LỜI CAM ĐOAN
Tôi cam đoan đây là công trình nghiên cứu
của riêng nghiên cứu sinh. Các số liệu, kết quả trình
bày trong luận án là trung thực, có nguồn gốc xuất xứ
rõ ràng, không trùng lặp với các công trình khoa học
đã được công bố.
Tác giả luận án
Hoàng Văn Vân
1
2
MỤC LỤC
Trang
TRANG PHỤ BÌA
LỜI CAM ĐOAN
MỤC LỤC
DANH MỤC CÁC CHỮ VIẾT TẮT
MỞ ĐẦU
Chương 1 TỔNG QUAN TÌNH HÌNH NGHIÊN CỨU CÓ LIÊN
QUAN ĐẾN ĐỀ TÀI LUẬN ÁN
1.1.
Tình hình nghiên cứu có liên quan đến đề tài luận án
1.2.
Khái quát kết quả các công trình khoa học đã được công bố
và những vấn đề đặt ra luận án tập trung giải quyết
Chương 2 CHỦ TRƯƠNG VÀ SỰ CHỈ ĐẠO CỦA ĐẢNG BỘ
TỈNH NGHỆ AN VỀ BẢO TỒN VÀ PHÁT HUY GIÁ
TRỊ DI TÍCH LỊCH SỬ CÁCH MẠNG (1996 - 2005)
2.1.
Những yếu tố tác động đến sự lãnh đạo của Đảng bộ tỉnh Nghệ
An về bảo tồn và phát huy giá trị di tích lịch sử cách mạng
2.2.
Chủ trương Đảng bộ tỉnh Nghệ An về bảo tồn và phát huy
giá trị các di tích lịch sử cách mạng (1996 - 2005)
2.3.
Đảng bộ tỉnh Nghệ An chỉ đạo bảo tồn và phát huy giá trị di
tích lịch sử cách mạng (1996 - 2005)
Chương 3 ĐẢNG BỘ TỈNH NGHỆ AN LÃNH ĐẠO BẢO TỒN VÀ
PHÁT HUY GIÁ TRỊ DI TÍCH LỊCH SỬ CÁCH MẠNG
(2006 - 2015)
3.1.
Những yếu tố mới tác động đến sự lãnh đạo của Đảng bộ tỉnh Nghệ
An về bảo tồn và phát huy giá trị di tích lịch sử cách mạng
3.2.
Chủ trương của Đảng bộ tỉnh Nghệ An về bảo tồn và phát
huy giá trị di tích lịch sử cách mạng (2006 - 2015)
3.3.
Đảng bộ tỉnh Nghệ An chỉ đạo bảo tồn và phát huy giá trị di
tích lịch sử cách mạng (2006 - 2015)
Chương 4 NHẬN XÉT VÀ KINH NGHIỆM
4.1.
Nhận xét sự lãnh đạo của Đảng bộ tỉnh Nghệ An về bảo tồn
và phát huy giá trị di tích lịch sử cách mạng (1996 - 2015)
4.2.
Kinh nghiệm từ quá trình Đảng bộ tỉnh Nghệ An lãnh đạo bảo
tồn và phát huy giá trị các di tích lịch sử cách mạng (1996 - 2015)
KẾT LUẬN
DANH MỤC CÁC CÔNG TRÌNH CỦA TÁC GIẢ ĐÃ ĐƯỢC CÔNG
BỐ LIÊN QUAN ĐẾN ĐỀ TÀI LUẬN ÁN
DANH MỤC TÀI LIỆU THAM KHẢO
PHỤ LỤC
5
12
12
28
32
32
49
58
73
73
82
90
115
115
139
159
162
163
180
3
DANH MỤC CÁC CHỮ VIẾT TẮT
TT
Chữ viết đầy đủ
Chữ viết tắt
1
Ban Chấp hành Trung ương
BCHTW
2
Ban Thường vụ
BTV
3
4
5
6
7
8
9
10
11
Chủ nghĩa xã hội
Công nghiệp hóa, hiện đại hóa
Di tích lịch sử
Di tích lịch sử văn hóa
Di tích lịch sử cách mạng
Di sản văn hóa
Đảng Cộng sản Việt Nam
Kinh tế - xã hội
Ủy ban nhân dân
CNXH
CNH, HĐH
DTLS
DTLSVH
DTLSCM
DSVH
ĐCSVN
KT - XH
UBND
4
5
MỞ ĐẦU
1. Lý do chọn đề tài luận án
Di tích lịch sử cách mạng là một bộ phận cấu thành hệ thống các
DSVH, nơi lưu dấu ấn những giá trị truyền thống cách mạng vẻ vang của
Đảng, của đất nước và con người Việt Nam; thể hiện một cách sinh động về
các sự kiện cách mạng, nhân cách và vai trò của các anh hùng dân tộc,
danh nhân của đất nước; góp phần tô điểm, làm sáng lên truyền thống yêu
nước, dựng nước và giữ nước của dân tộc Việt Nam. DTLSCM là minh
chứng sinh động và sâu sắc về lịch sử đấu tranh giải phóng dân tộc, bảo vệ
Tổ quốc dưới sự lãnh đạo của ĐCSVN.
Bảo tồn và phát huy giá trị các DTLSCM có vai trò quan trọng trong
xây dựng nền văn hóa tiên tiến đậm đà bản sắc dân tộc. Nghị quyết Hội
nghị lần thứ năm BCHTW Đảng khóa VIII xác định: “phải hết sức coi
trọng bảo tồn, kế thừa, phát huy những giá trị văn hóa truyền thống (bác
học và dân gian), văn hóa cách mạng, bao gồm cả văn hóa vật thể và phi
vật thể” [9, tr.60]. Bảo tồn và phát huy giá trị các DTLSCM góp phần
tuyên truyền, giáo dục về truyền thống “uống nước nhớ nguồn”, truyền
thống yêu nước, dựng nước đi đôi với giữ nước của dân tộc. Hệ thống
DTLSCM là nguồn lực cho phát triển KT - XH; nếu được khai thác, sử dụng
hiệu quả, hợp lý sẽ góp phần không nhỏ cho phát triển kinh tế đất nước. Đây
là yêu cầu cấp thiết khi đất nước cần phát huy tối đa nội lực để phát triển.
Nghệ An là một trong những tỉnh in đậm dấu ấn văn hoá - lịch sử của đất
nước trong suốt cả quá trình dựng nước và giữ nước. Trên địa bàn tỉnh Nghệ An có
nhiều loại hình di tích như: DTLSVH, DTLSCM, di tích kiến trúc nghệ thuật. Đây
là những chứng cứ thể hiện cội nguồn, truyền thống và bản sắc văn hoá xứ Nghệ.
Trước năm 1996, trên địa bàn tỉnh Nghệ An có 28 DTLSCM cấp quốc gia. Các
DTLSCM đã được Đảng bộ và nhân dân tỉnh Nghệ An bước đầu quan tâm bảo
tồn và phát huy giá trị. Hoạt động trùng tu, tôn tạo di tích diễn ra nhiều nơi, do
5
6
nhiều lực lượng tiến hành. Một số DTLSCM đã được đầu tư chống xuống cấp,
phục hồi, tôn tạo ở các mức độ và trình độ khác nhau. Tiêu biểu có các di tích
Tràng Kè, di tích nghĩa trang liệt sỹ 12/9/1930... Hoạt động tri ân, tưởng niệm,
giáo dục truyền thống, nghiên cứu, học tập, tham quan ngoại khóa... được tổ
chức có nề nếp. Các DTLSCM đã và đang trở thành nguồn lực để phát triển;
là nhân tố quan trọng trong giáo dục truyền thống cách mạng, hình thành và
hoàn thiện nhân cách con người, góp phần xây dựng và phát triển kinh tế, văn
hóa, xã hội của tỉnh Nghệ An.
Tuy nhiên, nhiều DTLSCM đã và đang xuống cấp nghiêm trọng do tác
động của thời tiết, khí hậu, các biến cố lịch sử và sự xâm hại của con người;
hay trong quá trình tu bổ, tôn tạo lại xảy ra hư hỏng, thất lạc, mất mát và sai
lệch so với di tích gốc. Việc phát huy giá trị gặp nhiều khó khăn, hiệu quả
thấp, một số di tích vắng khách tham quan, thiếu người chăm sóc. Mức độ
xâm hại, lấn chiếm di tích ngày càng nghiêm trọng. Sự phát triển mạnh của
kinh tế thị trường, bên cạnh những mặt thuận lợi mang lại, vẫn còn có những
tác động tiêu cực đến việc bảo tồn DTLSCM như: mâu thuẫn giữa nhu cầu
khai thác nguyên vật liệu, xây dựng các công trình kinh tế, công trình dân
dụng, nhà ở… với yêu cầu bảo tồn nguyên vẹn di tích gốc.
Giá trị quan trọng của các DTLSCM trên địa bàn cả nước nói chung và
Nghệ An nói riêng còn là chứng tích, là vũ khí sắc bén trong cuộc đấu tranh
trên mặt trận tư tưởng lý luận hiện nay đối với các thế lực chống phá cách
mạng Việt Nam. Các thế lực phản cách mạng vẫn tìm mọi cách xuyên tạc, bóp
méo lịch sử; cố tình biện minh cho quá trình xâm lược phi nghĩa của thực dân
Pháp và đế quốc Mỹ đối với nước ta. Phủ nhận vai trò lãnh đạo của Đảng
cũng như công lao và sự hy sinh lớn lao của các thế hệ cách mạng Việt Nam
trong cuộc đấu tranh giành độc lập, thống nhất nước nhà. Làm suy giảm niềm
tin của nhân dân đối với sự lãnh đạo của Đảng, hướng thế hệ trẻ thờ ơ với giá
6
7
trị truyền thống oanh liệt của dân tộc, giá trị của độc lập tự do mà các thế hệ
cách mạng Việt Nam đã phải hy sinh xương máu mới giành lại được. Do vậy,
DTLSCM không chỉ có giá trị về lịch sử truyền thống mà còn góp phần quan
trọng trong cuộc đấu tranh trên mặt trận văn hóa, tư tưởng. Trước những vấn
đề đặt ra, đòi hỏi phải tăng cường bảo tồn và phát huy DTLSCM của tỉnh với
những chính sách và giải pháp phù hợp.
Qua quá trình tổng quan các công trình nghiên cứu liên quan đến đề tài
cho thấy, hoạt động bảo tồn và phát huy giá trị DTLSVH nói chung và DTLSCM
nói riêng thu hút sự quan tâm của nhiều nhà khoa học, đội ngũ cán bộ lãnh đạo,
quản lý, cán bộ chuyên trách. Tuy nhiên, chưa có công trình nào nghiên cứu về
bảo tồn và phát huy giá trị các DTLSCM dưới sự lãnh đạo của Đảng bộ địa
phương theo chuyên ngành khoa học Lịch sử ĐCSVN. Đây vẫn là một “khoảng
trống” cần được nghiên cứu.
Từ những lý do trên, Tác giả chọn đề tài: “Đảng bộ tỉnh Nghệ An lãnh
đạo bảo tồn và phát huy giá trị các di tích lịch sử cách mạng từ năm 1996 đến
năm 2015” làm luận án tiến sĩ Lịch sử, chuyên ngành Lịch sử ĐCSVN.
2. Mục đích và nhiệm vụ nghiên cứu
* Mục đích nghiên cứu:
Làm rõ sự lãnh đạo của Đảng bộ tỉnh Nghệ An về bảo tồn và phát huy
giá trị các DTLSCM từ năm 1996 đến năm 2015; đúc rút kinh nghiệm để
tham khảo, vận dụng vào hiện tại.
* Nhiệm vụ nghiên cứu:
- Trình bày, luận giải những yếu tố tác động đến sự lãnh đạo của Đảng bộ
tỉnh Nghệ An về bảo tồn và phát huy giá trị các DTLSCM (1996 - 2015).
- Hệ thống hóa và phân tích làm rõ chủ trương, sự chỉ đạo của Đảng bộ tỉnh
Nghệ An về bảo tồn và phát huy giá trị các DTLSCM từ năm 1996 đến năm 2015.
- Nhận xét, đúc rút những kinh nghiệm từ quá trình Đảng bộ tỉnh Nghệ An
lãnh đạo bảo tồn và phát huy giá trị DTLSCM giai đoạn 1996 - 2015.
7
8
3. Đối tượng và phạm vi nghiên cứu
* Đối tượng nghiên cứu:
Sự lãnh đạo của Đảng bộ tỉnh Nghệ An về bảo tồn và phát huy giá trị
các DTLSCM.
* Phạm vi nghiên cứu:
Di tích lịch sử cách mạng là những di tích thuộc loại hình di tích lịch sử
hoặc di tích lịch sử - kiến trúc nghệ thuật, nhưng giá trị nổi bật của chúng
được xác định bởi (các di tích đó) hoặc là: Công trình xây dựng, địa điểm gắn
với sự kiện lịch sử, văn hóa tiêu biểu của quốc gia và của địa phương dưới sự
lãnh đạo của Đảng Cộng sản Việt Nam, hoặc là công trình xây dựng, địa điểm
gắn với thân thế và sự nghiệp của anh hùng dân tộc, danh nhân, nhân vật lịch sử
có ảnh hưởng tích cực đến sự phát triển của quốc gia hoặc địa phương trong các
thời kỳ lịch sử cách mạng, kháng chiến.
Di tích lịch sử cách mạng được chia thành 3 loại: di tích quốc gia đặc
biệt; di tích quốc gia; di tích cấp tỉnh, thành phố. Bảo tồn DTLSCM bao gồm
các hoạt động: bảo quản, tu bổ và phục hồi di tích. Phát huy giá trị các
DTLSCM là hoạt động khai thác và sử dụng giá trị DTLSCM phục vụ cho
lợi ích của toàn xã hội; hướng vào việc khai thác các giá trị văn hóa yêu
nước, truyền thống chống giặc ngoại xâm vào xây dựng và phát triển kinh tế,
văn hóa, xã hội.
Nội dung: luận án nghiên cứu chủ trương và sự chỉ đạo của Đảng bộ tỉnh
Nghệ An về bảo tồn và phát huy giá trị các DTLSCM cấp Quốc gia từ năm 1996
đến năm 2015, không nghiên cứu đối với các di tích quốc gia đặc biệt. Khảo sát,
nghiên cứu đối với một số di tích quốc gia trọng điểm của tỉnh Nghệ An như: Khu
lưu niệm Phan Bội Châu, di tích Xô viết Nghệ Tĩnh; Khu lưu niệm Lê Hồng Phong,
Mộ và nhà thờ Hồ Tùng Mậu, Khu lưu niệm Phùng Chí Kiên, Nhà lưu niệm Phan
Đăng Lưu, di tích Truông Bồn, di tích Tràng Kè, đình Võ Liệt...
Không gian: Địa bàn tỉnh Nghệ An.
8
9
Thời gian: Từ 1996 đến năm 2015, có mở rộng nghiên cứu trước năm
1996 và sau năm 2015.
Tác giả đặt trọng tâm nghiên cứu trong giai đoạn từ 1996 đến năm 2015
vì đây là khoảng thời gian Đảng bộ tỉnh Nghệ An có sự quan tâm, chăm lo
nhiều hơn cho nhiệm vụ bảo tồn và phát huy giá trị DLSCM. Năm 1991, tỉnh
Nghệ An được tái lập, giai đoạn 1991 - 1995, UBND tỉnh Nghệ An tập trung
kiện toàn bộ máy quản lý nhà nước, khắc phục những khó khăn trong phát
triển KT - XH, nhiệm vụ bảo tồn và phát huy giá trị các DTLSCM chưa được
coi trọng đúng mức, nhiều di tích bị xuống cấp nghiêm trọng.
1, Mốc mở đầu để nghiên cứu là năm 1996, năm Đảng bộ tỉnh Nghệ An
tiến hành Đại hội đại biểu Đảng bộ tỉnh Nghệ An lần thứ XIV (nhiệm kỳ 1996
- 2000), Nghị quyết Đại hội đại biểu Đảng bộ tỉnh Nghệ An lần thứ XIV đánh
dấu sự quan tâm nhiều hơn của Đảng bộ đến nhiệm vụ bảo tồn và phát huy
giá trị các DTLSVH nói chung và DTLSCM nói riêng.
2, Phân kỳ lịch sử 2 giai đoạn nghiên cứu là 1996 - 2005 và 2006 2015; vì đến thời điểm 2005, Đảng bộ tỉnh Nghệ An đã có chủ trương và sự
chỉ đạo khắc phục sự xuống cấp của một số DTLSCM quan trọng, quan tâm
đầu tư bảo tồn và phát huy giá trị một số DTLSCM trọng điểm phục vụ cho
năm du lịch Nghệ An 2005. Từ năm 2006, Đảng bộ tỉnh Nghệ An có sự điều
chỉnh về chủ trương và chỉ đạo về bảo tồn và phát huy giá trị các DTLSCM
gắn liền với Đại hội đại biểu Đảng bộ tỉnh Nghệ An lần thứ XVI (Năm 2006).
3, Mốc thời gian kết thúc để nghiên cứu luận án là năm 2015; Đây là
thời điểm kết thúc thực hiện Nghị quyết Đại hội Đảng bộ tỉnh Nghệ An lần
thứ XVII (năm 2015), Theo đánh giá của Nghị quyết Đại hội Đảng bộ tỉnh
Nghệ An lần thứ XVIII, nhiệm vụ bảo tồn và phát huy giá trị các DTLSCM
cấp quốc gia trọng điểm trên địa bàn tỉnh đạt được nhiều thành tựu quan
trọng, các di tích tiêu biểu được đầu tư bảo tồn, tôn tạo bằng việc thành lập và
thực hiện dự án. Hoạt động phát huy giá trị DTLSCM trong giáo dục truyền
thống cách mạng, phát triển văn hóa, gắn bảo tồn di tích với phát triển du lịch
đạt được những kết quả nhất định.
9
10
4. Cơ sở lý luận, thực tiễn và phương pháp nghiên cứu
* Cơ sở lý luận:
Luận án nghiên cứu dựa trên cơ sở lý luận của chủ nghĩa Mác - Lênin, tư
tưởng Hồ Chí Minh; chủ trương của ĐCSVN về bảo tồn và phát huy giá trị DSVH;
bảo tồn và phát huy giá trị DTLSVH và DTLSCM.
* Cơ sở thực tiễn:
Luận án nghiên cứu trên cơ sở thực tiễn hoạt động lãnh đạo của Đảng bộ tỉnh
Nghệ An về bảo tồn và phát huy giá trị các DTLSCM. Khai thác, sử dụng các tài liệu
phản ánh sự lãnh đạo của Đảng, Đảng bộ tỉnh Nghệ An; các văn kiện của Tỉnh ủy,
BTV Tỉnh ủy, UBND tỉnh Nghệ An về bảo tồn và phát huy giá trị các DTLSCM được
lưu trữ tại phòng Lưu trữ Tỉnh ủy, kho Văn thư - lưu trữ của UBND tỉnh; các báo cáo
tổng kết của Sở Văn hóa, Thể thao và Du lịch, Ban Quản lý di tích và danh thắng Nghệ
An về bảo tồn và phát huy giá trị di tích và danh thắng trên địa bàn tỉnh.
* Phương pháp nghiên cứu:
Tác giả sử dụng tổng hợp các phương pháp chuyên ngành và liên
ngành, trong đó sử dụng chủ yếu phương pháp lịch sử và phương pháp lôgic.
Ngoài ra còn sử dụng một số phương pháp như: phương pháp tổng hợp,
phương pháp thống kê, phương pháp phân kỳ, phương pháp so sánh, phương
pháp khảo sát thực tiễn và phương pháp chuyên gia.
5. Những đóng góp mới của luận án
Luận án đã tổng quan các công trình nghiên cứu liên quan đến đề tài.
Hệ thống, khái quát hóa, phân tích làm rõ chủ trương và sự chỉ đạo của
Đảng bộ tỉnh Nghệ An về bảo tồn và phát huy giá trị các DTLSCM từ năm
1996 đến năm 2015.
Đưa ra nhận xét về quá trình Đảng bộ tỉnh Nghệ An lãnh đạo bảo tồn và phát
huy giá trị các DTLSCM (1996 - 2015) trên hai bình diện ưu điểm và hạn chế; làm rõ
nguyên nhân của những ưu điểm, hạn chế đó.
Đúc rút những kinh nghiệm có thể tham khảo, vận dụng vào lãnh đạo bảo
tồn và phát huy giá trị các DTLSCM hiện nay.
10
11
6. Ý nghĩa lý luận và thực tiễn của đề tài
* Ý nghĩa lý luận:
Luận án góp phần tổng kết lý luận, thực tiễn quá trình Đảng bộ tỉnh Nghệ An
lãnh đạo bảo tồn và phát huy giá trị các DTLSCM trên địa bàn tỉnh Nghệ An.
* Ý nghĩa thực tiễn:
- Những kinh nghiệm rút ra trong luận án có giá trị tham khảo, vận dụng
trong lãnh đạo bảo tồn và phát huy giá trị các DTLSCM của đảng bộ địa phương.
- Luận án góp phần bổ sung vào lịch sử Đảng bộ tỉnh Nghệ An trên lĩnh
vực văn hóa; là nguồn tư liệu tham khảo phục vụ nghiên cứu, giảng dạy Lịch
sử ĐCSVN và Lịch sử đảng bộ địa phương.
7. Kết cấu của luận án
Luận án bao gồm: Mở đầu, 4 chương (10 tiết), Kết luận, Danh mục các
công trình của tác giả đã công bố liên quan đến đề tài luận án, Danh mục tài
liệu tham khảo và Phụ lục.
11
12
Chương 1
TỔNG QUAN TÌNH HÌNH NGHIÊN CỨU
CÓ LIÊN QUAN ĐẾN ĐỀ TÀI LUẬN ÁN
1.1. Tình hình nghiên cứu có liên quan đến đề tài luận án
1.1.1. Các công trình nghiên cứu về bảo tồn và phát huy giá trị các di
tích lịch sử văn hóa
Các tác giả Nguyễn Đăng Duy, Trịnh Minh Đức (1993), Bảo tồn di tích
lịch sử - văn hoá [26]. Công trình này đi sâu trình bày về vị trí, tầm quan trọng của
các DTLSVH. Các di tích được coi là tài sản quý của quốc gia, là bộ phận di sản
vật thể có vai trò quan trọng trong bảo tồn bản sắc văn hóa dân tộc, xây dựng nền
văn hóa mới. Nêu lên thực trạng bảo tồn và khai thác các DTLSVH; trên cơ sở đó
đề xuất những giải pháp bảo tồn và phát huy giá trị một số DTLSVH tiêu biểu
như: Văn miếu Quốc Tử Giám, Phủ Chủ tịch... theo hướng bảo tồn để phát triển.
Tác giả Đặng Việt Thủy (Chủ biên), (1996), Di tích lịch sử văn hóa nổi
tiếng ở Việt Nam [124]. Tác giả Dương Văn Sáu (2000) Di tích lịch sử - văn
hóa, danh lam thắng cảnh Việt Nam [96]. Các tác giả trình bày khái niệm và
phân loại các DTLSVH, danh thắng của Việt Nam. Giới thiệu về lịch sử hình
thành và những nét cơ bản về công trình kiến trúc của một số DTLSVH, danh
thắng tiêu biểu như: Khu di tích Văn Miếu Quốc Tử Giám, Nghĩa trang
Trường Sơn, đền Ngọc Sơn - Hoàn Kiếm, tháp Po Klong Garai... Ở địa phương
nào cũng có những di tích biểu tượng cho tinh thần yêu nước, bản lĩnh kiên
cường của người Việt Nam, nền văn hóa giàu bản sắc của các dân tộc. Các tác
giả đã giới thiệu về cụm di tích Chủ tịch Hồ Chí Minh tại Nghệ An và Khu lưu
niệm Phan Bội Châu ở thị trấn Nam Đàn - Nghệ An. Tuy nhiên, mới chỉ giới
thiệu sơ bộ về địa điểm và hiện trạng một số công trình chính của các di tích.
Tác giả Hoàng Thanh Hải (1999), Sử dụng di tích lịch sử trong dạy học
lịch sử dân tộc ở các trường trung học cơ sở [57]. Trong công trình này tác
giả tập trung luận giải những vấn đề lý luận và thực tiễn về việc sử dụng các
12
13
DTLS trong dạy học lịch sử dân tộc ở các trường trung học cơ sở; mối quan
hệ giữa các DTLS với nội dung, chương trình lịch sử dân tộc ở các trường
trung học cơ sở. Đề xuất những hình thức và phương pháp sử dụng các DTLS
trong dạy học lịch sử dân tộc ở các trường trung học cơ sở.
Tác giả Từ Mạnh Lương (2003), nghiên cứu về Một số chính sách và giải
pháp kinh tế - xã hội chủ yếu nhằm bảo tồn, tôn tạo và nâng cao hiệu quả khai
thác di tích lịch sử văn hóa của dân tộc giai đoạn phát triển mới của đất nước
[87]. Tác giả trình bày những vấn đề lý luận và thực tiễn về các chính sách, giải
pháp KT - XH trong bảo tồn, tôn tạo và nâng cao hiệu quả khai thác các DTLSVH.
Nêu lên thực trạng về một số chính sách và giải pháp KT - XH chủ yếu để bảo tồn,
tôn tạo, nâng cao hiệu quả khai thác các DTLSVH ở Việt Nam. Đưa ra một số
chính sách và giải pháp KT - XH chủ yếu nhằm nâng cao hiệu quả bảo tồn, tôn tạo
và khai thác DTLSVH trong giai đoạn phát triển mới của đất nước.
Tác giả Đinh Trung Kiên (2003), “Di tích lịch sử và tư liệu lịch sử với
việc phát triển du lịch Việt Nam” [79]. Tác giả chỉ rõ: DTLS và tư liệu lịch sử
là nguồn tài nguyên du lịch sẵn có và hấp dẫn trong phát triển du lịch. Đưa ra
một số biện pháp khai thác hiệu quả DTLS và tư liệu lịch sử cho phát triển
kinh tế du lịch Việt Nam. Cùng nghiên cứu về vai trò của di tích trong phát
triển du lịch, tác giả Nguyễn Văn Đức (2013) với đề tài: Tổ chức các hoạt
động du lịch tại một số di tích lịch sử văn hóa quốc gia của Hà Nội theo
hướng phát triển bền vững [53]. Công trình đã làm rõ cơ sở khoa học tổ chức
các hoạt động du lịch tại các khu DTLSVH; trình bày thực trạng tổ chức các
hoạt động du lịch tại một số DTLSVH quốc gia của Hà Nội; đi sâu khảo sát
tại: đền Ngọc Sơn, Văn miếu Quốc tử giám, thành Cổ Loa. Tác giả nêu lên
bốn quan điểm vừa bảo tồn vừa khai thác bền vững các di tích: Bảo tồn và
phát huy giá trị của DTLS phải bảo đảm tính trung thực lịch sử hình thành di
tích, không được làm sai lệch các giá trị và đặc điểm vốn có của di tích, phải
giữ nguyên tính nguyên gốc của di tích; khai thác các DTLSVH phải nhằm
13
14
phát huy giá trị văn hóa vật thể và phi vật thể đối với phát triển KT - XH của
địa phương, của các ngành kinh tế; tạo lập sự hài hòa giữa phát triển kinh tế,
quá trình đô thị hóa với bảo vệ các di tích, ngăn chặn tình trạng xâm chiếm
đất đai và xây dựng các công trình không phù hợp trong khu vực bảo vệ di
tích; nâng cao vai trò quản lý nhà nước, thực hiện xã hội hóa hoạt động bảo
tồn và phát huy giá trị các di tích. Trên cơ sở đó, tác giả đề xuất các giải pháp
hoàn thiện tổ chức các hoạt động du lịch tại một số điểm DTLS tiêu biểu trên
địa bàn thành phố Hà Nội.
Tác giả Khoa Thị Khánh Chi (2010), nghiên cứu về Vi phạm di tích lịch
sử, văn hóa, danh lam thắng cảnh - thực trạng và giải pháp [21]. Công trình này
đã trình bày khái quát chung về DTLSVH và danh lam thắng cảnh; nêu lên thực
trạng những vi phạm di tích, danh thắng trên địa bàn cả nước nói chung và một
số di tích tiêu biểu tại một số địa phương như: chùa Phước Điền (chùa Hang) An Giang; đền Độc Cước - Thanh Hóa; Mộ và đền thờ Trần Quý Khoáng - Nghệ
An; núi Tam Thanh và núi Nàng Tô Thị - Lạng Sơn... Chỉ rõ nguyên nhân của
những vi phạm trên. Qua đó, tác giả đưa ra 12 giải pháp nhằm hạn chế tối đa
tình trạng vi phạm các di tích, danh thắng; nâng cao hiệu quả quản lý và bảo vệ
DTLSVH, danh lam thắng cảnh ở nước ta trong thời gian tới. Các tác giả Quốc
Hiệp, Thu Hằng (2013) nghiên cứu “Về tình hình vi phạm và xử lý vi phạm
trong hoạt động quản lý, tu bổ, tôn tạo di tích thời gian qua” [61]. Các tác giả
chỉ rõ: “Việc quản lý hoạt động bảo tồn di tích tại một số địa phương chưa chặt
chẽ, một số nơi để xảy ra hiện tượng tự ý tu bổ hoặc sơn thếp di tích, di vật;
không tuân thủ các quy định của pháp luật về đầu tư xây dựng và tu bổ di tích;
đưa đồ thờ tự không phù hợp vào di tích…, làm ảnh hưởng đến việc giữ gìn
yếu tố gốc và tính chất văn hóa tâm linh của di tích” [61, tr.42]. Công trình đã
làm rõ một số vi phạm thường xảy ra trong bảo tồn di tích như: xâm phạm khu
vực khoanh vùng bảo vệ và giải tỏa trong khu vực di tích; sai phạm trong tu bổ,
quản lý các hoạt động văn hoá, lễ hội tại các di tích. Chỉ ra nguyên nhân của
14
15
những vi phạm trên. Đề xuất một số giải pháp chủ yếu khắc phục và xử lý vi
phạm trong hoạt động quản lý, tu bổ, tôn tạo di tích.
Tác giả Nguyễn Thịnh (2012), Di sản văn hóa Việt Nam, bản sắc và
những vấn đề về quản lý, bảo tồn [116]. Nguyễn Đình Thanh, Lê Thị Minh Lý
(2008), Di sản văn hóa bảo tồn và phát triển [111]. Các tác giả tập trung luận giải
khái niệm về DSVH và bản sắc riêng có của nó; nêu lên chức năng và phân loại
các DSVH. Có sự tham khảo một số kinh nghiệm bảo tồn DSVH ở nước ngoài và
đề xuất phương hướng, giải pháp trong quản lý và bảo tồn các DSVH ở Việt Nam.
Nghiên cứu của Ngô Thị Ngà (2013), về “Đảng bộ tỉnh Thái Nguyên lãnh
đạo công tác bảo tồn và phát huy di tích lịch sử văn hóa từ năm 2001 đến năm
2010” [89]. Tác giả nêu lên thực trạng công tác bảo tồn, tôn tạo DTLSVH ở tỉnh
Thái Nguyên trước năm 2001. Hệ thống hóa chủ trương và sự chỉ đạo của Đảng
bộ tỉnh Thái Nguyên về bảo tồn và phát huy giá trị các DTLSVH (2001 - 2010).
Nhận xét, rút ra một số kinh nghiệm chủ yếu trong lãnh đạo, chỉ đạo và đề xuất
một số kiến nghị về công tác bảo tồn và phát huy DTLSVH trên địa bàn tỉnh
Thái Nguyên trong thời gian tới. Tuy nhiên, Thái Nguyên là tỉnh có số lượng di
tích khá lớn với hơn 700 DTLSVH, trong nghiên cứu tác giả có đề cập đến một
số DTLSCM tiêu biểu trên địa bàn tỉnh nhưng chưa đi sâu nghiên cứu về bảo tồn
và phát huy giá trị các DTLSCM.
Nghiên cứu về bảo tồn di tích bằng hình thức bảo tàng, tác giả Nguyễn Thu
Trang (2013) trong bài “Bảo tồn và phát huy di sản văn hóa bằng hình thức bảo
tàng hóa di sản văn hóa” [152]; tác giả Nguyễn Thịnh (2014), Bảo tàng hóa di
tích [117]. Các tác giả luận giải về hình thức bảo tàng hóa trong bảo tồn và phát
huy giá trị DSVH. Theo tác giả Nguyễn Thu Trang:
Bảo tàng hóa DSVH theo nghĩa rộng là phương pháp tối ưu và hiện
đại nhằm bảo tồn và phát huy DSVH trực tiếp tại điểm di sản tồn
tại, ngay trong môi trường sinh thái nhân văn nơi di sản được sáng
tạo ra, hiện đang tồn tại và gắn bó mật thiết với đời sống thường
15
16
nhật của cộng đồng cư dân địa phương, các chủ thể sáng tạo văn
hoá. Môi trường bảo tàng được tạo dựng sau di sản (về thời gian) và
xung quanh di sản (về không gian), còn di sản lại trở thành hiện vật
trưng bày chính của bảo tàng vừa được ra đời [152, tr.97-98].
Tác giả nêu lên những kinh nghiệm thực hiện Bảo tàng hóa các DSVH
của: Ấn Độ, Trung Quốc, Việt Nam, Pháp, Ý, Ba Lan... Từ đó đề xuất một số
biện pháp nhằm góp phần bảo tồn và phát huy giá trị các di tích: đẩy mạnh hoạt
động nghiệp vụ của các di tích; vận dụng lý thuyết cơ bản của Bảo tàng học vào
hoạt động chuyên môn tại các di tích hoạt động như một bảo tàng.
Tác giả Trần Bá Đồng (2015), “Đảng bộ tỉnh Hà Tĩnh lãnh đạo bảo tồn và
phát huy giá trị các di tích lịch sử văn hóa từ năm 1998 đến năm 2013” [50]. Công
trình đã nêu rõ chủ trương và sự chỉ đạo của Đảng bộ tỉnh Hà Tĩnh bảo tồn và phát
huy giá trị các DTLSVH từ năm 1998 đến năm 2013; nhận xét và rút ra một số
kinh nghiệm từ quá trình Đảng bộ tỉnh Hà Tĩnh lãnh đạo bảo tồn và phát huy giá
trị các DTLSVH (1998 - 2013). Tác giả đã trình bày khá rõ nét về bảo tồn và phát
huy giá trị các DTLSVH của Hà Tĩnh - địa phương có hơn 300 di tích. Những
kinh nghiệm rút ra là cơ sở, tiền đề có thể vận dụng trong thực hiện nhiệm vụ bảo
tồn và phát huy giá trị DTLSVH ở các địa phương trong thời gian tới.
Nghiên cứu của Nguyễn Quốc Hùng (2015) “Vai trò của cộng đồng
trong bảo tồn và phát huy giá trị di sản văn hóa” [72]. Tác giả chỉ rõ trong
mấy ngàn năm dựng nước và giữ nước, cộng đồng các dân tộc Việt Nam đã
sáng tạo và giữ gìn được một kho tàng DSVH nhiều về số lượng, phong phú
về loại hình và đa dạng trong cách biểu đạt. Khối lượng DSVH đó được các
thế hệ người Việt sáng tạo, bảo tồn và trao truyền cho đến ngày nay. Có được
thành quả đó là nhờ cha ông ta đã phát huy được vai trò của cả cộng đồng
trong tham gia bảo tồn và phát huy giá trị các DSVH. Tác giả đưa ra một số
biện pháp nhằm phát huy hơn nữa vai trò của cộng đồng trong bảo tồn và phát
huy giá trị của các DSVH ở nước ta hiện nay.
16
17
1.1.2. Các công trình nghiên cứu về bảo tồn và phát huy giá trị các di
tích lịch sử cách mạng
1.1.2.1. Các công trình nghiên cứu về bảo tồn và phát huy giá trị các di
tích lịch sử cách mạng của cả nước
Tác giả Trần Tiến Dũng (chủ biên), (1976), Di tích cách mạng Việt Nam
(1930 - 1945) [25]. Phạm Hồng Châu (2013), Di tích lịch sử cách mạng Việt Nam
[19]. Các tác giả đã giới thiệu về DTLSCM trên địa bàn cả nước, trong đó đề cập
một số DTLSCM tiêu biểu ở Nghệ An: các di tích cơ bản nằm trong khu di tích
Kim Liên gắn với thân thế và sự nghiệp của Chủ tịch Hồ Chí Minh [25, tr.11-19];
các di tích gắn với lịch sử đấu tranh giành chính quyền dưới sự lãnh đạo của Đảng
như: Tràng Kè, đình Võ Liệt (Thanh Chương), đền Thuận Đức (Hưng Nguyên)
[25, tr.37-43]. Qua đó khẳng định: các DTLSCM là những “địa chỉ đỏ” trong giáo
dục truyền thống cách mạng cho các thế hệ hôm nay và mai sau. Tuy nhiên, các
tác giả mới chỉ đề cập sơ bộ về địa danh và lịch sử hình thành di tích, chưa đi sâu
làm rõ quá trình bảo tồn và phát huy giá trị các di tích này tại các địa phương cũng
như trên địa bàn cả nước.
Tác giả Đỗ Hồng Thái (1996) nghiên cứu về Sử dụng di tích lịch sử
cách mạng trong dạy học lịch sử ở trường phổ thông: “Đổi mới dạy học lấy
người học làm trung tâm” [110]. Công trình đã giới thiệu về khu di tích Tân
Trào và ý nghĩa của việc sử dụng khu di tích này đối với việc giảng dạy lịch
sử cho học sinh. Tác giả khẳng định: “giáo viên có thể sử dụng một cách linh
hoạt và rộng rãi nguồn thông tin, tư liệu và giá trị của di tích Tân Trào ở nhiều
bài học lịch sử, ở nhiều hình thức tổ chức dạy học với mục đích nâng cao chất
lượng dạy học lịch sử ở các trường phổ thông” [110, tr.239]. Nghiên cứu của
tác giả Hoàng Thanh Hải (1999), về Sử dụng di tích lịch sử trong dạy học lịch sử
dân tộc ở các trường trung học cơ sở [57]. Công trình đi sâu làm rõ những vấn đề
lý luận và thực tiễn về sử dụng DTLS trong dạy học lịch sử; ý nghĩa và vai trò của
17
18
DTLS đối với dạy học lịch sử ở các trường trung học cơ sở. Theo tác giả,
DTLSCM có 10 loại hình sau: 1 - Các di tích về phong trào yêu nước từ trước khi
có Đảng, các di tích về Phan Bội Châu, Phan Chu Trinh, Nguyễn Thái Học; 2 Các di tích về sự ra đời các tổ chức tiền thân của Đảng; 3 - Các di tích về thân thế
và sự nghiệp của chủ tịch Hồ Chí Minh; 4 - Di tích phản ánh về sự kiện, biến cố
lịch sử: Xô viết Nghệ Tĩnh, giai đoạn đấu tranh 1936 - 1939, 1939 - 1945 dưới sự
lãnh đạo của Đảng; 5 - Các di tích tiêu biểu của 2 cuộc kháng chiến; 6 - Hệ thống
di tích về căn cứ địa cách mạng: Việt Bắc, Tân Trào, Lộc Ninh, chiến khu D,
Đồng Tháp Mười; 7 - Di tích ghi dấu ấn tội ác của thực dân Pháp và đế quốc Mỹ
như: Côn Đảo, Hỏa Lò, Lao Bảo, Sơn Mỹ; 8 - Hệ thống di tích tưởng niệm, ghi
ơn các lãnh tụ; 9 - Đường giao thông, bến cảng, bến sông như: đường Trường
Sơn, đường Hồ Chí Minh trên biển, sông Bến Hải; 10 - Các di tích phản ánh sự
nghiệp xây dựng chủ nghĩa xã hội. Tác giả luận giải mối quan hệ giữa DTLS với
nội dung, chương trình dạy học môn lịch sử dân tộc ở các trường trung học cơ sở,
nêu lên những nguyên tắc sử dụng DTLS trong dạy học Lịch sử ở các trường
trung học cơ sở; trên cơ sở đó, đề xuất một số hình thức và phương pháp sử dụng
các DTLS trong dạy học lịch sử ở các trường trung học cơ sở.
Tác giả Nguyễn Thanh Minh (2004), “Di tích về Hồ Chí Minh ở Thái
Nguyên” [88]. Thái Nguyên là một tỉnh nằm trong An toàn khu (ATK) Việt Bắc,
nơi hiện đang lưu giữ nhiều dấu tích quan trọng của Trung ương Đảng, Chính
Phủ và Bác Hồ trong thời kỳ tiền khởi nghĩa và trong cuộc kháng chiến chống
thực dân Pháp xâm lược. Đặc biệt, ATK Định Hóa được coi là Thủ đô của kháng
chiến. Bài viết đã cung cấp thông tin và giới thiệu sơ bộ về 47 di tích và điểm di
tích gắn bó với hoạt động của Bác Hồ ở tỉnh Thái Nguyên.
Đỗ Đức Hinh (2004), “Cần có cách nhìn lịch sử trong bảo tồn, tôn tạo
khu di tích Điện Biên Phủ” [62]. Theo tác giả, Khu di tích Điện Biên Phủ gồm
nhiều di tích, vấn đề bảo tồn cần thống nhất quan điểm trong quy hoạch và
quy hoạch theo từng khu di tích để tạo ra một tập hợp khu di tích liên hoàn. Qua
18
19
đó, nêu lên những nội dung cần nắm vững trong bảo tồn tôn tạo khu di tích này:
Một là, cần đặt di tích đúng với ý nghĩa và tầm vóc của nó; Hai là, cần đặt nó dưới
góc độ một cuộc đụng đầu lịch sử, một trận quyết chiến chiến lược, nơi minh
chứng cho nghệ thuật quân sự và sức mạnh của chiến tranh nhân dân Việt Nam;
Ba là, cần đặt di tích trong sự phát triển bền vững của môi trường sinh thái, môi
trường văn hóa nói chung và môi trường văn hóa tây Bắc nói riêng.
Tác giả Đỗ Hữu Hà (chủ biên) (2006), Di tích lịch sử cách mạng Thừa Thiên
Huế [55]. Cuốn sách đã khái quát và phân thành các nhóm về di tích và điểm di tích
theo các thời kỳ cụ thể là: di tích và điểm di tích thời kỳ trước và trong Cách mạng
Tháng Tám năm 1945; di tích và điểm di tích trong kháng chiến chống thực dân
Pháp xâm lược; di tích và điểm di tích trong kháng chiến chống đế quốc Mỹ xâm
lược. Trong đó, đi sâu giới thiệu về địa điểm và sự hình thành của 53 DTLSCM trên
địa bàn tỉnh Thừa Thiên Huế. Các DTLSCM trên địa bàn tỉnh thể hiện sự đóng góp
của Đảng bộ và nhân dân Thừa Thiên Huế trong lịch sử đấu tranh cách mạng dưới sự
lãnh đạo của Đảng. Tuy nhiên, công trình mới chỉ giới thiệu sơ bộ về địa điểm cũng
như sự kiện lịch sử cách mạng gắn với việc hình thành di tích, chưa đi sâu luận giải
đến hoạt động bảo tồn và phát huy giá trị DTLSCM.
Trần Đức Nguyên (2010) “Phát huy giá trị của các di tích lịch sử cách
mạng - kháng chiến trên địa bàn thủ đô Hà Nội” [91]. Theo tác giả: Di tích
cách mạng - kháng chiến là một bộ phận cấu thành hệ thống các DTLSVH,
tuy nhiên, nó có những điểm khác với các di tích tôn giáo tín ngưỡng như
đình, đền, chùa, miếu ở chỗ: đó là những địa điểm cụ thể, công trình kiến trúc
có sẵn (nhà ở, đường phố…), những công trình được con người tạo nên phù
hợp với mục đích sử dụng (địa đạo, hầm bí mật…) gắn với những sự kiện cụ
thể, nhân vật lịch sử mà trở thành di tích như: Khu di tích Phủ Chủ tịch, Nhà
48 Hàng Ngang, Nhà lưu niệm Vạn Phúc, Hầm chỉ huy Thành ủy ở Võng Thị,
Hồ Hữu Tiệp (nơi máy bay B52 Mỹ bị bắn rơi)... Các di tích này vừa khó bảo
19
20
tồn vừa khó phát huy tác dụng nếu không được quan tâm đặc biệt. Tác giả đã
thống kê về các DTLSCM và nêu lên giá trị lịch sử, văn hóa, lưu niệm, giáo
dục truyền thống của các di tích; đánh giá thực trạng và đề xuất những giải
pháp nhằm phát huy hơn nữa giá trị các DTLSCM trên địa bàn thủ đô Hà Nội.
Tác giá Nguyễn Quốc Hùng (2012), “Di tích cách mạng - bằng chứng
của sự đổi thay” [71]. Tác giả đề cập đến quan niệm về DTLSCM trong kho tàng
DSVH Việt Nam. Theo đó “Trong kho tàng di sản văn hóa Việt Nam, có một
loại hình di tích đặc biệt, khi được xếp chung với di tích lịch sử, khi được
tách riêng với xưng danh “di tích cách mạng” [71, tr.3]. Loại hình di tích này
là bằng chứng của một giai đoạn lịch sử, gắn liền với phong trào cách mạng
dưới sự lãnh đạo của ĐCSVN. Đây là giai đoạn lịch sử làm thay đổi diện
mạo và nâng cao vị thế của đất nước. DTLSCM “là những bằng chứng thể
hiện vật chất và tinh thần phản ánh quá trình đấu tranh giành độc lập dân tộc
(1930 - 1945), cuộc kháng chiến chống thực dân Pháp (1945 - 1954), chống
đế quốc Mỹ thống nhất đất nước (1954 - 1975), những cuộc chiến bảo vệ
biên giới phía Bắc, biên giới Tây Nam và quá trình xây dựng đất nước dưới
sự lãnh đạo của Đảng” [71, tr.3].
Về thời gian ra đời của các DTLSCM: “Dấu mốc bắt đầu của giai đoạn lịch
sử này có thể được đẩy lên sớm hơn trước khi Đảng ra đời, bắt đầu từ các phong
trào yêu nước cuối thế kỷ XIX - đầu thế kỷ XX. Chí ít là thời điểm ra đời và hoạt
động của các tổ chức cách mạng tiền thân của Đảng Cộng sản Việt Nam” [71, tr.4].
Không gian phân bố các DTLSCM trải dài trên khắp đất nước. Tác giả nêu lên
những khó khăn trong hoạt động bảo tồn và phát huy giá trị của loại hình di tích
này. Từ đó khẳng định: các DTLSCM được bảo tồn, giữ gìn và phát huy hiệu
quả, phù hợp với truyền thống và thời đại sẽ là những thông điệp, những bằng
chứng sinh động có sức thuyết phục đối với các thế hệ Việt Nam.
20
21
Các tác giả Sông Lam, Bình Minh, Minh Khánh (2012), Địa chỉ đỏ của
tuổi trẻ Việt Nam [80]. Theo các tác giả: hiện nay, nhiều đoàn viên thanh niên
trong đó có cả học sinh, sinh viên đang ngồi trên ghế nhà trường “hổng” kiến
thức về lịch sử dân tộc, lịch sử cách mạng, ít được tiếp cận với các DTLSCM,
những “địa chỉ đỏ” ngay chính trên quê hương mình... Cuốn sách giới thiệu về
các DTLSCM như: An toàn khu Định Hóa, Ngã ba Đồng Lộc, Nhà tù Côn Đảo,
Thành cổ Quảng Trị, Truông Bồn... Qua đó khẳng định giá trị văn hóa, lịch sử;
truyền thống cách mạng của các di tích, là nơi góp phần giáo dục truyền thống
đối với toàn thể nhân dân đặc biệt là thế hệ trẻ Việt Nam.
Ban Chấp hành Đảng bộ tỉnh ĐắkNông (2013), Lịch sử di tích cách
mạng nhà ngục ĐăkMil (1942 - 1943) [3]. Công trình tập trung trình bày về
âm mưu thành lập nhà ngục ĐăkMil của thực dân pháp, tinh thần đấu tranh
bất khuất của các chiến sỹ cách mạng tại nhà ngục này. Trên cơ sở đó, cần
tiếp tục phát huy giá trị di tích nhà ngục ĐăkMil với công cuộc bảo vệ Tổ
quốc hiện nay. Đưa ra những biện pháp bảo tồn và phát huy giá trị di tích nhà
ngục ĐăkMil trong thời gian tới như: tổ chức công tác giáo dục, giới thiệu di
tích đến các nhà trường, thầy, cô giáo, các em học sinh, phụ huynh; tổ chức
trưng bày, giới thiệu hiện vật, phù hợp với tâm lý, tình cảm của các đối tượng
tham quan; khai thác di tích cần làm nổi bật lên những giá trị đặc sắc của di
tích; thực hiện có hiệu quả hoạt động phối hợp tuyên truyền, quảng bá trên
các phương tiện thông tin đại chúng; áp dụng những thành tựu khoa học công
nghệ vào bảo tồn và phát huy giá trị của các di tích; bổ sung các yếu tố cần
thiết để phát huy giá trị của các di tích như: đường giao thông, xây dựng
tượng đài, trồng cây xanh...
Các tác giả Lưu Đức Thọ, Nguyễn Thị Triều (2013), “Bảo tồn và phát huy
Di tích lịch sử cách mạng ở tỉnh Quảng Trị” [118]. Cuộc kháng chiến chống Pháp
và Mỹ đi qua đã để lại cho Quảng Trị nhiều DTLSCM có quy mô và tầm cỡ:
Thành cổ Quảng Trị, Sân bay Tà Cơn, Địa đạo Vĩnh Mốc, Nhà lao Lao Bảo…
21
22
Các tác giả nêu lên một số biện pháp bảo tồn và phát huy giá trị DTLSCM thời
gian tới như: công tác kiểm kê, điều tra di tích phải được tiến hành thường xuyên;
phát huy giá trị di tích cần chú trọng cả yếu tố vật chất và tinh thần; phân cấp quản
lý chặt chẽ; đẩy mạnh xã hội hóa bảo tồn và phát huy DTLSCM của tỉnh.
Tác giả Nguyễn Doãn Tuân (2013), “Pho sử vô giá từ các di tích lịch sử
văn hóa và cách mạng kháng chiến của Thủ đô Hà Nội” [156]. Trên địa bàn
Thủ đô không chỉ có về sự phong phú, đa dạng của DTLSVH, mà còn có các di
tích cách mạng kháng chiến như: nhà 90 Thợ Nhuộm, 5D Hàm Long, 48 Hàng
Ngang, với các địa đạo Nam Hồng, Hầm Chỉ huy Sư đoàn 361, pháo đài Xuân
Canh, pháo đài Láng... Những di tích cách mạng và kháng chiến là trang sử vẻ
vang chói lọi của Đảng bộ và nhân dân Thủ đô, của Đảng, Bác Hồ và cả dân
tộc; góp phần làm nên một bách khoa thư Hà Nội, bản sắc của “Thủ đô Anh
hùng”, “Thành phố di sản” thành phố ngàn năm văn hiến.
Tác giả Cao Huy Hùng (chủ biên) (2014), Di tích lịch sử văn hóa ở Thừa
Thiên Huế [68]. Cuốn sách khẳng định tỉnh Thừa Thiên Huế không chỉ có những
DTLSVH trường tồn với bề dày lịch sử, mà còn có các DTLSCM gắn với các sự
kiện cách mạng dưới sự lãnh đạo của Đảng và Đảng bộ trong tiến trình cách mạng
của dân tộc. Như Khu di tích Chín Hầm (thuộc phường An Tây, thành phố Huế),
Chiến khu Dương Hòa; Địa đạo Khu uỷ Trị Thiên Huế (xã Hương Vân, huyện
Hương Trà)... Các DTLSCM thể hiện phẩm chất, ý chí, trí tuệ và bản lĩnh cách mạng
của Đảng bộ và nhân dân xứ Huế. Ngày nay, việc bảo tồn, tôn tạo, giới thiệu về giá trị
của hệ thống DTLSVH trên địa bàn Huế có ý nghĩa to lớn trong giáo dục truyền
thống, giáo dục những giá trị văn hóa tốt đẹp cho các thế hệ người Việt Nam. Tuy
nhiên, công trình chưa đi sâu luận giải về quá trình bảo tồn và phát huy giá trị các
DTLSCM dưới sự lãnh đạo của Đảng bộ địa phương.
Tác giả Phạm Xuân Thăng (2014) “Phát huy giá trị các di tích lịch sử cách
mạng trên địa bàn tỉnh Hải Dương” [115]. Theo thống kê toàn tỉnh Hải Dương có
116 DTLSCM cấp quốc gia và cấp tỉnh. Thời gian qua, các DTLSCM đã được các
22
23
cấp ủy đảng, chính quyền và nhân dân trong tỉnh quan tâm đầu tư, tôn tạo. Tuy
nhiên, một tỷ lệ không nhỏ di tích đó đã và đang bị xuống cấp hoặc bị sử dụng sai
mục đích hay đã được phê duyệt dự án trùng tu, tôn tạo nhưng chưa được triển
khai xây dựng... Trên cơ sở đó, tác giả đề xuất những yêu cầu và biện pháp nhằm
bảo tồn và phát huy giá trị của các DTLSCM trên địa bàn tỉnh.
Trần Đức Nguyên (2014) nghiên cứu về “Các di tích lịch sử cách mạng
tiêu biểu ở tỉnh Bắc Ninh” [92]. Tác giả nêu rõ: tỉnh Bắc Ninh là địa phương
giàu truyền thống lịch sử, đấu tranh cách mạng. Truyền thống đó được minh
chứng qua hệ thống DTLSVH đa dạng và phong phú, trong đó có các
DTLSCM. Các DTLSCM tiêu biểu của tỉnh như: Khu di tích lưu niệm đồng
chí Nguyễn Văn Cừ, Khu di tích lưu niệm đồng chí Ngô Gia Tự, Di tích gác
nhà cụ Đám Thi - địa điểm được Thường vụ Trung ương Đảng và Xứ ủy Bắc
Kỳ đã chọn làm cơ sở hoạt động cách mạng... Ngày nay, những di tích ấy đã
và đang giữ vai trò quan trọng trong đời sống xã hội, góp phần không nhỏ
trong việc giáo dục truyền thống yêu nước cho thế hệ trẻ trên địa bàn tỉnh nói
riêng và nhân dân cả nước nói chung.
1.1.2.2. Các công trình nghiên cứu về bảo tồn và phát huy giá trị các di
tích lịch sử cách mạng ở Nghệ An
Tác giả Đoàn Minh Duệ (chủ nhiệm đề tài) (2004), Những giải pháp
nâng cao chất lượng giáo dục truyền thống cho thanh, thiếu niên tỉnh Nghệ An
[24]. Tác giả nêu lên khái niệm về truyền thống và các truyền thống đặc trưng
của con người Nghệ An. Khái quát những nét tiêu biểu về thực trạng công tác
giáo dục truyền thống cho thanh thiếu niên ở Nghệ An. Từ đó, đề xuất những
giải pháp nâng cao chất lượng giáo dục truyền thống cho thanh thiếu niên trên
địa bàn tỉnh Nghệ An hiện nay. Các tác giả khẳng định: quá trình mở cửa, hội
nhập quốc tế mang lại nhiều thuận lợi, song cũng đặt ra nhiều thách thức, tiêu
cực về lý tưởng cách mạng, đạo đức, văn hóa của một bộ phận không nhỏ
thanh, thiếu niên đang có dấu hiệu suy thoái, xuống cấp. Việc lựa chọn và phát
23
24
huy những giá trị văn hóa, nhất là truyền thống cách mạng để giáo dục cho
thanh thiếu niên là yêu cầu bức thiết. Theo các tác giả: “di tích lịch sử văn hóa
và cách mạng cung cấp những kiến thức văn hóa, lịch sử, truyền thống cách
mạng của dân tộc và quê hương xứ Nghệ, là cội nguồn để hun đúc lòng tự hào
dân tộc, xây dựng bản lĩnh, trí tuệ cho thế hệ trẻ” [24, tr.119]. Để nâng cao
tính hiệu quả giáo dục truyền thống qua sử dụng các di tích; cần đưa chương
trình tham quan, hoạt động ngoại khóa ở các di tích vào kế hoạch đào tạo của
trường, gắn liền với nội dung, chương trình giảng dạy các môn khoa học xã
hội; kết hợp hoạt động tham quan với hoạt động văn nghệ và gặp gỡ, trao đổi
với nhân chứng lịch sử. Những hoạt động này được tổ chức chu đáo, linh hoạt
sẽ gây được hứng thú và xúc động trong giới trẻ, hun đúc tinh thần ham học
hỏi, tự phấn đấu, tự rèn luyện, noi gương các thế hệ cha anh đi trước. Công
trình mới chỉ đề cập tới biện pháp khai thác giá trị của hệ thống DTLSVH nói
chung và DTLSCM nói riêng trong giáo dục truyền thống. Chưa luận bàn về
quá trình bảo tồn, tôn tạo cũng như việc phát huy giá trị các DTLSCM trong
phát triển kinh tế, văn hóa, xã hội của tỉnh Nghệ An.
Sở Văn hóa Thông tin Nghệ An (2005), Nghệ An di tích danh thắng
[102]. Nghệ An là một trong những địa chỉ văn hóa đặc biệt của cả nước với
hệ thống di tích và danh thắng đa dạng, phong phú, nhiều chủng loại. Các
DTLSCM trên địa bàn tỉnh là nơi ghi dấu những cơ sở cách mạng, phong
trào đấu tranh của nhân dân Nghệ An dưới sự lãnh đạo của Đảng. Hệ thống
di tích Xô viết Nghệ Tĩnh như: mộ các chiến sỹ hy sinh trong ngày
12/9/1930 ở Thái Lão - Hưng Nguyên; đình Võ Liệt; cụm di tích làng Đỏ Hưng Dũng; di tích Tràng Kè; Ngã ba Bến Thủy. Các di tích trong kháng
chiến chống Mỹ như: Truông Bồn, cột Mốc số 0 đường Hồ Chí Minh, Hang
Hỏa Tiễn. Các di tích lưu niệm danh nhân như: Khu di tích Phan Bội Châu,
di tích lưu niệm Lê Hồng Phong, Phan Đăng Lưu, Phùng Chí Kiên. Cuốn
sách cung cấp cho độc giả thông tin sơ bộ về địa điểm, lịch sử hình thành và
24
25
tồn tại của các DTLSCM tiêu biểu trên quê hương xứ Nghệ. Đây là một
nguồn lực quan trọng và cần thiết để phát triển KT - XH của tỉnh, là “địa chỉ
đỏ”, mạnh nguồn nuôi dưỡng và giáo dục những giá trị truyền thống cách
mạng cho các thế hệ hôm nay và mai sau.
Các tác giả Nguyễn Đức Cường, Phạm Hương Lan, Anh Minh
(2008), Huyền thoại Truông Bồn bản hùng ca thế kỷ XX [23]; Ban tổ chức
kỷ niệm 40 năm chiến thắng Truông Bồn (2008), Truông Bồn chiến công
và huyền thoại [8]. Các công trình đã giới thiệu về địa danh Truông Bồn là điểm kết nối các huyết mạnh giao thông quan trọng chi viện cho miền
Nam trong cuộc kháng chiến chống Mỹ; là địa điểm chiến đấu anh dũng,
kiên cường của bao thế hệ thanh niên xung phong Nghệ An, nổi bật là sự
hy sinh của 13 liệt sỹ thanh niên xung phong. Di tích Truông Bồn là bản
hùng ca nhằm tri ân các chiến sỹ, liệt sỹ của lực lượng bộ đội, thanh niên
xung phong, dân quân tự vệ đã ngã xuống trên mảnh đất này trong sự
nghiệp đấu tranh thống nhất nước nhà. Di tích Truông Bồn mãi mai là
mốc son chói ngời, “địa chỉ đỏ” để giáo dục truyền thống cách mạng cho
cán bộ, nhân dân, đặc biệt là cho các thế hệ trẻ.
Tác giả Nguyễn Xuân Thủy (2010), Di tích Bác Hồ ở Kim Liên
[125]. Cuốn sách giới thiệu về 13 di tích lịch sử gắn bó với quê nội, quê
ngoại, tuổi thơ và hai lần Bác về thăm quê (1957; 1961). Khu di tích Kim
Liên là một trong những di tích đặc biệt quan trọng gắn với quê hương, gia
đình, thời niên thiếu của Chủ tịch Hồ Chí Minh. Tác giả trình bày một số
nét về bảo tồn, tôn tạo khu di tích Kim Liên gắn với phát triển du lịch [125,
tr.87-93]. Từ góc nhìn mới về quan hệ biện chứng giữa văn hóa và du lịch,
kinh tế, Tỉnh ủy Nghệ An đã chủ trương lập dự án bảo tồn, tôn tạo Khu
DTLSVH Kim Liên gắn với phát triển du lịch. Dự án còn đi sâu bảo tồn và
phát huy giá trị các DSVH phi vật thể như: hát ví dặm, hát phường vải, đò
đưa, lễ hội dân gian… Những giá trị văn hóa gắn bó và tác động sâu sắc
25