TRƯỜNG ĐẠI HỌC SƯ PHẠM TP. HỒ CHÍ MINH
KHOA NGỮ VĂN
---------- ----------
Nguyễn Thị Thùy Dung
Trần Thị Ngọc Huyền
Nguyễn Thị Thúy Kiều
Đinh Thị Minh Phương
Nguyễn Thị Sen
Đặng Thị Thắm
41.01.601.016
41.01.601.039
41.01.601.042
41.01.601.091
41.01.601.098
41.01.601.100
TP.HCM, 9/2018
1
DANH SÁCH VÀ PHÂN CÔNG CÔNG VIỆC NHÓM 7
STT
1
2
3
4
5
6
THÀNH VIÊN
PHÂN CÔNG CÔNG VIỆC
Nguyễn Thị Thùy Dung
- Đọc trước tham khảo tài liệu: 1 và 9
41.01.601.016
- Làm phần 2.3 và 2.4
Trần Thị Ngọc Huyền
- Đọc trước tham khảo tài liệu: 1 và 15
41.01.601.039
- Làm phần 3.2 và 3.4
Nguyễn Thị Thúy Kiều
- Đọc trước tham khảo tài liệu: 1 và 11
41.01.601.042
- Làm phần 2.2
Đinh Thị Minh Phương
- Đọc trước tham khảo tài liệu: 1 và 13
41.01.601.091
- Làm phần 3.1 và 3.3
(Nhóm trưởng)
- Tổng hợp và hoàn chỉnh bản Word.
Nguyễn Thị Sen
- Đọc trước tham khảo tài liệu: 1 và 16
41.01.601.098
- Làm phần 1 và tổng kết.
Đặng Thị Thắm
- Đọc trước tham khảo tài liệu: 1 và 8
41.01.601.100
- Làm phần 2.1
2
MỤC LỤC
1. Khái quát chung.............................................................................................................. 5
1.1. Tác giả Nguyễn Huy Thiệp..................................................................................... 5
1.1.1. Tiểu sử..............................................................................................................5
1.1.2. Sự nghiệp sáng tác...........................................................................................5
1.1.3. Quan niệm về văn chương trong truyện ngắn Nguyễn Huy Thiệp................. 6
1.2. Khái niệm về bi kịch.............................................................................................. 10
2. Nội dung bi kịch con người trong truyện ngắn Nguyễn Huy Thiệp........................ 10
2.1. Bi kịch con người với tình yêu và hạnh phúc......................................................10
2.1.1. Bi kịch của con người với tình yêu................................................................ 11
2.1.2. Bi kịch của con người với tình yêu................................................................ 12
2.2. Bi kịch con người gắn với nhân phẩm.................................................................16
2.2.1. Nhân phẩm con người bị tha hóa bởi đồng tiền........................................... 17
2.2.2. Sự xuống cấp của đạo đức về các giá trị truyền thống.................................20
2.3. Bi kịch con người cô đơn...................................................................................... 24
2.3.1. Con người cô đơn vì thân hình dị dạng.........................................................24
2.3.2. Con người cô đơn vì không hiểu lẫn nhau.................................................... 27
2.4. Bi kịch con người tìm kiếm...................................................................................30
2.4.1. Con người kiếm tìm tình yêu thương............................................................. 30
2.4.2. Con người kiếm tìm cuộc sống mới............................................................... 32
3. Nghệ thuật thể hiện bi kịch con người trong truyện ngắn của Nguyễn Huy Thiệp34
3.1. Nghệ thuật xây dựng nhân vật............................................................................. 34
3.1.1. Xây dựng nhân vật thông qua ngoại hình..................................................... 35
3.1.2. Xây dựng nhân vật thông qua diễn biến tâm lý.............................................37
3.1.3. Xây dựng nhân vật thông qua hành động..................................................... 40
3
3.1.4. Xây dựng nhân vật thông qua lời nói............................................................ 43
3.2. Giọng điệu nghệ thuật...........................................................................................46
3.2.1. Giọng điệu trăn trở, xót xa............................................................................ 47
3.2.2. Giọng điệu cảm thương................................................................................. 49
3.3. Không gian nghệ thuật..........................................................................................53
3.3.1. Không gian “láo nháo, thản nhiên rất đời và ô trọc”.................................. 54
3.3.2. Không gian tù đọng quẩn quanh, bế tắc....................................................... 56
3.4. Thời gian nghệ thuật............................................................................................. 58
3.4.1. Đảo lộn thời gian sự kiện.............................................................................. 59
3.4.2. Thời gian tâm trạng : Cái nhìn hồi cố...........................................................60
3.4.3. Theo trình tự thời gian...................................................................................61
3.4.4. Tự sự dòng ý thức và đồng hiện thời gian.....................................................62
TỔNG KẾT........................................................................................................................ 64
TÀI LIỆU THAM KHẢO................................................................................................ 66
4
1. Khái quát chung
1.1. Tác giả Nguyễn Huy Thiệp
1.1.1. Tiểu sử
Nguyễn Huy Thiệp quê huyện Thanh Trì, thành phố Hà Nội. Thuở nhỏ ông cùng gia
đình lưu lạc khắp nông thôn đồng bằng Bắc Bộ, từ Thái Nguyên qua Phú Thọ, Vĩnh
Phúc.
Năm 1960, gia đình chuyển về quê, định cư ở xóm Cò, làng Khương Hạ (nay là
phường Khương Đình, quận Thanh Xuân), Hà Nội. Năm 1970, ông tốt nghiệp khoa sử
Trường Đại học Sư phạm Hà Nội và theo ông bị đưa về làng dạy học tại Tây Bắc đến
năm 1980, vì bố ông có làm việc với Pháp, cho nên lý lịch ông vì vậy bị xếp vào loại
"không sạch”. Năm 1980, ông chuyển về làm việc tại Bộ Giáo dục và Đào tạo, sau đó,
làm việc tại Công ty Kỹ thuật trắc địa bản đồ, Cục Bản đồ cho đến khi về hưu.
Nguyễn Huy Thiệp là một bông hoa nở muộn trên văn đàn. Vài truyện ngắn của ông
xuất hiện lần đầu tiên trên báo Văn Nghệ của Hội Nhà Văn Việt Nam năm 1986. Chỉ một
vài năm sau đó, cả làng văn học trong lẫn ngoài nước xôn xao những cuộc tranh luận về
các tác phẩm của ông. “Có người lên án anh gay gắt, thậm chí coi văn chương của anh có
những khuynh hướng thấp hèn. Người khác lại hết lời ca ngợi anh và cho rằnh anh có
trách nhiệm cao với cuộc sống hiện nay (Lời cuối sách của NXB Đa Nguyên).
1.1.2. Sự nghiệp sáng tác
Ông xuất hiện khá muộn trên văn đàn Việt Nam với vài truyện ngắn đăng trên Báo
Văn nghệ năm 1986. Năm 1996, Tiểu Long Nữ được coi là “tiểu thuyết đầu tay” - cuốn
tiểu thuyết đầu tiên của ông được chính thức xuất bản bởi Nhà xuất bản Công an nhân
dân.
Tác phẩm của Nguyễn Huy Thiệp in dấu ấn khá đậm nét về nông thôn và những
người lao động. Sở trường của ông là truyện ngắn, mảng đề tài đa dạng gồm lịch sử và
5
văn học, hơi hướng huyền thoại và cổ tích, xã hội Việt Nam đương đại, xã hội làng quê
và những người lao động.
Ngoài ra ông còn viết kịch, thơ (chưa xuất bản tập thơ nào, nhưng xuất hiện khá nhiều
trong các truyện ngắn của ông) và tiểu luận phê bình đăng trên nhiều báo, tạp chí trong
nước.
Năm 2004, bài viết “Trò chuyện với hoa thủy tiên và những nhầm lẫn của nhà văn”
đăng trên Tạp chí Ngày này của ông tạo ra những tranh luận sôi nổi trong giới văn
chương trong một thời gian dài trên Báo Văn nghệ và một số trang mạng tại Việt Nam.
1.1.3. Quan niệm về văn chương trong truyện ngắn Nguyễn Huy Thiệp
Trong các bài phê bình đã được công bố hoặc trong các bài phỏng vấn, Nguyễn Huy
Thiệp có nhiều dịp bày tỏ những quan niệm của mình về văn chương. Song, trong khuôn
khổ của đề tài luận văn, chúng tôi chỉ tiến hành tìm hiểu những quan niệm văn chương
ông gửi gắm trong những truyện ngắn. Đến với những trang viết của Nguyễn Huy Thiệp,
người đọc có thể ít nhiều nhận ra những quan niệm về văn chương mà ông ngầm kí thác
trong đó. Không thành những tuyên ngôn, Nguyễn Huy Thiệp cứ lặng lẽ, bình thản để
cho nhân vật của mình bàn luận về văn chương nhiều hơn là việc chính ông tự đưa ra
những lời phát biểu trực tiếp.
Ở giai đoạn văn học 1930 – 1945 trước đây, độc giả đã quen với những quan niệm sắc
sảo, súc tích của Nam Cao về văn chương qua mảng đề tài viết về người trí thức. Những
truyện ngắn tập trung thể hiện rõ nét nhất những quan niệm văn chương của Nam Cao là
Sống mòn, Giăng sáng, Đời thừa. Những lời phát biểu hùng hồn của ông đã hằn tạc vào
sâu trong trí nhớ người đọc để trở thành những tuyên ngôn bất hủ “Nghệ thuật không cần
phải là ánh trăng lừa dối, không nên là ánh trăng lừa dối; nghệ thuật có thể chỉ là tiếng
đau khổ kia, thoát ra từ những kiếp lầm than”.
Với Nguyễn Huy Thiệp, tất cả không đơn giản và rành mạch như vậy. Trong truyện
ngắn của mình, nhà văn để cho nhân vật phát ngôn về văn chương, và tất cả làm nên
6
những cái nhìn từ nhiều lăng kính khác nhau, không đơn nhất mà đa dạng, phức tạp: “văn
chương có nhiều thứ lắm. Có thứ văn chương hành nghề kiếm sống, có thứ văn chương
sửa mình, có thứ văn chương trốn đời, trốn việc, lại có thứ văn chương làm loạn” (Giọt
máu) có lúc văn chương “là thứ bỉ ổi nhất” (Chút thoáng Xuân Hương), nhưng cũng có
khi lại “có cái gì từa tựa lẽ phải” (Giọt máu). Để nhân vật đối thoại với nhau như vậy về
văn chương, dường như Nguyễn Huy Thiệp muốn nói rằng, văn chương là một thế giới
đầy bí ẩn để con người phải lặn ngụp trong hành trình tìm kiếm, có khi là đi tìm suốt cả
cuộc đời. Nhưng đặc biệt, có lẽ ông muốn bình thường hóa văn chương bằng cách nhìn,
cách nói suồng sã. Khác Nam Cao, Nguyễn Huy Thiệp không mớm cho người đọc một
chân lí nào, ngay cả khi sách đã được gấp lại. Cái ông đem đến cho người đọc chính là sự
hoài nghi về chân lí. Và với những độc giả đã quen với tâm thế đón chờ chân lí, người ta
sẽ trở nên lạ lẫm trước trang văn của ông. Vì vậy, thậm chí có người còn vội vàng kết cho
ông biết bao nhiêu thứ tội. Muốn hiểu rõ về tác phẩm của Nguyễn Huy Thiệp, ta nên
phân tích kỹ các quan niệm văn chương trên trang viết của ông.
Quan niệm về văn chương của Nguyễn Huy Thiệp, trước hết được nhà văn kí thác
qua những phát ngôn của các nhân vật. Trong truyện Chút thoáng Xuân Hương, tri
huyện Thặng từng ngạo mạn tuyên bố: “Hách chứ … không hách để văn chương các chú
làm loạn à? Văn chương là miếng đất nghịch”. Theo Thặng, văn chương có thể “làm
loạn” – nó làm loạn trong tiềm thức của con người – một cuộc nổi loạn mà không có một
thế lực nào có thể dập tắt được. Nghĩa là bản thân nó hàm chứa một sức mạnh ghê gớm.
Những con người đầy quyền uy như
Thặng dù bề ngoài luôn tỏ ra cứng rắn nhưng thật ra hắn cũng rất khiếp sợ. Cái
“hách” ấy suy cho cùng là một sự lên gân để Thặng che dấu nỗi sợ mà thôi. Cùng chung
suy nghĩ và tâm trạng với tri huyện Thặng, Nguyễn Phúc Ánh trong Kiếm sắc cũng đã
từng giảng giải về văn chương, chữ nghĩa trong một nỗi ghét sợ vô hình: “Ta cứ ghét bọn
chữ nghĩa thôi. Chữ nghĩa chúng nó thối lắm, nguỵ biện, xảo trá, tinh vi … hành tung
7
chúng ta chẳng lo. Toàn lũ ốm o như dòi chồ, hèn mọn cả. Chúng nó quen tỉ tê với chữ
nghĩa sẽ coi ta là vô đạo, không có tâm thế. Rửa đầu chúng nó, ta mệt lắm”. Nói là
“ chẳng lo” nhưng lại muốn “rửa đầu óc chúng nó”, tức là Ánh cũng rất sợ, sợ sức mạnh
vô hình của văn chương cũng như sợ những kẻ có khả năng sở hữu thứ “vũ khí” lợi hại
này. Vì lo không trị được những kẻ sai khiến được văn chương nên Ánh đã cho Lân - một
tay chân tin cẩn nhất - đi chiêu mộ các danh sĩ Bắc Hà. Trong truyện Quan âm chỉ lộ,
Nguyễn Huy Thiệp lại để cho các nhân vật của mình bàn luận về văn chương với nhau.
Anh Lai - vụ trưởng một vụ, trong một cuộc chuyện trò chuyện với một nhà văn đàn em
đã nói: “Chú là ai? Tại sao chú lại viết ra những thứ làm cho người ta dằn vặt lòng mình?
Chú có quyền gì? Ai cho chú cái quyền năng ấy? Tư cách chú tôi gạt sang một bên. Tôi
không hiểu vì sao mọi người lại vị nể một người như chú? Ở chú có phẩm chất gì? Cao
thượng ư? Không phải! Nghiêm cẩn ư? Cũng không phải nốt. Tôi chỉ nhận ra ở chú dục
vọng hão huyền và khả năng đánh thức cái dục vọng ghê gớm ấy ở mỗi người. Điều đó là
tốt ư? Không phải? Xấu ư? Không phải! Từ bản chất tôi vừa căm ghét vừa sợ hãi, cảm
phục những người như chú”. Trong mạch đối thoại mà người đọc ngỡ như đang xem một
lời độc thoại, hay nói đúng hơn, đoạn văn trên là sự đối thoại của nhân vật với chính
mình. Hầu như tất cả mọi vấn đề được nêu ra đều tồn tại ở dạng câu hỏi. Hỏi nhà văn,
nhưng chính anh Lai lại trả lời. Và qua những lời anh Lai nói, người đọc có thể hiểu: văn
chương là thứ có thể làm ta “dằn vặt”, không những vậy, nó còn “có khả năng đánh thức
cái dục vọng ghê gớm ở mỗi người”. Vậy điều đó tốt hay xấu? Nên hay không? Chính
anh Lai hay chính chúng ta cũng sẽ phải hoài nghi. Phải chăng vai trò của văn chương
đang nằm trong một ranh giới rất mỏng manh giữa nhân văn và giả dối, giữa việc nói lên
sự thật và thoá mạ con người.
Xen lẫn với những lời phát biểu của các nhân vật về văn chương là những lời tác giả
xen vào câu chuyện, như một thứ “trữ tình ngoại đề”. Cuối truyện Kiếm sắc, Nguyễn Huy
Thiệp không kìm được, đã nói chõ vào: “công việc viết văn vốn rất nhọc nhằn, phức tạp,
8
lại buồn tẻ nữa”. Câu nói ấy cho thấy Nguyễn Huy Thiệp ý thức sâu sắc về nghề văn, và
ông thường xuyên tự vấn. Vì thế, mỗi trang viết của ông như một sự trăn đi trở lại, như
một sự dằn vặt chính mình: “Ở trường đại học tôi đã thuyết giảng về sự vô minh của con
người và thế giới, lòng khao khát của cá nhân tôi với cuộc sống mà thượng đế đã ban cho.
Giờ nhớ lại những điều tôi nói hôm ấy thật xa xỉ và phù phiếm, thậm chí dối trá” (Quan
âm chỉ lộ). Từng mang khuôn mặt của một kẻ kiêu ngạo, cô đơn, Nguyễn Huy Thiệp đã ý
thức được nỗi cô đơn tột cùng trong sáng tạo. Viết văn không chỉ là một công việc khiến
nhà văn đối mặt với sự nhàm chán, “buồn tẻ” mà còn hơn thế nữa. Trong truyện ngắn
Giọt máu, ông đã từng thốt lên đau đớn: “thằng bé mơ hồ hiểu rằng học đòi văn chương
là nó bước vào một cõi mà ở đấy, nó không thể nương tựa vào bất cứ thứ gì, ngoài bản
thân nó”. Không được nương tựa vào bất cứ thứ gì đồng nghĩa với việc nhà văn phải đối
diện với “một khối cô đơn khổng lồ”. Nguyễn Huy Thiệp cô đơn trong sáng tạo, cô đơn
để sáng tạo. Ông chấp nhận sự cô đơn để được là mình.
Chấp nhận cô đơn, dấn thân vào một cuộc “hành xác” tự nguyện, để tìm ra nghĩa lí
của cuộc đời nhưng cũng có lúc chính Nguyễn Huy Thiệp lại chua chát nhận ra sự bất lực
của ngôn từ (một phương tiện đặc thù của văn chương) trước việc thể hiện những nỗi đau
nhân thế:
“Tôi nghĩ về sự đơn giản của ngôn từ
Sự bất lực của hình thức biểu đạt
Mà nỗi nhọc nhằn đầy mặt đất
Sự vô nghĩa trắng trợn đầy mặt đất
Những số phận hiu hắt đầy mặt đất
Bao tháng ngày trôi đi
Bao kiếp người trôi đi
Sự khéo léo của ngôn từ nào kể được.
(Thương nhớ đồng quê)
9
Là một nhà văn chân chính, Nguyễn Huy Thiệp rong ruổi kiếm tìm gần như cả cuộc
đời mình trên cánh đồng chữ nghĩa. Tuy vậy, ít khi ông đưa ra những phát biểu có tính
chất rạch ròi. Dưới đây là một trong số những định nghĩa hiếm hoi và khác thường của
Nguyễn Huy Thiệp: “Văn chương phải bất chấp hết. Ngập trong bùn, sục tung lên, thoát
thành bướm và hoa. Đó là chí thánh” (Giọt máu). Với lời phát biểu này, nhiều người đã
phê phán Nguyễn Huy Thiệp, cho rằng ông đã mất đi cái tâm của một người cầm bút, đã
nhẫn tâm nhấn văn chương – một thứ vốn được coi là rất cao quý, đẹp đẽ – xuống bùn.
Nhưng, hơn bao giờ hết, với quan niệm ấy, Nguyễn Huy Thiệp đã thực sự dấn thân, đã
bất chấp hết, không chỉ “ngập” trong bùn ông còn còn “sục tung” thứ bùn đen ấy lên để
tìm ra nghĩa lí của cuộc đời. Từ “bùn” chuyển thành “bướm và hoa” là một sự lột xác đầy
phiêu lưu, mạo hiểm. Nguyễn Huy Thiệp đã tự nguyện chấp nhận sự thực đau đớn này để
làm tròn thiên chức cao cả của một người cầm bút có lương tâm và trách nhiệm.
Như vậy, những quan niệm về văn chương trên trang viết Nguyễn Huy Thiệp, dù
được kí thác qua phát ngôn của nhân vật, hay là chính những phát ngôn trực tiếp của tác
giả, dù bề ngoài có vẻ thiếu nhất quán thì sâu bên trong mạch nguồn của nó vẫn có sự
thống nhất. Văn chương mà Nguyễn Huy Thiệp đã lựa chọn là thứ văn chương dấn thân.
Và đến với thứ văn chương đặc biệt này người đọc cũng rất cần có những ứng xử tương
đồng.
1.2. Khái niệm về bi kịch
Bi kịch: Là những xung đột, mâu thuẫn, kịch tính giữa các nhân vật, sự việc có kết
thúc bi thảm.(Theo Từ điển Tiếng Việt – Hoàng Phê)
Bi kịch con người: Là nỗi đau xót xa của con người khi rơi vào hoàn cảnh éo le, trớ
trêu mà trong đó con người không thể thoát khỏi thực tại, phải đối diện chiến đấu với bi
kịch cuộc sống thường dẫn đến một kết thúc bi thảm.
2. Nội dung bi kịch con người trong truyện ngắn Nguyễn Huy Thiệp
2.1. Bi kịch con người với tình yêu và hạnh phúc
10
2.1.1. Bi kịch của con người với tình yêu
Trong văn học Việt Nam, chủ đề tình yêu và hạnh phúc luôn được khai thác triệt để
với nhiều tác phẩm giá trị để lại ấn tượng sâu sắc. Đến với truyện ngắn của Nguyễn Huy
Thiệp, ông khai thác chủ đề về tình yêu và hạnh phúc rất khác trên bình diện hiện thực
với nhiều những xung đột thể hiện sâu sắc nội tâm con người.
Hạnh phúc là một trạng thái cảm xúc của con người khi được thỏa mãn một nhu cầu
nào đó mang tính trừu tượng. Hạnh phúc là một cảm xúc bậc cao, được cho rằng chỉ có ở
loài người, nó mang tính nhân bản sâu sắc và thường chịu tác động của lý trí. Rất nhiều
người dùng cả một đời phiêu bạt, một đời lao lực, một đời chờ đợi, một đời ngóng trông
để theo đuổi hạnh phúc. Cuối cùng lại không biết được hạnh phúc rốt cuộc là gì, chứ
đừng nói đến chuyện có được hạnh phúc. Thật ra hạnh phúc là điều vô cùng đơn giản, có
thể nói là chỉ cần vươn tay ra là nắm bắt được. Bởi vì hạnh phúc không phải nằm ở tiền
bạc có được, cũng không phải nằm ở quyền lợi đạt được; mà là một loại khoan dung, một
loại ung dung tự được. Là người ai cũng muốn sung sướng hạnh phúc, nhưng hạnh phúc
là gì thì khó mà trả lời chính xác vì nó tùy quan niệm và trình độ tiến hóa của mỗi người.
Đối với người nghèo thì tiền của là hạnh phúc. Đang đói mà có cơm ăn là hạnh phúc. Cô
đơn mà có người thương là hạnh phúc. Đối với đa số quần chúng thì hạnh phúc là thỏa
mãn những nhu cầu vật chất, thể xác như ăn uống, tình dục, vợ đẹp con ngoan, nhà cửa
tài sản. Sau khi đạt được những nhu cầu vật chất thì hạnh phúc là thỏa mãn nhu cầu danh
vọng, địa vị, quyền hành. Trên phương diện tương đối ta có thể định nghĩa hạnh phúc là
khi những nhu cầu thèm khát được thỏa mãn. Nhưng sự thèm khát của con người không
bao giờ chấm dứt. Khi chưa có thì thèm muốn có, khi có rồi thì sợ mất, hoặc nếu không
thì lại thèm muốn cái khác. Do đó cái hạnh phúc mà người thế gian theo đuổi chỉ là một
ảo tưởng, tưởng nắm bắt được nhưng trong thoáng giây nó lại tuột mất và phải chạy đi
tìm nữa.
11
Trong truyện ngắn của Nguyễn Huy Thiệp, các nhân vật đều hướng đi tìm hạnh phúc.
Cũng có những hạnh phúc giản dị như khát khao ăn bữa cơm gia đình, sống trong tình
yêu, hay cũng có những hạnh phúc như vươn tới những giá trị vật chất dù kết quả lại kết
quả lại không mấy tốt đẹp. Bi kịch của con người trong truyện ngắn của Nguyễn Huy
Thiệp là theo đuổi hạnh phúc, nhưng hạnh phúc ấy trở nên vô nghĩa bởi tâm hồn và đạo
đức con người bị thoái hóa với những mưu mô, tính toán để mang lại lợi ích cho mình
Trong truyện ngắn của Nguyễn Huy Thiệp, các nhân vật đều hướng đi tìm hạnh phúc.
Cũng có những hạnh phúc giản dị như khát khao ăn bữa cơm gia đình, sống trong tình
yêu, hay cũng có những hạnh phúc như vươn tới những giá trị vật chất dù kết quả lại kết
quả lại không mấy tốt đẹp. Bi kịch của con người trong truyện ngắn của Nguyễn Huy
Thiệp là theo đuổi hạnh phúc, nhưng hạnh phúc ấy trở nên vô nghĩa bởi tâm hồn và đạo
đức con người bị thoái hóa với những mưu mô, tính toán để mang lại lợi ích cho mình.
Nàng Bua trong Những ngọn gió Hua Tát của Nguyễn Huy Thiệp nàng Bua trở
thành “người giàu nhất bản, nhất Mường” từ sau khi ngẫu nhiên đào được một chum đầy
vàng bạc. Nàng trở thành người đàn bà hạnh phúc “khi lấy một người thợ săn hiền lành,
góa bụa và không con cái”. Nhưng sự giàu có ấy đã không mang lại cho nàng hạnh phúc
trọn vẹn. Nàng đã chết khi trở dạ đẻ giữa “đống chăn mềm ấm áp”. Từ đó nhà văn muốn
bộc lộ quan niệm về một thế giới đa chiều. Nếu như ở giai đoạn trước, thế giới được nhìn
nhận với con mắt lạc quan đầy tin tưởng, con người luôn tin vào ý chí, sức mạnh và
những quy luật đã chiếm lĩnh được, thì giờ đây, con người nhận ra rằng, thế giới vẫn
mang trong mình nó nhiều điều bí ẩn, và đầy bất trắc. Những điều đó thuộc về cái ngẫu
nhiên. Nó là một khả năng có thể đem lại cho con người niềm vui, hạnh phúc nhưng cũng
có khi lại là nỗi đau, là niềm bất hạnh.
2.1.2. Bi kịch của con người với tình yêu
Tình yêu luôn được văn học ca ngợi là lãng mạn và trong sáng nhưng trong truyện
ngắn của Nguyễn Huy Thiệp, tình yêu trở nên nhếch nhác, là một công cụ để con người
12
lợi dụng, lừa lọc lẫn nhau. Tình yêu trở thành thứ xa xỉ, người muốn có không thể có,
người có trong tay sẵn sang đánh đổi để tìm kiếm thứ cao sang hơn. Những mối tình
trong truyện ngắn vừa chớm nở đã vụt tắt bởi lòng tham và những uẩn khúc từ trong
chính tâm hồn của con người. Họ kiếm tìm hạnh phúc và tình yêu, nhưng hạnh phúc ấy là
tiền bạc, là địa vị, là thứ danh hão. Họ kiếm tìm tình yêu nhưng đó là thứ tình yêu mang
danh để thỏa mãn dục vọng, thỏa mãn niềm vui khoái lạc mà quên đi giá trị đích thực của
tình yêu. Con người trong truyện ngắn của Nguyễn Huy Thiệp cứ luẩn quẩn quanh cái
vòng vây mà họ vẽ ra, ở đó cuối cùng thứ tình yêu và hạnh phúc lại không có được.
Bi kịch tình yêu bắt đầu từ sự xa cách về khoảng cách địa lí và tâm hồn con người.
Trong câu chuyện Đừng khóc ở California, tình cảm của hai nhân vật anh và em bị chia
cách bởi khoảng cách địa lí: “anh ngồi đây, bây giờ anh ngồi đây một mình. Bây giờ anh
bơ vơ quá. Bây giờ thì cô cách xa anh cả nửa vòng trái đất. Xa quá, xa lắc xa lơ…”. Hai
nhân vật ở quá xa nhau, khoảng cách địa lí, văn hóa khiến họ từ người quen trở thành lạ
lẫm. Có một thứ đưa người ta cách xa nhau hơn là khỏang cách trong tâm hồn. Những
trái tim yêu thương từ quen thành lạ khiến bản thân nhân vật “Anh” đau xót khôn nguôi:
“Mà em…Tôi ở xa đến, một nơi rất xa, cô không hiểu xa đến thế nào đâu…như từ kí
ức…Tôi nhầm, chắc chắn thế…” cả câu truyện là nỗi dằn vạt của nhân vật anh, như một
sự oán trách về số phận. Sâu xa hơn khi nói về tình yêu, tác giả còn muốn đề cập đến sự
xa cách về văn hóa, giữa một đất nước còn nghèo nàn lạc hậu và một đất nước tư bản
phát triển. Tất cả đều khác nhau về suy nghĩ, về văn hóa, về ứng xử. Nhân vật anh ý thức
được điều đó nhưng tinh thần tự tôn của dân tộc khiến “anh” yêu quê hương hơn và
thương cảm cho em khi phải khóc giữa California bởi “những bất hạnh trong số phận em
cũng là những bất hạnh trong số phận anh”.
Bi kịch tình yêu, hạnh phúc còn bắt nguồn từ sự lợi dụng để thỏa mãn dục vọng.
Trong chuyến sang đò đó, những mảnh đời với đầy đủ những tầng lớp trong xã hội được
khắc họa rõ nét. Những ô uế, những hỗn tạp của các nhân vật đại diện cho những lớp
13
người trong xã hội lúc bấy giờ được tác giả thể hiện đậm nét. Có nhà phê bình đã nói
thực sự chỉ một chuyến đò sang sông nhưng Nguyễn Huy Thiệp đã nói lên cả một xã hội.
Trong truyện Sang sông, “Mọi người trên đò lặng ngắt. Chẳng ai ưa lối trò chuyện này.
Chỉ có cặp tình nhân không chú ý gì Chàng trai luồn bốn ngón tay qua lần chun quần cô
gái. Cô gái định làm một cử chỉ cưỡng lại nhưng sợ mọi người chú ý nên lại ngồi im.”.
Trước những cám dỗ của dục vọng, cặp tình nhân bất chấp tất cả những người ngồi trên
con đò bé xíu để dở trò. Sự ham muốn dục vọng thân xác khiến cho họ bị những cái nhìn
suy xét, đặc biệt là thiếu phụ ngồi cùng khiến bà phải mở miệng mắng “Thiếu phụ nhìn
sâu vào mắt cô gái rủa thầm: - Đồ đĩ!”. Trong truyện ngắn Không có vua, nhân vật Đoài
thể hiện dục vọng thấp hèn khi hắn gạ gẫm cả người chị dâu là Sinh: “Đoài bảo: "Đây
chẳng sợ". Nói rồi xán lại, hôn chút lên má Sinh. Sinh đẩy ra, Đoài hổn hển: "Tôi nói
trước, thế nào tôi cũng ngủ được với Sinh một lần". Nói xong đi ra, Sinh bật khóc.”. Dù
làm một nhân viên công chức có học thức nhưng hắn lại thể hiện những suy nghĩ xấu xa,
khó có thể chấp nhận. Hay trong truyện huyền thoại phố phường, Hạnh là nhân vật có
xuất thân nghèo khố. Chính vì lẽ đó, y tìm mọi cách kể cả gạ gẫm bà Thiều mẹ của hạnh
để có cơ hội đổi đời: Đây là cơ hội giúp mình thoát khỏi cảnh nghèo. "Dứt khoát... Hạnh nghĩ. - Ta phải lập tức trở thành tình nhân của mụ dù bằng mọi giá[…]. Dục vọng
trỗi lên thành một động tác bất cẩn: chiếc khuy bấm nơi ngực áo tuột ra. Hạnh chồm hẳn
dậy và xô người đàn bà ngã xuống đi văng”. Hạnh cần tiền để có cuộc sống giàu sang, bà
Thiều tuy tuổi xế chiều những không vượt qua được dục vọng tầm thường.
Trong truyện Truyện tình một đêm mưa, Bạc Kỳ Sinh và Muôn có một câu chuyện
tình thật đẹp ở mảnh đất núi rừng Tây Bắc:
“Chăn đệm mới thơm tho
Bên cạnh em có anh
Em muốn anh ở bên cạnh em
Đấy là mơ ước của em.”
14
Nhưng tình cảm ấy không kéo dài được lâu bởi những biến cố. Người ta những tưởng
là sẽ bắt gặp một mối tình đẹp, nhưng không, cuối cùng, Muôn đã bỏ cuộc, bỏ Bạc Kỳ
Sinh, người nàng yêu tha thiết để lấy Lò Văn Ngân, kẻ thù của người yêu cũ nhưng lại là
người có tiền và có thế lực đủ để bảo đảm cho nàng một cuộc sống êm ấm. Bạc Kỳ Sinh
ra đi, trôi giạt đến tận Hoa Kỳ, với một kinh nghiệm đau đớn: Tình yêu là "một hung
thần". Câu chuyện tình qua nhân vật tôi, khiến nhân vật tôi trở nên xót xa: “Tôi mơ hồ
thấy một nỗi thương cảm xót xa. Tại sao lại phải dày vò mình, phải dày vò nhau như thế?
Hồi ấy tôi còn trẻ tuổi, tôi chưa nếm trải vị ngọt cũng như vị đắng tình yêu. ôi tình yêu!
Sau này tôi mới biết đấy là thế nào! Bạn trẻ, bạn hãy yêu đi! Nó sẽ làm cho bạn hóa rồ
hóa dại, nó sẽ làm cho bạn tốt lên hoặc xấu đi thì tôi cũng chẳng biết nữa nhưng tôi biết
chắc chắn đó là một điều tuyệt vời nhất trên đời, đó là thứ giá trị nhất trong mọi thứ giá
trị mà Thượng đế ban cho con người. Bạn trẻ! Bạn đừng tin những kẻ nói với bạn rằng
tình yêu là sai lầm! Không có tình yêu sai lầm...Đấy là những kẻ ghen tị với tình yêu,
những kẻ không có cơ hội để có tình yêu, vu khống, xúc xiểm tình yêu...” tác giả tin vào
tình yêu, nhưng không tin những kẻ mang danh tình yêu để vu khống tình yêu chính là sự
sai lầm. Phải chăng Nguyễn Huy Thiệp đã nhận ra góc khuất trong thứ tính cảm mà
người ta vẫn coi là thiêng liêng nhất. Người mang danh tình yêu nhưng thực chất lại dùng
tình yêu để thỏa mãn tâm hồn và phục vụ cho những mong muốn cao hơn.
Trong truyện ngắn của Nguyễn Huy Thiệp, những mối tình dở dang bởi rất nhiều
nguyên nhân, mà nguyên nhân chính là sự tha hóa về đạo đức và cả tâm hồn con người.
Muôn hy sinh tình yêu để ở người cho cô cuộc sống êm ấm, hay như nhân vật cô Diệu
trong truyện ngắn Cún. Diệu đồng ý hiến thân cho Cún để lấy chiếc nhẫn; sau khi ăn nằm
với nhau, cô đẩy Cún ra vỉa hè với câu tuyên bố “Thế là chẳng có nợ nần gì nhé”. Tình
yêu của Cún dành cho cô Diệu lớn như vậy những với diệu, Cún chỉ là một tên hình nhân
mặt đẹp và lợi dụng để lấy số vàng Cún có.
15
Thái độ ngờ vực đối với tình yêu của Nguyễn Huy Thiệp thể hiện rõ rệt nhất có lẽ là
trong truyện Trương Chi, ở đó, ông viết: “Trong truyện cổ, người ta kể rằng khi hát xong
câu hát cuối cùng:
“Kiếp này đã dở dang nhau
Thì xin kiếp khác duyên sau lại lành.”
“Trương Chi đã nhảy xuống sông tự trầm. Hồn chàng nhập vào thân cây bạch đàn.
Người ta lấy gỗ bạch đàn tiện thành bộ chén tiến vua. Mỵ Nương rót nước, nhìn thấy
hình ảnh Trương Chi trong chén. Giọt nước mắt nàng lăn xuống, cái chén bạch đàn vỡ
tan. Tôi - người viết truyện ngắn này - căm ghét sâu sắc cái kết thúc truyền thống ấy.
Quả thực, cái kết thúc ấy là tuyệt diệu và cảm động, trí tuệ dân gian đã nhọc lòng làm hết
sức mình. Còn tôi, tôi có cách kết thúc khác. Đấy là bí mật của riêng tôi. Tôi biết giây
phút rốt đời Trương Chi cũng sẽ văng tục. Nhưng đấy không phải là lỗi ở chàng. Cách
kết thúc riêng của Nguyễn Huy Thiệp là ông đã cho Trương Chi ra "đứng ở đầu mũi
thuyền. Chàng trật quần ra đái vọt xuống dòng sông. Phía xa kia là chân trời rực hồng
ráng đỏ. Nhà nàng ở phía ấy." rồi chàng gào lên: "Cứt!" Một lần. "Cứt!" Hai lần. "Cứt!"
Ba lần.”
Như thế, một câu chuyện tình vốn được xem là đẹp và rất đỗi thơ mộng trong truyền
thuyết Việt Nam, dưới ngòi bút của Nguyễn Huy Thiệp, bỗng dưng đầy những cay đắng,
những phẫn hận, những tức tối. Nó không còn là tình yêu nữa. Nó là một sự vỡ mộng về
tình yêu.
2.2. Bi kịch con người gắn với nhân phẩm
Bước vào giai đoạn mới với công cuộc đổi mới , kinh tế nước ta từng bước chuyển
sang nền kinh tế thị trường , văn hóa cũng có điều kiện giao lưu tiếp xúc với nhiều nền
văn hóa trên thế giới. Đó là niềm vui cho cả đất nước. Nhưng đi cùng với sự phát triển có
điều đáng buồn đó là nhân phẩm của một số người trong xã hội đang càng ngày đi xuống.
Những nhà văn đã nhìn thẳng vào hiện thực đời sống để khám phá con người trong mối
16
quan hệ đa dạng và phức tạp được thể hiện ở nhiều phương diện của đời sống. Một trong
những tác giả nổi bật trong giai đoạn này là Nguyễn Huy Thiệp, ông đã dùng ngòi bút
của mình đi vào những góc khuất đang lẻn lỏi trong đời sống để vẽ nên bức tranh cuộc
sống đời thường.
2.2.1. Nhân phẩm con người bị tha hóa bởi đồng tiền
Trong truyện ngắn của Nguyễn Huy Thiệp vì đồng tiền mà người ta nhẫn tâm, lạnh
lùng trước nỗi đau của người thân. Ta có thể thấy điều này trong các tác phẩm sau:
Đầu tiên là truyện Tướng về hưu thể hiện qua nhân vật Thủy là một người với một
lối sống thực dụng. Thủy làm việc ở bệnh viện sản, công việc là nạo phá thai. Một công
việc nghe qua có gì đó để lại ấn tượng và cảm xúc “hơi rợn người”. Hành động mang
những nhau thai nhi bỏ về bỏ vào máy xay xát, nấu cho chó ăn, qua thời gian đó là một
điều bình thường mà chính chồng cô đã nghĩ là như vậy. Khi “Cha tôi dắt tôi xuống bếp,
chỉ vào nồi cám, trong đó có các mẩu thai nhi bé xíu có cả những ngón tay nhỏ hồng
hồng”. Tôi lặng đi. Cha tôi khóc…Vợ tôi đi vào nói với ông Cơ: Sao không cho vào máy
xát? Sao để ông biết?”. Nhân vật Thuấn đã khóc trước việc làm và hành động của Thủy
chính đồng tiền hay ở đây nói cách khác là lợi ích của việc làm đó mang lại cho Thủy
một khoản thu khá lớn, giúp Thủy có thể cân bằng những khoản thu chi cho mọi người
trong nhà và một ông bố mới về hưu. Lương tâm con người đã bị đồng tiền làm cho mờ
mắt, hay lương tâm con người ta giờ không có “răng” nữa, nó không còn làm họ đau để
nhận ra và ý thức việc làm của mình nữa? một công việc và hành động đúng nghĩa là
đang hủy diệt sự sống của những đứa bé trong khi nó chưa được làm người. Banzắc từng
nói “ Khi túi tiền phình ra thì trái tim bị teo lại”. Chính tâm lý vụ lợi, thực dụng đã khiến
con người đánh mất lương tri. Viết về kiểu người này, Nguyễn Huy Thiệp đã “ lột truồng
con người ra và phơi bày toàn bộ sự đớn hèn của nó”. Trong đám tang mẹ thì tính toán
với chú Bổng “em nghe hết rồi, em tính ba chục mâm, tám trăm đồng một mâm, ba
tám hai tư. Hai nghìn tư, phụ phí sáu nghìn. Việc mua bán em lo. Cỗ giao cho cô Lài”.
17
Tất cả những việc làm, tư tưởng, lời nói của Thủy đã ảnh hưởng đến tâm hồn trẻ thơnhững đứa con của Thủy “ Đời người cần không biết bao nhiêu tiền, chết cũng cần tiền”.
Điều cần giáo dục và ăn sâu vào một đức trẻ không phải là những bài học đạo đức đối
nhân xử thế, nhân phẩm của một con người mà lại là một yếu tố thực dụng của nền kinh
tế thị trường đang chạy đua theo thời đại. con người chỉ quan tâm đến những đáp ứng đầy
đủ những nhu cầu đủ cho cuộc sống của họ như: ăn, mặc, ở, đi lại,..Tất cả đều cần có tiền
nhưng điều quan trọng trong hành trình của một đời người khi đã đi qua có phải chỉ như
thế? Ngoài điều đó ra, thì con người cần có nhân phẩm- sự phát triển nội tại bên trong của
một con người đang một ngày theo hướng thiện.
Tiếp theo là truyện Không có vua, đồng tiền trở thành chìa khóa vạn năng chi phối
mọi mối quan hệ trong một gia đình có đủ mọi tầng lớp xã hội: công chức, cắt tóc, sinh
viên, làm ở lò giết mổ, một người thiểu năng và vá xe. Ở đây ta bắt gặp những cách cư xử
khác nhau của những người có ăn học, những người lao động chân tay và cả những nghề
bình thường nhất trong đời sống trong một gia đình tưởng là truyền thống, có giáo dục
hai, ba đời. Nhân phẩm dường như không còn có chỗ “ngự trị” trong gia đình ông Kiền
nữa. Mà chỉ còn là những sự tính toán hơn thua cho gia đình trong từng khoản đóng góp
tiền ăn, giỗ mẹ, khi bố bệnh phải vào viện. Tồn tệ hơn nữa là con cái biểu quyết bố chết,
anh chị em tranh giành tài sản, mọi mâu thuẫn, xung đột được giải quyết bằng bạo lực.
Đến đây, tôi thấy sự “khôn ngoan và văn hóa” không phải là sự tiến bộ nhờ học tập và
tích lũy kinh nghiệm”, mà nó được tràn ngặp bởi sự tính toán cho riêng mình, sự ích kỉ và
đặc biệt là tiền làm cho họ sẵn sàng đấu đá với nhau trong gia đình.
Câu chuyện về cô Diệu trong truyện Cún, cho ta bắt gặp một con người bán rẻ chính
bản thân mình cho một con người dị dạng. Trước hết Nguyễn Huy Thiệp thể hiện tình
cảm của mình đối với những nhân vật có ố phận bất hạnh. Tình cảm ấy không thể hiện
qua những câu chữ tràn đầy tình yêu mà nó chứa đựng trong chiều sâu tư tưởng của tác
giả. Bên cạnh những con người bình thường về nhân dạng, tỉnh táo về đầu óc nhưng lại
18
khiếm khuyết về nhân cách là những nhân vật nhỏ bé, tật nguyền nhưng lại sức sống
mạnh mẽ, giàu tình cảm và lòng yêu thương đối với đồng loại mình. Trong xã hội, những
kiểu loại người này không được tôn trọng, đôi khi bị bạc đãi nếu có thì phải chăng chỉ là
lòng thương hại dành cho họ. Qua cái tên cô Diệu gọi Cún là “Thằng hình nhân mặt đẹp”
và qua cái cách cô đùa giỡn khi cho Cún một hào “Đúng lúc Cún bật nghiêng người lên
thì Diệu nhảy thụp xuống nhặt đồng hào để nhích sang một hàng gạch bên cạnh” hành
động đó khiến Cún “ đập trán xuống nền gạch, máu trong miệng trào ra”. Cún có khả
năng chịu đựng đói rét vô hạn, trước những khó khăn Cún ngang nhiên đón nhận. Đối với
Cún, ước ao lớn nhất là được trở thành một con người đúng nghĩa.
Cún cảm thấy sung sướng khi làm cô Diệu vui.. Nhưng bất hạnh thay khi Cún lại đem
lòng nhung nhớ đến cô Diệu- người sáng mắt vì những chiếc nhẫn vàng, sẵn sàng mặc cả
làm bất cứ việc gì để có nó. Cô sau lần đổ vỡ, bị chồng lừa hết tài sản thì lại sáng mắt lên
khi trông thấy những chiếc nhẫn trong một cái túi nhỏ trên tay của Cún, cô đã nghĩ ngay
đến việc chiếm đoạt lấy nó và đi đến sự mặc cả có được nó “Mày hãy cho tao ba cái
nhẫn này… Mày muốn gì tao cũng nghe mày…Cô Diệu kéo Cún vật ra giường”. Bất
chấp tất cả mà quên đi những đau khổ của cuộc đời Cún đã trải qua, cứ ngỡ là Cún sẽ
được xoa dịu những đau khổ của cuộc đời “cảm thấy bao nỗi buồn trĩu của cuộc đời Cún
bỗng được trút hết cả đi, khuây khỏa lạ lùng” nhưng đó lại là một nỗi đau khổ lớn hơn
đang chờ đợi Cún ở phía trước.
Còn câu chuyện của nhân vật Hạnh cũng làm nổi bật một kiểu người làm tất cả mọi
thứ kể cả những việc đốn mạt nhất để đổi lấy tờ vé số thần thánh. Nhìn thẳng vào sự thật,
Nguyễn Huy Thiệp vạch trần tâm lý thực dụng, vụ lợi một cách trắng trợn của con người.
Nhân vật Hạnh trong Huyền thoại phố phường để tạo được sự tin cậy của gia đình bà
Thiều đã không ngần ngại “ xắn tay áo rồi đưa tay mò dọc theo cái rãnh đầy bùn, lõng
bõng nước bẩn, thậm chí còn có cả cục phân người”. Trơ tráo hơn là Hạnh sẵn sàng làm
những điều dơ bẩn, đê tiện với bà Thiều để đổi lấy tờ vé số thần thánh được đổi bằng bảy
19
trăm nghìn tiền âm phủ, được đặt trên tay tượng thần đồng đen. Một con người luôn thèm
muốn vật chất, hào quang, những đam mê thấp hèn mà chấp nhận đánh đổi mọi thứ đạp
lên đạo đức, đánh “rớt” nhân phẩm của một con người để đạt được những nhu cầu, ham
muốn của cá nhân mình.
Những cái trớ trêu thường hiện diện trong truyện ngắn của nhà văn Nguyễn Huy
Thiệp. Với tài hoa đặc biệt của một nhà văn có thực tài, ông đã thoát ra ngoài những
chuẩn mực đạo đức, luân lý thông thường để xác định diện mạo thật của cuộc sống, ông
dám nhìn thẳng vào hiện thực lên án, phê phán những con người đang đánh mất nhân
phẩm của phần người. Cuộc sống không chỉ là một bức tranh đẹp màu hồng mà nó là một
tổng hợp của mọi màu sắc, nơi đó có cái ác- thiên, tốt- xấu,... Ở đó có những con người
ích kỉ, toan tính, vụ lợi, dối trá, đểu cáng. Hay viết về kiểu người đê tiện, thực dụng. Đây
là kiểu nhân vật bị thoái hóa về nhân cách, bị vấy bẩn về tâm hồn, sống lạnh lùng, vô cảm
và tàn nhẫn. Họ lấy đồng tiền, lấy quan hệ vật chất làm thước đo cho mọi giá trị đạo đức.
Họ tham lam, ích kỉ, thực dụng một cách tỉnh táo và vụ lợi một cách bỉ ổi.
2.2.2. Sự xuống cấp của đạo đức về các giá trị truyền thống
Truyện ngắn “Không có vua” đã lột tả thành công một gia đình với tôn ti trật tự xã
hội bị phá vỡ. Gia đình lão Kiền trong “ Không có vua” là một thế giới thu nhỏ của một
xã hồi nhỏ, nơi đây không còn trật tự tôn ti. Mọi chuẩn mực truyền thống của một gia
đình Việt dường như bị triệt tiêu hoàn toàn khi lão Kiền – bố chồng bắt ghế lén xem con
dâu tắm, lại hoàn toàn thản nhiên trước mâu thuẫn của các con “ Chúng mày giết nhau đi,
ông càng mừng”, khi Đoài – em chồng buông những lời nói , hành động không đứng đắn,
để đùa với chị dâu, đòi ngủ với chị dâu, ghen cả với bố. Người đọc cứ rờn rợn trước cái
lối biểu quyết bố chết của Đoài: “ Ai đồng ý bố chết giơ tay, tôi biểu quyết nhé” và câu
nói “Tôi nghĩ bố gìa rồi mổ cũng thế, cứ để chết đi là hơn”. Sự sa đọa về phẩm chất đã
đẩy con người đến chỗ đốn mạt, không còn có một chút hiếu thảo đối với người đã sinh
và nuôi dạy mình. “ Không có vua” như một tiếng chuông cảnh tỉnh cho sự xuống cấp
20
trầm trọng của đạo đức con người. Trong một gia đình được gọi là có truyền thống giáo
dục phủ bên ngoài. Cha nhìn con dâu tắm “Đi vài bước lão Kiền quay lại vào bếp, bắc
chiếc ghế đẩu, trèo lên nín thở ngó sang buồng tắm. Trong buồng tắm, Sinh đứng khỏa
thân”. Em chồng tán tỉnh đòi ngủ với chị dâu “nhất định sẽ ngủ với Sinh một đem”. Anh
em tính toán với nhau từng khoản chi, đóng góp trong gia đình đặc biệt khi bố ốm Cấn
“Giở sổ kế toán ra đọc: Chú Khiêm đưa một lần một nghìn, một lần tám nghìn, một lần
năm nghìn. Chú Đoài đưa một lần một trăm, một lần sáu chục, một lần một nghìn mốt.
Chú Khảm đưa một lần ba trăm nhưng hôm tôi đưa một nghìn đi lấy thuốc ông lang Toại,
chsu Khảm mua hết có năm trăm, còn năm trăm vẫn cầm”. Chỉ để thỏa mãn những nhu
cầu, lối sống thực dụng cho cá nhân mình mà thôi. Lòng ích kỉ, ganh ghét, thù hằn hơn
thua trong gia đình khi nguời này kiếm được nhiều tiền hơn người kia kiếm ít tiền, cùng
với cái tôi cá nhân hẹp hòi, tự ái làm cho con ngưởi cả những lớp trí thức đang từng ngày
“thoái hóa” về nhân cách trong cách cư xử với mọi người trong gia đình, trong các mối
quan hệ ngoài xã hội.
Và câu chuyện Sang sông cũng cho chúng ta những cái nhìn khác về những tầng lớp
nhà thơ, nhà sư, người buôn đồ, tên cướp,… Không ai dám ngăn cản kẻ ác, chỉ có tên
cướp dám “lấy cây côn trên tay bổ mạnh vào miệng chiếc bình”. Nguyễn Huy Thiệp đã
xây dựng lên một thế giới người đa dạng, có người tốt kẻ xấu, có người cao thượng kẻ đê
hèn. Tuy nhiên bản thân mỗi con người không hề đơn giản một chiều mà là một thế giới
đa chiều kích. MiLan Kundra nói: “ Con người là hiển minh của lưỡng lự”. Bên trong
mỗi bản thể nhỏ nhoi ấy bao giờ cũng tồn tại hai mặt đối lập: đẹp - xấu, thiện – ác, cao cả
- thấp hèn, trong sáng – tăm tối, hạnh phúc – khổ đau… Con người có lúc là thần thánh
song cũng có lúc là quỷ dữ. Ai dám bảo một người lương thiện không có lúc suy nghĩ đê
tiện? Ai dám bảo một người độc ác lại không có lúc lấp lánh trong tâm hồn ánh sáng của
thiên lương. Cái thiện luôn hiện diện trong mỗi con người chỉ là bạn có sẵn sàng để nó
được biểu lộ ra bên ngoài hay không? Truyện ngắn Sang sông giúp ta nhìn lại phẩm chất
21
của những con người thuộc tầng lớp trí thức hành xử như thế nào khi mạng sống của con
người bị đe dọa ? Câu nói của tên cướp “ Thôi đi! Trẻ con là tương lai đấy! làm gì cũng
phải nhân đức hàng đầu”. Một tên cướp bỗng lại trở thành “ Anh ấy dám đập vỡ bình!
Thật đúng là anh hùng! Một nhà cách mạng! một nhà cải cách.”. truyện ngắn Sang sông
kể về chuyến đò sang sông có “một nhà sư, một nhà thơ, một nhà giáo, một tên cướp, hai
tên buôn đồ cổ, hai mẹ con, một cặp nhân tình và chị lái đò”. Khi tay đứa bé bị kẹt trong
chiếc bình không lấy ra được, mạng sống của em bị đe họa thì không ai dám ngăn cản.
Nhà thơ thì run làm rớt cả chiếc kính, nhà sư là người theo Phật- mở miệng nói toàn
chuyện đạo đức… nhưng tất cả mọi người chỉ có thể đứng nhìn mà không làm gì hết.
Trong khi đó một tên cướp mà ta hay nghĩ họ là cướp thì làm gì có nhân phẩm, trong
trường hợp này lại làm chúng ta nhìn một hướng khác? Tên cướp dám “lấy cây côn trên
tay bổ mạnh vào miệng chiếc bình”. Chính hành động của tên cướp làm chúng ta phải
suy nghĩ lại các giá trị của nhân phẩm ngày nay như thế nào?
Trong một gia đình bao giờ người đàn ông thường là trụ cột của gia đình. Ông bà ta
có câu “Con có cha như nhà có nóc”, từ bao giờ người cha đã luôn là chỗ dựa, trụ cột cho
gia đình nhỏ của mình. Ông Thuấn trong truyện Tướng về hưu với danh nghĩa là chủ
của một gia đình “cha là tướng, về hưu cha vẫn là tướng. Cha là chỉ huy. Cha mà làm
lính thì dể loạn cờ” nhưng thật sự mọi quyết định trong gia đình đều rơi vào tay người
con dâu. Thủy can thiệp và quyết định tất cả mọi việc trong gia đình. Từ việc kiếm tiền,
chia chỗ ăn ở cho cha mẹ chồng, phân công công việc cho người làm đến tính toán chi li
từng đồng trong đám tang của mẹ. Người bố có thể là tướng dành cả đời cho chiến trường
nhưng lại “thất bại” khi trở veefe với đời sống đời thường. Tôn ti trật tự chỉ là vỏ bọc bên
ngoài, Nguyễn Huy Thiệp nhìn thấy được sự chuyên quyền trong bản chất của người phụ
nữ này. Cô luôn tỏ ra là phận làm dâu trong giao tiếp với cha chồng, nhưng mặt khác lại
là người nắm tài chính và quyết định hầu như mọi thứ trong gia đình này.
22
Người ta còn đau đớn hơn khi biết những con người trẻ có học lại bày ra mưu kế giết
người “khôn khéo” như thế nào? Khi tiếp xúc với những con người coi rẻ mạng sống của
người thân, tìm mọi cách, mọi thủ đoạn để tước đoạt mạng sống của đồng loại. Lời nói
của Phong trong Giọt máu khi bày ra âm mưu giết mẹ Cả khiến người đọc xót xa cho
một nhân cách của một con người bị tha hóa đến tột độ “Phong bảo: “sao con mẹ này
sống dai thế?” Cô Lan bảo: “cho liều thuốc chuột là yên”. Phong bảo: “không cần, cứ
để đói vài ngày”. Nói rồi quay ra bảo bà Cẩm: “Từ hôm nay đừng cho mẹ Cả ăn nữa,
tám mươi hai tuổi rồi, sống làm quái gì?”. Đó không còn là một gia đình nữa, mọi cố
gắng của thế hệ trước kết quả lại sinh ra một nhân cách tồi tàn mất hết tính người. Khi
ông Chiểu luôn mơ ước con mình được học chữ nghĩa, văn chương để biết nhân đức, lẽ
phải, vậy mà con cháu suy “bất nhân bất nghĩa” sớm muộn cũng làm tiêu tan cả dòng họ.
Tác phẩm Nguyễn Huy Thiệp xuất hiện hàng loạt những nghịch lý mà ta không ngờ ở
những tầng lớp trí thức trong xã hội cũng có. Những kẻ trí thức có học thì dâm ô, dối trá,
bịp bợm…Những nghịch lý ấy là sự thật về cái phi lý của cuộc sống và con người. Cuộc
sống không đơn giản mà vô cùng phức tạp với những sự việc xảy ra bên trong nó.
Nguyễn Huy Thiệp đã dùng ngòi bút của mình để khám phá con người với cặp mắt đa
chiều, xoáy sâu vào đời sống nội tâm phức tạp, đa dạng của con người, nhà văn đặt bút và
lên tiếng nói về sự thật giữa con người với những “nỗi đau”, hiện thực đang xảy ra trước
mắt, trong cuộc sống của con người mà suốt thời gian qua họ không để ý đến về chính trị,
đạo đức, văn hóa. Cất lên tiếng nói thành thật ấy, Nguyễn Huy Thiệp mặc dù cũng xót xa,
đau lòng, thương cảm cho những sự thật phũ phàng, tàn nhẫn khi phải viết ra những điều
này. Nhưng đằng sau sự thật đó là sự mong đợi, là một tiếng chuông vang lên như để
cảnh tỉnh con người đã đến lúc họ phải thức tỉnh, hướng con người về chân – thiện – mĩ.
Nguyễn Huy Thiệp với tác phẩm của mình đã “lôi tuột chúng ta từ khoảng trống lơ lửng
giữa trời và đất, buộc ta phải đối mặt với mình, với một thế giới không có vua, dạy chúng
23
ta những bài học nông thôn, bắt chúng ta hiểu rằng trước khi muốn nhìn lên bầu trời thì
phải nhìn mặt đất đã”.
2.3. Bi kịch con người cô đơn
Nếu như trước đây, nỗi cô đơn, sự buồn rầu là một điều ít thấy trong văn chương thì
sau đổi mới, các tác phẩm đi sâu về nội tâm con người, khám phá bộc lộ những tình cảm
con người được khai thác khá nhiều và có thành tựu nổi bật. Người nghệ sĩ đã quan tâm
đến nhu cầu tự ý thức, sự thức tỉnh của cá nhân, đến trạng thái tâm lý của nhân vật mà cô
đơn là một trong những cảm xúc thường thấy. Cô đơn trở thành một “mảnh đất màu mỡ”
để các nhà văn tập trung ngòi bút để thể hiện suy tư, chiêm nghiệm về cuộc sống, để phản
ánh xã hội và lên tiếng cứu vớt con người. Cô đơn không đơn thuần là vấn đề của mỗi
một cá nhân riêng rẽ mà là vấn đề cả xã hội. Cô đơn không phải lúc nào cũng chỉ là một
mình giữa không gian rộng lớn mà lắm khi là ở giữa cả cộng đồng người đấy, đông đúc
đấy, ồn ào đấy mà con người vẫn cảm thấy cô đơn. Vậy bản chất của sự cô đơn ở đây là
gì? Đó chính là khao khát về một cuộc sống đúng nghĩa hơn, không có gì ngoài khát khao
cái đẹp, khát khao về tình người, về cuộc sống.
Với Nguyễn Huy Thiệp, người tạo ra bước ngoặt quan trọng trong tiến trình đổi mới
văn học, đã phát hiện và phản ánh nỗi cô đơn của con người như một sự bi kịch gắn với
những vấn đề cấp thiết của cuộc sống lúc bấy giờ.
2.3.1. Con người cô đơn vì thân hình dị dạng
Điều đáng chú ý đầu tiên khi tiếp xúc với truyện ngắn Nguyễn Huy Thiệp đó chính
là sự khuyết thiếu của nhân vật. Sự khuyết thiếu về nhân cách chính là một sự tha hoá,
còn sự khiếm khuyết về ngoại hình chính là một bi kịch. Và bi kịch này khiến cho họ trở
nên bơ vơ, lạc lõng. Đó chính là nguyên nhân ươm mầm cô đơn của nhân vật Nguyễn
Huy Thiệp. Vì bất hạnh về ngoại hình mà nên nỗi cô đơn.
Đọc Trái tim hổ chúng ta không khỏi ngỡ ngàng trước cái kết thương cảm của hai
nhân vật Khó và Pùa. Cả hai đều dị dạng và cuối cùng đều phải chết. Pua là người con
24
gái đẹp, “da trắng như trứng gà bóc, tóc mượt mà dài, môi như son đỏ”. Nhưng khốn nỗi,
nàng lại bị liệt cả hai chân. Sắc có đẹp đến đâu cũng không thể bù lại cho việc suốt một
đời phải im lìm một chỗ, nhìn sự sống qua khung cửa bên giường. Mười sáu tuổi, độ tuổi
xuân thì phơi phới, khi các nhà có con gái khác luôn nhộn nhịp trai làng lui tới thì riêng
nhà nàng vẫn trống không, bởi chẳng ai muốn lấy một người khiếm khuyết làm vợ. Nàng
trở nên bơ vơ, lạc lõng, nàng cảm thấy bản thân mình đáng nguyền rủa. Nhưng, so với
Khó, nàng may mắn hơn nhiều. Khó là một chàng trai cô đơn với đúng nghĩa của nó. Khó
mồ côi cha mẹ. Anh sống lủi thủi một mình quanh năm suốt tháng, “sống như con don.
Con don, con dim sống thui thủi, đi con đường riêng, ăn uống thế nào không ai biết được.
Khó chẳng bao giờ tham dự những cuộc họp mặt, hội hè của bản”. Chắc hẳn sẽ có người
bảo rằng, đấy chỉ là do lối sống tách biệt mà Khó dựng nên mà thôi. Nhưng, thưa rằng, tất
cả mọi thứ đều có lí do riêng của nó. Khó sống xa cách với mọi người không có nghĩa là
Khó không muốn hoà nhập mà bởi vì anh tự ti về bản thân mình. Trước bao nhiêu người
bình thường, bao nhiêu người đẹp đẽ thì Khó coi sự xuất hiện của mình thật đáng xấu hổ.
Bởi Khó mồ côi, Khó nghèo. Điều đó đâu lấy gì làm quan trọng. Bởi Khó xấu trai. Biết
bao nhiêu người không đẹp vẫn lập gia đình đấy thôi. Lí do lớn nhất đó chính là “Chàng
bị đậu mùa, mặt rỗ chằng chịt người. Khó dị dạng: hai tay dài chấm đầu gối, đôi chân
khẳng khiu, đi lúc nào cũng như chạy”
Đọc truyện của Nguyễn Huy Thiệp, ta thấy rằng hình như nhân vật nào của ông cũng
đang ngụp lặn trong mớ bòng bòng của cuộc sống, đang vất vả tìm cách đối chọi lại với
nỗi cô đơn. Cô đơn ở đâu mà ra? Là từ trong sâu thẳm tiềm thức mong muốn, khát khao
được sống trọn vẹn, được hoà chung với mọi người. Không ai có thể quyết định được số
phận, sự có mặt của mình trên cõi đời. Cún cũng thế. Và Cún cô đơn.
“Hơn chục năm trước, người ta thấy Cún ở một cái cống bên con sông đào ngoại ô
thành phố. Con sông đen ngòm nước thải, đầy rác, giấy vụn và những đám bèo Tây lá
đầy bụo bặm. Cái cống xi-măng vỡ nằm ngang con đường đất nhỏ, hứng gió cả ở bên
25