt huyết áp. Thường có thể nghe
được âm thổi ở tim do hở van 3 lá thoáng qua, cho thấy có giảm
cung lượng thất phải. Nếu trẻ cần được hồi sức do nhiễm trùng
huyết hoặc mất máu, thể tích tuần hoàn hữu hiệu có thể bò sụt
giảm gây ra tụt huyết áp.
Những trẻ cần hồi sức nên được theo dõi nhòp tim và huyết áp
liên tục cho đến khi huyết áp và tưới máu ngoại biên về bình
thường và ổn đònh. Truyền máu hoặc dòch bồi hoàn thể tích
khác có thể được chỉ đònh, như đã được đềø cập ở Bài 6; ở một
số trẻ, có thể cần truyền thuốc tăng co bóp cơ tim như Dopamin
để làm tăng cung lượng tim và trương lực mạch máu nếu liều
bolus ban đầu không nâng huyết áp về bình thường được.
Kiểm soát dòch
Tổn thương chu sinh có thể gây rối loạn chức năng thận, thường
là tạm thời (như hoại tử ống thận cấp) nhưng có thể làm rối
loạn nước và điện giải nặng. Cần kiểm tra đạm và máu trong
nước tiểu để loại trừ hoại tử ống thận cấp. Những trẻ sơ sinh
bò suy sụp nặng nề cũng có thể bò hội chứng tăng tiếât ADH
không thích hợp (SIADH). Sau khi bò tổn thương chu sinh nặng
thì lượng nước tiểu, cân nặng và ion đồ máu nên được kiểm tra
thường xuyên trong vài ngày đầu sau sinh. Một số trẻ cần được
hạn chế lượng nước và điện giải đưa vào cho đến khi chức năng
thận về bình thường, hoặc SIADH được giải quyết. Có thể cần
cung cấp canxi. Bất thường điện giải làm tăng nguy cơ rối loạn
nhòp tim.
7 - 14
Co giật hoặc ngưng thở
Những trẻ có tổn thương chu sinh và đã traœi qua hồi sức thì
có thể có triệu chứng của HIE về sau. Lúc đầu trẻ có thể giảm
trương lực cơ, nhưng vài giờ sau đó trẻ sẽ co giật. Ngưng thở
hoặc giảm thông khí có thể cũng là biểu hiện của HIE.
Bài
7
Những triệu chứng này cũng có thể là biểu hiện của các bất
thường về chuyển hóa (như hạ đường huyết) hoặc rối loạn điện
giải (như hạ Natri hoặc hạ Canxi).
Những trẻ cần hồi sức tích cực phải được theo dõi sát xem có co
giật không. Có thể cần truyền đường và/hoặc điện giải (đường
tónh mạch). Cần điều trò thuốc chống co giật (như Phenobarbital)
nếu nghó co giật này có liên quan đến HIE.
Hạ đường huyết
Quá trình chuyển hóa trong điều kiện thiếu oxy (có thể xảy ra
trong suốt giai đoạn tổn thương chu sinh) tiêu thụ nhiều glucose
hơn so với chuyển hóa trong điều kiện đầy đủ oxy. Mặc dù sự bài
tiết cathecholamin làm tăng đường huyết ban đầu, nguồn glucose
dự trữ (glycogen) sẽ bò sụt giảm nhanh chóng trong suốt giai
đoạn tổn thương chu sinh có thể gây hạ đường huyết. Glucose là
nguồn năng lượng chủ yếu cho hoạt động của não sơ sinh.
Ở những trẻ cần hồi sức, phải kiểm tra đường huyết ngay sau hồi
sức và tiếp tục kiểm tra cho đến khi xét nghiệm về bình thường
vài lần và đảm bảo chắc chắn cung cấp đủ glucose. Thường cần
truyền glucose đường tónh mạch để điều trò hạ đường huyết.
Vấn đề nuôi ăn
Đường tiêu hóa trẻ sơ sinh rất nhạy cảm với tình trạng thiếu oxy
mô - thiểu dưỡng, có thể gây ra liệt ruột, xuất huyết tiêu hóa và
ngay cả viêm ruột hoại tử. Cũng do tổn thương thần kinh, động
tác mút và sự phối hợp giữa mút, nuốt và thở có thể mất vài
ngày để hồi phục. Có thể cần truyền dòch và nuôi ăn đường tónh
mạch trong suốt giai đoạn này.
Kiểm soát thân nhiệt
Những trẻ đã được hồi sức có thể bò lạnh do nhiều lý do khác
nhau. Những kỹ thuật đặc biệt để duy trì thân nhiệt cho trẻ sơ
sinh non tháng sẽ được mô tả trong Bài 8. Những trẻ khác, đặc
biệt những trẻ được sinh ra từ mẹ bò nhiễm trùng ối, có thể bò
tăng thân nhiệt ở phòng sinh. Vì tăng thân nhiệt có thể làm
tổn thương trẻ, điều quan trọng là không ủ trẻ quá nóng trong
và sau khi hồi sức. Thân nhiệt của trẻ nên được duy trì ở mức
bình thường.
!
Tăng thân nhiệt (sưởi quá nóng) có thể rất có hại cho trẻ.
Cẩn thận không sưởi cho trẻ nóng quá trong và sau khi
hồi sức.
Không nên nhầm lẫn quan điểm trên với những nghiên cứu gần
đây về vai trò bảo vệ có thể có của phương pháp hạ thân nhiệt
vừa phải trên hệ thần kinh nơi trẻ sơ sinh đủ tháng hoặc gần
đủ tháng có nguy cơ cao tiến triển thành HIE. Trước khi nghiên
cứu này hoàn tất, việc duy trì thân nhiệt bình thường trong và
sau hồi sức vẫn được khuyến cáo.
7 - 15
Những Lưu Ý Đặc Biệt
Chăm sóc Sau hồi sức
Cơ quan/hệ thống
Biến chứng có thể gặp
Hành động sau hồi sức
Não
Ngưng thở
Co giật
Theo dõi cơn ngưng thở
Thông khí hỗ trợ nếu cần
Theo dõi đường và điện giải
Tránh tăng thân nhiệt
Xem xét liệu pháp chống co giật
Phổi
Cao áp phổi
Viêm phổi
Tràn khí màng phổi
Cơn thở nhanh thoáng qua
Hội chứng hít phân su
Thiếu surfactant
Duy trì oxy hóa máu và thông khí đầy đủ
Xem xét chỉ đònh kháng sinh
Chụp X quang nếu suy hô hấp
Xem xét liệu pháp surfactant
Trì hoãn việc cho ăn nếu có suy hô hấp
Tim mạch
Tụt huyết áp
Theo dõi huyết áp và nhòp tim
Xem xét dùng thuốc tăng co bóp cơ tim
(Vd dopamin) và/hoặc bồi hoàn thể tích
Thận
Họai tử ống thận cấp
Theo dõi lượng nước tiểu
Hạn chế dòch nếu trẻ thiểu niệu mà thể
tích lòng mạch đã đủ
Theo dõi ion đồ máu
Tiêu hóa
Liệt ruột
Viêm ruột hoại tử
Trì hoãn việc cho ăn đường miệng
Truyền dòch đường tónh mạch
Xem xét nuôi ăn tónh mạch
Chuyển hóa/
huyết học
Hạ đường huyết
Hạ Ca; hạ Na
Thiếu máu
Giảm tiểu cầu
Theo dõi đường huyết
Theo dõi ion đồ
Theo dõi hematocrit
Theo dõi số lượng tiểu cầu
7 - 16
Bài
✔
7
Ôn tập
(Đáp án ở phần trước và ở cuối bài học.)
7. Sau hồi sức trẻ sơ sinh đủ tháng và gần đủ tháng, áp lực máu
trong tuần hoàn phổi thường (cao) (thấp). Việc oxy hóa máu
đầy đủ thường làm cho lưu lượng máu phổi (tăng) (giảm).
8. Nếu một trẻ tẩm nhuận phân su đã được hồi sức mà sau đó
tiến triển xấu nhanh chóng, cần nghó đến tình trạng
.
9. Một trẻ đã được hồi sức nhưng huyết áp và tưới máu vẫn kém
dù đã được truyền máu do nghi ngờ mất máu chu sinh. Có
thể cần truyền
để cải thiện cung lượng tim
và trương lực mạch máu cho trẻ.
10. Những trẻ đã được hồi sức có thể bò tổn thương thận và sau
hồi sức thường cần lượng dòch (nhiều) (ít) hơn.
11. Một trẻ bò co giật sau hồi sức 10 giờ. Xét nghiệm sàng lọc
đường huyết và ion đồ máu bình thường. Nhóm thuốc nào
nên được dùng để điều trò co giật cho trẻ?
12. Liệt kê 3 nguyên nhân gây co giật sau hồi sức
(1)
(2)
(3)
13. Vì nguồn dự trữ năng lượng bò tiêu thụ nhanh hơn trong
tình trạng thiếu oxy, mức
trong máu có
thể thấp hơn sau hồi sức.
7 - 17
Những Lưu Ý Đặc Biệt
Có khác biệt trong kỹ thuật hồi sức đối với trẻ
được sinh ở ngoại viện hoặc trẻ đã qua giai đoạn
mới sinh không?
Qua chương trình này, các bạn đã học cách hồi sức những trẻ
mới được sinh ra tại bệnh viện và gặp khó khăn trong giai đoạn
chuyển tiếp từ cuộc sống trong tử cung ra ngoài. Bên cạnh đó,
dó nhiên, có một số trẻ khác gặp khó khăn và cần được hồi sức
sau khi được sinh ra ở ngoại viện hoặc khi đã qua giai đoạn
mới sinh.
Một số ví dụ về những trẻ cần được hồi sức trong những tình
huống khác nhau
•Một trẻ được sinh rớt tại nhà hoặc trên xe, nơi mà điều kiện
chăm sóc bò giới hạn.
•Một trẻ có cơn ngưng thở tại phòng dưỡng nhi.
•Một trẻ 2 ngày tuổi bò nhiễm trùng huyết có sốc.
•Một trẻ được đặt nội khí quản đang được điều trò ở đơn
vò chăm sóc sơ sinh tăng cường đột ngột diễn tiến xấu đi.
(Những trẻ cần được hồi sức trong tình huống này thường có
một vấn đề cơ học với ống nội khí quản hoặc thông khí hơn
là một vấn đề nội khoa mới phát sinh. Đội hồi sức phải tách
trẻ ra khỏi máy thở, bóp bóng giúp thở trong lúc tìm và giải
quyết nguyên nhân).
Dù tình huống bên ngoài phòng sinh rất khác nhau, những nguyên
lý sinh lý và các bước để khôi phục dấu hiệu sinh tồn trong giai
đoạn sơ sinh (tháng đầu tiên sau sinh) vẫn không thay đổi.
•Giữ ấm, chỉnh tư thế, thông đường thở, kích thích thở, cung
cấp oxy (nếu cần).
•Thiết lập thông khí hiệu quả.
•Ấn ngực.
•Dùng thuốc.
!
Ưu tiên hàng đầu trong việc hồi sức trẻ bất kỳ lúc nào
trong giai đoạn sơ sinh, ở bất cứ đâu, là cần tái lập thông
khí đầy đủ.
Một khi đã đảm bảo thông khí đầy đủ, bạn cần thu thập mọi
thông tin về bệnh sử của trẻ để đònh hướng khu trú cho việc
hồi sức của bạn.
7 - 18
Dù chương trình này không nhằm hướng dẫn cách hồi sức trẻ
sơ sinh trong những tình huống khác, vài chiến lược cho phép
đề ra những nguyên tắc hồi sức ngoài phòng sinh sẽ được đề
cập ở những trang sau. Đã có những chương trình khác chi tiết
hơn để tham khảo, như chương trình Hồi sức Nhi khoa nâng cao
(PALS) của Hiệp hội Tim Mạch Hoa Kỳ hay chương trình Huấn
luyện Nhi khoa chuyên nghiệp trước nhập viện (PEPP) của Viện
Hàn lâm Nhi khoa Hoa Kỳ.
Bài
7
Trường hợp 7.
Hồi sức một trẻ sơ sinh có vẻ khỏe mạnh
Một trẻ đủ tháng, cân nặng 3.400 g, sinh tại bệnh viện sau một
thai kỳ, cuộc chuyển dạ và cuộc sinh không biến chứng. Giai
đoạn chuyển tiếp cũng không có vấn đề gì. Trẻ được nằm với
mẹ và bú mẹ sớm sau sinh.
Khoảng 20 giờ sau sinh, mẹ phát hiện trẻ nằm trong nôi không
thở và không đáp ứng. Bà mẹ đã ấn chuông cấp cứu và một
điều dưỡng chu sinh đến ngay lập tức.
Người điều dưỡng thấy trẻ xanh,
mềm nhũn và ngưng thở. Cô đặt trẻ
lên đèn sưởi, thông đường thở bằng
cách đặt đầu trẻ ở tư thế hơi ngưœa. Cô
nhanh chóng hút miệng và mũi trẻ
bằng bầu hút. Cô vuốt lưng trẻ, búng
vào chân nhưng trẻ vẫn không thở
lại. Cô gọi người giúp đỡ.
Họ bắt đầu ấn tim phối hợp với thông
khí áp lực dương. Sau 30 giây, kiểm
tra nhòp tim lần nữa và thấy là 40 l/p.
Một bác só lâm sàng đến và đặt nội
khí quản. Họ thiết lập đường truyền
tónh mạch và bơm 1 mL dung dòch
epinephrine 1/10.000 vào. Sau 30 giây
nữa, nhòp tim khoảng 80 l/p.
Họ ngừng ấn ngực và vẫn tiếp tục
thông khí áp lực dương. Sau một phút
nữa, nhòp tim trẻ tăng trên 100 l/p và
bắt đầu tự thở.
Trẻ được gắn máy đo độ bão hòa oxy
và được đưa vào lồng ấp vận chuyển.
Một điều dưỡng trấn an và thông báo
cho bà mẹ đang lo âu khi trẻ được
chuyển đến phòng dưỡng nhi để tìm
nguyên nhân gây ngưng thở.
† Đủ tháng?
† Nước ối trong?
† Trẻ có thở hoặc khóc?
† Trương lực cơ tốt?
Không
30 giây
Thời gian Ước tính
Dụng cụ hồi sức đã được chuẩn bò
sẵn sàng gồm bóng tự phồng và mặt
nạ được sử dụng để thông khí áp
lực dương. Một điều dưỡng thứ hai
đến hỗ trợ và gắn bóng với nguồn
oxy 100%. Sau khoảng 30 giây thông
khí áp lực dương, điều dưỡng thứ hai
dùng ống nghe kiểm tra nhòp tim thì
thấy khoảng 30 l/p.
Trẻ sanh ra
30 giây
† Giữ ấm
† Chỉnh tư thế; làm sạch
đường thở* (nếu cần)
† Lau khô, kích thích thở,
đặt lại tư thế trẻ
† Đánh giá hô hấp, tần số
tim và màu da trẻ
Ngưng thở
hoặc TS
tim <100
Trẻ thở, TS tim > 100
nhưng tím
† Cung cấp oxy
Tím kéo dài
† Cung cấp thông khí
áp lực dương *
TS tim <60
30 giây
TS tim >60
† Cung cấp thông khí áp lực dương*
† Tiến hành ấn tim*
TS tim <60
† Cho epinephrine*
* Có thể cân nhắc đặt nội khí quản trong một số bước.
7 - 19
Những Lưu Ý Đặc Biệt
Những chiến lược khác cần cho hồi sức ngoại viện
hoặc sau giai đoạn mới sinh là gì?
Kiểm soát thân nhiệt
Duy trì thân nhiệt bình thường trong khi hồi sức luôn là một
khái niệm quan trọng, nhưng nó trở nên bớt khó khăn hơn nếu
đây không phải là một trẻ vừa mới sinh, vì toàn bộ cơ thể của
trẻ thường không bò ướt. Duy trì thân nhiệt có thể trở thành
một thách thức lớn nếu trẻ mới được sinh ra lại cần hồi sức bên
ngoài bệnh viện, vì thường bạn sẽ không có sẵn đèn sưởi đã
được làm ấm sẵn. Có vài đề nghò nhằm hạn chế tối đa sự mất
nhiệt như sau:
•Mở nguồn sưởi trong phòng hay trong xe.
•Lau trẻ thật khô với khăn tắm, mền, hoặc áo quần sạch.
•Sử dụng cơ thể mẹ như một nguồn nhiệt. Đặt đứa trẻ da kề da
trên ngực của mẹ và đắp một cái mền lên cả hai mẹ con.
Làm thông đường thở
Nếu cần hồi sức bên ngoài phòng sanh hay phòng dưỡng nhi,
máy hút chân không thường là không có sẵn. Các phương pháp
được đề nghò để làm thông đường thở như sau:
•Sử dụng một bầu hút.
•Lau sạch miệng và mũi trẻ với khăn tay sạch hay miếng vải
quấn quanh ngón trỏ của bạn.
Thông khí
Hầu hết các trẻ đều tự thở sau khi sanh. Lau khô trẻ, chà xát lưng,
và búng vào lòng bàn chân trẻ là các phương pháp kích thích
được chấp nhận. Tuy nhiên, một số trẻ được sinh bên ngoài bệnh
viện cần thông khí áp lực dương để thông khí phổi. Nếu không
có sẵn bóng và mặt nạ hồi sức, thông khí áp lực dương có thể
thực hiện bằng miệng với miệng - mũi. Đặt trẻ ở tư thế thông
đường thơœ, và miệng của người hồi sức cần áp chặt lên miệng và
mũi của trẻ. Trong trường hợp trẻ quá to hoặc miệng của người
hồi sức quá nhỏ, có lẽ chỉ cần áp sát miệng của người hồi sức vào
miệng trẻ trong khi kẹp mũi của nó lại để làm kín đường thở. Kỹ
thuật này có nguy cơ lây bệnh truyền nhiễm.
Thiết lập đường truyền
Đặt ống thông tónh mạch rốn không phải là một lựa chọn cho
hồi sức ngoại viện hay ở những trẻ đã quá vài ngày tuổi. Trong
những trường hợp như vậy, ngay lập tức hãy lấy đường truyền
tónh mạch ngoại vi hay đâm kim vào trong xương chày là cách
thay thế thích hợp. Mô tả chi tiết các kỹ thuật này không được
đề cập trong chương trình này.
7 - 20
Bài
7
Thuốc
Epinephrine vẫn là thuốc đầu tiên nên được dùng hồi sức ở
những trẻ không đáp ứng với thông khí áp lực dương và ấn
ngực. Tuy nhiên, các thuốc khác (như calcium) có thểõ cũng cần
thiết, tùy nguyên nhân gây ngưng tim, ngưng thở. Các bước
chẩn đoán cần thiết và chi tiết cách sử dụng các thuốc này nằm
ngoài mục tiêu của chương trình này.
✔
Ôn tập
(Đáp án ở phần trước và ở cuối bài học.)
14. Bạn thường gặp khó khăn (nhiều hơn) (ít hơn) (tương đương)
trong việc kiểm soát thân nhiệt của trẻ cần hồi sức sau giai
đoạn mới sinh.
15. Ưu tiên hàng đầu trong việc hồi sức những trẻ đã qua giai
đoạn mới sinh nên là
A. Khử rung tim
B. Tăng thể tích máu
C. Thiết lập thông khí hiệu quả
D. Dùng epinephrine
E. Ấn ngực
16. Nếu không có sẵn máy hút chân không để làm thông thoáng
đường thở, 2 phương pháp thay thế là
và
.
17. Nếu một đứa trẻ 15 ngày tuổi cần hồi sức có mất máu, thiết
lập đường truyền tónh mạch bao gồm
và
.
7 - 21
Những Lưu Ý Đặc Biệt
Các Điểm Chính
1. Hành động thích hợp cho trẻ không đáp ứng với hồi sức tùy
thuộc vào cách biểu hiện-thông khí thất bại, tím hay chậm
nhòp tim kéo dài, hoặc không thể khởi đầu nhòp tự thở.
2. Triệu chứng của hẹp lỗ mũi sau có thể được giải quyết bằng
cách đặt ống thông đường thở qua miệng.
3. Tắc nghẽn đường thở trong hội chứng Robin có thể được giải
quyết bằng cách đặt ống thông mũi hầu và để trẻ nằm sấp.
4. Trong trường hợp cấp cứu, có thể phát hiện tràn khí màng
phổi bằng cách soi đèn qua lồng ngực và điều trò bằng cách
đâm kim vào lồng ngực.
5. Nếu nghi ngờ thoát vò hoành, tránh thông khí áp lực dương
bằng mặt nạ. Đặt nội khí quản và ống thông miệng - dạ dày
ngay lập tức.
6. Tím và chậm nhòp tim kéo dài hiếm khi do nguyên nhân tim
bẩm sinh mà thường do thông khí không đầy đủ.
7. Phải theo dõi sát và kiểm soát chặt chẽ tình trạng oxy hóa
máu, nhiễm trùng, huyết áp, dòch, ngưng thở, đường huyết,
nuôi ăn và thân nhiệt cho trẻ đã được hồi sức.
8. Cẩn thận để không sưởi ấm trẻ quá mức trong và sau khi hồi
sức.
9. Nếu bà mẹ có dùng thuốc có thuốc phiện gần đây và trẻ
không tự thở được, trước tiên cần thông khí áp lực dương hỗ
trợ, sau đó xem xét dùng naloxone cho trẻ.
10.Duy trì thông khí đầy đủ vẫn là ưu tiên hàng đầu khi hồi
sức trẻ ngay lúc sinh tại phòng sanh hoặc sau đó tại phòng
dưỡng nhi hoặc những nơi khác.
11.Vài kỹ thuật thay thế để hồi sức bên ngoài phòng sanh bao
gồm:
•Duy trì thân nhiệt bằng cách đặt trẻ da kề da với mẹ và
tăng nhiệt độ của môi trường xung quanh.
•Làm thông đường thở bằng bầu hút hoặc miếng vải quấn
vào ngón tay.
•Cân nhắc thông khí áp lực dương bằng miệng với miệng
- mũi.
•Có thể thiết lập đường truyền qua tónh mạch ngoại vi hay
tiêm trong xương.
7 - 22
Bài
7
Bài 7 Ôn tập
(Đáp án ở phần sau.)
1.Có thể loại trừ hẹp lỗ mũi sau bằng cách nào?
2.Những trẻ có hội chứng Robin bò tắc nghẽn đường hô hấp
trên có thể cải thiện được bằng cách đặt một
và đặt trẻ trong tư thế
. Đặt nội khí
quản ở những trẻ này thường (dễ) (khó).
3.Nên nghó đến tràn khí màng phổi hay thoát vò hoành nếu phế
âm nghe (đều) (không đều) ở hai phế trường.
4.Nên nghi ngờ thoát vò hoành nếu bụng
. Không nên hồi sức những trẻ này bằng
.
5.Nhòp tim chậm kéo dài và tím tái trong suốt giai đoạn hồi sức
thường do (các vấn đề về tim) (thông khí không đủ).
6.Trẻ không có nhòp tự thở và mẹ chúng có dùng thuốc có
thuốc phiện trước đó, trước tiên cần được
và sau đó, nếu vẫn không có nhòp tự thở,
có thể sử dụng
.
7. Sau hồi sức trẻ sơ sinh đủ tháng và gần đủ tháng, áp lực máu
trong tuần hoàn phổi thường (cao) (thấp). Việc oxy hóa máu
đầy đủ thường làm cho lưu lượng máu phổi (tăng) (giảm).
8. Nếu một trẻ tẩm nhuận phân su đã được hồi sức mà sau đó
tiến triển xấu nhanh chóng, cần nghó đến tình trạng
.
9. Một trẻ đã được hồi sức nhưng huyết áp và tưới máu vẫn kém
dù đã được truyền máu do nghi ngờ mất máu chu sinh. Có
thể cần truyền
để cải thiện cung lượng tim
và trương lực mạch máu cho trẻ.
7 - 23
Những Lưu Ý Đặc Biệt
Bài 7 Ôn tập
- tiếp theo
10. Những trẻ đã được hồi sức có thể bò tổn thương thận và sau
hồi sức thường cần lượng dòch (nhiều) (ít) hơn.
11. Một trẻ bò co giật sau hồi sức 10 giờ. Xét nghiệm sàng lọc
đường huyết và ion đồ máu bình thường. Nhóm thuốc nào
nên được dùng để điều trò co giật cho trẻ?
.
12. Liệt kê 3 nguyên nhân gây co giật sau hồi sức:
(1)
(2)
(3)
13.Vì nguồn dự trữ năng lượng bò tiêu thụ nhanh hơn trong
tình trạng thiếu oxy, mức
trong máu có
thể thấp hơn sau hồi sức.
14. Bạn thường gặp khó khăn (nhiều hơn) (ít hơn) (tương đương)
trong việc kiểm soát thân nhiệt của trẻ cần hồi sức sau giai
đoạn mới sinh.
15. Ưu tiên hàng đầu trong việc hồi sức những trẻ đã qua giai
đoạn mới sinh nên là
A. Khử rung tim
B. Tăng thể tích máu
C. Thiết lập thông khí hiệu quả
D. Dùng epinephrine
E. Ấn ngực
16. Nếu không có sẵn máy hút chân không để làm thông thoáng
đường thở, 2 phương pháp thay thế là
và
.
17. Nếu một đứa trẻ 15 ngày tuổi cần hồi sức có mất máu, thiết
lập đường truyền tónh mạch bao gồm
và
.
7 - 24
Bài
7
Đáp án
1. Hẹp lỗ mũi sau có thể được loại trừ bằng cách thử đặt một
ống thông mũi hầu xuyên qua hai lỗ mũi.
2. Trẻ có hội chứng Robin bò tắc nghẽn đường hô hấp trên có
thể được giải quyết bằng cách đặt một ống thông mũi hầu
rồi đặt trẻ nằm sấp. Thường khó đặt nội khí quản ở những
trẻ này.
3. Nên nghó đến tràn khí màng phổi hoặc thoát vò hoành bẩm
sinh nếu phế âm nghe không đều ở hai bên phổi. Nếu trẻ
đã được đặt nội khí quản, bạn cũng cần kiểm tra để chắc
chắn rằng ống nội khí quản không vào quá sâu.
4. Bạn nên nghi ngờ thoát vò hoành bẩm sinh nếu bụng của trẻ
có vẻ phẳng (lõm lòng thuyền). Không được hồi sức những
trẻ này bằng cách thông khí áp lực dương qua mặt nạ.
5. Chậm nhòp tim và tím kéo dài trong khi hồi sức thường nhất
là do thông khí không đầy đủ.
6. Ở những trẻ không có nhòp tự thở và mẹ có dùng thuốc có
thuốc phiện, trước tiên nên được thông khí áp lực dương
và sau đó, nếu vẫn không khởi phát nhòp tự thở, nên cho
naloxone.
7. Sau khi hồi sức một trẻ sơ sinh đủ tháng hay gần đủ tháng,
áp lực mạch máu phổi thường cao hơn. Việc oxy hóa máu
đầy đủ thường làm giảm kháng lực mạch máu phổi, giúp lưu
lượng máu lên phổi tăng.
8. Nếu một trẻ tẩm nhuận phân su đã được hồi sức và sau đó
trở nên xấu đi nhanh chóng, nên nghi ngờ tràn khí màng
phổi. (Cũng nên nghó đến việc ống nội khí quản bò tắc bởi
phân su).
9. Có thể cần truyền dopamine (hay thuốc tăng sức co bóp
cơ tim khác) để cải thiện cung lượng tim và trương lực mạch
máu cho trẻ.
10.Sau khi đã được hồi sức, trẻ thường cần ít dòch hơn.
11.Một đứa trẻ bò co giật sau hồi sức 10 giờ và có mức đường
huyết bình thường nên được điều trò với thuốc chống co giật
(như là phenobarbital).
7 - 25