1
MỤC LỤC
CHƯƠNG I: MỘT SỐ LÍ LUẬN CHUNG VỀ ĐỀ TÀI...........................................................................5
VĂN HÓA VIỆT NAM THỜI NGUYỄN....................................................................................................5
1.1 Triều đại nhà Nguyễn...........................................................................................................................5
1.2 Tôn giáo thời nhà Nguyễn...................................................................................................................6
1.2.1 Nho giáo..........................................................................................................................................6
1.2.2 Phật giáo.........................................................................................................................................7
1.2.3 Đạo giáo..........................................................................................................................................7
1.2.4 Thiên Chúa giáo............................................................................................................................8
1.3 Các di tích và công trình kiến trúc.....................................................................................................8
1.3.1 Quần thể di tích cố đô Huế...........................................................................................................8
1.3.2 Mộc bản triều Nguyễn..................................................................................................................9
1.3.3 Chùa Thiên Mụ..............................................................................................................................9
1.3.4 Lăng các đời vua triều Nguyễn..................................................................................................10
1.3.5 Các di tích khác...........................................................................................................................12
1.4 Các loại hình nghệ thuật....................................................................................................................13
1.4.1 Nghệ thuật điêu khắc..................................................................................................................13
1.4.2 Nhã nhạc Cung đình Huế...........................................................................................................13
1.4.3 Hội họa..........................................................................................................................................14
1.5 Lễ hội...................................................................................................................................................15
1.5.1 Lễ hội cung đình..........................................................................................................................15
1.5.2 Lễ hội dân gian............................................................................................................................17
1.6 Giáo dục, văn học...............................................................................................................................17
1.6.1 Giáo dục.......................................................................................................................................17
1.6.2 Văn học.........................................................................................................................................18
1.7 Ẩm thực...............................................................................................................................................19
CHƯƠNG II..................................................................................................................................................22
KHAI THÁC CÁC GIÁ TRỊ VÀO MỤC ĐÍCH KINH DOANH DU LỊCH.......................................22
2.1 Tầm quan trọng của việc khai thác bản sắc văn hóa trong du lịch..............................................22
2.2 Thực trạng khai thác văn hóa nhà Nguyễn trong kinh doanh du lịch.........................................22
2.2.1 Quần thể di tích cố đô Huế.............................................................................................................22
2.2.2 Một số di tích khác......................................................................................................................24
2.3 Ứng dụng vào thiết kế tour du lịch..................................................................................................25
2
CHƯƠNG III: MỘT SỐ GIẢI PHÁP.......................................................................................................27
3
Lời mở đầu
Theo GS. TSKH Trần Ngọc Thêm: “Văn hóa là một hệ thống hữa cơ các giá trị vật
chất và tinh thần do con người sáng tạo và tích lũy qua quá trình hoạt động thực tiễn
trong sự tương tác giữa con người với môi trường tự nhiên và xã hội của mình.” Trong
lịch sử Việt Nam, chúng ta đã trả qua rất nhiều nền văn hóa khác nhau tương ứng với các
thời đại khác nhau. Một trong những nền văn hóa đặc sắc mà chúng ta không thể không
kể đến đó là đặc sắc văn hóa triều nhà Nguyễn.
Triều Nguyễn là triều đại quân chủ cuối cùng tại Việt Nam, với hơn 100 năm tồn
tại (1802-1945), vương triều Nguyễn đã để lại cho dân tộc những di sản văn hóa vô cùng
phong phú và mang giá trị đặc biệt. Đó cũng là lí do mà nhóm 4 đã được giao đề tài
nghiên cứu về những giá trị văn hóa đặc sắc của Việt Nam thời nhà Nguyễn. Việc nghiên
cứu đề tài sẽ mang lại những lợi ích lớn cả về trước mắt là việc học tốt hơn môn Cơ sở
văn hóa Việt Nam và lâu dài là hành trang khi làm ngành du lịch, khách sạn. Để nghiên
cứu đề tài này, nhóm 3 đã thực hiện bằng những phương pháp như đọc tìm kiếm thông tin
trong các cuốn giáo trình, các quyển sách về văn hóa, các thông tin tìm kiếm trên mạng
cùng vói sự trợ giúp của giảng viên. Kết cấu đề tài được chia thành 3 phần: Cơ sở lí luận
chung, thực trạng và cách giải quyết.
4
CHƯƠNG I: MỘT SỐ LÍ LUẬN CHUNG VỀ ĐỀ TÀI
VĂN HÓA VIỆT NAM THỜI NGUYỄN
1.1 Triều đại nhà Nguyễn
Nhà Nguyễn được thành lập sau khi Nguyễn Ánh lên ngôi năm 1802 và chấm dứt
hoàn toàn khi Hoàng đế Bảo Đại thoái vị vào năm 1945, tổng cộng là 143 năm.
Nhà Nguyễn là triều đại cuối cùng trong lịch sử phong kiến Việt Nam.
Triều Nguyễn trải qua hai giai đoạn chính:
Giai đoạn thứ nhất (1802–1858), được coi là giai đoạn độc lập.
- Năm 1802 Nguyễn Ánh lên ngôi (Gia Long). Nhà Nguyễn thành lập, đóng đô
ở Phú Xuân (Huế).
- Các vua nhà Nguyễn nắm toàn quyền quản lý đất nước, trải qua 4 đời
vua: Gia Long, Minh Mạng, Thiệu Trị, Tự Đức.
- Gia Long và sau đó là Minh Mạng đã cố gắng xây dựng Việt Nam trên nền
tảng Nho giáo và xóa bỏ các cải cách theo hướng tiến bộ của nhà Tây Sơn.
- Trong thời kỳ này, nội bộ đất nước không ổn định, triều Nguyễn ít được lòng
dân, chỉ trong 60 năm đã xảy ra hơn 400 cuộc nổi dậy của người dân.
- Thời kỳ Minh Mạng lại diễn ra nhiều cuộc chiến tranh giành lãnh thổ
ở Campuchia nên đã khiến ngân khố cạn kiệt, đến thời Tự Đức thì mọi mặt
của đất nước đều sút kém đi
- Từ thập niên 1850, một nhóm trí thức Việt Nam, tiêu biểu là Nguyễn Trường
Tộ, đã nhận ra sự trì trệ của đất nước và yêu cầu học hỏi phương Tây để phát
triển công nghiệp – thương mại, cải cách quân sự – ngoại giao, nhưng họ chỉ
là thiểu số. Đa số quan chức triều Nguyễn và giới sĩ phu không ý thức được sự
cần thiết của việc cải cách và mở cửa đất nước nên Tự Đức không quyết tâm
thực hiện những đề xuất này. Việt Nam dần trở nên trì trệ, lạc hậu và đứng
trước nguy cơ bị thực dân châu Âu xâm chiếm.
Giai đoạn thứ hai (1858–1945), được coi là giai đoạn bị Pháp xâm lăng và đô
hộ, kể từ khi quân Pháp đánh Đà Nẵng và kết thúc sau khi hoàng đế Bảo Đại
thoái vị.
- Tháng 8 năm 1858, Hải quân Pháp đổ bộ tấn công vào cảng Đà Nẵng và sau
đó rút vào xâm chiếm Gia Định. Tháng 6 năm 1862, vua Tự Đức ký hiệp ước
cắt nhượng ba tỉnh miền Đông cho Pháp.
- Từ năm 1867 đến năm 1886, Pháp đã xâm chiếm hầu hết Việt Nam qua các
cuộc chiến tại Nam Kì và Bắc Kì. Đến năm 1884 thì nhà Nguyễn chính thức
công nhận quyền cai trị của Pháp trên toàn Việt Nam. Pháp có quyền cai trị,
còn các vua nhà Nguyễn chỉ còn là tượng trưng, quân Pháp có thể tùy ý phế
lập vua Nguyễn
5
-
Đến năm 1884 thì nhà Nguyễn chính thức công nhận quyền cai trị của Pháp
trên toàn Việt Nam. Pháp có quyền cai trị, còn các vua nhà Nguyễn chỉ còn là
tượng trưng, quân Pháp có thể tùy ý phế lập vua Nguyễn.
Về luật pháp
- Năm Tân Mùi 1811, vua Gia Long tổ chức biên soạn bộ luật mới.
- Đến năm Ất Hợi 1815, bộ luật nhà Nguyễn được biên soạn xong và ban hành
với cái tên là Hoàng triều luật lệ, hay Luật Gia Long.
- Bộ luật sao chép hầu như nguyên vẹn bộ luật nhà Thanh đương thời, Luật Gia
Long là một bộ luật hà khắc, phản ánh rõ nét chuyên chế của giai cấp thống trị,
trên bước đường suy vong.
1.2 Tôn giáo thời nhà Nguyễn
1.2.1 Nho giáo
Nho giáo được xem là hệ tư tưởng có ảnh hưởng sâu rộng và lâu dài đến xã hội Việt
Nam, đóng góp to lớn vào việc tổ chức Nhà nước, duy trì trật tự xã hội, phát triển kinh tế,
sáng tác văn học trong các triều đại quân chủ như nhà Lý, nhà Trần, nhà Lê, nhà Nguyễn,
… Sau khi đánh bại triều Tây Sơn, đất nước được thống nhất thì cũng chính là thời kì nhà
Nguyễn củng cố quyền lực không chỉ bằng những biện pháp hành chính mà cả về hệ tư
tưởng mang tính ý thức dựa trên nền tảng của Nho giáo nhằm thiết lập và duy trì trật tự
xã hội. Nhà Nguyễn ra sức chấn hưng Nho giáo và trong các đời Gia Long, Minh Mạng,
Thiệu Trị và Tự Đức, Nho giáo luôn giữ vai trò độc tôn trong xã hội, từ chính trị đến giáo
dục.
Trước hết, nhà Nguyễn đã tiến hành thanh lọc đội ngũ Nho sĩ. Ngay từ quá trình
phát động và chỉ huy các cuộc chiến tranh chống Tây Sơn thì Gia Long đã thông qua các
khoa thi Nho giáo để tuyển chọn những Nho sĩ có thực tài, có khả năng giải quyết các
vấn đề lớn của xã hội lúc bấy giờ. Bên cạnh đó, nhà Nguyễn cũng tiến hành thống nhất
chế độ giáo dục và thi cử Nho giáo chính quy trên phạm vi cả nước, đồng thời sửa đổi hệ
thống học vị vì trước thời Nguyễn nền giáo dục ở Đàng Trong và Đàng Ngoài có sự khác
biệt nên yêu cầu thống nhất chế độ giáo dục là điều tất yếu. Tiếp đó, nhà Nguyễn còn
không ngừng nâng cao hoạt động của hai cơ quan đặc biệt là Quốc Tử Giám và Quốc Sử
Quán.
Song song với việc tiến hành phục hồi Nho giáo, nhà Nguyễn đã chủ trương độc tôn
Nho giáo. Chủ trương này được biểu hiện cụ thể qua ý thức và hoạt động thực tiễn của
các vị vua triều Nguyễn mà điển hình là vua Gia Long, Minh Mạng. Bắt đầu từ vua Gia
Long, vốn rất coi trọng hình luật, vì thế ông đã chỉ thị biên soạn bộ luật của triều Nguyễn
gọi là Hoàng triều luật lệ hay còn gọi là Luật Gia Long. Việc làm luật dựa trên tinh thần
đức trị (một trong những tư tưởng chính trị đề cao của Nho giáo) kết hợp với pháp trị. Và
cũng từ đó thấy được tinh thần nhân đạo của nó.
Khi Việt Nam tiếp xúc với văn minh phương Tây dưới sự bảo hộ của Pháp, nhất là
khi chế độ khoa cử lấy Nho giáo làm trọng tâm bị bãi bỏ thì Nho giáo mất dần ảnh
hưởng, bị lãng quên, thậm chí bị đả kích và loại bỏ ra khỏi chương trình giáo dục.
6
1.2.2 Phật giáo
Triều Nguyễn rất quan tâm đến phát triển cơ sở thờ tự. Nhà Nguyễn đã cho xây
dựng nhiều chùa chiền mới, đồng thời cho tu bổ, trùng tu những ngôi chùa cũ như chùa
Thiên Tôn (Quảng Trị), Tam Thai (Quảng Nam), các chùa trên núi Ngũ Hành Sơn( Đà
Nẵng),… Bên cạnh đó, sự xuất hiện của nhiều văn bia ở chùa cũng đã chứng minh được
là ngoài sự tích cực của triều đình thì việc tu sửa và dựng mới chùa ở các vùng quê cũng
phát triển. Do đó, chùa chiền dưới thời Minh Mạng, nhờ đó mà đã phát triển nhanh
chóng, nhiều ngôi cổ tự có giá trị về mặt văn hóa lịch sử được trùng tu, bảo tồn, tránh
được nguy cơ mai một do những tác động không mong muốn từ thời tiết và con người.
Nhà Nguyễn còn coi trọng nghi lễ Phật giáo. Ngoài việc chu cấp cho việc trùng tu
hoặc tôn tạo chùa chiền thì các Hoàng đế triều Nguyễn còn cấp kinh phí phục vụ cho các
đại lễ trai đàn, sai quân lính đến để giúp mọi việc. Đặc biệt, trong các dịp lễ trai đàn, triều
đình thường cho bắn “62 phát súng lệnh”, việc bắn súng lệnh trong lễ trai đàn đã một lần
nữa khẳng định vị trí quan trọng của nghi lễ này trong hoạt động lễ tiết của triều đình.
Kế đó, triều đình cũng siết chặt về mặt quản lí. Có thể thấy rằng, thái độ của nhà
Nguyễn đối với Phật giáo là vô cùng cởi mở nhưng không vì cởi mở mà không chú trọng
việc siết chặt quản lí. Nhà Nguyễn đã luôn thể hiện quyền lực thực sự của mình với bất
cứ ai muốn lợi dụng thái độ cởi mở đối với Phật giáo để âm mưu riêng. Chính vì thế,
dưới thời vua Minh Mạng hạn chế việc các tăng sĩ tham gia vào việc triều chính và có
những quy định nghiêm khắc với các trường hợp hoạt động mê tín trong Phật giáo.
1.2.3 Đạo giáo
Với Đạo giáo, triều đình đã quy định về điều kiện được phép tu hành như: “ Về độ
tuổi, ngoại trừ những trường hợp đặc biệt được các bậc chân tu xác nhận, còn nói chung
thì người muốn xuất gia tu hành (nhất là nam), phải từ 50 tuổi trở lên. Về ý nguyện, phải
thực sự xuất phát từ lòng mộ đạo. Về tư cách, phải đảm bảo là người có thể nắm giữ được
đạo hạnh lâu bên trong suốt cả đời tu hành. Về hiểu biết, phải được trang bị các tri thức
nhất định về giáo lí”. Từ đó, chúng ta thấy rằng đội ngũ tu hành được thanh lọc, những kẻ
lợi dụng đền miếu và đạo quán để lẩn trốn sự truy đuổi của xã hôi hoặc chối bỏ trách
nhiệm và bổn phận của mình đều lần lượt bị buộc phải hoàn tục. Vị trí của các bậc chân
tu dần đuộc khẳng định và đề cao. Từ đây, không gian và không khí tôn nghiêm của hầu
hết các đền miếu và đạo quán trên khắp cả nước cũng dần được khôi phục, nhiều giá trị
triết lí của đạo giáo lại có cơ hội để có thể thẩm thấu đến nhận thức của các tầng lớp xã
hội.
1.2.4 Thiên Chúa giáo
Tuy không thực hiện chính sách cấm đạo nhưng việc truyền giáo dưới thời Gia Long
cũng không phải thuận lợi vì tính chất ý thức hệ giữa một triều đình chọn Nho giáo làm
khuôn mẫu chính trị với đội ngũ quan chức từ các Nho gia bảo thủ và một bên là những
người truyền đạo tự nhận là tôn giáo siêu việt của loài người mang tính độc tôn.
7
Dưới triều Minh Mạng và Thiệu Trị, vấn đề truyền giáo trở nên cấp bách đối với các
nước phương Tây và kèm theo áp lực quân sự, tôn giáo trở thành vấn đề chính trị bức
thiết và sâu sắc với triều đình nhà Nguyễn. Lệnh cấm đạo được ban hành nhưng các giáo
sĩ vẫn lén lút truyền giáo.
Dưới triều Tự Đức, lệnh cấm đạo vẫn được ban hành cùng những biến động trong
cung đình và xã hội đã làm cho thế nước rã rời, suy yếu. Lấy cớ bảo vệ giáo sĩ và giáo
dân bị sát hại, liên quân Pháp- Tây Ban Nha đã đem quân vào tấn công Đà Nẵng (1858).
Thấy rõ việc truyền giáo là mục tiêu quan trọng của Pháp nên triều đình Nguyễn đã bãi
bỏ lệnh cấm đạo, xoa dịu các giáo sĩ và giáo dân bị hại, phê phán các cuộc khởi nghĩa
chống Pháp. Triều đình bị cô lập, không còn được hậu thuẫn của nhân dân và thiếu quyết
tâm đánh giặc là nguyên nhân dẫn đến những thất bại liên tiếp cho đến năm Tự Đức qua
đời (1883).
1.3 Các di tích và công trình kiến trúc
Thời kỳ nhà Nguyễn đã để lại nhiều di sản văn hóa cho dân tộc Việt Nam ,một số
di sản đã được UNESCO công nhận là di sản thế giới như “Nhã nhạc cung đình Huế”,
“Quần thể di tích Cố đô Huế” hoặc “Mộc bản triều Nguyễn”.Giáo sư sử học Việt Nam
Phan Huy Lê nhận xét rằng: “Chưa có một thời kỳ lịch sử nào để lại cho dân tộc ba di sản
văn hóa được thế giới công nhận và tôn vinh với những giá trị mang ý nghĩa toàn cầu như
vậy.”
1.3.1 Quần thể di tích cố đô Huế
Quần thể di tích Cố đô Huế
Quần thể di tích Cố đô Huế được UNESCO công nhận là di sản văn hóa thế giới
vào ngày 11 tháng 12 năm 1993.Phần lớn các di tích này hiện nay thuộc sự quản lý của
rung tâm bảo tồn di tích Cố đô Huế.Trong lịch sử VIệt Nam thời cận đại,công trình xây
dựng Kinh thành Huế có lx là công trình đồ sộ,quy mô nhất với hàng vạn lượt người
tham gia thi công,hàng triệu mét khối đất đá,với một khối lượng công việc khổng lồ như
đào hào, lấp sông, di dân, dời mộ, đắp thành …kéo dài từ thời điểm tiến hành khảo sát
dưới triều vua Gia Long năm 1803 đến khi hoàn chỉnh triều vua Minh Mạng vào năm
8
1832.Phong cách kiến trúc và cách bố phòng khiến kinh thành Huế thực sự là một pháo
đài vĩ đại và kien cố nhất từ trước tới nay ở Việt Nam mà một thuyền trưởng người Pháp
là Le Rey khi tới Huế năm 1819 cũng phải thốt lên: “Kinh thành Huế thực sự là pháo đài
đẹp nhất, đăng đối nhất ở Đông Dương do người Anh xây dựng”
1.3.2 Mộc bản triều Nguyễn
Mộc bản triều Nguyễn được UNESCO công nhận là di sản tư liệu thế giới đầu tiên tại
Việt Nam ngày 31 tháng 7 năm 2009.
Mộc bản triều Nguyễn
Bộ Mộc bản này gồm 34.618 tấm, là những văn bản chữ Hán-Nôm được khắc
ngược trên gỗ để in ra các sách tại Việt Nam vào thế kỷ 19 và đầu thế kỷ 20, và hiện đang
được bảo quản tại Trung tâm Lưu trữ Quốc gia IV-Đà Lạt,Lâm Đồng (xưa và nay vẫn là
Biệt điện Trần Lệ Xuân-khu di tích của TP.Đà Lạt),có nội dung rất phong phú và được
chia làm chín chủ đề: lịch sử, địa lý, quân sự, pháp chế, văn thơ, tôn giáo-tư tưởng-triết
học, ngôn ngữ-văn tự, chính trị-xã hội, văn hóa-giáo dục.Đây là khối tài liệu đặc biệt quý
hiếm , do giá trị về mặt nội dung, đặc tính về phương pháp chế tác và những quy định rất
nghiêm ngătj của triều đình phong kiến về việc ấn hành san khắc, những tài liệu này được
coi là quốc bảo, chỉ những người có trách nhiệm và thgẩm quyền làm việc tại Quốc sứ
quán mới được tiếp xúc và làm việc với chúng.
1.3.3 Chùa Thiên Mụ
Được xây dựng từ năm 1601, sau đó được xây dựng lại quy mô hơn và đến năm
1710 được chúa Quốc – Nguyễn Phúc Chu (1691-1725) cho đúc Đại Hồng Chung. Năm
1714, Chùa được đại trùng tu với quy mô khá lớn. Từ thời đó Chùa Thiên Mụ không chỉ
trở thành ngôi Chùa đẹp nhất ở Cố đô, mà còn là nơi gắn liền với nhiều biến cố lịch sử
đều được nhắc nhớ cho đến thời hiện tại. Nằm trước Chùa Thiên Mụ, Tháp Phước Duyên
được xây dựng năm 1844 là một biểu tượng không thể tách rời Chùa. Tháp Phước Duyên
cao 21m, có 7 tầng và ở mỗi tầng Tháp đều có thờ tượng Phật.
9
Tháp Phước Duyên-Chùa Thiên Mụ
1.3.4 Lăng các đời vua triều Nguyễn
Lăng Minh Mạng
10
Lăng Gia Long
Lăng Khải Định
11
1.3.5 Các di tích khác
Ngoài những di tích lịch sử như đền đài, dinh thự, thời đại nhà Nguyễn cũng để lại
nhiều bảo vật,là dấu tích của mỹ thuật Việt Nam thế kỷ 18 và 19, trong đó có nhiều kim
ấn, ngọc tỷ truyền quốc, bửu tỷ, bảo kiếm, hàng thủ công mỹ nghệ và mỹ thuật.Cuối năm
2010, lần đầu tiên sau 50 năm được bảo quản tại Bảo tàng Lịch sử Việt Nam, những báu
vật này đã được đem ra trưng bày. Riêng quốc ấn (nặng khoảng 10 kg vàng) và quốc
kiếm của vua Bảo Đại, trao lại cho Trần Huy Liệu, trưởng đoàn Đại biểu chính phủ Việt
Nam dân chủ cộng hòa vào năm 1945 đã bị mất trộm tại viện Bảo tàng Việt Nam và thất
lạc. Cả ấn tín của hoàng hậu Nam Phương cũng bị trộm mất
Quốc ấn nặng gần 10 kg vàng triều Nguyễn
Mũ bình thiên bằng vàng, đá quý, san hô. Chiếc mũ này được nhà vua đội vào dịp tế
Trời-Đất hàng năm ở đàn Nam Giao, cầu cho mưa thuận gió hòa, quốc thái dân an,
thiên hạ thái bình
12
1.4 Các loại hình nghệ thuật
1.4.1 Nghệ thuật điêu khắc
- Thời Nguyễn rất phát triển. Trong các thể loại kiến trúc đình, chùa đều có tượng
thờ
-
Tác phẩm tiêu biểu: Bia Khiêm Cung Ký tại Lăng vua Tự Đức
1.4.2 Nhã nhạc Cung đình Huế
Nhã nhạc cung đình Huế là thể loại nhạc của cung đình thời phong kiến, được
biểu diễn vào các dịp lễ hội (vua đăng quang, băng hà, các lễ hội tôn nghiêm khác) trong
năm của các triều đại nhà Nguyễn của Việt Nam. Nhã nhạc cung đình Huế đã
được UNESCO công nhận là Kiệt tác truyền khẩu và phi vật thể nhân loại vào năm 2003.
Theo đánh giá của UNESCO, "trong các thể loại nhạc cổ truyền ở Việt Nam, chỉ có Nhã
nhạc đạt tới tầm vóc quốc gia" [1]. "Nhã nhạc đã được phát triển từ thế kỷ 13 ở Việt Nam
đến thời nhà Nguyễn thì Nhã nhạc cung đình Huế đạt độ chín muồi và hoàn chỉnh nhất".
Về cơ bản, nhạc nghi thức trong âm nhạc cung đình Việt Nam, nhạc tế trong các đình
làng cũng như loại nhạc nghi thức được chơi trong đám cưới hay đám tang, tất cả thường
được chia thành hai nhóm chính: nhóm phe văn và nhóm phe võ. Việc phân chia của các
nhóm nhạc cụ hòa tấu trong dàn nhạc cung đình ở Huế từ đầu thế kỷ XIX và nguồn gốc
của nó đã được tìm thấy trong các quy luật của nhiều nghi thức cúng đình tại các làng xã
của người Việt ở Bắc Bộ từ nhiều thế kỷ trước đây.
13
Nhã nhạc cung đình Huế
1.4.3 Hội họa
- Phát triển đa dạng
-
Có sự ảnh hưởng của hội họa châu Âu
-
Các loại tranh tiêu biểu: tranh vẽ sơn màu trên gỗ ở các đền, tranh dân gian Đông
Hồ,…
14
1.5 Lễ hội
1.5.1 Lễ hội cung đình
Có thể nói rằng, Huế là một thành phố bảo tàng, nơi còn duy trì được khá đầy đủ
các giá trị văn hoá vật thể và phi vật thể, bao gồm thành quách, cung điện, lăng tẩm, đàn
từ, quốc tự, hàng ngàn hiện vật của vua chúa và quan lại, nhiều tư liệu lịch sử quí báu,
những chứng nhân lịch sử cao niên, vv… Cố đô Huế thực sự là một kho sử liệu sống
động về các triều đại quân chủ Việt.
“Lễ hội” là một từ thường để chỉ các lễ hội dân gian. Còn những sinh hoạt lễ nghi
tập thể của các vua quan ngày xưa ở chốn cung đình thì chỉ thấy các sử gia triều Nguyễn
ghi là “triều hội” (hội họp của triều đình).
Sử sách triều Nguyễn đều ghi nhận các lễ hội cung đình ở Huế là những cuộc lễ
mang tính quốc gia, do Nhà nước Trung ương đứng ra tổ chức và thực hiện. Có hàng
chục cuộc lễ lớn nhỏ khác nhau được cử hành hàng năm ở đất Thần kinh. Chúng đã được
triều đình quy định rất chặt chẽ và nghiêm túc, thậm chí được ghi thành điển lệ. Từ vua
quan đến dân chúng, từ hoàng gia đến bá tánh đều phải tuân thủ những điển lệ nghiêm
ngặt ấy. Các sử sách bấy giờ đã ghi rõ tên gọi, nội dung và ý nghĩa của các cuộc lễ để
nhấn mạnh tầm quan trọng của triều đình trong thể chế chính trị và sinh hoạt văn hoá của
nhà nước quân chủ. Các lễ hội dưới triều Nguyễn cũng đã được ghi chép, tường thuật,
phản ánh qua một số sách báo, phim ảnh do các tác giả người Tây phương và người Việt
sống vào cuối thể kỷ XIX và nửa đầu thế kỷ XX để lại, đặc biệt nhất là qua Tập san Đô
Thành Hiếu cổ (Bulletin des Amis du Vieux Húe)
15
Theo những tư liệu chính thống của triều Nguyễn, các lễ hội cung đình bấy giờ
được chia làm 2 loại: loại Tiết lễ và loại Tế tự.
- Loại Tiết lễ, gồm:
Các kỳ triều hội hàng tháng (Lễ Đại triều ở điện Thái Hoà, Lễ Thường triều ở
Điện Cần Chánh)
Ba cuộc lễ Đại tiết hàng năm (Tết Nguyên đán vào ngày đầu năm âm lịch, Tiết
Đoan dương vào ngày mồng 5 tháng 5, Tiết Vạn thọ vào ngày sinh nhật của vua)
Lễ tế Tiên nông ở khu ruộng Tịch điền vào mùa hạ
Lễ Ban sóc (phát lịch năm sau vào tháng chạp năm trước)
Lễ Đăng quang (Vua lên ngôi)
Lễ đại táng (đưa đám vua)…
- Loại Tế tự, gồm:
Lễ tế Trời Đất ở Đàn Nam Giao
Lễ tế Xã Tắc (Xã là Thần đất và Tắc là Thần lúa)
Lễ tế Liệt miếu (những miếu thờ tổ tiên của các vua triều Nguyễn)
Lễ tế Thế miếu (nơi thờ các vua Nguyễn quá cố)
Lễ tế Văn Miếu (nơi thờ Khổng Tử)…
Ngoài ra, triều đình còn cử hành các lễ hội thường kỳ và bất thường kỳ sau đây:
Lễ Tiến Xuân ngưu vào ngày Lập xuân
Lễ Thanh minh
Lễ Trùng cửu
Ngày Hổ quyền
Lễ Phất thức
Lễ Thánh thọ (sinh nhật Hoàng Thái hậu)
16
Lễ Tiên thọ (sinh nhật Hoàng Thái phi)
Lễ Thiên xuân (sinh nhật Hoàng Thái tử)
Lễ Thiên thu (sinh nhật Hoàng hậu)
Lễ Hưng quốc Khánh niệm (ngày mồng 2 tháng 5 âm lịch)...
Trong tất cả các lễ hội cung đình ấy đều có phần âm nhạc đi kèm. Một số lễ hội quan
trọng còn có cả các tiết mục ca và múa.
1.5.2 Lễ hội dân gian
Trong giai đoạn này, lễ hội dân gian phát triển trong hoàn cảnh chế độ phong kiến
có những dòng họ mới cầm quyền đất nước, bùng nổ nhiều cuộc khởi nghĩa nông dân.
Các triều đại phong kiến giống nhau ở chỗ đề cao Nho giáo, hạn chế sự phát triển của
Phật giáo. Lễ hội được tổ chức ở đình, chùa, đền vào cả hai mùa xuân, thu. Các tín
ngưỡng phồn thực, tín ngưỡng thành hoàng, sự sùng bái các nhân vật lịch sử đều được
duy trì. Trong một lễ hội thường có nhiều lớp ý nghĩa, nhiều mục đích như sự tưởng niệm
các vị anh hùng dân tộc, lễ hội nhắc nhở mọi người nhớ về cội nguồn dân tộc.
Các hoạt động trong lễ hội dân gian: Tại các tụ điểm điễn ra lễ hội, người ta tổ
chức nghi lễ như: quét dọn, trang trí địa đểm thờ thần, tiến hành nghi lễ tắm tượng, thay
trang phục mới cho tượng, rước vị thần ra nơi tổ chức lễ hội hoặc đi quanh làng, tiến
hành các nghi lễ thờ cúng, tế lễ nhằm nhắc lại công lao các vị thần, trình lên ngài những
ước vọng, mong được chứng giám và phù hộ cho được an khang, thịnh vượng suốt năm.
Dân làng dâng lên thần những lễ vật ngon nhất , đẹp nhất do tự mình làm ra hoặc sản vật
quý hiếm mua từ các nơi khác. Người ta tổ chức ca nhạc, múa hát nhằm làm cho vị thần
vui vẻ, sau đó tổ chức ăn uống, vui chơi, thi tài. Thời gian thường kéo dài từ ba ngày đến
một tuần.
1.6 Giáo dục, văn học
1.6.1 Giáo dục
Trường học thời nhà Nguyễn là nơi học sinh đến để học chữ Nho và Nho giáo.
Dưới thời các vua Nguyễn, triều đình rất coi trong hiền tài, không phân biệt, kỳ thị xuất
thân. Giáo dục khoa cử thời Nguyễn là hệ thống đào tạo nhân tài chủ yếu phục vụ trong
bộ máy hành chính của triều đình.
Tồn tại trong lịch sử dân tộc suốt năm 143 năm (1802 - 1945), nền giáo dục nhà
Nguyễn cũng được duy trì trong suốt một thời gian dài 117 năm (1802 - 1919). Trong 117
năm, nhà Nguyễn đã tổ chức được 47 kỳ thi Hương, lấy đỗ 5.397 Cử nhân; 39 kỳ thi Đại
khoa, lấy đỗ được 558 vị Tiến sĩ, Phó bảng. Những con số đó đã chứng minh cho sự đầu
tư của chính quyền nhà Nguyễn cho sự nghiệp giáo dục.
17
Bên cạnh những chính sách khuyến khích cho giáo dục, có một hệ thống giáo dục
bao gồm nhiều cấp từ trung ương đến địa phương. Hệ thống giáo dục địa phương nhà
Nguyễn được xây dựng từ tỉnh, phủ, huyện cho đến thôn xóm, với các loại hình giáo dục
như trường công (ở tỉnh, phủ, huyện) và trường dân lập tại thôn xóm. Về cấp độ, có
trường trung ương và trường địa phương (trấn, phủ, huyện - thậm chí đến xã); về loại
hình, có trường công lập và trường dân lập; về khoa cử, có ba kỳ thi chính thức: ở địa
phương (thi Hương) và ở trung ương (thi Hội, thi Đình). Năm 1807, đã diễn ra khoa thi
Hương đầu tiên dưới triều Nguyễn và năm 1822, khoa thi Hội đầu tiên được tổ chức. Tuy
nhiên, số người đi thi và đỗ đạt không nhiều so với các thế kỉ trước.
Vua Gia Long rất đề cao Nho học, cho lập Văn Miếu ở các doanh, các trấn thờ
đức Khổng Tử và lập Quốc Tử Giám năm 1803 ở Kinh thành Huế để dạy cho các quan và
các sĩ tử, mở khoa thi Hương lấy những người có học, có hạnh ra làm quan. Vào
năm 1908 con số ước đoán là trong hai xứ Bắc và Trung Kỳ thuộc quyền cai trị của nhà
Nguyễn có 15.000 trường học và khoảng 200.000 học sinh.. Một trong những nét đặc
biệt của nền giáo dục dưới triều Nguyễn là sự phát triển của hệ thống trường tư, bên cạnh
các trường công do triều đình lập ra. Ở nông thôn cũng như thành thị trước khi khoa cử bị
bãi bỏ vào đầu thế kỷ 20 thì có những thầy đồ mở trường tư tại gia dạy học. Thầy đồ đa
số là những vị quan về hưu hoặc những người chỉ đỗ tú tài tự ý mở lớp chứ không có sự
giám sát của chính quyền. Ngoài ra còn có một số cơ sở giáo dục thuộc nhà chùa, tuy
không với mục đích dạy học trò để thi đỗ nhưng cũng góp phần vào việc đào tạo một số
người.
Trong thực tế, dưới thời nhà Nguyễn, nhiều người đỗ học vị Phó bảng ra làm quan,
đem đức hạnh và trí lực thi thố với đời rất nhiều người tài năng lưu danh sử sách, chẳng
hạn các vị Phó bảng như Nguyễn Văn Siêu, Phan Chu Trinh, Nguyễn Sinh Sắc… Cũng
có nhiều người chỉ đỗ Cử nhân nhưng đóng góp bao sức lực cho nước nhà như Nguyễn
Công Trứ, Đặng Huy Trứ, Phan Bội Châu…
1.6.2 Văn học
Văn học nhà Nguyễn phát triển ở cả Hán văn lẫn chữ Nôm. Trong đó, văn học chữ
Nôm phát triển hơn ngày càng phong phú và hoàn thiện. Xuất hiện những tác phẩm văn
học chữ Nôm xuất sắc như Truyện Kiều của Nguyễn Du, các bài thơ của Hồ Xuân
Hương, Bà Huyện Thanh Quan... Thuở mới thành lập, các nhà thơ có hai nguồn gốc
chính là quan của Gia Long và các cựu thần nhà Hậu Lê bất phục nhà Nguyễn. Những cái
tên nổi bật cho văn học lúc này: Phạm Quy Thích, Trịnh Hoài Đức, Lê Quang Định, và
đại thi hào Nguyễn Du. Nội dung bao chùm là tâm lí hoài Lê và một lãnh thổ văn chương
Việt Nam mới hình thành ở phương Nam. Thời nhà Nguyễn độc lập là thời của các nhà
thơ thuộc đủ mọi xuất thân trong đó có các vua như Minh Mạng, Thiệu Trị, Tự Đức, và
các thành viên hoàng tộc như Tùng Thiện Vương Nguyễn Phúc Miên Thẩm, ba nàng
công chúa tạo nên “Tam khanh” của nhà Nguyễn. Các nho sĩ thì gồm có Nguyễn Văn
18
Siêu, Cao Bá Quát, Hà Tôn Quyền,Trương Quốc Dụng, Phan Thanh Giản, Phạm Phú
Thứ.
Hai thể kiểu thơ chủ yếu của thời kỳ này là thơ ngự chế của các vị vua và các thi
tập của nho sĩ. Thời nhà Nguyễn thuộc Pháp là thời kỳ ảnh hưởng của hoàn cảnh lịch sử
đương thời tác động rất lớn vào văn chương, thể hiện sự căm phẫn trước hành vi xâm
lăng của Pháp và tố cáo tội ác, tâm trạng bất lực trước thời cuộc. Tác giả tiêu biểu thời kỳ
này gồm Nguyễn Tư Giản, Nguyễn Thông, Nguyễn Khuyến, Dương Lâm, Nguyễn
Thượng Hiền. Hai thể lục bát và lục bát gián cách được sử dụng phổ biến với nghệ thuật
ngôn từ đặc sắc. Về nội dung, ngoài các nội dung văn chương mang đậm tư tưởng Nho
giáo truyền thống thì số phận con người và phụ nữ cũng được đề cập đến.
Sách dùng trong việc học hành có hai loại, sách của người Việt soạn và sách
của người Tàu làm sẵn. Sách riêng của người Việt có cuốn Nhất thiên tự, Tam thiên
tự, Ngũ thiên tự, Sơ học vấn tân, và Ấu học ngũ ngôn thi. Sách dùng chung cho các sĩ tử
ở Trung Quốc lẫn Việt Nam là những cuốn Thiên tự văn, Hiếu kinh, Minh tâm bảo
giám, Minh đạo gia huấn, và Tam tự kinh. Khi đã giỏi chữ Nho rồi thì mới học thêm Tứ
Thư, Ngũ Kinh. Ngoài ra còn các sách chuyên đề về Bắc sử, Nam sử, cổ thi. Sách truyện
thì hoàn toàn bị các nho gia cho là không đáng đọc vì không truyền đạt đạo Thánh hiền.
1.7 Ẩm thực
Nói đến ăn uống xứ Huế, người ta thường nghĩ đến lối ăn cung đình, một phong
cách ẩm thực được hình thành để phục vụ triều đình nhà Nguyễn trong hơn một thế kỷ
đóng đô ở đây.
Ẩm thực cung đình chính là những món ăn ngự thiện ngày trước chuyên được chế
biến để dâng lên vua. Những món ăn này đều thuộc loại cao lương mỹ vị, được chế biến
19
công phu, cầu kỳ nhằm đạt đến những chuẩn mực cao nhất là vừa đẹp mắt, vừa ngon
miệng và vừa bổ dưỡng. Chính vì vậy các món ăn trong mỗi bữa ăn cung đình không chỉ
có bàn tay của người đầu bếp chế biến mà còn có trách nhiệm của viện Thái Y để đảm
bảo kết hợp nguyên liệu được hoàn hảo nhất.
Theo sách Ðại Nam hội điển sự lệ biên soạn dưới thời nhà Nguyễn, thì Quang Lộc
Tự là cơ quan lo việc cỗ bàn của triều đình, gồm cỗ cúng trong những ngày lễ trọng đại,
cỗ yến cho các quan hay tiếp sứ thần Trung Hoa, và ban yến các cho các vị tân khoa đỗ
tiến sĩ. Cỗ bàn thường được chia thành các loại:
Cỗ hạng lớn gồm 161 phẩm vị, Cỗ ngọc soạn có 30 đĩa, Cỗ quý có 50 phẩm vị, Cỗ
điểm tâm có 12 vị. Ngoài ra còn có cỗ chay để cúng ở các chùa, hạng nhất có 25 món,
hạng hai có 20 món... Các món ăn được quy định cụ thể và định giá tiền từng loại cỗ, vì
vậy ta có thể thống kê qua tên gọi các món ăn. Nếu như vua chúa phương Tây và Trung
Hoa thường lấy săn bắn làm thú giải trí vương giả, và sự xuất hiện của thịt thú rừng trên
bàn tiệc của các lãnh chúa vương công là chuyện thường xuyên, thì ta thấy nổi lên một
điều khác biệt là vua chúa Việt Nam ít ăn thịt thú rừng. Thịt dã thú chỉ thấy trong cỗ cúng
với số lượng rất hạn chế: hươu, lợn rừng, công, tê tê, vịt nước, đuôi cá sấu...
Ta còn có thể biết cách ăn uống ở cung đình qua những sản phẩm mà triều đình quy
định cho các địa phương cúng tiến hàng năm theo mùa. Ðiểm lại các sản vật cung tiến
được ghi trong sách xưa, ta thấy hầu hết chỉ là những hoa quả thông thường được trồng ở
các địa phương như: dừa ở Vĩnh Long, Ðịnh Tường, xoài Phú Yên, bòng bong Quảng
Nam, cam đường Thanh Hoá, Hải Dương, vải Hà Nội, mắm rươi Ninh Bình, Nam Ðịnh,
lê Cao Bằng, Tuyên Quang. Tỉnh phải nộp nhiều thứ nhất là Quảng Bình thì cũng chỉ là
dưa hấu, bột hoàng tinh, tương đậu, rượu dâu,. Chẳng qua đấy là những đặc sản địa
phương, có thể thu hoạch một cách dễ dàng, không phải mất công khó nhọc lên rừng
xuống biển tìm kiếm như xưa kia người Việt phải làm để cung tiến cho triều đình Trung
Hoa.
20
Theo lời người già trong hoàng tộc kể lại thì có một món ăn lạ là "sâu mây". Ðây là
một loại ấu trùng sống trong thân cây mây mọc trên rừng. Người ta chặt mây, lấy những
con sâu đó về, đem thả vào ngọn cây mía trồng trong vườn. Con nhộng đục thân mía để
ăn. Chờ đúng ngày nhộng vừa lớn mới chẻ cây mía ra, lấy nhộng làm thức ăn.
Ngoài ra còn có một loại thức ăn được vua chúa nhà Nguyễn ưa thích, đó là con
đuông, một loại ấu trùng sống trên ngọn cây dừa, vì vậy mang vị ngọt của cùi dừa. Muốn
lấy con đuông phải chặt cả cây dừa, chỉ những vùng trồng dừa ở miền Nam mới lấy được.
Ðuông hẳn là một món ăn quý, chẳng thế mà hình ảnh và tên của nó đã được khắc trên
Cửu đỉnh trước Thái Miếu của kinh thành Huế với cái tên "hồ da tử". Còn theo những
người già kể lại thì các bữa ăn hàng ngày của ông hoàng bà chúa trong cung không khác
những bữa ăn của dân thường là bao. Món ăn được ưa thích của mẹ vua Bảo Ðại vẫn chỉ
là cá bống kho, canh cá óc mó, canh rau dại nấu với tôm...
Ẩm thực cung đinh Huế được làm từ những nguyên liệu rất gần gũi với người dân,
tuy nhiên, cái khác cơ bản ở đây chính là cách nấu nướng sạch sẽ, thực phẩm có chọn lọc
hơn và đặc biệt là cách trình bày đẹp và tinh xảo. Nhà văn Nguyễn Tuân đã từng nhận xét
rằng người Huế ăn bằng mắt, bằng mũi trước khi ăn bằng miệng.
Tỷ dụ như các thứ rau, dưa được tỉa thành những bông hoa, rau muống ăn sống phải chẻ
nhỏ như sợi bún, bánh đậu xanh được nặn thành hình trái cây với màu sắc như thật, chả
21
thịt lợn kết hợp với rau củ xếp thành với tên gọi "nem công, chả phượng”.
CHƯƠNG II
KHAI THÁC CÁC GIÁ TRỊ VÀO MỤC ĐÍCH KINH DOANH DU LỊCH
2.1 Tầm quan trọng của việc khai thác bản sắc văn hóa trong du lịch
Du lịch là một ngành kinh doanh mới được chú trọng phát triển mấy thập niên gần
đây. Ở Việt Nam cũng vậy, mặc dù nó ra đời từ năm 1945 nhưng nó chỉ thực sự phát triển
và hoạt động đúng chức năng của nó từ năm 1992, khi tổng cục Việt Nam được lập lại.
Tuy vậy, nó lại chiếm một vị trí rất quan trọng. Đây là ngành kinh doanh đem lại lợi
nhuận lớn. Muốn phát triển được nó ta phải có những chính sách thích hợp.
Muốn phát triển được du lịch thì phải có nguồn tài nguyên du lịch phong phú, đa
dạng. Phải có những công trình kiến trúc, phong cảnh thiên nhiên to lớn và đẹp thu hút du
khách hoặc phải có những phong tục tập quán, lễ hội đặc sắc,.. Nếu chúng ta làm phép so
sánh giữa Việt Nam và các nước phát triển du lịch trên thế giới cho thấy: chúng ta không
có những công trình kiến trúc vĩ đại như tháp Effel ở Pháp, tượng nữ thần tự do ở Mỹ hay
Vạn Lí Trường Thành của Trung Quốc,.. Chúng ta chỉ có một số điểm chú ý như Vịnh Hạ
Long, cố đô Huế, … được xếp là di sản thế giới. Những cái đó vẫn chưa đủ để thu hút
khách du lịch. Nhưng thay vào đó chúng ta có nền văn hóa đậm đà bản sắc dân tộc với
những phong tục tập quán, lễ hội và nhiều văn hóa hấp dẫn khác. Vậy tại sao mình không
khai thác những yếu tố đó vào mục đích kinh doanh du lịch.
Muốn phát triển du lịch ở nước ta những sản phẩm hàng hóa và dịch vụ du lịch
mang tính đặc trưng riêng. Làm sao khi nhắc đến Việt Nam là khách du lịch nhớ ngay
đến sản phẩm ấy, cũng giống như cứ nhắc đến Pháp người ta nghĩ ngay đến tháp Effel,
nhắc đến Hà Lan là nghĩ đến hoa Tuy-lip. Chúng ta phải lồng vào các tour du lịch của
chúng ta màu sắc, hình ảnh, con người Việt Nam, phải tạo được ấn tượng về dân tộc Việt
Nam trong mắt du khách. Chúng ta phải tạo được những tour du lịch đến các lễ hội dân
gian để du khách tìm hiểu về các phong tục tập quán truyển thống. Những cái đó chính là
khai thác bản sắc văn hóa dân tộc trong kinh doanh du lịch.
22
2.2 Thực trạng khai thác văn hóa nhà Nguyễn trong kinh doanh du lịch
2.2.1 Quần thể di tích cố đô Huế
Theo số liệu thống kê, số lượt khách đến Huế với mục đích tham quan, tìm hiểu
lịch sử và tận mắt chiêm ngưỡng di sản thế giới chiếm tới 80% tổng lượt khách du lịch.
Điều này chứng minh cho giá trị và sức hấp dẫn của di sản văn hóa thế giới, đồng thời
đây còn là căn cứ để ngành du lịch có kế hoạch trong việc phát triển sản phẩm và quảng
bá cho du lịch di sản Huế. Như vậy, du lịch phát triển sẽ tạo thuận lợi trong việc giới
thiệu di sản văn hóa đến với du khách, đưa các di sản này từ phạm vi địa phương ra phạm
vi quốc gia và quốc tế thu hút sự chú ý của thế giới với các di sản văn hóa, nhất là các di
sản đang có nguy cơ mai một, bị lãng quên.
Trong vòng 10 năm trở lại đây, ngành du lịch Thừa Thiên Huế đã có sự phát triển
về cả lượng khách lẫn phạm vi khai thác. Trong đó, loại hình du lịch di sản phát triển
mạnh mẽ và đóng vai trò chủ đạo trong các hoạt động du lịch ở Huế.
Du lịch tạo ra các nguồn thu lớn góp phần trong công cuộc trùng tu và tôn tạo di
tích. Đây cũng là lĩnh vực thể hiện kết quả trực tiếp của công tác bảo tồn di sản. Nhờ
những thành tựu của công tác bảo tồn mà di sản văn hóa Huế đã được quảng bá rộng rãi
trên toàn thế giới, tạo nên sức hút to lớn của Huế đối với du khách thập phương và góp
phần làm cho ngành du lịch dịch vụ của Huế có những bước phát triển nhanh chóng, thực
sự trở thành ngành kinh tế mũi nhọn của tỉnh. Riêng tại các khu di tích Huế, doanh thu
trực tiếp từ năm 1996 đến năm 2012 đã đạt gần 825 tỷ đồng (tính đến 31/8/2012), doanh
thu từ dịch vụ đạt hơn 50 tỷ đồng. Chính nguồn thu này đã góp phần rất quan trọng trong
việc tái đầu tư cho hoạt động bảo tồn di sản.
Lượng khách tham quan và doanh thu tại các điểm di tích (2009- 2013)
Lượng khách
Năm
2009
2010
2011
2012
2013
Quốc tế
Nội địa
766.246
839.953
883.218
881.239
831.046
1.022.441
1.033.651
1.028.063
911.299
889.145
Tổng
khách
1.788.687
1.873.604
1.911.281
1.791.538
1.720.191
Doanh thu vé tham quan
(tỷ đồng)
Quốc tế
Nội địa
Tổng
doanh thu
(tỷ đồng)
41.581
45.698
48.097
62.712
68.816
31.577
32.063
31.978
41.857
47.998
73.158
77.761
80.175
104.569
116.814
Du lịch di sản cũng đã gia tăng cơ hội việc làm và tạo điều kiện cho công tác phục
hồi các ngành nghề thủ công, các nghi lễ và nghệ thuật truyền thống. Các nghề đúc đồng,
sơn thếp, sản xuất đồ thủ công mỹ nghệ, làm diều Huế, may áo dài, thêu, chằm nón lá,
23
làm kẹo mè xửng, tôm chua, nghệ thuật ẩm thực, ca Huế đã có sự phục hồi và phát triển
mạnh mẽ để đáp ứng các nhu cầu của ngành du lịch. Doanh thu từ hoạt động du lịch dịch
vụ tăng trưởng với tốc độ rất nhanh. Tính đến năm 2012, tổng doanh thu ngành du lịch
dịch vụ của tỉnh đã đạt hơn 2.500 tỷ đồng, chiếm hơn 48% GDP của toàn tỉnh.
Du lịch di sản sẽ làm nảy sinh nhu cầu tôn tạo cảnh quan tại các điểm đến làm tăng
giá trị văn hóa, giá trị nghệ thuật tại những nới này nhằm thu hút du khách. Nhờ vậy mà
cảnh quan tại các di sản văn hóa vật thể được chỉnh trang, chăm sóc hơn khiến cho giá trị
thẩm mỹ, giá trị khai thác, sử dụng của di sản cũng tăng lên. Trong những năm qua, phần
lớn các di tích chính thức đã được đầu tư tu bổ và tôn tạo hệ thống sân vườn, cảnh quan
và cây trồng bổ sung ở các khu vực đệm. Nổi bật như việc trồng lại vành đai xanh tại
lăng vua Minh Mạng, tôn tạo phục hồi cảnh quan ở vườn Cơ Hạ. Trung tâm Bảo tồn Di
tích Cố đô Huế đã thành lập Phòng Cảnh quan Môi trường với hơn 70 cán bộ, kỹ sư,
nghệ nhân chuyên làm công tác vệ sinh môi trường, gây dựng và trồng mới cây xanh, hoa
kiểng, nghiên cứu tôn tạo môi trường cảnh quan. Chính công việc đó đã làm thu hẹp
không gian hoang phế, từng bước trả lại các giá trị cảnh quan vốn có của cố đô, mang lại
sinh khí cho di tích, đáp ứng nhu cầu hưởng thụ văn hóa của nhân dân, góp phần quan
trọng trong việc giao lưu và hợp tác văn hóa trong nước và quốc tế.
Quần thể di tích Cố đô Huế gồm 17 công trình kiến trúc nghệ thuật song lượng du
khách chỉ tập trung vào ba điểm chủ yếu là Hoàng cung (Đại Nội) với 43%, Tự
Đức( 21%) và Khải Định(20%). Bên cạnh đó, chùa Thiên Mụ cũng thu hút một lượng
khách lớn đến thăm viếng, nhưng do đây là một điểm tham quan di sản miễn phí vé vào
cổng nên Trung tâm Bảo tồn Di tích Cố đô Huế chưa có thống kê đầy đủ về số lượng du
khách viếng thăm điểm du lịch này hàng năm.
Hoạt động du lịch tại các điểm di tích tập trung đông du khách đã và đang gây ra
những tác động tiêu cực không nhỏ lên di tích. Việc du khách tiếp xúc với di sản và các
hiện vật cũng như ý thức bảo vệ môi trường di sản của du khách kém đều có thể gây hại
cho di sản văn hóa vật thể ví dụ như hành động viết, vẽ, khắc bậy lên di tích; trèo lên di
sản để chụp ảnh,… mà chủ yếu là do du khách nội địa gây ra.
Mục đích của du lịch di sản là những trải nghiệm chân thực nên tính xác thực của di
sản là mục tiêu hàng đầu. Di sản có thể trở nên hấp dẫn với du khách hay không là nhờ
vào một phần rất lớn vào công tác thuyết minh, hướng dẫn. Trong đó, vai trò của người
hướng dẫn viên du lịch là vô cùng quan trọng trong việc trực tiếp truyền tải phần “ hồn ”
của di sản đến với du khách. Tuy nhiên, lưc lượng lao đông này vẫn còn nhiều hạn chế và
bất cập. Nhiều hướng dẫn viên không hiểu sâu sắc về di tích và thậm chí đưa thông tin sai
lệch về di tích làm ảnh hưởng rất lớn đến hình ảnh di sản văn hóa.
24
2.2.2 Một số di tích khác
Hiện nay, Trung tâm Bảo tồn di tích Cố đô Huế đang thực hiện các chương trình “ lễ
đổi gác”, hoặc cảnh “ đám cưới trong hoàng cung” và các trò chơi “ Xăm hường” hàng
ngày để thu hút khách tham quan. Đặc biệt, nhà hát Duyệt Thị Đường, vốn là nhà hát
trong hoàng cung xưa, nay được khôi phục lại và tổ chức 4 suất diễn/ ngày phục vụ du
khách. Chỉ tính từ giai đoạn từ năm 2003 đến nay (sau khi được UNESCO công nhận là
di sản văn hóa phi vật thể của thế giới), nhà hát Duyệt Thị Đường đã có trên 40 bài nhạc
lễ, nhiều tiết mục múa Cung đình đặc sắc như: Lục cúng hoa đăng, Nữ tướng xuất quân,
Lân mẫu xuất Lân nhị, Lục triệt hoa mã đăng…. Được sưu tầm, dàn dựng và biểu diễn,
đưa Nhã nhạc Huế từ chốn cung đình đến với công chúng và du khách.
Bên cạnh đó, Trung tâm cũng đã chủ động tham gia các diễn đàn quảng bá cho
ngành du lịch, ký kết hợp tác với các đơn vị lữ hành đưa khách đễn Cố đô Huế; liên kết
hợp tác với Hiệp hội Du lịch, Hiệp hộc khách sạn của tỉnh, chủ động tổ chức các hoạt
động kích cầu để thu hút du khách. Năm 2012, Trung tâm đã tổ chức Tuần lễ vàng dành
cho du khách và lễ trao giải cho du khách thứ 2 triệu đến thăm di tích Cố đô Huế. Năm
2013, Trung tâm tổ chức 2 tuần lễ kích cầu vào các tháng 4, 12 và Tháng du lịch vàng từ
2-30/9. Đặc biệt, nhân dịp tổ chức lễ kỉ niệm 20 năm ngày quần thể di tích Cố đô Huế
được UNESCO công nhận, Trung tâm đã tổ chức một hoạt động để kích cầu để tạo điều
kiện cho du khách và các tour lữ hành. Cũng nhờ hoạt động tích cực đó mà mặc dù tình
hình năm 2013 rất khó khăn, sân bay Huế đóng cửa nhưng nguồn thu của đơn vị vẫn tăng
nhanh. Tính đến hết tháng 8, doanh thu đã đạt hơn 86 tỷ đồng (80 tỷ từ vé và 6 tỷ từ dịch
vụ), đạt 76% kế hoạch được giao (105 tỷ đồng doanh thu vé/ năm 2013).
Ngoài ra, việc khai thác và phát huy các giá trị văn hóa còn tạo điều kiện cho các
ngành nghề thủ công, các nghi lễ và nghệ thuật truyền thống phát triển. Các nghề đúc
đồng, sơn thếp, sản xuất đồ thủ công mĩ nghệ, làm diều Huế, may áo dài, thêu, chằm nón
lá, làm kẹo mè xửng, nghệ thuật ẩm tực, ca Huế, … đã phục hồi và phát triển mạnh mẽ.
2.3 Ứng dụng vào thiết kế tour du lịch
Việc khai thác tài nguyên văn hóa trong kinh doanh du lịch là việc vô cùng cần
thiết trong việc bảo vệ và phát huy những bản sắc văn hóa dân tộc và quảng bá hình ảnh,
thu hút khách du lịch quốc tế đến với Việt Nam. Sau đây nhóm xin kiến nghị thiết kế tour
du lịch cố đô Huế kết hợp các giá trị văn hóa khác thời Nguyễn:
TOUR DU LỊCH CỐ ĐÔ HUẾ
Đối tượng: Cán bộ UBND Huyện Ba Vì
Thời gian: 3 ngày 2 đêm
Khởi hành từ: Hà Nội
25
Lịch trình: Hà Nội – Huế - Phố cổ Hội An
Phương tiện: Máy bay, ô tô
Lịch trình cụ thể
Ngày 1: Đón khách – Ca Huế trên sông Hương
6:00: Đón khách tại sân bay Nội Bài để làm thủ tục bay đến Huế.
9:00: Đón khách tại sân bay Phú Bài – Huế. Xe và HDV đưa khách về khách sạn Thanh
Lịch Royal Boutique.
Khách tự do tham quan cố đô Huế và ăn tối tại nhà hàng của khách sạn.
Tối: Thưởng thức ca Huế trên sông Hương và thả đèn Hoa Đăng trên dòng sông Hương
thơ mộng.
Ngày 2: Tham quan thành phố Huế
Quý khách dùng điểm tâm sáng tại khách sạn
7:30: Xe và HDV đón khách tại khách sạn đi tham quan Cố đô Huế
8:00 Khởi hành đưa khách tham quan lăng Minh Mạng
Đây là lăng lớn ở Huế có kiến trúc hài hòa và đẹp mắt.
Sau đó tiếp tục tham quan lăng Khải Định và Tự Đức và di chuyển tham quan võ Kinh
Vạn An, làng làm nón lá Huế, làng Hương Chùa
12:00 Dùng bữa trưa lại nhà hàng của khách sạn
13:30 Quý khách tiếp tục đi tham quan Đại Nội như cửa Ngọ Môn, lâu Ngũ Phụng, Đại
Cung Môn, Hưng Miếu, Thái Miếu, …
Sau đó di chuyển đến tham quan chùa Thiên Mụ - Danh thắng không thể bỏ qua trong
tour du lịch Huế
15:00 Đi du thuyền và chiêm ngưỡng cảnh đẹp hoàng hôn trên dòng sông Hương
16:00 Về khách sạn trả phòng và lên xe di chuyển đến phố cổ Hội An
18:30 Đến thành phố Hội An, di chuyển đến Hội An Town Homestay
19:00 Dùng bữa tối tại khách sạn. Tự do dạo phố cổ.
Ngày 3: Tham quan Hội An và trở về Hà Nội
7:00 Dùng bữa sáng tại khách sạn