Tải bản đầy đủ (.docx) (17 trang)

Tiểu luận về Nguồn gốc loài người

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (137.38 KB, 17 trang )

TRƯỜNG ĐẠI HỌC KHOA HỌC, ĐẠI HỌC HUẾ
KHOA LỊCH SỬ
------------------------

TIỂU LUẬN
CƠ SỞ KHẢO CỔ HỌC
ĐỀ TÀI:

NGUỒN GỐC LOÀI NGƯỜI

Giáo viên hướng dẫn: Nguyễn Văn Quảng
Sinh viên thực hiện: Trần Anh Thư
Mã sinh viên: 19T6021012
Lớp: Lịch sử

Huế, tháng 10/2019

MỤC LỤC


Trần Anh Thư

2


Trần Anh Thư

LỜI MỞ ĐẦU
Con người là loài động vật duy nhất quan tâm đến quá khứ, nguồn gốc của
mình. Từ khi có nhận thức, ta đã ý thức được loài người có quá khứ và mong
muốn tìm hiểu nguồn gốc do đâu mà loài người xuất hiện. Do đó, chúng ta đặt ra


những câu hỏi và luôn tìm cách lý giải phù hợp nhất về chúng.
Con người là gì?
Nguồn gốc loài người có từ đâu?
Từ trước tới nay đã có nhiều công trình, tác giả nghiên cứu những vấn đề
liên quan đến nguồn gốc loài người. Các công trình ấy đã đạt được nhiều thành
tựu nhưng vẫn chưa nghiên cứu toàn diện và lý giải có cơ sở hơn về nguồn gốc
loài người xuất hiện. Hiện vẫn còn nhiều ý kiến khác nhau liên quan đến phương
pháp luận và quan điểm trong việc nghiên cứu nguồn gốc loài người, nguyên
nhân và động lực trong việc chuyển biến từ vượn thành người. Các vấn đề về
nguồn gốc loài người đã, đang và vẫn sẽ được giải quyết tuỳ thuộc vào trình độ
văn hoá và tri thức của từng cộng đồng người, của từng dân tộc và từng thời đại,
gắn liền với tính cách mạng trong khoa học.
Bài tiểu luận này tập trung chủ yếu vào những quan niệm khác nhau về
nguồn gốc loài người trong từng thời kì, đồng thời tìm hiểu một số nguyên nhân
và động lực của quá trình chuyển biến từ vượn thành người. Bằng cách tổng hợp
một số những nghiên cứu về nguồn gốc loài người trên phạm vi toàn thế thế giới,
những nội dung trong tiểu luận hướng tới sự khái quát về những nhận thức con
người đã biết trong hành trình tìm lại nguồn gốc loài người, đồng thời đóng góp
phong phú thêm cho đề tài nghiên cứu .

3


Trần Anh Thư

NỘI DUNG
Chương 1: NHỮNG QUAN ĐIỂM KHÁC NHAU VỀ NGUỒN GỐC
LOÀI NGƯỜI
1.1: Quan điểm duy tâm
Từ xa xưa đã có những huyền thoại khác nhau giải thích về nguồn gốc loài

người. Ở các nền văn minh lớn, nguồn gốc loại người càng được kể lại chi tiết
hơn trong những câu chuyện truyền miệng với nhiều yếu tố bí ẩn, huyền ảo.
Những huyền thoại, truyền thuyết, câu chuyện có yếu tố tôn giáo lý giải về nguồn
gốc con người hay dân tộc của họ. Các dân tộc lại có các câu chuyện riêng, số
lượng những lý giải về nguồn gốc con người rất nhiều và đôi lúc lại có nhiều sự
tương đồng với nhau.

1.1.1: Truyền thuyết, thần thoại
Huyền thoại là những câu chuyện được lưu truyền trong dân gian, do sự
tưởng tượng của con người, đưa ra những lời giải thích về thiên nhiên, lịch sử vũ
trụ, nhân loại, nguồn gốc của con người, thường đặt trọng tâm vào vai trò của
những đấng tâm linh được tạo thành theo trí tưởng tượng của con người.
Trên thế giới, những huyền thoại và truyền thuyết về nguồn gốc loài người
khá phong phú, hầu hết do một thực thể siêu nhiên sáng tạo nên:
- Ở Hy Lạp - Các sinh vật được 2 anh em Epimetheus trao tặng vật từ các
vị thần, Prometheus dùng bùn để tạo ra con người đầu tiên dựa theo hình dáng
của họ.

4


Trần Anh Thư
- Ở Trung Quốc - Nữ Oa dùng bùn vàng nặn ra người và thổi vào đó sự
sống, ban cho họ trí khôn và khả năng phát triển giống nòi.
- Ở Ấn Độ - Thần Hanuma đã dùng đất sét tạo ra người trên bàn xoay đồ
gốm.
Ngoại trừ do sự sáng tạo của 1 đấng tạo hoá, nguồn gốc loài người còn
được kể lại rằng, con người được sinh ra từ một tạo vật vốn có sẵn, như cây cỏ,
động vật hoá thành người, hay do những sự kiện có tầm ảnh hưởng đến vận mệnh
của quốc gia, dân tộc như motif Sự hủy diệt, Đại hồng thuỷ, v.v

- Theo thần thoại Philippines, vị thần cai quản bầu trời Bathala gieo hạt
giống xuống biển mọc thành bụi trúc cao hơn, bên trong bước ra một người nam
một người nữ có vóc dáng như các vị thần.
- Trang Tử cho rằng: “Loài sâu rễ tre sinh ra loài báo, báo sinh ra ngựa,
ngựa sinh ra người”.
- Trong thần thoại Úc, con người là thằn lằn, trong thần thoại Mỹ, con
người là sói, hải ly, vượn...

1.1.2: Tôn giáo
Từ các nhận thức cổ đại, tôn giáo ra đời như một hình thái ý thức xã hội,
một phạm trù lịch sử với những giáo lý, hệ thống thần thánh có tổ chức hơn. Các
tôn giáo khác nhau cũng đưa ra nhiều cách lý giải khác biệt về sự xuất hiện của
loài người:
- Thiên Chúa giáo - sự sáng tạo của Chúa: Đến ngày thứ 6, Chúa từ hình
tượng của mình tạo ra người đàn ông là Adam và lấy xương sườn của Adam để
tạo thành người đàn bà Eva.
- Đạo Hồi: Con người do thánh Alla sinh ra.
- Ấn Độ giáo: Con người do thần Brahma tạo nên.
- Phật giáo: Con người được tạo thành từ 4 yếu tố của tự nhiên: địa, thuỷ,
hoả, phong

5


Trần Anh Thư
Nhưng những lý giải này chưa có sự thoả đáng do dựa vào quan điểm đa
thần, duy tâm linh, không được kiểm chứng hay được chứng minh rằng nó có
thật. Tuy vậy, trong các huyền thoại, chúng ta vẫn thấy có gì đó trùng hợp với sự
tiến hoá.


1.2: Quan điểm duy vật
1.2.1: Quan điểm của các nhà khoa học theo Thuyết tiến
hóa
Tư duy duy vật đã được hình thành từ những năm đầu Công nguyên.
Nhưng đến thời đại Phục hưng, sau khi quyền lực của Thiên Chúa giáo bị suy
giảm, các triết gia phương Tây mới bắt đầu có lối thoát trong suy nghĩ. Theo sự
phát triển và tiến bộ của khoa học kỹ thuật, những nhà duy vật tiến bộ phản đối
những tư tưởng duy tâm. Các nhà khoa học cho rằng, sự ra đời của con người là
kết quả của cả quá trình tiến hoá liên tục, lâu dài và phức tạp của thế giới sinh
vật. Từ thế kỉ XVIII, nhiều công trình khoa học đã tạo ra những bước ngoặt liên
tiếp trong việc lý giải nguồn gốc loài người, đặt biệt, sự ra đời phát triển của học
thuyết Tiến hoá đã có tầm ảnh hưởng đặt biệt quan trọng đến nhận thức thời kì
này. Tiêu biểu cho quan điểm của học thuyết này các nhà khoa học K. Linnaeus,
J.B.Lamarck, C.Darwin.
- Carl Linnaeus (1707 - 1779) - nhà sinh vật học người Thuỵ Điển,
người đặt nền móng cho danh pháp hiện đại.
Ông cho rằng, con người là kết quả tiến hoá nội tại trong thế giới tự nhiên,
ông là là người đầu tiên tiến hành phân loại động vật và xếp con người vào bảng
phân loại sinh giới. Năm 1758, trong tác phẩm “Hệ thống tự nhiên” (Systema
Natura), ông xếp loại người vào bộ Linh trưởng chung với khỉ vượn, vượn cáo.
Ông cũng đã đặt tên Homo cho giống người, bao gồm 2 loài Homo Sapiens và
Homo Troglodytes. Linnaeus và các nhà khoa học khác cùng thời đã coi các loài
vượn lớn là các họ hàng gần nhất của loài người dựa trên các nét tương đồng về
hình thái và giải phẫu.
6


Trần Anh Thư

- Jean Baptiste de Lamarck (1744 - 1829) - nhà sinh học người Pháp đã

công bố những học thuyết tiến hoá đầu tiên, sáng lập nên giả thuyết tiến hoá sinh
học xảy ra và diễn biến theo các quy luật tự nhiên.
Năm 1809, ông công bố tác phẩm “Triết học động vật” vạch rõ các động
vật cao đẳng phát sinh từ các động vật hạ đẳng, đồng thời cho rằng, loài người có
nguồn gốc từ động vật (loài vượn người). Ông là một trong những người đầu tiên
có được những bằng chứng chứng minh các loài sinh vật có thể biến đổi dưới tác
động của môi trường chứ không phải các loài là bất biến. Theo Lamarck, từ 1
loài tổ tiên ban đầu do môi trường thay đổi theo những hướng khác nhau nên lâu
ngày, các sinh vật sẽ “tập luyện” để thích ứng với các môi trường mới và do vậy
mà hình thành nên những loài khác nhau. Ông thấy được các loài bị biến đổi
dưới tác động của môi trường nhưng những cơ chế Lamarck đưa ra để giải thích
cho những biến đổi đó lại không có cơ sở khoa học và cần thêm nhiều bằng
chứng khoa học để chứng minh nguồn gốc động vật của con người.
- Charles Darwin (1809 - 1882) – một nhà sinh vật học người Anh, là
người đáng chú ý nhất trong việc giải thích nguồn gốc loài người theo Thuyết
tiến hoá.
Ông là người đầu tiên thu thập được rất nhiều bằng chứng về tiến hoá và
thực sự tạo ra bước ngoặt vĩ đại trong tư duy nghiên cứu về nguồn gốc loài
người.
Năm 1859, Darwin công bố công trình “Nguồn gốc các loài “ giải thích sự
hình thành các loài từ một tổ tiên chung bằng cơ chế chọn lọc tự nhiên. Trình bày
quan điểm của ông trong các tác phẩm “Nguồn gốc các loài bằng con đường
chọn lọc tự nhiên” và “Nguồn gốc loài người và chọn lọc giới tính”, ông cho
rằng, các loài trên Trái Đất đều được tiến hoá từ một tổ tiên chung, giống như các
cành trên một cây đều được bắt nguồn từ một gốc, các nhánh con trên một cành
của “Cây tiến hoá” đều có chung một nhánh (loài tổ tiên gần nhất), nhiều nhánh
khác nhau lại có chung nhánh lớn hơn (loài tổ tiên xa hơn). Bên cạnh những
nhánh tươi tốt đại diện cho các loài đang sinh sống, cũng có rất nhiều những cành
7



Trần Anh Thư
đã chết tương ứng với những loài bị diệt chủng. Từ đó, ông đưa ra Thuyết tiến
hoá và chứng minh rằng loài người đã phát sinh từ giống vượn người hoá thạch
đã bị tiêu diệt, ông cho rằng, có sự tiến hóa của những loài mới từ loài trước đó
và người hiện đại cùng vượn có tổ tiên chung.
Quan điểm của ông trong thời kì này được xem là một cuộc cách mạng
trong việc nhận thức về thế giới loài người. Tuy nhiên, do sự hạn chế về mặt tư
liệu nghiên cứu mà ông vẫn chưa chỉ ra được việc con người bắt nguồn từ loài
vượn hoá thạch nào mà chỉ lý giải nguyên nhân của quá trình tiến hoá từ vượn
thành người là do quá trình chọn lọc tự nhiên.

1.2.2: Quan điểm của K.Marx và F.Engels

Với sự kế thừa và phát triển quan điểm giải thích về nguồn gốc loài người
của các nhà khoa học trước đó và sự ra đời của chủ nghĩa Marx, vấn đề loài
người có sự giải quyết đúng đắn, khoa học hơn.
Trên cơ sở chủ nghĩa duy vật biện chứng và duy vật lịch sử, Marx và
Engels dựa vào tài liệu của sinh vật học và các kết quả nghiên cứu khoa học xã
hội, học thuyết về tự nhiên và xã hội để giải quyết vấn đề hình thành con người.
Marx và Engels đồng tình với quan điểm của Darwin khi cho rằng con người có
nguồn gốc từ một loài vượn người, sự ra đời của con người trước hết là do chọn
lọc tự nhiên, tuy nhiên đó không phải là yếu tố duy nhất. Marx và Engels khắc
phục những hạn chế còn lại của Darwin và chứng minh một cách thuyết phục
nguyên nhân và động lực của sự chuyển biến từ vượn thành người là do lao động,
ngay trong chuyển biến cơ thể.

1.2.3: Quan điểm của các nhà khoa học hiện nay
Ngày nay, các nhà khoa học đã và đang không ngừng thu thập những bằng
chứng về nguồn gốc loài người, không những thế còn chứng minh được loài nào

trong số các loài sinh vật hiện đang tồn tại có họ hàng gần gũi nhất với loài

8


Trần Anh Thư
người. Với việc phát hiện liên tục các nghiên cứu hoá thạch và liên tục cải tiến
phương pháp nghiên cứu, sự hiểu biết của con người về nguồn gốc của mình
càng trở nên sâu sắc, tuy còn nhiều tranh cãi, nhưng con người đã có thể phác
thảo các manh mối về nguồn gốc và sự phát triển loài người. Những nghiên cứu
về hệ thống học sinh học kết hợp với các nghiên cứu về cổ sinh vật học không
những giúp chúng ta vẽ được được cây chủng loại phát sinh loài người (sơ đồ
hoá mối quan hệ tiến hoá giữa loài người với những loài họ hàng) mà còn có thể
chỉ ra những đặc điểm nào trên cơ thể con người được hình thành trước tiến hoá,
đặc điểm nào mới xuất hiện.
Các bằng chứng hoá thạch cho thấy, người và các loài linh trưởng châu
Phi (tinh tinh) có chia sẻ chung nguồn gốc tổ tiên (cách đây khoảng 5-7 triệu
năm). Trong những nghiên cứu về hơn 5 triệu năm trước, các nhà khoa học tìm
thấy được nhiều hơn nữa các loài vượn cổ, phân bố ở khắp nơi trên thế giới,
nhưng những bằng chứng này vẫn khó để khẳng định rằng chúng là tổ tiên của
loài người.
Đến nay, chúng ta có thể xác định được có sự rẽ nhánh của loài vượn cổ
đến sự phát triển thành người hiện đại ngày nay.
- Năm 1924, “hoá thạch bé Taung” cho ta những bằng chứng mới về một
loài vượn người phương Nam. Con người đã tìm ra những hoá thạch về dấu chân
có niên đại cách đây khoảng 3,7 triệu năm với nhiều khả năng của loài
Australopothecus afarensis. Hoá thạch khảo cổ nổi tiếng nhất của loài này là
“Lucy” - phát hiện vào 1974 ở Ethiopia, đã cho thấy hàng loạt đặc điểm thích
nghi với cách đi hai chân, 1 bàn chân giống người, xương chậu ngắn, xương đùi
có góc hướng vào trong cho một sải chân cử động mượt mà hơn.

- Các nghiên cứu chỉ ra, loài sớm nhất trong chi Homo là loài Homo
habilis, có từ 2,4 triệu năm trước, trong chi Homo đã phát hiện ít nhất 8 loài khác
nhau, trong đó chỉ còn con người hiện đại còn tồn tại. Homo habilis không phải
loài đầu tiên sử dụng các công cụ, nhưng tiêu biểu cho việc biết được sử dụng
các công cụ bằng đá.
9


Trần Anh Thư
- Cách đây 1,8 triệu năm, loài Homo erectus xuất hiện. Đây là một trong
những loài người thành công nhất mọi thời đại. Họ sống trên Trái Đất lâu hơn
gấp 8 lần so với loài người chúng ta. Họ là những người đầu tiên biết nấu thức ăn
bằng lửa, và di cư xa về phía Đông như Trung Quốc và Indonesia, thậm chí đến
đảo Flores, nơi một đột biến di truyền sẽ thu nhỏ họ thành người Homo
floresiensis với niên đại cách ngày nay 10 vạn năm (nghiên cứu năm 2004).
- 70 vạn năm trước, nhóm người Homo erectus tại châu Phi tách thành
một loài người mới, với bộ não lớn gần bằng chúng ta, tạo ra các công cụ tiên
tiến hơn, một số di cư đến Siberia, một số đến châu Âu, tạo thành người
Neanderthal (Homo neanderthalensis).
- Sau đó, cũng tại châu Phi, một nhánh mới lại được tách ra, nhánh của
người hiện đại, Homo sapiens, cách ngày nay 20 vạn năm. Sự xuất hiện loài
Homo sapiens là bước nhảy vọt thứ hai sau bước nhảy vọt từ vượn thành người
Homo habilis. Di cốt của họ đã được tìm thấy ở hầu khắp các lục địa. Sự phát
hiện các di cốt hóa thạch cùng với công cụ lao động của các dạng người nói trên
không những đã cung cấp cho chúng ta những bằng chứng khoa học không thể
chối cãi được về nguồn gốc động vật của loài người, mà còn giúp ta thấy rõ cả
quá trình hình thành loài người với những niên đại ngày càng được xác định
chính xác hơn.
Về không gian, hiện nay có nhiều giả thuyết về địa điểm phát sinh loài
người. Một giả thuyết mang tên “Xa mãi Châu Phi” cho rằng loài người, Homo

sapiens được hình thành từ loài Homo Erectus ở châu Phi, sau đó phát tán ở sang
các châu lục khác. Một giả thuyết khác cho rằng loài Homo erectus di cư từ châu
Phi sang các châu lục khác, rồi từ nhiều nơi khác nhau, loài Homo erectus tiến
hoá thành Homo sapiens. Đông Nam Á cũng được xem như là cái nôi phát sinh
ra loài người.

1.2.4: Quan điểm về người ngoài hành tinh
Lại có giả thuyết cho rằng, loài người không đến từ Trái Đất.

10


Trần Anh Thư
Ellis Silver, một nhà tiến sĩ sinh vật học đã ra đời cuốn sách mang tên
Humans Are Not From Earth (Loài người không tới từ Trái Đất) đăng trên blog
Pharyngula.
Trong đó ông cho rằng loài người có thể đã được sinh ra ở một hành tinh
khác và "được đưa tới" Trái Đất, nơi có điều kiện thuận lợi hơn để tiến hóa thành
sinh vật vượt trội như ngày nay. Như vậy con người có thể không phải là sinh vật
"bản địa" như nhiều sinh vật khác. Ông chỉ ra rằng trong bộ gen hiện nay, có tới
145 gen "ngoài hành tinh" vì không tới từ tổ tiên của chúng ta, chúng ta có nhiều
gen lạ. Con người còn có những đặc điểm sinh học khác khiến nó trở nên tách
biệt với các loại sinh vật khác trên Trái Đất và con người không tiến hóa theo
phần còn lại. "Con người được cho là loài sinh vật phát triển bậc nhất trên Trái
Đất. Tuy nhiên, đáng ngạc nhiên là chúng ta vẫn không phù hợp và được trang bị
kém khi đối mặt với môi trường Trái Đất". Tiến sĩ đưa ra giải thuyết rằng, tổ tiên
loài người đã có thể đã tới Trái Đất nhờ thiên thạch hoặc sao chổi cách đây
khoảng 60.000 - 200.000 năm nhưng chưa tiến hóa hoàn thiện như loài người
ngày nay. Sau đó chủng người Neanderthal đã lai giống với các loài khác, có thể
từ Alpha Centauri - hệ sao gần nhất với Hệ Mặt Trời của chúng ta, nằm cách mặt

trời 4,37 năm ánh sáng để con người có thể vượt trội và thích nghi tốt hơn trên
Trái Đất.
Như vậy, con người đã lai tạo với người ngoài hành tinh. Những bằng
chứng khảo cổ từ các nền văn minh lớn trên Trái Đất như Peru, Ấn Độ, Trung
Quốc và Bolivia... chỉ sự tồn tại của một giống người ưu việt từ ngoài Trái Đất
giúp đỡ loài người như Kim tự tháp, chữ viết, các phép tính chính xác của người
Ai Cập cổ đại.

11


Trần Anh Thư

Chương 2: NGUYÊN NHÂN VÀ ĐỘNG LỰC CỦA QUÁ TRÌNH
CHUYỂN BIẾN TỪ VƯỢN THÀNH NGƯỜI

1.1: Quan điểm C.Darwin
C. Darwin dùng những quan điểm thuần tuý sinh học, gắn liền với sự chọn
lọc tự nhiên trong giới sinh vật, do chọn lọc tự nhiên mà giống vượn người hoá
thạch - tổ tiên loài người đã xuất hiện. Từ các quan sát của mình, Darwin suy ra
được rằng, các cá thể sinh vật luôn phải đấu tranh với nhau để giành quyền sinh
tồn (mà ông gọi là đấu tranh sinh tồn) và do vậy chỉ một số ít cá thể sinh ra được
sống sót qua mỗi thế hệ. Trong cuộc đấu tranh sinh tồn đó, những cá thể sinh vật
nào có sự biến dị di truyền giúp chúng thích nghi tốt hơn dẫn đến khả năng sống
sót và khả năng sinh sản cao hơn các cá thể khác thì những cá thể đó sẽ để lại
nhiều con hơn cho quần thể. Theo thời gian, số lượng cá thể có các biến dị thích
nghi sẽ ngày một tăng và số lượng cá thể có các biến dị không thích nghi sẽ ngày
một giảm. Darwin gọi quá trình này là chọn lọc tự nhiên. Với cơ chế này, Darwin
đã giải thích được sự thống nhất trong đa dạng của các loài sinh vật trên Trái Đất.
Nhưng vì vậy, Darwin coi loài người giống với các loài sinh vật khác, phát triển

tuân theo quy luật tự nhiên mà không thấy được sự khác biệt giữa con người và
động vật. Học thuyết của ông vẫn còn những điểm hạn chế và không giải quyết
được triệt để lý do người tối cổ lại có thể biến chuyển thành con người hiện đại,
tức là chưa chú trọng vai trò của yếu tố xã hội trong quá trình chuyển biến này
mà chỉ thuần tuý dựa vào góc độ sinh học.

1.2: Quan điểm F.Engels
Trong khi đó, Engels đã giải quyết được một cách chính xác vấn đề
nguồn gốc và sự phát triển của loài người.

12


Trần Anh Thư
Ông nêu trong tác phẩm “Tác dụng của lao động trong sự chuyển biến từ
vượn thành người” (1976) một cách duy vật và biện chứng nguyên nhân làm cho
loài vượn biến thành người và động lực thúc đẩy quá trình đó là nhờ vào lao
động, sự khác biệt cơ bản giữa con người và động vật cũng là lao động. Theo đó,
Marx trong “Hệ tư tưởng Đức” cũng chỉ ra rằng: “Con người bằng lao động của
mình đã tách khỏi trạng thái thú vật”. K.Marx và F.Engels cho rằng, lao động là
điều kiện cơ bản quyết định sự chuyển biến của vượn thành người.
Thứ nhất, lao động tạo ra tiền đề cho sự chuyển biến từ vượn thành
người về mặt sinh học:
Ông trình bày quá trình chuyển biến từ vượn thành người: vào thời cổ đại
vượn người với tập tính sinh hoạt bầy đàn ở những rừng rậm nhiệt đới cao, sau
đó một bộ phận dần mở rộng hoạt động xuống dưới mặt đất để tìm kiếm thức ăn,
dần dần mà hai chân đứng thẳng để đi, chi trước được giải phóng, có thể sử dụng
các công cụ từ tự nhiên, cuối cùng phát triển đến giai đoạn tự chế tạo công cụ cho
bản thân mình. Do đó, bàn tay con người dần khéo léo hơn, trình độ kỹ thuật cao
hơn, kích thích sự phát triển của não bộ, dẫn đến sự tư duy tự nhận thức

Thứ hai, lao động tạo ra tiền đề cho sự chuyển biến từ vượn thành
người về xã hội
Lao động thúc đẩy nhu cầu giao tiếp, trao đổi và hiểu nhau, tạo thành một
vòng tròn liên hệ của ngôn ngữ, tư duy và lao động. Lao động tạo ra khả năng
cho các thành viên trong xã hội liên kết chặt chẽ với nhau hơn, hợp tác thường
xuyên hơn. Mỗi cá nhân càng có sự ý thức rõ rệt về lợi ích hợp tác chung, họ có
nhu cầu phải giao tiếp, do đó mà xuất hiện ngôn ngữ. Lao động và ngôn ngữ kích
thích sự phát triển của bộ óc, các giác quan khác và có sự tác động trở lại. Chính
điều này tạo môi trường xã hội cho loài người tự nhận thức được bản thân rằng,
con người khác các loài động vật khác, để từ đó có sự chuyển biến thành người
hiện đại.

13


Trần Anh Thư
1.3: Quan điểm Machusin
Theo Machusin, trong tác phẩm “Nguồn gốc loài người”, ông đã có những
phát hiện đáng chú ý khác.
Trước hết về mặt sinh học, ông cho rằng do ảnh hưởng lớn của bức xạ
đã gây đột biến các gen làm cho con người xuất hiện.
Machusin phủ nhận vai trò của lao động về mặt tiến hoá sinh học, đó cũng
không phải do sự cần thiết để thích nghi với môi trường bên ngoài, ông cho rằng
có một cú sốc về mặt sinh học đã biến dổi gen từ loài vượn thành người, khiến
đặc trưng hình thái sinh lí của con người khác xa loài vượn. Nhờ cơ cấu sinh học
mới, con người mới chuyển sang lao động có hệ thống.
Thứ hai, về mặt tiến hoá xã hội, để con người thật sự có một xã hội thật
sự, thì phải cần lao động có hệ thống.
Ông cho rằng phải có một cơ chế sinh tồn cho con người, đó là tạo ra thế
giới nhân tạo tách con người ra khỏi tự nhiên để tồn tại. Do đó, lao động và hoạt

động xã hội không quyết định các di truyền sinh học người mà tạo ra bản chất xã
hội của con người dựa trên cái vốn có.
Như vậy, vượn người bắt nguồn từ tiến hoá sinh học và thông qua lao
động - nhân tố cơ bản đã chuyển biến từ vượn thành người.

14


Trần Anh Thư

KẾT LUẬN
Nguồn gốc loài người từ lâu vẫn là bí ẩn lớn nhất đối với nhân loại, đây là
vấn đề phức tạp, có tính tranh luận cao. Những đề tài về nghiên cứu nguồn gốc
loài người luôn được đặt ra, đáp ứng một nhu cầu thực tiễn của xã hội: nhu cầu
tìm hiểu quá khứ của chính mình.
Từ cổ chí kim, đã có nhiều quan điểm khác nhau lý giải về cách con người
xuất hiện trên Trái Đất, theo cả 2 trường phái phổ biến: duy vật và duy tâm, tất cả
đều để lại những góc nhìn phong phú trong việc loài người tự nhận thức thế nào
trong hành trình tìm lại cội nguồn.
Rất khó để xác định tổ tiên trực tiếp của con người là loài nào, bởi khi
nhìn lại trong hồ sơ hoá thạch, các đặc điểm đặt biệt làm cho chúng ta được gọi
là con người trở nên ít đặc biệt. Chúng ta biết rằng, người hiện đại chỉ là một
trong hơn hai chục loài người đã bước đi. Các nhà khoa học đã khai quật được
hàng ngàn hài cốt cổ xưa và không phải tất cả đều thuộc về tổ tiên loài người.
Con người và vượn chỉ chia sẻ một tổ tiên chung và các nghiên cứu di truyền chỉ
ra rằng, chúng tách ra khoảng từ 7 triệu năm trước. Cây phát sinh dẫn đến hình
thành loài người là một cây có rất nhiều cành chết, chỉ còn lại một cành duy nhất
là loài người hiện đại.
Có thể thấy rõ nguồn gốc của con người khi so sánh những điểm giống
nhau về cấu tạo và hoạt động sống giữa con người với các loài động vật khác có

chung tổ tiên. Tuy nhiên, con người cũng mang những nét sai khác về chất, gắn
liền với một nhân tố xã hội là lao động và cùng với lao động là tiếng nói và tư
duy. Như vậy, con người có nguồn gốc từ động vật nhưng khác với động vật, con
người là kết quả của một quá trình lịch sử lâu dài, trải qua hàng triệu năm, từ một

15


Trần Anh Thư
nhóm vượn người hình thành những đặc điểm mới phân biệt người với vượn
người.

16


Trần Anh Thư

TÀI LIỆU THAM KHẢO

1. Hán Văn Khẩn (2008), Cơ sở khảo cổ học, Nxb Quốc gia Hà Nội
2. Nguyễn Văn Mạnh - chủ biên (2016), Nhân học đại cương, Nxb Đại học

Huế.
3. Lê Sĩ Giáo – chủ biên (1998), Dân tộc học đại cương, Nxb Giáo dục
4. Joe Hanson, “ Where did humans come from?”, It’s okay to be smart,
available at />(19 April, 2017)

17




×