ÑAÏI CÖÔNG TAÂM THAÀN
TS.BS NGÔ TÍCH LINH
NỘI DUNG BÀI GIẢNG
I. Đònh nghóa:
Tâm thần học là bộ môn trong y học có nhiệm vụ
nghiên cứu Các biểu hiện lâm sàng, bệnh nguyên, bệnh
sinh Các bệnh tâm thần, nghiên cứu Các biện pháp
phòng và chữa Các bệnh này.
Tâm thần học chia làm 2 phần lớn:
1. Tâm thần học cơ sở hay tâm thần học đại cương: Nghiên cứu
Các triệu chứng, hội chứng, Các quy luật biểu hiện và
phát triển Các rối loạn hoạt động tâm thần có tính chất
cơ bản và chung đối với Các bệnh tâm thần, Các vấn đề
chung về bệnh nguyên và bệnh sinh, Các nguyên tắc
phân loại, Các phương pháp khám xét, làm bệnh án và
theo dõi bệnh tật.
2. Tâm thần bệnh học nghiên cứu từng loại bệnh tâm thần
khác nhau.
Các chuyên ngành trong tâm thần học:
Tâm thần học trẻ em.
Tâm thần học người cao tuổi.
Tâm thần học pháp y.
Tâm thần học quân sự.
Dòch tễ học tâm thần.
Tâm thần học dược lý.
Vệ sinh tâm thần.
II.Sơ lược lòch sử phát triển của tâm thần học:
1. Thế giới:
Thời cổ đại, bệnh tâm thần được cho là do thần thánh và
Các lực siêu nhiên, việc điều trò thường do Các tu só với
những nghi lễ và niềm tin về tôn giáo.
Thời Hy Lạp và La Mã bắt đầu ứng dụng hiểu biết y học
thời đó vào việc giải thích Các triệu chứng tâm thần, cho
rằng do mất cân bằng của Các dòch thể cơ bản.
Hippocrate giải thích bệnh hysteria là do tử cung.
Thời trung cổ, những nơi giam giữ người bệnh tâm thần
được thiết lập và do giới tăng lữ quản lý, người bệnh tâm
thần thường được cho là do ma quỷ và bò tra tấn. Tạo nên
thành kiến sợ hãi và phân biệt đối xử với người bệnh tâm
thần.
Thế kỷ thứ 17 và thế kỷ thứ 18, người bệnh vẫn bò giam
giữ bằng xiềng xích và đánh roi được coi như là một
phương pháp điều trò.
Franz Mesmer (1734-1815) thầy thuốc người o thực hiện
đầu tiên một hình thức tâm lý trò liệu, thôi miên
(mesmerism, hypnosis)
Thế kỷ thứ 19, người bệnh tâm thần như mô tả chi tiết Các
triệu chứng tâm thần, bước đầu phân loại Các rối loạn tâm
thần.
Emil Kraepelin (1856-1926) đóng góp quan trong trong chẩn
đoán phân biệt Các bệnh tâm thần.
Eugen Bleuler (1857-1939) nhà tâm thần học Th Sỹ đặt
tên Tâm Thần Phân Liệt cho chứng sa sút sớm.
Jean Charcot (1825-1893) nhà thần kinh học người Pháp
điều trò bệnh hysteria bằng thôi miên.
Sigmund Freud (1856-1939) sáng lập ra học thuyết và
phương pháp điều trò phân tâm học (psychoanalysis).
Song song với thuyết phân tâm là sự ra đời của thuyết hành
vi do Ivan Pavlov ( 1849-1936 ) với thí nghiệm phản xạ có
điều kiện, làm cơ sở cho thuyết học sau này.
2. Trong nước:
Tháng 1-1919 nhà thương “điên” Biên Hoà được thành
lập, sau được đổi tên là “Dưỡng Trí Viện”,bệnh viện
“Tâm Trí” Biên Hoà với 1314 giường bệnh. Hiện nay là
bệnh viện ”Trung Ương II”.
Năm 1936 một nhà thương “điên” thứ hai ở Vôi, huyện
Lạng Giang, tỉnh Hà Bắc với 400 giường bệnh.
Năm 1954 (sau giải phóng) thành lập khoa Tâm Thần
Kinh tại bệnh viện Bạch Mai.
Năm 1963 Bệnh viện tâm thần Thường Tián được thành
lập và Các bệnh viện tâm thần của Các thành phố lớn
cũng lần lượt ra đời.
1969 bộ môn Tâm Thần được thành lập tại trường ĐHYK
Hà Nội.
1977 bộ môn Tâm Thần được thành lập tai ĐHYD Tp.Hồ
Chí Minh do PGS Trần Đình Xiêm làm Chủ nhiệm kiêm
Giám đốc bệnh viện Tâm Thần thành phố Hồ Chí Minh.
Hiện nay tại Tp.Hồ Chí Minh có mạng lưới phòng và chữa
bệnh tâm thần ở tất cả Các quận huyện.
III. Liên quan Tâm Thần Học với Các khoa học khác:
Các khoa lâm sàng thần kinh học, nội khoa, nội tiết,
truyền nhiễm
Các khoa cận lâm sàng: sinh hoá não, miễn dòch, di
truyền học, giải phẫu bệnh lý điện tử, chẩn đoán hình
ảnh.
Các khoa học xã hội-nhân văn: tâm lý học, xã hội học,
giáo dục học, pháp luật, tội phạm học, triết học.
IV. Đối tượng nghiên cứu của Tâm Thân Học: bệnh
tâm thần
Bản chất hoạt động tâm thần là một hoạt động phản ánh
thực tại khách quan vào chủ quan mỗi người. Hoạt động
này thông qua não bộ.
Bệnh tâm thần là những bệnh do hoạt động của não bộ
bò rối loạn mà gây nên những biến đổi bất thường trong
ý nghó, cảm xúc, hành vi, tác phong, suy luận, ý thức
người bệnh.
Cơ chế bệnh sinh của các rối loạn tâm thần thường rất
phức tạp, đôi lúc khó xác đònh được nguyên nhân. Hiện
nay ba yếu tố sinh học, tâm lý, xã hội thường được xem
xét đồng thời khi tìm hiểu nguyên nhân cũng như cơ chế
bệnh sinh của các rối loạn tâm thần (George Engel
1977, Eric Kandel 1998).
Các rối loạn tâm thần thường được phân làm 4
nhóm chính:
1. Các rối loạn loạn thần: với các triệu chứng ảo giác, hoang
tưởng, rối loạn ngôn ngữ, rối loạn hành vi. Thường mất khả
năng duy trì mối liên hệ với môi trường xung quanh và
người bệnh thường không nhậân biết được tình trạng bệnh tật
của mình. Bao gồm loạn thần thực thể, loạn thần phản ứng,
loạn thần nội sinh.
2. Các rối loạn loạn thần kinh thường có căn nguyên tâm lý.
Người bệnh không có các triệu chứng loạn thần nêu trên,
vẫn duy trì được với mội trường xung quanh ( giao tiếp, học
tập, làm việc) và người bệnh ý thức được tình trạng bệnh
tật của mình. Bao gồm rối loạn lo âu, rối loạn ám ảnh, rối
loạn sau chấn thương (PTSD)
3. Các rối loạn về nhân cách.
4. Các trạng thái chậm phát triển tâm thần
V.Các nguyên nhân khác nhau của bệnh tâm thần:
Thường được phân làm 4 nhóm chính:
1.
2.
3.
4.
Những nguyên nhân thực thể gây tổn thương trực tiếp tế
bào não (u não, chấn thương sọ não, …) hoặc gây rối
loạn chuyển hoá hoạt động não bộ (bệnh lý nội tiết, tim
mạch, chuyển hoá, …).
Những nguyên nhân tâm lý: do các chấn thương tâm lý
xúât hiện đột ngột, mãnh liệt hoặc cường độ nhẹ nhưng
kéo dài.
Do cấu tạo thể chất bất thường và phát triển tâm thần
bệnh lý.
Nguyên nhân nội sinh hoặc tiềm ẩn.
VI.Các nhân tố thuận lợi cho bệnh tâm thần phát
sinh:
1.
2.
3.
4.
Di truyền: có ảnh hưởng xấu đến một số bệnh tâm thần
nhưng không phải là tuyệt đối. Thường có vai trò đáng
kể trong các bệnh loạn thần nội sinh như: TTPL, rối loạn
lưỡng cực, rối loạn trầm cảm tái diễn.
Nhân Cách: nhân cách mạnh và bền vững là một nhân
tố chống lại sự phát sinh các bệnh tâm thần. Khi bò bệnh
tâm thần, người có nhân cách mạnh thì thường bò nhẹ
hơn và phục hồi nhanh hơn.
Lứa tuổi : Mỗi lứa tuổi có đặc điểm tâm sinh lý riêng do
đó có những rối loạn tâm thần thường xảy ra ở lứa tuổi
này mà ít xảy ra ở lứa tuổi khác.
Giới tính: Nam giới thường mắc bệnh tâm thần nhiều
hơn nữ giới do các nguyên nhân thực thể như: chấn
thương sọ não, nghiện rượu, ma tuý, nhiễm trùng qua
đường sinh dục, các rối loạn khí sắc như trầm cảm, rối
loạn phân ly (hysteria),… thường gặp ở nữ giới. Ngoài ra
ở nữ giới cũng hay gặp các rối loạn liên quan đến thời
kỳ hành kinh, sau sanh, tiền mãn kinh và mãn kinh
Percent of total disease burden
18.6
Bệnh lý tim mạch (toàn thể).
15.4
Bệnh lý tâm thần (tự sát).
15.0
Bệnh lý ác tính (ung thư).
4.8
Bệnh lý hô hấp.
4.7
Bệnh lý liên quan đến rượu.
2.8
Bệnh lý nhiễm trùng
1.5
Bệnh lý do lạm dụng thuốc
Percent of total mental disorders
2.3
Trầm cảm nặng đơn cực
2.2
Tự sát
1.7
Tâm thần phân liệt
1.5
Rối loạn lưỡng cực
1.5
OCD
0.7
Rối loạn hoảng loạn
0.3
PTSD
Percent of total disease burden
9.0
Bệnh tim do thiếu máu
6.8
Trầm cảm nặng
5.0
Bệnh lý tim mạch
4.7
Lạm dụng rượu
4.4
Tai nạn giao thông
3.0
Ung thư phổi
Rối loạn loạn thần (thực thể, phản ứng, nội
sinh).
Rối loạn loạn thần kinh (bệnh tâm căn, nhiễu
tâm).
Rối loạn khí sắc (trầm cảm, lưỡng cực).
Rối loạn nhân cách.
Chậm phát triển tâm thần.
F00 – F09 Các RL tâm thần thực tổn, bao gồm RL tâm thần triệu
chứng.
F10 – F19 Các RL tâm thần và hành vi do sử dụng các chất tác
động tâm thần.
F20 – F29 Bệnh TTPL, các RL loại phân liệt và các RL hoang
tưởng.
F30 – F39 RL khí sắc (cảm xúc).
F40 – F48 Các RL bệnh tâm căn có liên quan đến stress và dạng
cơ thể.
F50 – F59 Các hội chứng hành vi kết hợp với RL sinh lý và các
nhân tố cơ thể.
F60 – F69 Các RL nhân cách và hành vi ở người trưởng thành.
F70 – F79 Chậm phát triển tâm thần.
F80 – F89 Các RL về phát triển tâm lý.
F90 – F98 Các RL và hành vi cảm xúc thường khởi phát ở tuổi trẻ
em và thanh thiếu niên.
Đa nguyên nhân.
Di truyền.
Tâm lý.
Xã hội.
acetyl
choline
serotonin
(5HT)
norepinephrine
(noradrenaline)
Chất dẫn truyền thần kinh
histamine
dopamine
GABA