Chuyên đề Nguyễn Tuân – “Người lái đò Sông Đà”
Nguyễn Tuân – người nghệ sĩ suốt đời đi tìm cái đẹp
MỞ ĐẦU
Lí do chọn đề tài
Chẳng phải tự nhiên mà tên tuổi Nguyễn Tuân lại được người ta nhắc tới
nhiều đến vậy mỗi khi quay dòng lịch sử nhìn lại những thời đại Văn học vàng son
đã qua của dân tộc. Là những năm 30-45 với hai mảng màu ấn tượng và nổi trội
khác biệt giữa bảng màu u ám thời bấy giờ – “hoài cổ” và “xê dịch”; là một
Nguyễn Tuân hăm hở hòa mình vào cuộc sống trong thời kì đổi mới những năm
sau Cách mạng tháng Tám. "Lớn lên" ở cả hai thời kỳ, từ cuộc đời cũ đến cuộc đời
mới ; vừa là cây bút nổi bật của xu hướng văn học lãng mạn với đủ thứ "tật bệnh
điển hình", vừa ở trong hàng ngũ những nhà văn thành tâm chào đón và chân thành
đi theo Cách mạng đến cùng; trong hành trình gian khổ hơn nửa thế kỷ ấy có lúc va
vấp, có lúc chênh vênh, cũng có lúc phải tự "lột xác" đớn đau, nhưng nhà văn vẫn
luôn giữ vẹn được nhân cách, bản ngã của mình. Trên đỉnh cao sáng tạo vừa chói
lòa vinh quang vừa cực kỳ cheo leo hiểm trở, nhà văn phải dốc đến kỳ cùng sức
lực để không trở nên nhạt nhẽo, vẫn luôn giữ được nét độc đáo của phong cách
nghệ thuật, làm nên một dòng chảy thống nhất xuyên suốt các trang văn của ông,
hình thành nên một cá tính, một phong cách rất riêng của ông Nguyễn, để rồi người
ta không ngần ngại mà khẳng định “Nguyễn Tuân là một định nghĩa về người nghệ
sĩ” (Nguyễn Minh Châu).
Đối với ông, văn chương trước hết phải là văn chương, nghệ thuật trước hết
phải là nghệ thuật, và đã là nghệ thuật thì phải có phong cách độc đáo. Toàn bộ
cuộc đời cũng như gần năm nghìn trang viết của ông đã tạo nên một "huyền sử" huyền sử của một người ưa lối chơi "độc tấu". Cái ngông, suy đến cùng, lại như
một giá trị, được đảm bảo bởi sức bền vững của tài hoa và tầm cao tư tưởng nghệ
1
thuật. Giáo sư Nguyễn Ðăng Mạnh có nhận định : "Hạt nhân của phong cách
nghệ thuật Nguyễn Tuân có thể gói gọn trong một chữ ngông. Cái ngông vừa có
màu sắc cổ điển, kế thừa truyền thống tài hoa bất đắc chí của những Nguyễn
Khuyến, Tú Xương, Tản Ðà,... và trực tiếp hơn là cụ Tú Lan, thân sinh nhà văn ;
vừa mang dáng vẻ hiện đại, ảnh hưởng từ các hệ thống triết lý nổi loạn của xã hội
tư sản phương Tây như triết lý siêu nhân, quan niệm về con người cao đẳng, thuyết
hiện sinh...” Cung đàn văn chương Nguyễn Tuân được viết trên cùng một khuông
nhạc nhưng với thanh âm trầm bổng khác nhau của các nốt nhạc, phong cách
Nguyễn Tuân vì vậy mà có sức hấp dẫn người đọc.
Và một trong những “nốt nhạc” đã làm say đắm biết bao con người trong
bản đàn muôn cung nghìn điệu ấy chính là lòng đam mê đi tìm vẻ đẹp độc đáo của
con người và cuộc sống không bao giờ vơi cạn của ông Nguyễn. Nếu như nói
“ngông” là cá tính đặc trưng cho Nguyễn Tuân thì sự cố chấp của ông đối với cái
đẹp, cái mỹ hẳn là một nỗi ám ảnh. Ðời viết văn hơn nửa thế kỷ của Nguyễn Tuân
là một quá trình lao động nghệ thuật thật sự nghiêm túc. Về sau, khi đã ở đỉnh cao
nghề nghiệp, ông vẫn không bao giờ tỏ ra lơi lỏng, hời hợt ; mà ngược lại, luôn
nghiêm khắc với chính mình. Không quá khi nói rằng đây là nhà văn "suốt đời đi
tìm cái Ðẹp, cái Thật" (Nguyễn Ðình Thi), thậm chí ông còn tự nhận mình là người
"sinh ra để thờ Nghệ Thuật với hai chữ viết hoa". Nhà văn Pautopxki đã từng nhận
xét: "Đọc Nguyễn Tuân có người đã gọi nghệ thuật là người đi tìm cái đẹp, không
chỉ vậy, ông còn là người dẫn đường đến xứ sở cái đẹp".
Trước Cách mạng tháng Tám, quan niệm về cái Ðẹp của Nguyễn Tuân đậm
màu sắc chủ quan, "không bà con gì với luân lý thời đại". Một chuyển động đến
“long trời lở đất” như Cách mạng tháng Tám đã không thể khiến ông ngừng viết
(như nhiều đồng nghiệp khác), trái lại càng kích thích ông viết. Bởi dường như, sau
cơn “khủng hoảng tâm thần” và cách sống “phóng túng hình hài”, ông đã tìm ra
được lối thoát cho mình, trong một cuộc giải phóng lớn của dân tộc, như là một
thời cơ có một, để làm thay đổi ông, không chỉ trong tư cách một công dân mà cả
trong tư cách nghệ sĩ - người từng có lúc đã tưởng có thể chết đi được nếu ai đó
tước đi quyền viết của mình. Giờ đây, quan niệm về cái đẹp của con người mang
một nỗi chấp nhất với nghề viết ấy - không ngừng viết bất cứ lúc nào, dẫu với bất
cứ chuyển động nào của lịch sử, đã có sự hài hòa cần thiết. Bởi cái Ðẹp giờ hiện
hữu trong thực tại, là đời sống muôn màu của Nhân Dân ; như có thể cầm lên tay
2
mà nâng niu ngắm nghía. Hoài cổ không còn mang ý nghĩa níu kéo dĩ vãng mà
được nâng lên thành ý thức về sự góp mặt của dĩ vãng ở hiện tại. Có thể nói, chính
sự đổi thay trong cách nhìn, cách khám phá về cái đẹp của Nguyễn Tuân là một
tỏng những đặc điểm tiêu biểu để người ta có thể nhận diện được đâu là ông
Nguyễn của thời đại mới.
Tùy bút “Sông Đà” có thể coi như là một cột mốc quan trọng, đỉnh cao
mới trong sáng tác của Nguyễn Tuân nói chung và phong cách nghệ thuật Nguyễn
Tuân từ sau Cách mạng tháng Tám nói riêng. Ðọc "Sông Ðà", thấy trữ lượng cái
Ðẹp - chất "vàng" của đất nước và con người Việt Nam trong cuộc sống mới - quả
là nhiều vô kể. Cánh cửa tâm hồn tài hoa, lãng tử của Nguyễn Tuân như mở toang
ra cho cái Ðẹp ùa vào, tưới tắn tâm hồn tưởng chừng đã héo hon, vui say mà hòa
vào cuộc sống đang sục sôi của đất nước.
Đoạn trích “Người lái đò Sông Đà” là một đoạn trích nằm ở phần giữa tập
tùy bút, tuy chỉ là một đoạn trích ngắn nhưng cũng đủ để thể hiện lòng đắm say,
chấp nhất thiết tha với cái đẹp của Nguyễn Tuân.
Lịch sử vấn đề
Nguyễn Tuân cùng lòng mê say cái đẹp của mình từ lâu đã là niềm cảm
hứng, cũng như mảnh đất màu mỡ để những yêu văn tìm tòi và khai thác.
Có người hứng thú với “Vang bóng một thời” – tập truyện ngắn đặc sắc của
Nguyễn Tuân trước Cách mạng tháng Tám, đã rút ra một kết luận: Nguyễn Tuân
luôn khao khát đi tìm “cái đẹp và cái thực” song trong thời đại mà Nguyễn Tuân
sống, cái đẹp chân chính thật không dễ tìm chút nào, nói như nhà văn Nguyễn
Đình Thi thì “Trong cuộc đời ông sống, cái đẹp và cái thật không bao giờ khớp
được với nhau”. Có lẽ vì thế Nguyễn Tuân phải đi tìm cái đẹp trong quá khứ và tìm
ngay trong chính tâm tưởng, cảm giác của mình. (“Tìm hiểu quan niệm về cái đẹp
của Nguyễn Tuân trong Vang bóng một thời” - ThS. Triệu Thị Huệ, Trường THPT
chuyên Lê Hồng Phong, TP.HCM).
Lê Lưu Oanh khi đến với tập truyện “Yêu ngôn” thì lại khẳng định rằng
hành trình đi tìm cái đẹp của Nguyễn Tuân lại là hành trình xuyên không gian và
3
thời gian, “phải đi tìm một thế giới khác để được sống mãnh liệt, nồng nàn, cuồng
nhiệt, phát huy tận độ cá tính của mình” (Nguyễn Đăng Mạnh).
Thú vị và đặc sắc hơn cả có lẽ là Đỗ Thị Mỹ Lợi khi tìm ra những nét tương
đồng trong quan niệm về cái đẹp của Akutagawa Ryunosuke - một trong những
người trụ cột có công mở ra cánh cửa văn học Nhật Bản hiện đại và là một trong ba
nhà văn của đất nước này được thế giới biết đến nhiều nhất, với Nguyễn Tuân qua
bài viết “Chủ nghĩa duy mỹ trong truyện ngắn của Akutagawa và Nguyễn Tuân”.
Bài viết đã khẳng định: Lý tưởng thẩm mỹ đã đưa hai nghệ sĩ ở hai đất nước xích
lại gần nhau trong hành trình kiếm tìm và tôn vinh cái đẹp – quả thật chính cái đẹp
là thứ cầu nối vững bền mà tự nhiên nhất để kết nối hai trái tim cộng cảm.
Mục đích nghiên cứu
Những bài viết trên hầu hết đều nhìn nhận hành trình đi tìm cái đẹp của
Nguyễn Tuân một cách khái quát trong suốt quá trình “trưởng thành và lột xác” của
ông, hoặc chuyên chú vào nghiên cứu một tập truyện ngắn / tùy bút với một nét
phong cách chủ đạo xuyên suốt.
Bài viết này sẽ đi sâu vào nghiên cứu và phân tích hành trình truy tìm cái
đẹp của Nguyễn Tuân khi đến với đất trời thiên nhiên Tây Bắc qua đoạn trích
“Người lái đò Sông Đà”.
NỘI DUNG
1. Về “cái đẹp”
1.1. Khái niệm.
Cái đẹp là một phạm trù mỹ học cơ bản vừa là phạm mĩ học cơ bản, vừa là
phạm trù mĩ học trung tâm. Bởi lẽ, đối tượng của mỹ học là đời sống thẩm mĩ của
con người. Ðời sống thẩm mĩ tuy rất phong phú đa dạng nhưng chủ yếu quay
quanh cái đẹp. Mà “cái đẹp” thì rất phổ biến trong đời sống, hay nói cách khác, con
người thường dễ bị thu hút va lôi cuốn hơn bởi cái đẹp.
4
Trong văn học, cái đẹp đem lại cho con người cảm giác khoái lạc về mặt
thẩm mỹ, biểu hiện dưới hình thức cảm tính, dồng thời xác định giá trị thẩm mỹ
của đối tượng về sự hoàn thiện, xem chúng là cá chiện tượng có giá trị thẩm mỹ
cao nhất.
1.2. Các quan niệm khác nhau về cái đẹp
Về cái đẹp, xung quanh phạm trù cái đẹp tồn tại rất nhiều quan điểm, nhiều
trường phái khác nhau. Trong đó có ba phái chính nổi cộm:
Phái cho rằng cái đẹp là thuộc tính khách quan của sự vật. Phái này quan
niệm: bản thân sư vật, tự nhiên đã chứa đựng cái đẹp. Cái đẹp không lệ thuộc vào ý
muốn của con người. Màu sắc của sự vật tồn tại ngoài ý thức con người. Nó là
thuộc tính tự nhiên của tạo vật. Ðẹp cũng thế. Ðẹp là phẩm chất của tự nhiên.
Thuộc về phẩm chất đẹp của tự nhiên là thuộc tính cân xứng, hài hòa, nhịp điệu,
cấu trúc không gian, thời gian...(điển hình có Platon, Hogart, Fechner, Leonardo
De Vinci…)
Phái cho rằng cái đẹp là sản phẩm của ý muốn chủ quan của con người tiêu
biểu có Kant -một triết gia duy tâm chủ quan, người Ðức, cho rằng: vẻ đẹp không
nằm ở đôi má hồng của người thiếu nữ mà nằm trong mắt của kẻ si tình. Như vậy,
theo Kant, cái đẹp là sản phẩm của ý thức cá nhân.
Socrate, một triết gia Hy Lạp cổ đại, lại theo phái cho rằng cái đẹp là cái có
ích, cái có lợi ích thực dụng. Ông lí giải cái đẹp luôn luôn gắn với cái có ích, thậm
chí, đánh đồng cái đẹp với cái có ích: cái đẹp là cái có ích và cái gì có ích là cái
đẹp. Ông giải thích: Cái mộc đẹp là vì nó để tự vệ, còn cái giáo đẹp là vì người ta
có thể dùng sức mạnh mà lao về phía quân thù. Mĩ học Socrate được gọi là mĩ học
vụ lợi. Sai lầm cơ bản của Socrate là đánh đồng cái đẹp với cái có ích. Tuy nhiên,
quan niệm của ông có ý nghĩa quan trọng ở chỗ đưa thực tiễn xã hội vào định
nghĩa cái đẹp.
(Theo MĨ HỌC ĐẠI CƯƠNG - Nguyễn Hoa Bằng)
Và để rồi, ý nghĩa Cách mạng trong quan niệm của mỹ học hiện đại với quan
điểm Mác xít đã khẳn định bản chất của cái đẹp trong tính biện chứng – xã hội của
nó. Cái đẹp là một trong những thuộc tính thẩm mỹ của hiện thực. Nó chính là một
5
giá trị xã hội mang tính khách quan, rộng rãi của các sự vật, hiện tượng toàn vẹn,
cụ thể, cảm tính được con người cảm thụ, đánh giá và sáng tạo. Cái đẹp giữ vị trí
trung tâm của hệ thẩm mỹ, dùng để khái quát những giá tị xã hội tích cực, khách
quan, rộng rãi của hiện thực thẩm mỹ, xuất phát từ thực tiễn, tồi tại dưới dạng hình
tượng toàn vẹn, cụ thể – cảm tính phù hợp với tình cảm, thị hiếu và lý tưởng thẩm
mỹ của xã hội.
Như vậy, ngọn nguồn gốc rễ của bản chất vươn tới cái đẹp, sáng tạo theo qui
luật của cái đẹp, đầu tiên và trước hết phải là đứa con của đất mẹ hiện thực, hứng
ánh sáng thế gian và tắm trong khi không bao la của đất trời. Có như thế, cái đẹp
mới thật sự toàn vẹn.
1.3. Cái đẹp trong tác phẩm văn học
Mục đích đầu tiên và sau cùng của nghệ thuật và văn học, theo tôi là mang
đến cái hay cái đẹp cho đời người. Tự thân nó không có mầm mống của một mưu
toan nào cả. Hãy cho nó thanh thản tự do và mãi mãi là hiện thân của điều thiện
của cái đẹp. Hê –ghen từng nói: “Mỹ học là triết học của sự sáng tạo nghệ thuật” –
nghệ thuật là hình thái cao nhất của sự đồng hóa thế giới thẩm mỹ theo quy luật
của cái đẹp.
Nguyễn Đình Thi đã từng có lần khẳng định: “Nói nghệ thuật tức là nói đến
sự cao cả qua tâm hồn. Đẹp tức là một cái gì cao cả. Đã nói đẹp là nói cao cả. Có
khi nhà văn miêu tả một cái nhìn rất xấu, một tội ác, một tên giết người, nhưng
cách nhìn, cách miêu tả phải cao cả.” Thật vậy, một tác phẩm có truyền tải được
“cái đẹp” đến đâu, “cái mỹ” như thế nào, phần nhiều phụ thuộc vêào người nghệ sĩ
có thể “dùng” đôi mắt của mình đến đâu. Nhà văn không nên nhìn sự vật ở một
chiều, tức là không nên chỉ nói đến cái đẹp. cái cao cả rồi cho rằng đã quá đủ. Nhà
văn phải linh hoạt, biết quan sát, biết đứng ở mọi nơi mọi chốn để tìm ra “ đẹp man
mác khắp vũ trụ, lẩn khuất khắp hang cùng ngõ hẻm, tiềm tàng ở mọi vật tầm
thường”, “cái đẹp ở những chỗ không ai ngờ tới, “cái đẹp kín đáo và che lấp của sự
vật" (Thạch Lam).
2. “Cái đẹp” trong đoạn trích “Người lái đò Sông Đà”
2.1
. Cái đẹp của thiên nhiên
6
Nguyễn Tuân là một nhà văn yêu nước, giàu lòng tự hào dân tộc. Tình yêu
nước ấy cũng chính là tình yêu thiên nhiên tha thiết. Đặc biệt, ông luôn dụng tâm
khám phá thiên nhiên vạn vật dưới góc độ văn hóa thẩm mỹ. Khám phá về sông Đà
– dòng chảy dữ dội của núi rừng Tây Bắc là một thành công đặc sắc của ông. Chỉ
có ông Nguyễn mới không nhọc công dò đến ngọn nguồn lạch sông, truy tìm đến
tận nơi gốc tích khai sinh ra sông Đà, để biết chỗ phát nguyên của nó thuộc huyện
Cảnh Đông và thoạt kì thủy, dòng sông mang những cái tên Trung Hoa khá thơ
mộng: Li Tiên, Bả Biên Giang. Cũng chưa có nhà văn nào trước Nguyễn Tuân có
thể kể tên vanh vách 50/73 con thác lớn nhỏ nằm lô nhô suốt một dải sông từ Lai
Châu về đến chợ Bờ. Cũng không có ai như Nguyễn, để có thể hạ bút viết đúng ba
câu về màu sắc nước sông Đà đã phải có mấy lần bay ngang qua miền sông ấy.
Nếu sông Đà cứ chảy xuôi dòng như bao con sông khác thì có lẽ sẽ chẳng bao giờ
Nguyễn Tuân nhọc lòng vì nó đến vậy, bởi không có gì đặc biệt thì làm sao có thể
hấp dẫn ngòi bút của nhà văn?! Nhất là lại với một người nghệ sĩ vốn chẳng bao
giờ bằng lòng với những gì chung chung, đại khái như Nguyễn Tuân. Chẳng thế
mà nguồn cảm hứng cũng như lời đề từ cho tác phẩm lại là câu thơ của Nguyễn
Quang Bích:
''Chúng thuỷ giai đông tẩu
Đà giang độc bắc lưu''
Ngay từ câu đề từ, Nguyễn Tuân đã vừa thâu tóm lấy cái thần sông Đà, vừa tóm
luôn cái thần chữ của mình. Một mặt “ bắc lưu ” là sư cưỡng lại “đông tẩu” - cái
riêng độ đáo là sự cưỡng lại sức xói mòn của cái chung nhàm cũ. Mặt khác, “bắc
lưu” chỉ tồn tạI trước “đông tẩu” - cái riêng độc đáo chỉ tồn tạ trước cái chung của
nó đồng nghĩa vớI cái cao hơn sự khác lạ là cái sáng tạo. Sông Đà - con sông độc
lạ thật thích hợp vớI một ngòi bút độc lạ. Nguyễn Tuân đã lay con sông vô tri thức
dậy, tướI vào linh hồn nó, và ông khai sinh dòng sông nghệ thuật của minh bằng
một cái tên đủ in luôn tính nết vào nó: “hung bạo và trữ tình” . Tính cách sông Đà
là một hệ thống những phẩm chát đối chọi nhau nhu nước với lửa , và phải từ
những nghịch lí nghịch âm ấy , con sông mớI có đủ điều kiện phô bày hết vẻ phức
tạp phong phú, đầy hấp dẫn của mình. Ai đó đã từng nói: “Dù đã có bao người
khắc, vẽ, và kể chuyện về sông Đà, làm thơ và ca hát với sông Đà thì có lẽ vẫn
chưa ai vượt hơn được Nguyễn Tuân trong việc biến vùng sông nước ấy thành
nghệ thuật , thành một gợi cảm mênh mang”. Một dòng sông hung bạo và trữ tình,
7
khám phá nó như trèo lên một cái cây đầy gai, nhưng trên ngọn là quả ngọt, không
ít khó khăn nhưng cũng đầy thú vị.
2.1.1
Vẻ đẹp uy nghiêm, hùng vĩ, dữ dội của Sông Đà
Cái hùng vĩ, dữ dội của con sông nằm ngay ở khúc thượng nguồn – nơi đỉnh
đầu tổ quốc ta. Ngay từ đầu tác phẩm, nhà văn đã giới thiệu ngay về nét đẹp hùng
vĩ của vùng núi Tây Bắc – nơi dòng sông tọa lạc: “Núi Tây Bắc cao một ngàn
thước, hai ngàn thước và ngọn núi ba ngàn một trăm bốn mươi hai thước, đỉnh đá
Phăng Tây Păng cao nhất của Tổ quốc ta là mọc ở Tây Bắc. Nằm lọt giữa cái thảm
đá, giường đá vĩ đại Tây Bắc là con Sông Đà, đúng là trôi từ cấp đá các miền núi
Tây Bắc dốc xuống”.
Và bằng tài hoa nghệ thuật cùng sự tinh tế trong cảm nhận, Nguyễn Tuân đã
khám phá vẻ đẹp hùng vĩ của con sông không chỉ ở diện mạo mà còn ở tâm địa của
nó.
Ở diện mạo, Sông Đà lộ rõ bộ mặt nham hiểm và nguy hiểm với những “đá
bờ sông dựng vách thành” và những bức thành vách đá cao vút vững chãi, chẹt
chặt lấy lòng sông hẹp. Cái hẹp của lòng sông tác giả tả theo đủ cách: “Mặt sông
chỗ ấy chỉ lúc đúng ngọ mới có mặt trời”; “Con hổ con nai có thể vọt qua sông, và
chỉ can nhẹ tay thôi cũng có thể ném hòn đá từ bờ bên này qua bên kia vách”.
Chính sự chật hẹp ấy mang đến cho người ta cảm giác những vách đá tựa những
thành trì kiên cố, thâm nghiêm, chứa đầy những bí mật. Nó vừa có sức hút người
ta, vừa có sức đẩy người ta bởi sức đe dọa từ cái không khí thâm u ngàn đời của
nó. Và cũng chính cái sự chật hẹp ấy đã mang lại cảm giác “ngồi trong khoang đò
qua quãng ấy, đang mùa hè cũng thấy lạnh, cảm thấy mình như đứng ở hè một cái
ngõ mà ngóng vọng lên một cái khung cửa sổ nào trên cái tầng nhà thứ mấy nào
vừa tắt phụt đèn điện” - là cái lạnh do hơi nước bị cầm tù dưới chân vach đá, hay
do khí đá sắc như dao, hoặc phải chăng là cái cảm giác gai ghê ớn lạnh trước vẻ
hùng vĩ, uy nghiêm tưởng chừng không một tia sự sống có thể tồn tại ấy của khúc
thượng nguồn?
Bằng cách so sánh vừa chính xác, tinh tế, vừa bất ngờ và lạ lùng, ta có cảm
giác như Nguyễn Tuân đã lục lọi đến tận kiệt cùng cái “kho chữ” ấn tượng đầy ăm
ắp để tìm cho được một cách nói có thể làm kinh động hồn trí con người nhất.
8
Và nữa là gió trên Sông Đà đoạn ghềnh Hát Loóng “dài hàng cây số” cũng
không phải là thứ mà người ta có thể khinh nhờn, khi mà "nước xô đá, đá xô gió,
cuồn cuộn luồng gió gùn ghè suốt năm”. Câu văn dài, nhịp văn nhanh cùng lối diễn
đạt theo kiểu móc xích, cấu trúc câu trùng điệp gợi ra hình ảnh nước đá sông Đà
hệt như một lũ cuồng quân dữ dằn như lúc nào cũng muốn tiêu diệt con người.
Cái diện mạo dữ dằn của Sông Đà còn thấy ở những hút nước quãng Tà
Mường Vát đầy ghê rợn: “Nước ở đây thở và kêu như cửa cống cái bị sặc. Trên
mặt cái hút xoáy tít đáy, cũng đang quay lừ lừ những cánh quạ đàn.” Cách ví von
đầy hình ảnh ấy khiến con sông hiện lên không khác gì một loài thủy quái đang há
miệng nhe nanh, tham lam muốn nuốt con mồi quá khổ mà dãy dụa kêu lên những
tiếng “ặc ặc”. Sức hủy diệt của những con hút ấy cũng không phải dùng từ “đáng
sợ” mà có thể hình dung được: “Không thuyền nào dám men gần những cái hút
nước ấy, thuyền nào qua cũng chèo nhanh để lướt quãng sông, y như là ô tô sang
số ấn ga cho nhanh để vút qua một quãng đường mượn cạp ra ngoài bờ vực. Chèo
nhanh và tay lái cho vững mà phóng qua cái giếng sâu, những cái giếng sâu nước
ặc ặc lên như vừa rót dầu sôi vào. Có những thuyền đã bị cái hút nó hút xuống,
thuyền trồng ngay cây chuối ngược rồi vụt biến đi, bị dìm và đi ngầm dưới lòng
sông đến mươi phút sau mới thấy tan xác ở khuỷnh sông dưới”. Đến những bè gỗ
khổng lồ, những con thuyền linh lợi mà còn trở thành miếng mồi ngon cho laofi
thủy quái ấy thì huống hồ là con người nhỏ bé, lẻ loi.
Âm thanh nước thác cũng góp them vào cái diện mạo hiểm độc của con
sông: “như là oán trách gì, rồi lại như là van xin, rồi lại như là khiêu khích, giọng
gằn mà chế nhạo”, rồi lại như “tiếng một ngàn con trâu mộng đang lồng lộn giữa
rừng vầu rừng te nứa nổ lửa, đang phá tuông rừng lửa, rừng lửa cùng gầm thét với
đàn trâu da cháy bùng bùng”. Bằng nghệ thuật so sánh, nhân hóa tài ba cùng những
liên tưởng rất “đắt”, Nguyễn Tuân đã cho thấy giúp ta nhận thấy được từng sắc
diện người trong những hình thù lũ đá vô tri, để rồi khắc họa nên một cảnh tượng
thác nước hùng vĩ, nguy hiểm vô cùng. Lần đầu tiên trong thơ văn có người lại
dùng lửa để miêu tả nước, hai nguyên tố có sức hủy diệt rất lớn lại luôn tương khắc
với nhau, có nước thì không có lửa, ngược lại, có lửa thì không có nước. Vậy mà
Nguyễn Tuân đã làm được điều đó. Ông quả là một nghệ sĩ bậc thầy!
9
Cái tài của ông Nguyễn còn là sự điêu luyện tinh tế khi ông thổi hồn vào
từng thứ đá vô tri một linh hồn, một xúc cảm, một diện mạo khi mà mặt hòn nào
cũng “ngỗ ngược”, rồi “nhăn nhúm”, “méo mó” hệt như một lũ tướng dữ quân tợn,
đầu trâu mặt ngựa, phường bất hảo nơi thiên nhiên hoang dại với tâm địa hiểm ác
không thể lường trước được.
Đặc biệt hơn nữa, sông Đà hình thành một trùng vi thạch trận, giao việc cho
mỗi hòn, để chúng phối hợp lại thành ba trùng vi nguy hiểm. Người lái đò muốn
vượt qua dòng chảy này thì phải vượt qua ba trận chiến hiểm trở, táo bạo này. Với
giọng văn dồn dập, cùng trí tưởng tượng phong phú, kho từ vựng giàu có, vốn tri
thức phong phú được sử dụng hợp lí, Nguyễn Tuân như một vị tướng tài ba trên
trận đồ chữ nghĩa, dồn hết bút lực kéo người đọc vào cùng vượt thác với người lái
đò.
Trận thứ nhất “mặt nước hò la vang dậy quanh mình, ùa vào mà bẻ gãy cán
chèo. Sóng nước như thể quân liều mạng vào sát nách…” Sang đến trận thứ hai
“tăng thêm nhiều của tử để đánh lừa con thuyền vào, và cửa sinh lại bố trí lệch qua
bên phía bờ hữu ngạn”. Sang đến trận thứ ba dường như ít cửa hơn nhưng lại quyết
liệt và mãnh liệt hơn. Sông Đà hiện lên không khác nào một con thủy quái với thái
độ đầy trịch thượng, hách dịch đang đòi nuốt chửng người lái đò và chiếc thuyền
bất cứ lúc nào có thể. Con sông giờ phút này đã chính thức trở thành “kẻ thù số
một” của người lái đò, với tất cả đặc tính nham hiểm, thâm độc nhất. Thạch trận
khôn lường ấy lại càng thêm phức tạp khi đá “đánh bạn” với nước – ra những món
đòn hiểm độc như “đòn âm”, “đòn tỉa”, “đánh hồi lùng”. Hai thế lực hùn hạp với
nhau tạp nên thế gọng kìm hiểm độc, tạo thành một trận đồ bát quái kinh khủng.
Chính khúc thượng nguồn dữ dội ấy đã làm nên nét riêng độc đáo không thể nhầm
lẫn giữa muôn nghìn con sông khác – một vẻ đẹp hùng vĩ tráng lệ đầy thách thức
của dòng chảy Tây Bắc đại ngàn kì vĩ.
2.1.2
Vẻ đẹp thơ mộng, trữ tình của Sông Đà
Cũng như bao như muôn nghìn con sông khác, Sông Đà cũng xuôi dòng đổ
ra biển, thả dáng vươn mình qua những thung lũng, đồng bằng thoai thoải nơi hạ
lưu. Dòng sông Đà không chỉ có những “dòng thác hùm beo đang hồng hộc tế
manh trên sông đá” mà nó còn là bức tranh thủy mặc vương vấn lòng người với nét
10
đẹp trữ tình đầy thơ mộng biết bao nhiêu! Nhạc điệu trầm bổng, đưa người đọc đến
với cái yên ả của dòng sông đà nơi hạ lưu: "Dòng sông quãng này lững lờ như
thương nhớ những hòn thác đá xa xôi để lại trên thượng nguồn Tây Bắc. Và con
sông như đang lắng nghe những giọng nói êm êm của người xuôi, và con sông
đang trôi những con đò mình nở chạy buồm vải no khác hẳn những con đò đuôi én
thắt mình dây cổ điển dòng trên".
Qua ngòi bút tinh tế của Nguyễn Tuân, từ trên tàu bay nhìn xuống Sông Đà
“tuôn dài như một áng tóc trữ tình, đầu tóc chân tóc ẩn hiện trong mây trời Tây
Bắc bung nở hoa ban hoa gạo tháng hai và cuồn cuộn mùa khói mèo đốt nương
xuân”. Thật là một cách so sánh tài hoa, phong tình, “áng tóc” hay chính là “áng
thơ” – dòng sông như cũng có cốt cách và phẩm giá nghệ thuật như một niềm thơ.
Đặc biệt khi tác giả miêu tả nước của dòng sông mới thật tuyệt vời và thi vị
biết bao: “Mùa xuân dòng xanh ngọc bích, chứ nước Sông Đà không xanh màu
canh hến của sông Gâm sông Lô. Mùa thu nước sông đà lừ lừ chín đỏ như da mặt
một người bầm đi vì ruơu, lừ lừ cái màu đỏ giận giữ ở một người bất mãn bực bội
gì mỗi độ thu về”. Màu nước sông tưởng như những chiếc khăn với màu sắc khác
nhau mà núi rừng Tây Bắc quàng lên mình mỗi khi chuyển mùa.
Việc so sánh màu nước Sông Đà với những con sông khác cũng thể hiện một
nét đặc sắc nữa trong phong cách Nguyễn Tuân là ông thường miêu tả những cảnh
đẹp tuyệt mỹ, tuyệt đích; cái đẹp ấy là sự hội tụ của cái đẹp thi vị trữ tình và vẻ đẹp
hoành tráng dữ dội đến dữ dằn. Đọc những câu văn này mà tôi lại nhớ đến khi mà
Nguyễn Tuân tả màu nước biển Cô Tô: “Biển xanh như gì nhỉ ? Xanh như lá chuối
non ? Xanh như lá chuối già ? Xanh như mùa thu ngả cốm làng Vòng ? Nước biển
Cô Tô đang đổi từ vẻ xanh này sang vẻ xanh khác. Nó xanh như cái màu áo Kim
Trọng trong tiết Thanh Minh ? Ðúng một phần thôi. Bởi vì con sóng vừa dội lên
kia đã gia giảm thêm một chút gì, đã pha biến sang màu khác. Thế thì nước biển
xanh như cái vạt áo nước mắt của ông quan Tư Mã nghe đàn tì bà trên con sóng
Giang Châu thì có đúng không?” Chẳng hiểu sao chỉ đọc một lần vậy thôi mà ta đã
có thể nghĩ rằng – đây quả đúng là văn cụ Nguyễn.
Những từ ngữ mượt mà, sức liên tưởng phóng túng của mình, Nguyễn tuân
đã trao cho con sông vô tri một linh hồn rất con người, cũng mang tâm trạng, tình
cảm như ai. Để rồi ông nhìn ra sự gợi cảm của Sông Đà với vẻ đẹp của nắng tháng
11
ba Đường thi “Yên hoa tam nguyệt há Dương Châu”, làm cho người đi rừng dài
ngày “vui như thấy nắng giòn tan sau kì mưa dầm, vui như nối lại chiêm bao đứt
quãng”. Cách so sánh ví von tự nhiên mà giàu sức gợi, khiến cho cái tình Nguyễn
Tuân đối Sông Đà thật chẳng khác nào cái tình giữa những người tri kỉ, tình với
một “cố nhân”.
Bờ bãi Sông Đà khúc hạ lưu cũng lại mang một vẻ đẹp rất riêng đầy thơ
mộng của một vùng bờ bãi “lặng tờ”. Có những cảnh hoang vu, hoang sơ đến kì lạ:
“Bờ sông hoang dại như một bờ tiền sử. Bờ sông hồn nhiên như một nỗi niềm cổ
tích tuổi xưa”. Hai bên sông còn là “những nương ngô nhú lên những lá ngô non
đầu mùa, những cỏ gianh đồi núi đang ra những nõn búp. Một đàn hươu cúi đầu
ngốn cỏ gianh đẫm sương đêm”. Trong lúc đang thưởng thức cảnh sắc thiên nhiên
thơ mộng và tuyệt đẹp như thế, nhà văn bỗng cảm thấy “thèm được giật mình vì
một tiếng còi xúp-lê của một chuyến xe lửa đầu tiên đường sắt Phú Thọ – Yên Bái
– Lai Châu” - muốn được đánh thức bởi sự hiện diện của con người. Thiên nhiên
tuy đẹp đấy nhưng hoang sơ, “tịnh không một bóng người”, “một nương ngô nhú
lên mấy lá ngô non đầu mùa” mà không có ai chăm sóc, “dường như từ đời Lí đời
Trần đời Lê, quãng sông này cũng lặng tờ đến thế mà thôi” – một vẻ đẹp thách
thức thời gian, tựa như trường tồn vĩnh cửu. Thật buồn tẻ! Nhưng nhanh chóng, từ
quá khứ nhà văn trở về với hiện tại và hướng tới tương lai đẹp đẽ. Đất đai ở đây sẽ
có con người khai phá, đường xá sẽ được mở, những ngôi làng thị trấn sẽ được
mọc lên, khắp nơi đều đầy ắp tiếng cười nói của mọi người. Chỉ có thể là trí tưởng
tượng phong phú của Nguyễn Tuân mới có thể đưa ra một phép so sánh mới lạ đầy
ấn tượng nhường ấy, khi lấy không gian đặt cạnh thời gian, lấy cái vô hình để ví
von với cái hữu hình - so sánh không nhằm để tả, mà hòng gợi. Đang mộng mơ
bên cảnh sông Đà, Nguyễn Tuân có mối giao cảm kì lạ với loài vật: “Con hươu thơ
ngộ ngẩng đầu nhung khỏi ánh cỏ sương, chăm chăm nhìn tôi lừ lừ trôi trên một
mũi đò. Hươu vểnh tai, nhìn tôi không chớp mắt mà như hỏi tôi bằng cái tiếng nói
riêng của con vật lành: Hỡi ông khách sông Đà, có phải ông cũng vừa nghe thấy
một tiếng còi sương?”. Ở đây dường như là con vật hỏi người hay chính là người
đang say trong cảnh mộng mà tự hỏi mình. Cảnh sông Đà thơ mộng là thế, có
những khoảng lặng diệu kì khiến con người ta rơi vào cảm giác thần tiên để rồi
tiếng đập nước của ”đàn cá dầm xanh quẫy vọt lên mặt sông bụng trắng như bạc
rơi thoi đuổi mất đàn hươu vụt biến” đánh thức người đang mộng. Nguyễn Tuân đã
dùng cái động để tả thật tài tình cái tĩnh lặng kì diệu.
12
Vẻ đẹp hoang sơ thơ dại là thế, bờ bãi Sông Đà còn mang một vẻ đẹp trữ
tình nên thơ. Lênh đênh trên dòng nước xanh ngọc đẹp đẽ, phẳng lặng, nhà thơ
chợt có sự đồng điệu trong cảm xúc về sông Đà như Tản Đà khi trước: “Dải sông
đà bọt nước lênh bênh – Bao nhiêu cảnh bấy nhiêu tình” của “một người tình nhân
chưa quen biết”. Vậy là Sông Đà đã trở thành nguồn thi cảm, nơi gặp gỡ của muôn
hồn thi nhân không chia người sau kẻ trước ở một lòng thiết tha với cảnh sắc và
phong vị quê hương. Đặc biết, cách diễn đạt của Nguyễn Tuân đã xóa nhòa ranh
giới giữa dòng sông và dòng thơ, giữa hiện tại và cảnh trong mộng nhớ, khiến con
thuyền Nguyễn Tuân không chỉ đang trôi trên Sông Đà nữa mà còn như đang viễn
du vào mênh mông vùng nghệ thuật.
Để rồi, ta lại không kìm được mà thốt lên rằng: quả thực “chưa ai vượt hơn
được Nguyễn Tuân trong việc biến vùng sông nước ấy thành nghệ thuật, thành một
gợi cảm mênh mang”.
2.2
. Cái đẹp của con người
2.2.1. Quan niệm nghệ thuật của Nguyễn Tuân về con người
Dù trước hay sau Cách mạng, quan niệm nghệ thuật của Nguyễn Tuân về
con người đều có một điểm thống nhất: vẫn luôn tiếp cận con người ở phương diện
tài hoa, nghệ sĩ. Nếu Thạch Lam truy tìm cái đẹp trong cuộc đời nghèo khổ, bình
dị, thì Nguyễn Tuân thường say mê với những vẻ đẹp phi thường, tuyệt mĩ. Trong
quan niệm của nhà văn ngay cả những người bình thường khi thực thi những công
việc bình thường cũng phải đạt tới đỉnh cao của sự tài hoa, khéo léo.Tuy nhiên, nếu
trước Cách mạng tháng Tám, con người Nguyễn Tuân hướng tới và ca ngợi là
những “con người đặc tuyển, những tính cách phi thường” thì sau Cách mạng,
nhân vật tài hoa nghệ sĩ của Nguyễn Tuân có thể tìm thấy ngay trong cuộc chiến
đấu, lao động hàng ngày của nhân dân. Trước Cách mạng tháng Tám, Nguyễn
Tuân là một người tài tử, thích chơi “ngông”, mắc cái bệnh ham mê thanh sắc,
thích chiêm ngưỡng, chắt chiu cái Đẹp và nhấm nháp những cảm giác mới lạ.
Nhưng trải qua một cuộc “lột xác”, bừng tỉnh nhận thức và tư duy, nhà văn trở nên
nhạy cảm với con người mới, cuộc sống mới từ góc độ thẩm mĩ của nó. Không còn
là một Nguyễn Tuân “nghệ thuật vị nghệ thuật” nữa. Ông đã nhìn cái đẹp của con
13
người là cái đẹp gắn với nhân dân lao động, với cuộc sống đang nẩy nở sinh sôi,
đồng thời lên án, tố cáo chế độ cũ, khẳng định bản chất nhân văn của chế độ mới.
Hình tượng người lái đò trong đoạn trích “Người lái đò Sông Đà” chính là
một hình tượng tiêu biểu đặc trưng cho cách nhìn con người của Nguyễn Tuân thời
kì mới.
2.2.2. Vẻ đẹp của hình tượng người lái đò
Người lái đò dưới ngòi bút của Nguyễn Tuân đã không đơn thuần chỉ là một
người lao động bình thường nữa mà đã trở thành người nghệ sĩ trên mặt trận sông
nước với một phẩm chất tài hoa nghệ sĩ.
Có lẽ bao tình cảm đam mê, yêu quý sông Đà của Nguyễn Tuân được gửi
gắm vào nhân vật ông lái đò, nên nhà văn đã để nhân vật của mình gắn bó với sông
Đà đến mức máu thịt, hiểu và yêu dòng sông đến mức thuộc lòng từng tên thác tên
ghềnh hơn một nghìn tên dù dễ hay khó đều hội tụ lắng đọng thành một dòng chảy
trong trái tim của ông lái đò hay chính là trái tim của Nguyễn Tuân. Ông thuộc
dòng sông như thuộc một “bản trường ca, thuộc đến từng dấu chấm dấu phẩy, dấu
chấm than và từng đoạn xuống dòng”. Ông lái tựa như một người nghệ sĩ đích thực
khi nhìn con sông như nhìn một tác phẩm nghệ thuật; và đây đã không còn đơn
thuần chỉ là tình yêu của một người làm nghề với môi trường nghề nghiệp nữa mà
nó đã trở thành niềm đắm say của người nghệ sĩ với công trình tuyệt tác nghệ thuật
mà đất trời đã hào phóng ban cho Tây Bắc xa xôi.
Không chỉ yêu mến, ông lái còn am hiểu con sông một cách tận tường khi
“đã nắm chắc binh pháp của thần sông thần đá, ông đã thuộc quy luật phục kích
của lũ đá nơi ải nước hiểm trở này”. Có lẽ chính vì thế mà ông lái đò đã khuất
phục, chế ngự được sự hung bạo của dòng sông Đà. Ông không phải thần thánh mà
chỉ là một người lao động bình thường bằng xương bằng thịt nhưng với chí dũng
song toàn mà vẫn hiên ngang đối đầu với cả “thần”, chiến thắng thiên nhiên nghiệt
ngã để tồn tại.
Sự tài hoa, trí dũng của ông lái đò được cụ thể qua những cuộc giao tranh dữ
dội với nước, sóng, gió và đá qua ba thạch trận.
14
Trước hết là trùng vi thạch trận thứ nhất, người đọc đặc biệt ấn tượng với
những câu văn tả đá được nhân hóa như một đội quân: “đá tảng, đá hòn”…, “đá
tiền vệ” đã bày ra thạch trận với năm cửa, có bốn cửa tử và một cửa sinh. Bên cạnh
đó, nhà văn sử dụng một loạt động từ trùng điệp để tô đậm sức mạnh của đội quân
đá: “mai phục”, “nhổm cả dậy”, “đứng ngồi nằm tùy theo sở thích”. “ăn chết”,
“canh cửa”, “hất hàm’…Cộng hưởng với những động từ là những tính từ làm nổi
bật tính hung bạo: “ngỗ ngược”, “nhăn nhúm”, “méo mó…Tất cả làm nổi bật thế
và lực của đá sông vừa đông vừa mạnh hung tợn, ghê sợ tạo thành thế không cân
sức với ông lái đò chỉ có một mình đơn phương độc mã để gieo vào lòng người đọc
bao phấp phỏng, hồi hộp. Bên cạnh đá là nước, “phối hợp với đá, nước thác reo hò
làm thanh viện cho đá”, tạo nên âm thanh dữ dội tăng thêm không khí chiến đấu ác
liệt. Sóng nước biết tung ra các đòn đánh nguy hiểm như đánh giáp lá cà, đánh
khuýp quật vô hồi, đá trái, thúc gối…Có thể nói Nguyễn Tuân đã rộng mở sự uyên
bác tài hoa của mình để kho ngôn từ phong phú sinh động đầy ắp trong mọi lĩnh
vực của sự sống, tuôn chảy không ngừng cả các ngôn ngữ quân sự thể thao, quân
sự cũng được huy động với tần số đậm đặc để cực tả đá nước sông Đà. Đây chính
là nghệ thuật vẽ mây đẩy trăng để gián tiếp ca ngợi chí dũng song toàn của ông lái
đò khi sáng suốt lựa chọn binh pháp chế ngự kết hợp phòng thủ. Ở chặng này, nhà
văn ca ngợi ông lái đò có sức chịu đựng phi thường “ông đò cố nén vết thương, hai
chân vẫn kẹp chặt cuống lái”… chỉ huy ngắn gọn kín đáo và ông đã chiến thắng
“phá xong trùng vi thạch trận thứ nhất”.
Ở trùng vi thạch trận thứ hai, đá nước sóng tăng thêm nhiều cửa tử “dòng
thác hùm beo đang hồng hộc tế mạnh”, “bốn năm thủy quân không ngớt khiêu
khích”…Những động từ mạnh vẫn tiếp tục tuôn chảy không ngớt trên những trang
văn cộng hưởng với phép tu từ so sánh nhân hóa rất độc đáo giúp nhà văn biến
sóng nước thành hùm thiêng, sông nước tăng thêm sức mạnh đến đỉnh điểm của Đà
giang để tiếp tục tôn lên tư thế hào hùng của ông lái đò. Ông lái đò “không chút
nghỉ tay, nghỉ mắt phá luôn vòng vây thứ hai và đổi luôn chiến thuật”, “ông đò
nắm chắc binh pháp của thần sông, thần đá, ông đã thuộc hết quy luật phục kích
của lũ đá” nên ông chủ động tự tin nhanh nhẹn làm chủ tình thế “cưỡi lên thác
sông Đà như cưỡi hổ, nắm chặt bờm sóng, ghì cương lái, phóng nhanh, chặt đôi
thác để mở đường tiến”. Những động từ mạnh liên tiếp lại như đưa người đọc vào
cuộc chiến của sóng nước tạo ra trạng thái say như say sóng, để từ đó tôn vinh lên
những nét đẹp của ông lái đò đó là mưu trí, dũng cảm, kiên cường.
15
Nếu ở cuộc giao tranh thứ nhất và thứ hai Nguyễn Tuân cực tả vẻ đẹp trí
dũng song toàn và phẩm chất anh hùng của ông lái đò thì ở chặng thứ ba này
Nguyễn Tuân muốn cho người đọc thấy “tay lái ra hoa” của ông lái. Nguyễn Tuân
miêu tả “bên phải, bên trái đều là luồng chết” khiến ông lái đò phải vận dụng tài
năng nghề nghiệp của mình, nâng thuyền của mình lên mặt nước như nghệ sĩ lái
mô tô bay trong không trung để “xuyên qua mặt nước”…những động từ mạnh
“vút” hay “xuyên” lặp đi lặp lại nhấn mạnh tốc độ lái thuyền nhanh mạnh, cộng với
nhiều phép so sánh liên tiếp khiến người đọc vừa cảm nhận được độ nhanh mạnh
vừa cam nhận được độ khéo léo của con thuyền trong hướng đi luồn lách tránh đội
quân đá đông đúc. Nghệ thuật lái thuyền đến đây khiến người đọc hoàn toàn tâm
phục, khẩu phục. Đúng là ông lái đò đã đạt đến mức nghệ sĩ trong nghề nghiệp của
mình.
Vượt qua thách dữ ghềnh sâu, ông lái lại trở vè là một con người ung dung,
bình dị của cuộc sống thường nhật. Xong trận, ông nào cũng ung dung, thanh thản
như chưa từng vượt thác: sóng thác xèo xèo tan ra trong trí nhớ. Sông nước lại
thanh bình. Đêm ấy nhà đò đốt lửa trong hang đá, nướng ống cơm lam và toàn bàn
về cá anh vũ, cá dầm xanh, về những cái hầm cá hang ca mùa khô nổ những tiếng
to như mìn bộc phá rồi túa ra đầy tràn ruộng. Cũng chả thấy ai bàn thêm một lời
nào về cuộc chiến thắng vừa qua nơi ải nước đủ tướng dữ quân tợn vừa rồi. Như
những nghệ sĩ chân chính, sau khi vắt kiệt sức mình để thai nghén nên tác phẩm
không mấy ai tự tán dương về công sức của mình. Nguyễn Tuân đầy tinh tế mà đưa
ra một lời nhận xét: “Cuộc sống của họ là ngày nào cũng chiến đấu với sông Đà dữ
dội, ngày nào cũng giành lấy sự sống từ tay những cái thác, nên nó cũng không có
gì là hồi hộp, đáng nhớ… Họ nghĩ thế, lúc ngừng chèo”. Chính sự khiêm nhường
khi coi chiến tích vĩ đại chỉ là một chuyện bình thường đã khiến hình ảnh người lao
động càng trở nên lồng lộng phi thường. Và có phải chăng người lái đò anh hùng
có lẽ dế thấy, nhưng nhìn người lái đò tài hoa, chỉ có Nguyễn Tuân.
KẾT LUẬN
Quả thực Nguyễn Tuân là một nhà văn suốt đời mê cái đẹp và mải miết truy
tìm cái đẹp. Vẻ đẹp trong thiên nhiên và con người nơi Tây Bắc xa xôi đã hòa
quyện phối hợp với nhau thực nhuần nhị, thiên nhiên hùng vĩ làm nền cho con
người xuất hiện đầy hùng tráng, con người lại tô điểm cho thiên nhiên them mỹ lệ,
lộng lẫy. Chính điều này đã phần nào thể hiện một nét phong cách đặc trưng của
16
ông: ưa “quan sát, khám phá sự vật ở phương diện mĩ thuật và con người ở phương
diện tài hoa nghệ sĩ” (Nguyễn Đăng Mạnh).
Giữa cuộc sống bình dị này, chính nhà văn là người mang lại cho ta một thế
giới mới, tinh khôi, kì diệu. Nguyễn Tuân cũng là một nhà văn, một người góp
phần sáng tạo lại thế giới. Văn chương của Nguyễn Tuân đã mang đến cho chúng
ta một chân trời huyền bí riêng biệt, hấp dẫn và độc đáo. Đó là chân trời của cái
đẹp, của sự tài hoa và uyên bác – nơi những con chữ nhảy múa vi diệu trên trận đồ
chữ nghĩa, mang đến một mỹ cảm trọn vẹn tỏng cả nội dung và hình thức nghệ
thuật. “Người lái đò Sông Đà” khép lại nhưng những mỹ cảm nó mang đến vẫn cứ
đọng lại mãi, vấn vương tâm trí con người ta như một niềm ám ảnh.
17