Tải bản đầy đủ (.docx) (26 trang)

Bai thi so 2 nhà nước pháp luật

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (151.54 KB, 26 trang )

BÀI HỆ THỐNG CHÍNH TRỊ
Lưu ý: căn cứ câu hỏi để làm những nội dung phù hợp
1.Khái niệm hệ thống chính trị:
Hệ thống chính trị là tổ hợp có tính chỉnh thể các thể chế chính trị (các cơ
quan quyền lực nhà nước, các đảng chính trị, các phong trào xã hội, các tổ chức
chính trị – xã hội…) được xây dựng theo một kết cấu chức năng nhất định, vận
hành trên những nguyên tắc, cơ chế và quan hệ cụ thể, nhằm thực thi quyền lực
chính trị.
2. Đặc điểm của hệ thống chính trị Việt nam:
Hệ thống chính trị VN vừa mang tính phổ biến vừa mang tính đặc thù. Do
đó, về cơ bản HTCT VN gần giống như HTCT nhiều nước trên thế giới. Mặt khác,
HTCT VN được tổ chức và vận hành trong những điều kiện đặc thù, vì vậy HTCT
VN có những đặc điểm riêng.
- HTCT VN do duy nhất một Đảng cộng sản VN lãnh đạo. Tính đặc thù này
được quy định bởi vai trò, vị trí, khả năng lãnh đạo, uy tính của ĐCSVN lãnh đạo từ
khi thành lập đến nay.
- HTCT nước ta về bản chất: là hệ thống chính trị XHCN. Mặc dù đang trong
thời kỳ quá độ - trong quá trình đổi mới-> ảnh hưởng của thói quen xử lý công
việc, quản lý xã hội, ứng xử theo thời chiến và cơ chế tập trung bao cấp vẫn còn
ảnh hưởng khá đậm nét trong các thế hệ cán bộ, đặc biệt thế hệ trưởng thành trong
chiến tranh.
- Ở VN, các tổ chức chính trị - xã hội phần lớn đều được Đảng cộng sản tổ
chức rèn luyện, ra đời ngay sau khi Đảng Cộng sản Việt Nam thành lập và trở thành
các tổ chức quần chúng, cơ sở chính trị - xã hội của Đảng.
3. Cấu trúc của hệ thống chính trị: Những đặc điểm riêng của HTCT nước
ta quy định kết cấu, tổ chức, vận hành và các mối quan hệ.
Về tổ chức bộ máy, HTCT Việt Nam gồm Đảng Cộng sản Việt Nam, Nhà
nước, Mặt trận Tổ quốc Việt Nam và các tổ chức chính trị - xã hội: Tổng liên đoàn
Lao động VN, Đoàn TNCS Hồ Chí Minh, Hội Nông dân Việt Nam, Hội Liên hiệp
phụ nữ Việt Nam, Hội Cựu chiến binh VN.
- Đảng cộng sản VN lãnh đạo nhà nước và xã hội, là hạt nhân của hệ thống


chính trị.
Điều 4 (Hiến pháp năm 2013) khẳng định: Đảng Cộng sản Việt Nam - Đội tiên
phong của giai cấp công nhân, đồng thời là đội tiên phong của nhân dân lao động và
của dân tộc Việt Nam, đại biểu trung thành lợi ích của giai cấp công nhân, nhân dân
lao động và của cả dân tộc, lấy chủ nghĩa Mác - Lê nin và tư tưởng Hồ Chí Minh làm
nền tảng tư tưởng, là lực lượng lãnh đạo Nhà nước và xã hội.
- Nhà nước CHXHCN VN bao gồm Quốc hội, Chủ tịch nước, Chính phủ, hệ
thống tư pháp và chính quyền các địa phương.


+ Quốc hội
Điều 69
Quốc hội là cơ quan đại biểu cao nhất của Nhân dân, cơ quan quyền lực nhà
nước cao nhất của nước Cộng hoà xã hội chủ nghĩa Việt Nam.
Quốc hội thực hiện quyền lập hiến, quyền lập pháp, quyết định các vấn đề
quan trọng của đất nước và giám sát tối cao đối với hoạt động của Nhà nước.
+ Chủ tịch nước
Điều 86
Chủ tịch nước là người đứng đầu Nhà nước, thay mặt nước Cộng hoà xã hội
chủ nghĩa Việt Nam về đối nội và đối ngoại.
Điều 87
Chủ tịch nước do Quốc hội bầu trong số đại biểu Quốc hội.
Chủ tịch nước chịu trách nhiệm và báo cáo công tác trước Quốc hội.
Nhiệm kỳ của Chủ tịch nước theo nhiệm kỳ của Quốc hội. Khi Quốc hội hết
nhiệm kỳ, Chủ tịch nước tiếp tục làm nhiệm vụ cho đến khi Quốc hội khoá mới bầu
ra Chủ tịch nước.
+ Chính phủ
Điều 94
Chính phủ là cơ quan hành chính nhà nước cao nhất của nước Cộng hoà xã
hội chủ nghĩa Việt Nam, thực hiện quyền hành pháp, là cơ quan chấp hành của

Quốc hội.
Chính phủ chịu trách nhiệm trước Quốc hội và báo cáo công tác trước Quốc
hội, Ủy ban thường vụ Quốc hội, Chủ tịch nước.
+ Tòa án nhân dân
Điều 102
1. Tòa án nhân dân là cơ quan xét xử của nước Cộng hoà xã hội chủ nghĩa
Việt Nam, thực hiện quyền tư pháp.
2. Tòa án nhân dân gồm Tòa án nhân dân tối cao và các Tòa án khác do luật
định.
3. Tòa án nhân dân có nhiệm vụ bảo vệ công lý, bảo vệ quyền con người,
quyền công dân, bảo vệ chế độ xã hội chủ nghĩa, bảo vệ lợi ích của Nhà nước,
quyền và lợi ích hợp pháp của tổ chức, cá nhân.
+ Viện kiểm sát nhân dân
Điều 107
1. Viện kiểm sát nhân dân thực hành quyền công tố, kiểm sát hoạt động tư
pháp.
2. Viện kiểm sát nhân dân gồm Viện kiểm sát nhân dân tối cao và các Viện
kiểm sát khác do luật định.


3. Viện kiểm sát nhân dân có nhiệm vụ bảo vệ pháp luật, bảo vệ quyền con
người, quyền công dân, bảo vệ chế độ xã hội chủ nghĩa, bảo vệ lợi ích của Nhà
nước, quyền và lợi ích hợp pháp của tổ chức, cá nhân, góp phần bảo đảm pháp luật
được chấp hành nghiêm chỉnh và thống nhất.
- Chính quyền địa phương
Điều 111
1. Chính quyền địa phương được tổ chức ở các đơn vị hành chính của nước
Cộng hòa xã hội chủ nghĩa Việt Nam.
2. Cấp chính quyền địa phương gồm có Hội đồng nhân dân và Ủy ban nhân
dân được tổ chức phù hợp với đặc điểm nông thôn, đô thị, hải đảo, đơn vị hành chính

- kinh tế đặc biệt do luật định.
Điều 112
1. Chính quyền địa phương tổ chức và bảo đảm việc thi hành Hiến pháp và
pháp luật tại địa phương; quyết định các vấn đề của địa phương do luật định; chịu sự
kiểm tra, giám sát của cơ quan nhà nước cấp trên.
2. Nhiệm vụ, quyền hạn của chính quyền địa phương được xác định trên cơ sở
phân định thẩm quyền giữa các cơ quan nhà nước ở trung ương và địa phương và của
mỗi cấp chính quyền địa phương.
3. Trong trường hợp cần thiết, chính quyền địa phương được giao thực hiện
một số nhiệm vụ của cơ quan nhà nước cấp trên với các điều kiện bảo đảm thực hiện
nhiệm vụ đó.
Điều 113
1. Hội đồng nhân dân là cơ quan quyền lực nhà nước ở địa phương, đại diện
cho ý chí, nguyện vọng và quyền làm chủ của Nhân dân, do Nhân dân địa phương
bầu ra, chịu trách nhiệm trước Nhân dân địa phương và cơ quan nhà nước cấp trên.
2. Hội đồng nhân dân quyết định các vấn đề của địa phương do luật định;
giám sát việc tuân theo Hiến pháp và pháp luật ở địa phương và việc thực hiện nghị
quyết của Hội đồng nhân dân.
Điều 114
1. Uỷ ban nhân dân ở cấp chính quyền địa phương do Hội đồng nhân dân cùng
cấp bầu là cơ quan chấp hành của Hội đồng nhân dân, cơ quan hành chính nhà nước ở
địa phương, chịu trách nhiệmtrước Hội đồng nhân dân và cơ quan hành chính nhà
nước cấp trên.
2. Uỷ ban nhân dân tổ chức việc thi hành Hiến pháp và pháp luật ở địa
phương; tổ chức thực hiện nghị quyết của Hội đồng nhân dân và thực hiện các
nhiệm vụ do cơ quan nhà nước cấp trên giao.
- MTTQ và các tổ chức thành viên là cơ sở chính trị của chính quyề nhân dân
– nơi thể hiện ý chí, nguyện vọng, tập hợp khối đại đoàn kết toàn dân, phát huy
quyền làm chủ của nhân dân.



Điều 9
1. Mặt trận Tổ quốc Việt Nam là tổ chức liên minh chính trị, liên hiệp tự
nguyện của tổ chức chính trị, các tổ chức chính trị - xã hội, tổ chức xã hội và các cá
nhân tiêu biểu trong các giai cấp, tầng lớp xã hội, dân tộc, tôn giáo, người Việt Nam
định cư ở nước ngoài.
Mặt trận Tổ quốc Việt Nam là cơ sở chính trị của chính quyền nhân dân; đại
diện, bảo vệ quyền và lợi ích hợp pháp, chính đáng của Nhân dân; tập hợp, phát
huy sức mạnh đại đoàn kết toàn dân tộc, thực hiện dân chủ, tăng cường đồng thuận
xã hội; giám sát, phản biện xã hội; tham gia xây dựng Đảng, Nhà nước, hoạt động
đối ngoại nhân dân góp phần xây dựng và bảo vệ Tổ quốc.
Thực trạng và giải pháp (tham khảo ĐH XV Thành phố)
Phương hướng đổi mới HTCT trên địa bàn Hà Nội: Liên hệ theo
chương trình 01 của Thành ủy, phân tích thêm ở đơn vị
- Về nâng cao chất lượng hoạt động của hệ thống chính trị, gắn với phát huy
quyền làm chủ của nhân dân; Tiếp tục đổi mới, chỉnh đốn Đảng, nâng cao năng lực
lãnh đạo và sức chiến đấu của Đảng bộ TPHN;
- Tiếp tục đổi mới, nâng cao chất lượng công tác chính trị tư tưởng, tạo
chuyển biến mới trong việc thực hiện Cuộc vận động “Học tập và làm theo tấm
gương đạo đức Hồ Chí Minh”.
- Xây dựng đội ngũ cán bộ, công chức, trước hết là cán bộ lãnh đạo, quản lý
các cấp trong sạch, vững mạnh, đáp ứng yêu cầu nhiệm vụ chính trị của thời kỳ
mới.
- Tập trung xây dựng tổ chức cơ sở Đảng trong sạch, vững mạnh; nâng cao
năng lực lãnh đạo, sức chiến đấu của tổ chức cơ sở đảng và chất lượng đội ngũ
đảng viên, nhất là ở cơ sở xã, phường, thị trấn và các loại hình tổ chức mới.
- Đổi mới mạnh mẽ phương thức lãnh đạo của các cấp ủy đảng. Giữ gìn và
phát huy truyền thống đoàn kết, thống nhất trong Đảng; thực hiện tốt nguyên tắc
tập trung dân chủ; tăng cường chất lượng và hiệu quả công tác kiểm tra, giám sát.
Đổi mới nội dung, phương thức và chất lượng hoạt động công tác dân vận.

- Tiếp tục đẩy mạnh công tác đấu tranh phòng, chống tham nhũng; thực hành
tiết kiệm, chống lãng phí.
- Tạo chuyển biến mạnh mẽ trong việc nâng cao chất lượng hoạt động của hệ
thống chính quyền các cấp theo hướng chuyên nghiệp, hiệu lực, hiệu quả.
- Tiếp tục đổi mới, kiện toàn tổ chức, bộ máy; nâng cao vai trò, chất lượng
hoạt động của HĐND và đại biểu HĐND. Đẩy mạnh cải cách hành chính, trọng
tâm là cải cách thủ tục hành chính và nâng cao ý thức, tinh thần trách nhiệm phục
vụ nhân dân của đội ngũ cán bộ, công chức, viên chức. Củng cố, kiện toàn, nâng
cao chất lượng hoạt động của hệ thống các cơ quan tư pháp của Thành phố.


- Tiếp tục đổi mới nội dung, phương thức, nâng cao chất lượng hoạt động của
Mặt trận Tổ quốc, các đoàn thể nhân dân, hướng mạnh về cơ sở. Mở rộng dân chủ,
tăng cường, phát huy sức mạnh tổng hợp của cả hệ thống chính trị và sức mạnh đại
đoàn kết toàn dân.


BÀI NHÀ NƯỚC PHÁP QUYỀN XHCN
Lưu ý: căn cứ câu hỏi để làm những nội dung phù hợp
1. Khái niệm NNPQ
Dưới sự lãnh đạo của Đảng và Chủ tịch Hồ Chí Minh, từ khi ra đời đến nay,
sau 70 năm xây dựng và hoàn thiện, Nhà nước ta ngày càng thể hiện rõ những
phẩm chất và đặc trưng của một nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa thực sự của
nhân dân, do nhân dân, vì nhân dân.
Tiếp thu các giá trị tích cực, tiến bộ, khoa học về nhà nước pháp quyền trong
lịch sử, đồng thời quán triệt quan điểm chủ nghĩa Mác - Lênin, tư tưởng Hồ Chí
Minh về nhà nước, pháp luật kiểu mới và vận dụng phù hợp với thực tiễn xây dựng
Nhà nước pháp quyền XHCN ở nước ta. Trên quan điểm này có thể khái quát Nhà
nước pháp quyền XHCN là nhà nước XHCN thực sự của dân, do dân, vì dân; tất cả
quyền lực nhà nước thuộc về nhân dân; bảo đảm tính tối cao của Hiến pháp, quản

lý xã hội theo pháp luật nhằm phục vụ lợi ích và hạnh phúc của nhân dân, do Đảng
tiền phong của giai cấp công nhân lãnh đạo đồng thời chịu trách nhiệm trước nhân
dân và sự giám sát của nhân dân.
Tiếp tục xây dựng và hoàn thiện Nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa Việt
Nam đáp ứng những yêu cầu đang đặt ra của sự nghiệp đổi mới và hội nhập quốc tế
là một nhân tố mang ý nghĩa quyết định thắng lợi của sự nghiệp xây dựng và bảo
vệ Tổ quốc trong giai đoạn hiện nay.
2. Đặc trưng của nhà nước pháp quyền XHCN Việt Nam
- Đó là nhà nước thực sự của dân, do dân, vì dân; bảo đảm tất cả quyền lực
nhà nước thuộc về nhân dân.
NN của dân là NN trong đó dân là chủ; dân là người có địa vị cao nhất, có
quyền quyết định những vấn đề quan trọng nhất của đất nước, dân tộc. HCM đã
nhiều lần khẳng định: nước ta là nước dân chủ; địa vị cao nhất là dân, vì dân la chủ;
bao nhiêu quyền hạn là của dân; quyền hành và lực lượng đều ở nơi dân. Trong NN
ta, toàn bộ quyền lực NN thuộc về nhân dân thể hiện rõ nhất tính chất dân chủ triệt
để của NN ta, trở thành nguyên tắc cơ bản tổ chức bộ máy quyền lực NN và phải
được thể hiện rõ trong các văn bản pháp lý mà đạo luật cao nhất là Hiến pháp.
Trong NN ta, dân là chủ thể của quyền lực thì người cầm quyền, cán bộ, công chức
chỉ là người được uỷ quyền, được nhân dân trao quyền để gánh vác, giải quyết
những công việc chung của đất nước.
NN do dân là dân làm chủ NN. Nội dung quyền làm chủ NN của dân rất
rộng, trước hết thể hiện ở chỗ: nhân dân là người tổ chức nên các cơ quan NN từ
TW đến địa phương thông qua thực hiện chế độ tổng tuyển cử phổ thông, trực tiếp,
bỏ phiếu kín bầu các đại biều xứng đáng vào các cơ quan quyền lực NN.Nhà nước
dân chủ nhân dân do nhân dân trực tiếp tổ chức, xây dựng thông qua tổng tuyển cử
phổ thông đầu phiếu.


Nhà nước ta là một nhà nước dân chủ trên thực tế và trong hành động. NN vì
dân nghĩa là NN đó được tổ chức và hoạt động theo một mục tiêu duy nhất, không

ngừng cải thiện và nâng cao đời sống của nhân dân đúng với phương châm: "Việc
gì có lợi cho dân phải hết sức làm, việc gì có hại đến dân phải hết sức tránh". Cải
thiện và nâng cao đời sống nhân dân là cơ sở hàng đầu đánh giá hiệu quả hoạt động
của bộ mãy NN và năng lực đội ngũ cán bộ công chức NN. NN phải biết kết hợp,
điều chỉnh các loại lợi ích khác nhau giữa các giai cấp, tầng lớp, bộ phận dân cư để
luôn được mọi người ủng hộ, xây dựng. Đồng thời là người hướng dẫn dân, NN
phải còn biết kết hợp giữa lợi ích trước mắt và lợi ích lâu dài, lợi ích của TW và lợi
ích của địa phương, lợi ích của các ban, ngành, các chủ thể xã hội.
- Đó là nhà nước tổ chức, hoạt động theo nguyên tắc quyền lực nhà nước là
thống nhất, nhưng có sự phân công và phối hợp giữa các cơ quan nhà nước trọng
quá trình thực hiện quyền lực nhà nước về mặt lập pháp, hành pháp và tư pháp.
Nhà nước Cộng hoà xã hội chủ nghĩa Việt Nam là do nhân dân lập ra và
nguồn gốc quyền lực của Nhà nước là từ nhân dân. Nhân dân thông qua chế độ bầu
cử: phổ thông, bình đẳng, trực tiếp và bỏ phiếu kín đã tự nguyện trao quyền lực của
mình cho các đại biểu Quốc hội và đã tập trung quyền lực của mình vào Quốc hội.
Nhân dân sử dụng quyền lực nhà nước thông qua Quốc hội và Hội đồng nhân dân
là những cơ quan đại diện cho ý chí, nguyện vọng của nhân dân, do nhân dân bầu
ra và phải chịu trách nhiệm trước nhân dân. Quyền lực NN là thống nhất đặt dưới
sự lãnh đạo của Đảng Cộng sản VN.
Nhà nước ta thực hiện cơ chế phân công quyền lực chứ không phải phân chia
quyền lực, quyền lực vẫn thống nhất vào Quốc hội. Bởi vì, tuy có sự phân công
thực hiện quyền lực nhưng Thủ tứơng Chính phủ, Phó thủ tướng Chính phủ và các
thành viên khác của Chính phủ đều do Quốc hội bầu hoặc phê chuẩn, những người
được Quốc hội bầu hoặc phải chịu trách nhiệm trước Quốc hội. Tuỳ tính chất, mức
độ vi phạm Quốc hội có quyền bãi miễn những cá nhân đó. Toà án và Viện kiểm sát
được phân công thực thi quyền tư pháp nhưng Chánh án Tòa án nhân dân tối cao,
Viện trưởng Viện kiểm sát nhân dân tối cao đều do Quốc hội bầu ra trong số đại
biểu quốc hội và Quốc hội có quyền bãi miễn khi xét thấy cần thiết. Chánh án Toà
án nhân dân tối cao và Viện trưởng viện kiểm sát nhân dân tối cao phải chịu trách
nhiệm trước Quốc hội và báo cáo công tác trước Quốc hội.

Việc phân công thực hiện quyền lực nhà nước ở nước ta luôn gắn liền với sự
phối hợp giữa các cơ quan Nhà nước trong việc thực hiện các quyền lập pháp, hành
pháp và tư pháp. Chẳng hạn các quyền cơ bản của công dân được cơ quan lập pháp
ghi nhận trong hiến pháp, sẽ được cơ quan hành pháp triển khai thực thi trong thực
tiễn và được cơ quan tư pháp bảo vệ; Chính phủ, Toà án nhân dân tối cao, Viện
kiểm sát nhân dân tối cao tuy không có quyền ban hành các đạo luật nhưng có


quyền trình dự án luật ra trước Quốc hội, có quyển kiến nghị chương trình xây
dựng pháp luật hàng năm của Quốc hội…
- Đó là nhà nước được tổ chức, hoạt động trên cơ sở Hiến pháp và pháp luật,
bảo đảm tính tối cao của Hiến pháp và luật trong đời sống xã hội.
- Đó là nhà nước tôn trọng, thực hiện và bảo vệ quyền con người, tất cả vì
hạnh phúc con người; bảo đảm trách nhiệm giữa nhà nước và công dân, thực hành
dân chủ gắn với kỷ cương, kỷ luật.
- Đó là nhà nước do ĐCSVN lãnh đạo, đồng thời bảo đảm sự giám sát của
nhân dân, sự giám sát và phản biện xã hội của Mặt trận Tổ quốc Việt Nam và các tổ
chức thành viên của mặt trận.
Đảng Cộng sản Việt Nam là Đảng cầm quyền, lãnh đạo Nhà nước và xã hội.
Đảng lãnh đạo bằng cương lĩnh, chiến lược, các định hướng về chính sách và chủ
trương lớn; bằng công tác tuyên truyền, thuyết phục, vận động, tổ chức, kiểm tra,
giám sát và bằng hành động gương mẫu của đảng viên. Đảng thống nhất lãnh đạo
công tác cán bộ và quản lý đội ngũ cán bộ, giới thiệu những đảng viên ưu tú có đủ
năng lực và phẩm chất vào hoạt động trong các cơ quan lãnh đạo của hệ thống
chính trị. Đảng lãnh đạo thông qua tổ chức đảng và đảng viên hoạt động trong các
tổ chức của hệ thống chính trị, tăng cường chế độ trách nhiệm cá nhân, nhất là
người đứng đầu. Đảng thường xuyên nâng cao năng lực cầm quyền và hiệu quả
lãnh đạo, đồng thời phát huy mạnh mẽ vai trò, tính chủ động, sáng tạo và trách
nhiệm của các tổ chức khác trong hệ thống chính trị.
- Đó là thực hiện đường lối hòa bình, hữu nghị với nhân dân các dân tộc và

các nhà nước trên thế giới trên nguyên tắc tôn trọng độc lập, chủ quyền toàn vẹn
lãnh thổ của nhau, không can thiệp vào công việc nội bộ của nhau và cùng có lợi;
đồng thời tôn trọng và cam kết thực hiện các công ước, điều ước, hiệp ước quốc tế
đã tham gia ký kết, phê chuẩn.
3.Yêu cầu xây dựng NNPQ (có thể phân tích yêu cầu – đề dạng tổng
hợp)
Xây dựng nhà nước pháp quyền XHCN nước ta hiện nay phải đáp ứng các
yêu cầu dưới đây:
- Xây dựng được một nhà nước thực sự của dân,do dân, vì dân bảo đảm thực
hiện ngày càng đầy đủ nền dân chủ XHCN. Cơ cấu tổ chức và cơ chế hoạt động
của nhà nước phải đảm bảo tất cả quyền lực nhà nước thuộc về nhân dân, bảo đảm
quyền làm chủ, quyền con người của nhân dân, tất cả vì hạnh phúc nhân dân.
- Xây dựng một nhà nước có đủ năng lực quản lý kinh tế, quản lý xã hội có
hiệu quả, phát huy được mọi tiềm năng của dân tộc; đồng thời tiếp thu hợp lý
những thành tựu khoa học - kỹ thuật, công nghệ mới của thế giới và tinh hoa văn
hóa của nhân loại.


- Xây dựng nhà nước có bộ máy gọn nhẹ, được tổ chức chính quy, có quy
chế làm việc khoa học, bảo đảm kiểm tra, giám sát và điều hành được hoạt động
của xã hội, cũng như hoạt động của bản thân bộ máy nhà nước.
- Xây dựng nhà nước hoạt động trên cơ sở pháp luật, thực hiện quản lý xã
hội theo pháp luật, giữ vững kỷ cương nhà nước và trật tự xã hội bảo đảm an ninh,
quốc phòng, bảo vệ vững chắc thành quả cách mạng.
- Xây dựng nhà nước có đội ngũ cán bộ, công chức trong sạch, toàn tâm,
toàn ý phục vụ nhân dân, có trách nhiệm với dân, đồng thời có bản lĩnh chính trị,
năng lực quản lý, loại trừ được bệnh quan liêu, tham nhũng, vi phạm quyền làm
chủ của nhân dân.
- Bảo đảm giữ vững và tăng cường sự lãnh đạo của Đảng đối với Nhà nước.
Xây dựng Nhà nước pháp quyền trong điều kiện Đảng duy nhất cầm quyền đòi hỏi

Đảng phải đổi mới sự lãnh đạo của Đảng đối với Nhà nước, quan tâm thích đáng
cho việc lãnh đạo xây dựng nhà nước, xây dựng và thực hiện pháp luật, đồng thời
bảo đảm cho các tổ chức đảng và đảng viên hoạt động trong khuôn khổ Hiến pháp
và pháp luật, tôn trọng các thể chế của Nhà nước.
PHƯƠNG HƯỚNG XÂY DỰNG NHÀ NƯỚC PHÁP QUYỀN XHCN...
(đề ra một trong các nội dung sau. Lưu ý: căn cứ câu hỏi để làm những nội
dung phù hợp)
1. Phát huy dân chủ, bảo đảm quyền làm chủ của nhân dân
Dân chủ là một hình thức chính trị - nhà nước của xã hội. Dân chủ có thể
hiều là chính quyền thuộc về nhân dân. Nhân dân là chủ thể quyền lực nhà nước.
Dân chủ XHCN là đỉnh cao của nền dân chủ,vì các nền dân chủ trước đó đều là dân
chủ cho giai cấp thiểu số trong xã hội, dân chủ mang bản chất giai cấp sâu sắc.
Dân chủ xã hội chủ nghĩa là mục tiêu của công cuộc đổi mới, cũng đồng thời
là mục tiêu và bản chất của chủ nghĩa xã hội. Đại hội VI của Đảng, chúng ta mới
chỉ hình dung đổi mới vì dân giàu, nước mạnh, xã hội văn minh. Đại hội VII, đổi
mới đã có thêm một mục tiêu công bằng xã hội, trong đó không chỉ có công bằng
về phân phối lợi ích mà còn là công bằng về cơ hội phát triển cho tất cả mọi người.
Về bản chất, đó cũng chính là dân chủ, là phương diện nhân văn của dân chủ, là
quyền sống, quyền được phát triển của con người. Phải đến Đại hội IX (2001), Dân
chủ mới thực sự định hình trong hệ mục tiêu đổi mới, đó cũng là chuỗi giá trị của
phát triển: Dân giàu, nước mạnh, xã hội công bằng, dân chủ, văn minh để đạt tới tự
do và hạnh phúc. Và đến Đại hội XI, dân chủ là giá trị hàng đầu, là cơ sở để thực
hiện bình đẳng và công bằng, để đoàn kết và đồng thuận. Con người chẳng những
là mục tiêu và động lực của phát triển mà còn được xác định là trung tâm và chủ
thể của phát triển xã hội. Như vậy, phát huy dân chủ, bảo đảm quyền làm dân chủ
của nhân dân là yêu cầu tất yếu nhằm giữ vững bản chất chế độ XHCN: đảm bảo
quyền lực NN thuộc về nhân dân


Phát huy dân chủ, bảo đảm quyền lực nhà nước thuộc về nhân dân, bảo đảm

quyền làm chủ của nhân dân là phương hướng, đồng thời là mục tiêu bao trùm
trong hoạt động xây dựng nhà nước pháp quyền XHCN ở nước ta hiện nay.
Thực hiện dân chủ, tôn trong và bảo đảm trên thực tế quyền dân chủ và làm
chủ của nhân dân là vấn đề có ý nghĩa sống còn không chỉ đối với nhà nước mà
chúng ta đang xây dựng để trở thành nhà nước pháp quyền, đối với việc tăng cường
uy tín và mở rộng ảnh hưởng của Đảng cộng sản cầm quyền trong xã hội mà còn là
nhân tố quyết định thành công của sự nghiệp đổi mới, của cách mạng xã hội chủ
nghĩa và xây dựng CNXH ở Việt Nam. Mặt khác, phát huy dân chủ và bảo đảm
quyền làm chủ của nhân dân còn thể hiện bản chất ưu việt của chế độ ta, là thước
đo, tiêu chí đánh giá tính chất của dân, do dân, vì dân trong tổ chức hoạt động của
NN ta trên thực tế.
Trong xây dựng NN: dân chủ và quyền làm chủ của nhân dân được thể hiện
ở những nội dung chủ yếu sau:
+ Nhân dân tham gia bầu cử các đại biểu của mình vào Quốc hội, HĐND các
cấp.
+ Nhân đân tham gia các công việc quản lý nhà nước ở địa phương và cơ sở.
+ Nhân dân tham gia xây dựng, đánh giá chủ trương chính sách của nhà nước
ở TW và chính quyền các cấp ở địa phương, góp ý điều chỉnh, bổ sung, sửa đổi các
chủ trương, chính sách cho phù hợp với thực tiễn.
+ nhân dân có quyền giám sát và chất vấn về hoạt động của các cơ quan, tổ
chức nhà nước, các đại biểu quốc hội, HĐND.
+ Nhân dân thực hiện quyền khiếu nại, tố cáo, phát hiện và đề nghị thanh tra,
xử lý các biểu hiện quan liêu, tham nhũng, tiêu cực, các vụ việc vi phạm chính
sách, pháp luật đạo đức của cán bộ, công chức.
+ Nhân dân có quyền đòi hỏi các cơ quan, tổ chức nhà nước và cán bộ, công
chức có thẩm quyền phải công khai mọi hoạt động của mình, cung cấp thông tin
kịp thời theo quy định để dân biết, dân bào, dân làm và dân kiểm tra.
Trong quản lý xã hội: Việc phát huy dân chủ và bảo đảm quyền làm chủ của
nhân dân được thể hiện ở những nội dung và phương thức chủ yếu sau:
+ Nhân dân tham gia quản lý XH bằng phương thức tự nguyện, dựa vào

những thể chế đã được ban hành kết hợp với nhà nước, đồng thời NN dựa vào nhân
dân để cùng nhau huy động và phối hợp các nguồn lực nhằm giải quyết các vấn đề
trong đời sống xã hội, gắn với lợi ích, nhu cầu của nhân dân, nhất là cơ sở.
+ Nhân dân tham gia quản lý xã hội thông qua các tổ chức, thiết chế phi nhà
nước. Đó là các đoàn thể, các tổ chức chính trị - xã hội trong hệ thống chính trị và
các tổ chức mang tính xã hội, tự nguyện, tự quản…với những hình thức hoạt động
đa dạng, linh hoạt, hỗ trợ cho các công việc quản lý NN.


+ Nhân dân tham gia quản lý XH bằng sự kết hợp, phối hợp các tổ chức, các
phong trào, các nguồn lực để thực hiện phát triển kinh tế - văn hóa, xây dựng môi
trường xã hội lành mạnh…
Trách nhiệm của chính quyền cấp xã: tham khảo phần baì Pháp lệnh
thực hiện dân chủ ở cơ sở những điều dân biết, dân bàn, dân kiểm tra (liên hệ
thực tế địa phương)
2. Đẩy mạnh xây dựng, hoàn thiện hệ thống pháp luật và tổ chức thực hiện pháp luật
Xây dựng Nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa Việt Nam là một vấn đề
trọng tâm nên được Đảng ta đề cập đến trong tất các các văn kiện quan trọng của
Đại hội XI. Nhất là trong Cương lĩnh xây dựng đất nước trong thời kỳ quá độ lên
chủ nghĩa xã hội (bổ sung, phát triển năm 2011).
Cương lĩnh xây dựng đất nước trong thời kỳ quá độ lên chủ nghĩa xã hội (bổ
sung, phát triển năm 2011) là một văn kiện quan trọng có ý nghĩa chiến lược, định
hướng cho sự phát triển lâu dài của đất nước trong suốt thời kỳ quá độ lên chủ
nghĩa xã hội. Khi nói về những đặc trưng cơ bản của xã hội xã hội chủ nghĩa mà
nhân dân ta xây dựng, Cương lĩnh đã khẳng định: “Có Nhà nước pháp quyền xã hội
chủ nghĩa của nhân dân, do nhân dân, vì nhân dân do Đảng Cộng sản lãnh đạo”.
Cương lĩnh cũng chỉ rõ, một trong tám mục tiêu tổng quát của thời kỳ quá độ lên
chủ nghĩa xã hội là: “Xây dựng Nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa của nhân
dân, do nhân dân, vì nhân dân”.
Tiếp tục xây dựng và hoàn thiện Nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa Việt

Nam đáp ứng những yêu cầu đang đặt ra của sự nghiệp đổi mới và hội nhập quốc tế
là một nhân tố mang ý nghĩa quyết định thắng lợi của sự nghiệp xây dựng và bảo
vệ Tổ quốc trong giai đoạn hiện nay. Vì đây là một trong những đặc trưng và yêu
cầu của việc xây dựng NNQP XHCN của nhân dân, do nhân dân và vì nhân dân,
bảo đảm phát huy quyền làm chủ của nhân dân, thực hiện được yêu cầu quản lý xã
hội bằng pháp luật. Yêu cầu khách quan đó là do: NN pháp quyền XHCN là giá trị
chung của nhân loại; xuất phát từ thực tế của nước ta là một nước đi lên từ một
nước nông nghiệp, do đó phải có sự ràng buộc bằng pháp luật; từ đòi hỏi xây dựng
và phát triển thị trường định hướng XHCN và chủ động hội nhập kinh tế khu vực
và thế giới.
Thực trạng và liên hệ
3. Cải cách hành chính (lấy ý để liên hệ, gắn với địa phương): Chương
trình 08 Thành ủy Hà Nội về cải cách hành chính
Ngay sau khi Thành ủy Hà Nội ban hành Chương trình số 08- CTr/TU, Ban
Thường vụ Thành ủy đã thành lập Ban Chỉ đạo. Ban chỉ đạo đã ban hành Quy chế
hoạt động, phân công trách nhiệm các thành viên Ban chỉ đạo, thành lập Tổ công
tác giúp việc, ban hành Kế hoạch số 38-KH/BCĐ ngày 18/12/2011 về việc triển
khai thực hiện chương trình. Hàng năm, Ban chỉ đạo rà soát, đánh giá và ban hành


kế hoạch, trong đó giao một số nhiệm vụ, đề án cụ thể cho các cơ quan chuyên môn
của thành phố, đồng thời đề ra những giải pháp để tổ chức thực hiện…
Qua 4 năm tổ chức, triển khai, thực hiện Chương trình số 08- CTr/TU của
Thành ủy, công tác cải cách hành chính (CCHC) của Thành phố đã được thực hiện
toàn diện cả 6 nội dung. Các nội dung, đề án giao cho các cơ quan, đơn vị về cơ bản
đã hoàn thành theo kế hoạch đề ra, góp phần tích cực vào sự nghiệp phát triển kinh
tế - xã hội của Thủ đô.
* Những kết quả đạt được
- Ban chỉ đạo Chương trình 08 đã tổ chức quán triệt tới các cấp ủy đảng,
chính quyền, mặt trận tổ quốc và đoàn thể nhân dân tập trung lãnh đạo, chỉ đạo,

tuyên truyền về CCHC, kịp thời tổ chức triển khai “Năm kỷ cương hành chính 2013”, “năm trật tự và văn minh đô thị - 2014” nhằm tạo bước chuyển mạnh mẽ về
nhận thức trong đội ngũ cán bộ, công chức, viên chức, đảng viên và nhân dân. Từ
đó, nâng cao kỷ cương, kỷ luật hành chính, ý thức trách nhiệm, thái độ phục vụ
nhân dân của đội ngũ cán bộ, công chức, viên chức; phát huy vai trò giám sát của
nhân dân đối với việc thực hiện CCHC tại các cơ quan đảng, chính quyền và đoàn
thể thành phố.
- Chỉ số CCHC cấp tỉnh (PAR INDEX) của Thành phố được Bộ Nội vụ đánh
giá đạt kết quả cao, thành phố Hà Nội luôn là một trong những địa phương dẫn đầu
về CCHC (năm 2012 xếp thứ 7/63 tỉnh, thành phố; năm 2013 xếp thứ 5/63 tỉnh,
thành phố trực thuộc trung ương).
- Việc xây dựng, ban hành văn bản quy phạm pháp luật được các cơ quan
thực hiện nghiêm túc, khẩn trương, đáp ứng các hoạt động về quản lý nhà nước; kịp
thời tháo gỡ những khó khăn, tạo thuận lợi cho tổ chức, doanh nghiệp và cá nhân.
Công tác rà soát, hệ thống hóa, xây dựng mới, sửa đổi, bổ sung các văn bản quy
phạm pháp luật (QPPL) được thực hiện thường xuyên, kịp thời và đi vào nền nếp.
- Quyết liệt đẩy mạnh việc thực hiện phân cấp quản lý kinh tế-xã hội, giảm
tải về công việc cho cấp thành phố, mở rộng quyền hạn của cơ sở, phát huy được
tính chủ động, sáng tạo của người đứng đầu các cơ quan, đơn vị; tăng cường củng
cố, kiện toàn tổ chức bộ máy nhằm nâng cao hiệu lực, hiệu quả hoạt động của chính
quyền các cấp; đồng thời thường xuyên rà soát chức năng, nhiệm vụ, quyền hạn,
kiện toàn tổ chức bộ máy của cơ quan hành chính và các đơn vị sự nghiệp công lập
theo hướng tinh gọn, hiệu quả và đúng quy định pháp luật…
- Cải cách thủ tục hành chính (TTHC) có sự chuyển biến tích cực, số lượng
TTHC được công bố, công khai đầy đủ theo quy định, việc giải quyết TTHC đảm
bảo có chất lượng, kịp thời và theo đúng pháp luật. Hoạt động kiểm soát TTHC đạt
kết quả tốt, TTHC được kiểm soát chặt chẽ, nhiều TTHC được đơn giản hóa. Việc
thực hiện cơ chế một cửa, cơ chế một cửa liên thông đã đi vào nề nếp theo hướng
công khai, minh bạch, rõ ràng, rút ngắn thời gian, đơn giản hóa TTHC nhằm tạo



điều kiện thuận lợi cho tổ chức, công dân và doanh nghiệp; đặc biệt là các TTHC
liên quan đến nhu cầu dân sinh, hoạt động sản xuất, kinh doanh của doanh nghiệp;
mức độ hài lòng của người dân, doanh nghiệp đối với sự phục vụ của các cơ quan
hành chính trong việc giải quyết các TTHC bước đầu có kết quả tích cực.
- Công tác tuyển dụng, quy hoạch, đào tạo, bồi dưỡng, điều động, luân
chuyển, bổ nhiệm cán bộ, công chức được thực hiện công khai, dân chủ đúng quy
định, việc đổi mới có hiệu quả công tác thi tuyển công chức được dư luận ghi nhận,
đánh giá cao. Đội ngũ cán bộ, công chức, viên chức tiếp tục được chuẩn hóa, có sự
chuyển biến mạnh về đổi mới tư duy, phong cách làm việc, trách nhiệm và chất
lượng phục vụ nhân dân được tốt hơn, góp phần từng bước nâng cao hiệu quả hoạt
động, điều hành của bộ máy chính quyền các cấp.
- hạ tầng kỹ thuật và ứng dụng công nghệ thông tin (CNTT) trong các cơ
quan nhà nước của thành phố đã mang lại hiệu quả thiết thực, việc ứng dụng CNTT
phục vụ công tác chỉ đạo, điều hành của thành phố cũng như phục vụ nhân dân và
doanh nghiệp đã đạt được những thành tựu và kết quả rõ nét....
- Công tác thanh tra, kiểm tra, giám sát được cấp ủy, chính quyền quan tâm,
tổ chức thường xuyên, có chiều sâu, tập trung vào những vấn đề bức xúc của công
dân, tổ chức và doanh nghiệp; chú trọng xử lý các vấn đề sau kiểm tra, tăng cường
kiểm tra đột xuất không báo trước.
* Một số tồn tại, hạn chế:
- Công tác lãnh đạo, chỉ đạo nhiệm vụ công tác CCHC của một số cấp ủy
đảng chưa thực sự quyết liệt, còn thiếu những biện pháp để khắc phục hạn chế,
khuyết điểm; cá biệt có nơi, có lúc còn coi đây là nhiệm vụ của chính quyền, việc
quán triệt, tuyên truyền và chỉ đạo tổ chức thực hiện còn hạn chế. Công tác quản lý,
điều hành ở một số lĩnh vực còn yếu kém, để xảy ra sai phạm, gây bức xúc trong
nhân dân. Công tác thanh tra, kiểm tra, giám sát ở một số cơ quan, đơn vị chưa
được thực hiện thường xuyên.
- Việc xây dựng cơ chế, chính sách cụ thể để khuyến khích, đẩy mạnh xã hội
hóa và thu hút đầu tư còn chậm; phân cấp quản lý kinh tế - xã hội theo Quyết định
số 12/2014/QĐ-UBND của UBND Thành phố triển khai chưa quyết liệt, chậm so

với yêu cầu
- Công tác tham mưu giúp UBND Thành phố ban hành kế hoạch công tác
CCHC hàng năm liên quan đến lĩnh vực chuyên ngành còn chậm so với yêu cầu của
Bộ Nội vụ, ảnh hưởng đến kết quả đánh giá chỉ số CCHC của Thành phố.
- Việc đánh giá tác động TTHC trong dự thảo văn bản QPPL của một số cơ
quan soạn thảo còn lúng túng, thậm chí còn chưa xác định được rõ có TTHC trong
dự thảo. Số lượng các TTHC thực hiện theo cơ chế một cửa liên thông còn ít do các
cơ quan chịu trách nhiệm chủ trì chưa xây dựng quy trình liên thông; một số sở,
ngành có trách nhiệm phối hợp giải quyết TTHC cho doanh nghiệp, người dân theo


cơ chế một cửa liên thông chưa thực hiện đúng trách nhiệm, chưa đặt mục đích cao
nhất là lợi ích của người dân và doanh nghiệp trong quá trình phục vụ.
- Chất lượng đội ngũ cán bộ, công chức có nơi, có chỗ chưa đồng đều, còn
yếu; nhất là năng lực phát hiện những vấn đề vướng mắc, tham mưu và đề xuất biện
pháp giải quyết. Một số cán bộ, công chức khi giải quyết công việc liên quan đến tổ
chức, công dân chưa làm hết trách nhiệm, chưa tận tình hướng dẫn để các tổ chức
và công dân giải quyết theo quy định.
- Việc xây dựng quy chế chi tiêu nội bộ của một số cơ quan còn mang tính
hình thức, chủ yếu do thủ trưởng cơ quan quyết định; quy chế chi trả thu nhập tăng
thêm còn mang tính bình quân, chưa có cơ chế chi trả thu nhập tăng thêm theo kết
quả, năng suất lao động nên chưa tạo được động lực cho mỗi cá nhân.
- Việc nghiên cứu, xây dựng các văn bản quy định tiêu chí cụ thể để đánh giá
mức độ hoàn thành nhiệm vụ và chất lượng hoạt động của đơn vị sự nghiệp theo
Nghị định số 43/2006/NĐ-CP của Chính phủ còn nhiều lúng túng; chưa có hệ thống
đánh giá kết quả hoạt động thích hợp với đặc thù của từng ngành; ...
Trụ sở làm việc của một số phường, thị trấn không đạt chuẩn diện tích, còn
chật hẹp. Số lượng các xã, phường, thị trấn cần xây mới, cải tạo và sửa chữa theo
kế hoạch còn nhiều Hiệu quả sử dụng trang thiết bị CNTT có nơi, có chỗ còn hạn
chế. Một số phần mềm quản lý chuyên ngành còn thiếu, đặc biệt là các phần mềm

dùng chung được Thành phố chuyển giao tại một số đơn vị sử dụng chưa hiệu quả.
Sở dĩ còn những hạn chế trên là có những nguyên nhân khách quan. Trước
hết, cải cách hành chính là công việc khó khăn, phức tạp; liên quan đến nhiều cơ
quan, tổ chức và người dân; đòi hỏi thường xuyên phải điều chỉnh cho phù hợp với
thực tế. Bên cạnh đó, do tình hình kinh tế suy giảm, ngân sách thành phố gặp nhiều
khó khăn, nguồn thu thấp. Mặt khác, thành phố phải tập trung thực hiện nhiều
nhiệm vụ chi phần nào ảnh hưởng đến việc thực hiện kế hoạch đầu tư nâng cấp trụ
sở, trang thiết bị, ứng dụng CNTT phục vụ cho các nhiệm vụ CCHC của Thành
phố.
Các văn bản QPPL có quy định về TTHC của các bộ, ngành trung ương quá
nhiều, quy định rườm rà, nhiều loại thủ tục, giấy tờ (như lĩnh vực giao thông, nông
nghiệp và PTNT...) nên việc công bố TTHC gặp nhiều khó khăn.
Một số bộ, ngành trung uơng quản lý ngành, lĩnh vực chưa có văn bản hướng
dẫn thực hiện quyền tự chủ, tự chịu trách nhiệm về thực hiện nhiệm vụ, tổ chức bộ
máy, biên chế đối với các đơn vị sự nghiệp thuộc phạm vi quản lý nhà nước của Bộ,
ngành theo quy định tại Nghị định số 43/2006/NĐ-CP ngày 25/4/2006 của Chính
phủ; do đó chưa đồng bộ với cơ chế tự chủ, tự chịu trách nhiệm về tài chính.
Về nguyên nhân chủ quan: Vai trò lãnh đạo, chỉ đạo của một số cấp ủy Đảng
còn hạn chế, thiếu quyết liệt, chưa thực sự coi công tác CCHC là nhiệm vụ trọng


tâm và khâu đột phá. Công tác thông tin, tuyên truyền, quán triệt về CCHC có nơi,
có chỗ thực hiện chưa thường xuyên, hiệu quả thấp.
Việc thực hiện kiểm tra, giám sát của một số cấp ủy, chính quyền, đặc biệt là
việc kiểm tra, hướng dẫn các cơ quan chuyên môn thực hiện chức năng quản lý nhà
nước chưa thường xuyên, sâu sát và toàn diện. Sự phối hợp giữa các sở, ngành
trong giải quyết TTHC liên thông có nơi làm chưa tốt.
Người đứng đầu một số cơ quan, đơn vị chưa thực sự quan tâm chỉ đạo
CCHC, còn mang tính hình thức, thậm chí có nơi còn khoán trắng cho cấp phó hoặc
cơ quan chuyên môn. Một bộ phận cán bộ lãnh đạo, quản lý trình độ, năng lực chưa

đáp ứng nhu cầu nhiệm vụ.
Sự phối hợp trong công tác chỉ đạo giữa các Ban Chỉ đạo của Thành phố (về
CCHC, CNTT, ISO, cải cách chế độ công vụ, công chức) còn hạn chế, nên việc chỉ
đạo và đầu tư các nguồn lực cho cơ sở không đồng bộ, chưa thống nhất, chưa hiệu
quả ảnh hưởng đến công tác tổ chức thực hiện của cơ sở.
Nhận thức của một bộ phận cán bộ, công chức về những yêu cầu mới đặt ra
đối với công tác CCHC chưa đầy đủ, còn đùn đẩy, né tránh trách nhiệm, nhất là
những việc khó, nổi cộm, bức xúc; một số cán bộ, công chức khi giải quyết TTHC
liên quan đến tổ chức, công dân chưa làm hết trách nhiệm. Năng lực, trình độ của
đội ngũ cán bộ, công chức chưa đồng đều, có nơi, có chỗ còn yếu; việc xem xét, xử
lý trách nhiệm đối với các trường hợp sai phạm còn thiếu kiên quyết. Công chức
làm nhiệm vụ CCHC chưa được quan tâm đúng mức, tính ổn định thấp.
* Nhiệm vụ (gắn với địa phương)
- Xây dựng chương trình, kế hoạch CCHC của thành phố giai đoạn 20162020 theo sự chỉ đạo của Chính phủ và Thành ủy Hà Nội; triển khai thực hiện các
mục tiêu giai đoạn 2 (2016-2020) theo Nghị quyết 30c/NQ-CP của Chính phủ về
Chương trình tổng thể CCHC nhà nước giai đoạn 2011-2020, tập trung vào các nội
dung sau: Đổi mới công tác theo dõi, đánh giá CCHC theo hướng dựa trên kết quả,
tổ chức triển khai Bộ chỉ số theo dõi, đánh giá CCHC ở các sở, cấp huyện, cấp xã.
Quy định kết quả CCHC là tiêu chí để đánh giá công tác thi đua, khen thưởng và bổ
nhiệm cán bộ, công chức, viên chức.
- Xây dựng các cơ chế, chính sách, văn bản quy phạm pháp luật đảm bảo tính
hợp hiến, hợp pháp, tính đồng bộ, cụ thể và khả thi theo hướng minh bạch, thông
thoáng, phù hợp với các luật, nghị định mới ban hành và yêu cầu của hội nhập kinh
tế quốc tế. Tiếp tục rà soát, hoàn thiện các cơ chế, chính sách để thực hiện hiệu quả
Luật Thủ đô nhằm phát huy mọi nguồn lực phục vụ nhu cầu phát triển kinh tế - xã
hội; các quy định pháp luật về xã hội hóa, khuyến khích các thành phần kinh tế
tham gia cung ứng các dịch vụ công trong môi trường cạnh tranh bình đẳng, lành
mạnh; đặc biệt trong lĩnh vực giáo dục và đào tạo, y tế, đầu tư, xây dựng.



- Triển khai xây dựng Kế hoạch phát triển kinh tế - xã hội và Kế hoạch đầu tư
trung hạn 5 năm 2016-2020 có chất lượng. Xây dựng đề án phân cấp quản lý kinh
tế - xã hội gắn với phân cấp nhiệm vụ chi ngân sách giai đoạn 2016-2020.
- Phân cấp mạnh hơn nữa quản lý kinh tế - xã hội, gắn với phân cấp nguồn
thu, nhiệm vụ chi; chú trọng hướng dẫn, kiểm tra, giám sát sau phân cấp. Kiện toàn
tổ chức bộ máy các sở và các phòng chuyên môn thuộc UBND quận, huyện, thị xã
theo Nghị định số 24/2014/NĐ-CP ngày 04/04/2014 và Nghị định số 37/2014/NĐCP ngày 05/05/2014 của Chính phủ.
- Nâng cao chất lượng dịch vụ hành chính và chất lượng dịch vụ công; tiếp
tục triển khai có hiệu quả cơ chế một cửa, cơ chế một cửa liên thông theo hướng
hiện đại; tiếp tục rà soát, cắt giảm, đơn giản hóa, giảm chi phí thực hiện các TTHC;
công khai, minh bạch các TTHC nhằm cải thiện môi trường đầu tư, trọng tâm là các
lĩnh vực liên quan trực tiếp đến đời sống, sản xuất, kinh doanh của người dân và
doanh nghiệp. Đánh giá hiệu quả việc thí điểm thực hiện cơ chế một cửa trong việc
cung cấp dịch vụ công tại một số doanh nghiệp nhà nước và đơn vi sự nghiệp công
lập thuộc thành phố để tiếp tục nhân rộng mô hình.
Tiếp tục đẩy mạnh cải cách chế độ công vụ, công chức; đổi mới công tác
tuyển dụng bằng các hình thức phù hợp, có hiệu quả, đảm bảo số lượng, cơ cấu hợp
lý, có đạo đức nghề nghiệp, đủ trình độ và năng lực thực thi nhiệm vụ; triển khai kế
hoạch thi tuyển một số chức danh lãnh đạo, quản lý; nhân rộng phương thức thi
tuyển công chức, viên chức qua phần mềm máy tính. Phấn đấu 100% các cơ quan
hành chính, đơn vị sự nghiệp có cơ cấu công chức, viên chức theo vị trí việc làm.
Nghiên cứu xây dựng, tổ chức thực hiện các đề án về: đào tạo cán bộ nguồn
thành phố; đào tạo cán bộ nguồn lãnh đạo, quản lý chuyên ngành thành phố; đào
tạo, tuyển dụng công chức nguồn giai đoạn 2016-2020. Kết hợp công tác đào tạo,
bồi dưỡng với bố trí, sử dụng, đề bạt, bổ nhiệm; thực hiện công tác luân chuyển cán
bộ, công chức để rèn luyện và trưởng thành. Đổi mới việc đánh giá, phân loại, khen
thưởng, kỷ luật theo các tiêu chí cụ thể, gắn với chất lượng, hiệu quả công việc.
Tăng cường công tác thanh tra, kiểm tra; nâng cao trách nhiệm, kỷ luật, kỷ cương
hành chính và đạo đức công vụ; kịp thời động viên, khen thưởng những cá nhân,
đơn vị thực hiện tốt; kiên quyết xử lý những đơn vị, cá nhân vi phạm.

Thực hiện triệt để các giải pháp thực hành tiết kiệm, chống lãng phí; quản lý,
điều hành chi ngân sách chặt chẽ, khoa học, hiệu quả. Tiếp tục nghiên cứu, hoàn
thiện và tổ chức triển khai thực hiện đề án xây dựng cơ chế hỗ trợ, đãi ngộ để tăng
thu nhập (ngoài lương) bảo đảm ổn định đời sống cán bộ, công chức, viên chức.
Thực hiện cơ chế tự chủ, tự chịu trách nhiệm trong các đơn vị sự nghiệp công lập,
xã hội hóa dịch vụ công theo Nghị định số 16/2015/NĐ-CP của Chính phủ.
Tiếp tục đổi mới phương thức và lề lối làm việc của cán bộ, công chức, viên
chức. Giảm mạnh hội họp và giấy tờ hành chính, mở rộng việc giao ban, họp trực


tuyến. Triển khai Nghị định số 04/2015/NĐ-CP ngày 09-01-2015 của Chính phủ về
thực hiện dân chủ trong hoạt động của cơ quan hành chính nhà nước và đơn vị sự
nghiệp công lập. Tiếp tục đầu tư hạ tầng công nghệ thông tin và ứng dụng công
nghệ thông tin trong quản lý, điều hành và giải quyết thủ tục hành chính, thực hiện
các dự án về CNTT, tăng số lượng dịch vụ công trực tuyến mức độ 3, mức độ 4
(phấn đấu đến năm 2020, các cơ quan nhà nước thành phố cung cấp các dịch vụ
công trực tuyến ở mức độ 3, 4 đạt tỷ lệ 50%).
Nâng cao năng lực, trình độ đội ngũ cán bộ, công chức làm công tác CCHC;
đồng thời có chế độ đãi ngộ, chính sách hợp lý đối với cán bộ, công chức chuyên
trách làm công tác CCHC ở các sở, cấp huyện, cấp xã.


BÀI HĐND – UBND
Lưu ý: căn cứ câu hỏi để làm những nội dung phù hợp
Trong tổ chức và hoạt động của bộ máy HĐND và UBND là những cơ quan
có vai trò quan trọng trong việc đảm bảo hiệu lực, hiệu quả hoạt động quản lý nhà
nước, trật tự pháp luật, pháp chế và quyền làm chủ của nhân dân ở địa phương, cơ
sở.
Vị trí, vai trò, chức năng của HĐND
Theo Hiến pháp nước Cộng hòa XHCN Việt Nam năm 1992 (sửa đổi năm

2001) và tại điều 1 Luật tổ chức HĐND và UBND năm 2003: Hội đồng nhân dân là
cơ quan quyền lực nhà nước ở địa phương, đại diện cho ý chí, nguyện vọng và
quyền làm chủ của nhân dân, do nhân dân địa phương bầu ra, chịu trách nhiệm
trước nhân dân địa phương và cơ quan nhà nước cấp trên.
Ví trị này cho thấy HĐND có vai trò là cơ quan đại diện. Tính đại diện thể
hiện ở chỗ HĐND gồm những đại biểu do nhân dân bầu ra theo nguyên tắc phổ
thông, bình đẳng, trực tiếp và bỏ phiếu kín; các đại biểu HĐND thay mặt nhân dân
thực hiện quyền lực nhà nước.
HĐND thực hiện hai chức năng quan trọng là quyết định những vấn đề quan
trọng và giám sát. Hội đồng nhân dân quyết định những chủ trương, biện pháp
quan trọng để phát huy tiềm năng của địa phương, xây dựng và phát triển địa
phương về kinh tế - xã hội, củng cố quốc phòng, an ninh, không ngừng cải thiện
đời sống vật chất và tinh thần của nhân dân địa phương, làm tròn nghĩa vụ của địa
phương đối với cả nước. Hội đồng nhân dân thực hiện quyền giám sát đối với hoạt
động của Thường trực Hội đồng nhân dân, Uỷ ban nhân dân, Toà án nhân dân,
Viện kiểm sát nhân dân cùng cấp; giám sát việc thực hiện các nghị quyết của Hội
đồng nhân dân; giám sát việc tuân theo pháp luật của cơ quan nhà nước, tổ chức
kinh tế, tổ chức xã hội, đơn vị vũ trang nhân dân và của công dân ở địa phương.
Với vai trò là cơ quan của dân, do dân, vì dân HĐND phải thực hiện nhiệm
vụ và quyền hạn theo Hiến pháp, pháp luật, các văn bản của cơ quan nhà nước cấp
trên và những nguyên tắc cơ bản trong tổ chức và hoạt động của bộ máy nhà nước;
pháp huy quyền làm chủ của nhân dân, tăng cường pháp chế XHCN, ngăn ngừa và
chống các biểu hiện quan liêu, vô trách nhiệm, hách dịch, cửa quyền, tham nhũng,
lãng phí và các biểu hiện tiêu cực khác trong cơ quan, cán bộ, công chức nhà nước
và bộ máy chính quyền địa phương.
Vị trí, vai trò, chức năng của UBND
Theo Hiến pháp nước Cộng hòa XHCN Việt Nam năm 1992 (sửa đổi năm
2001) và tại điều 2 Luật tổ chức HĐND và UBND năm 2003: Uỷ ban nhân dân do
Hội đồng nhân dân bầu là cơ quan chấp hành của Hội đồng nhân dân, cơ quan hành
chính nhà nước ở địa phương, chịu trách nhiệm trước Hội đồng nhân dân cùng cấp

và cơ quan nhà nước cấp trên.


Vị trí này khẳng định tầm quan trọng của UBND trong việc thực thi pháp
luật, các nghị quyết của HĐND và đảm bảo hiệu lực, hiệu quả quản lý nhà nước ở
địa phương. Chức năng quan trọng của UBND là tổ chức và chỉ đạo việc thi hành
Hiến pháp, luật, các văn bản của các cơ quan nhà nước cấp trên và Nghị quyết của
HĐND cùng cấp.
Uỷ ban nhân dân thực hiện chức năng quản lý nhà nước ở địa phương, góp
phần bảo đảm sự chỉ đạo, quản lý thống nhất trong bộ máy hành chính nhà nước từ
trung ương tới cơ sở.
Phân tích thực trạng và phương hướng đổi mới HĐND, UBND cấp xã của TP
HN hiện nay
Trong những năm qua, công tác quản lý điều hành của bộ máy chính quyền
(HĐND-UBND các cấp của Thành phố đã đạt được những kết quả quan trọng, trên
một số lĩnh vực có những chuyển biến tích cực.
Hoạt động của hệ thống chính quyền các cấp có tiến bộ, hiệu lực, hiệu quả
được nâng cao, đáp ứng yêu cầu nhiệm vụ phát triển Thủ đô. Chức năng, nhiệm vụ,
cơ cấu tổ chức các cơ quan quản lý hành chính nhà nước được điều chỉnh, sắp xếp
cơ bản phù hợp, hiệu quả hoạt động có chuyển biến tốt hơn. Cải cách thủ tục hành
chính theo cơ chế một cửa, một cửa liên thông tiếp tục được đẩy mạnh, thực hiện
có nền nếp. Đã chuẩn hóa, công bố công khai, thực hiện Bộ thủ tục hành chính
thống nhất trên địa bàn Thành phố theo hướng đơn giản hóa.
UBND các cấp, các cơ quan chuyên môn trực thuộc đã thực hiện đúng chức năng,
nhiệm vụ được giao. Triển khai có hiệu quả sự chỉ đạo, điều hành của Chính phủ,
các Nghị quyết của cấp ủy, Nghị quyết của Hội đồng nhân dân. Trật tự, kỷ cương
hành chính trong quản lý, điều hành về cơ bản được thực hiện. Các quyết định, chỉ
đạo của UBND cấp trên được UBND cấp dưới và cơ quan chuyên môn trực thuộc
chấp hành và tổ chức thực hiện. Nhiều lĩnh vực công tác có chuyển biến tích cực,
đáp ứng yêu cầu phục vụ đối với tổ chức và công dân trên địa bàn. Công tác quy

hoạch và quản lý đô thị, xây dựng nông thôn mới được tập trung chỉ đạo quyết liệt;
khu vực nông thôn được chú trọng đầu tư phát triển, đời sống nhân dân từng bước
được cải thiện, sự nghiệp văn hóa - xã hội của Thành phố có nhiều tiến bộ, an ninh
chính trị, trật tự an toàn xã hội được giữ vững. Cải cách hành chính tiếp tục chuyển
biến tiến bộ, hiệu lực hiệu quả quản lý điều hành của các cơ quan hành chính
Thành phố tiếp tục được nâng lên.
Chất lượng đội ngũ cán bộ, công chức được nâng lên, ý thức, trách nhiệm và
thái độ phục vụ nhân dân có chuyển biến tích cực. Kỷ cương, kỷ luật hành chính
được tăng cường.
Bên cạnh những thành tựu đã đạt được vẫn còn những hạn chế, khuyết điểm
sau:


- Năng lực điều hành, quản lý của bộ máy chính quyền trên một số lĩnh vực
như quản lý đất đai, xây dựng cơ bản ở một số địa phương, đơn vị còn hạn chế, có
việc còn buông lỏng, đùn đẩy, né tránh;
- Tổ chức bộ máy ở một số cơ quan chưa hợp lý, chức năng nhiệm vụ chưa
rõ, còn chồng chéo chưa tinh gọn nên kết quả và tiến độ giải quyết công việc còn
chậm, hiệu quả thấp. Việc xử lý một số bất cập về chính sách chưa kịp thời; chất
lượng, hiệu quả trong tổ chức thực hiện cơ chế một cửa, một cửa liên thông ở một
số cấp, ngành còn hạn chế; cải cách hành chính chưa đáp ứng yêu cầu đặt ra trong
tình hình mới.
- Phẩm chất, năng lực, trách nhiệm của một bộ phận cán bộ, công chức chưa
đáp ứng được yêu cầu nhiệm vụ, còn biểu hiện sách nhiễu, đùn đẩy, né tránh trách
nhiệm, nhất là những việc khó, phức tạp, nổi cộm, bức xúc.
-HĐND hoạt động mang tính hình thức, chưa thể hiện vai trò cơ quan quyền
lực NN ở địa phương; có đại biểu HĐND chưa khẳng định vị trí là người đại diện
cho ý chí nguyện vọng và quyền làm chủ của nhân dân đại phương; các kỳ họp
HĐND chưa hiệu quả
* Nguyên nhân của hạn chế, yếu kém:

- Nguyên nhân khách quan:
+Tồn tại và hậu quả của cơ chế cũ quan liêu, bao cấp trong tư duy và hành
động ở các cấp, các ngành chậm được khắc phục.
+Nguyên tắc tập trung dân chủ ở một số địa phương, đơn vị chưa được thực
hiện nghiêm túc, đã ảnh hưởng đến kết quả thực hiện công tác cải cách hành chính.
+Các văn bản quy định chức nang, nhiệm vụ chưa rõ ràng, cụ thể
- Nguyên nhân chủ quan: Người đứng đầu một số cơ quan, đơn vị chưa thực
sự vào cuộc, chỉ đạo chưa quyết liệt. Việc thực hiện nhiệm vụ CCHC ở một số cơ
quan, đơn vị cơ sở còn trì trệ, thiếu năng động, hiệu quả thấp; cán bộ, công chức
làm nhiệm vụ CCHC chưa được quan tâm đúng mức. Kỷ luật, kỷ cương trong
CCHC chưa nghiêm. Công tác tự kiểm tra, giám sát ở không ít cơ quan, đơn vị
chưa được thực hiện thường xuyên, nghiêm túc. Việc xem xét, xử lý trách nhiệm
đối với các trường hợp sai phạm còn thiếu kiên quyết. Công tác tuyên truyền hiệu
quả còn hạn chế.
Một số cấp ủy, nhất là cấp ủy cơ sở xã, phường, thị trấn chưa thực hiện tốt
công tác lãnh đạo, chỉ đạo hoạt động của cơ quan hành chính nhà nước. Mặt trận
Tổ quốc và các đoàn thể nhân dân ở một số địa phương chưa có sự phối hợp chặt
chẽ với cơ quan hành chính trong việc tuyên truyền, vận động nhân dân tham gia
giám sát các hoạt động của cơ quan hành chính. Một bộ phận đảng viên chưa thực
sự gương mẫu trong việc thực hiện các chủ trương, chính sách của Đảng, các quyết
định quản lý, điều hành của cơ quan hành chính.
*Nhiệm vụ và giải pháp (phân tích làm rõ các giải pháp)


Văn kiện Đại hội Đại biểu toàn quốc lần thứ XI khẳng định: “Nâng cao chất
lượng hoạt động của HĐND và UBND, đảm bảo quyền tự chủ và tự chịu trách
nhiệm của chính quyền địa phương trong phạm vi đươc phân cấp. Phát huy vai trò
giám sát của HĐND. Tổ chức hợp lý chính quyền địa phương, phân định lại thẩm
quyền đối với chính quyền địa phương ở nông thôn, đô thị và hải đảo”
- Đối với HĐND:

+ Tiếp tục đổi mới phương thức hoạt động của HĐND và Đại biểu HĐND.
Nâng cao chất lượng, hiệu quả hoạt động đại biểu, chất lượng kỳ họp và tính khả
thi của các Nghị quyết.
+ Cần có quy định cụ thể để HĐND quyết định có hiệu quả những mục tiêu
KT,VH_XH, QPAN... theo tinh thần phân cấp
+ Đổi mới cơ chế bầu cử, đảm bảo cho dân đề cử, ứng cử, lựa chọn các Đại
biểu HĐND thực sự là người đại diện cho ND.
- Đối với UBND:
+ nghiên cứu xây dựng mô hình chính quyền đô thị, nông thôn...
+ Đề cao trách nhiệm và thẩm quyền của các cơ quan chuyên môn thuộc
UBND và các thành viên UBND;; Cần có quy định cụ thể và kkhả thi về trách
nhiiệm của chủ tịch UBND; đặc biệt làm rõ trách nhiệm người đứng đầu các cơ
quan
+ Tiếp tục kiện toàn bộ máy UBND, có chương trình, kế hoạch đào tạo và
bồi dưỡng thường xuyên CBCC của UBND.
+ Tạo điều kiện, phương tiện làm việc và ngân sách cho HĐND và UBND;
từng bước hiện đại hóa hệ thống QLHCNN.
Liên hệ địa phương, đơn vị


BÀI PHÁP LUẬT VÀ PHÁP CHẾ XHCN
(Lưu ý: Căn cứ câu hỏi để trả lời nội dung cho phù hợp)
1. Khái niệm pháp chế:
Pháp chế là một chế độ pháp luật trong đó yêu cầu, đòi hỏi các cơ quan nhà
nước, các tổ chức xã hội, tổ chức kinh tế, đơn vị vũ trang nhân dân, mọi công dân
phải nghiêm chỉnh chấp hành Hiến pháp và pháp luật, phải đấu tranh phòng ngừa
và chống các tội phạm, các vi phạm Hiến pháp và pháp luật. Pháp chế là nguyên tắc
trong tổ chức, hoạt động của mọi cơ quan, tổ chức, là nguyên tắc trong hành vi xử
sự của công dân.
Pháp chế XHCN là một khái niệm rộng bao gồm nhiều mặt: là nguyên tắc tổ chức

và hoạt động của bộ máy nhà nước xã hội chủ nghĩa; là nguyên tắc hoạt động của
các tổ chức chính trị - xã hội và các đoàn thể quần chúng; là nguyên tắc xử sự của
công dân; và có quan hệ mật thiết với chế độ dân chủ xã hội chủ nghĩa.
=> Khái niệm pháp chế XHCN: Pháp chế XHCN là một chế độ đặc biệt của
đời sống chính trị - xã hội, trong đó tất cả các cơ quan nhà nước, tổ chức kinh tế, tổ
chức xã hội, nhân viên nhà nước, nhân viên các tổ chức xã hội và mọi công dân đều
phải tôn trọng và thực hiện pháp luật một cách nghiêm chỉnh, triệt để và chính xác.
2. Những yêu cầu cơ bản của pháp chế xã hội chủ nghĩa:
Tôn trọng tính tối cao của Hiến pháp và luật:
HP-PL là những văn bản pháp luật có giá trị pháp lý cao nhất. Vì vậy, khi
xây dựng pháp luật phải dựa trên cơ sở những quy định của Hiến pháp và luật; mọi
quy định của các văn bản dưới luật đều phải phù hợp với hiến pháp và luật. Tuy
nhiên, hiến pháp và luật với đặc điểm riêng của mình, trong nhiều trường hợp
không thể quy định một cách chi tiết và cụ thể để áp dụng trong mọi tình huống. Vì
vậy, chúng luôn đòi hỏi phải có sự cụ thể hóa của các văn bản dưới luật. Không có
quá trình tiếp theo đó những quy định của Hiến pháp và luật khi đi vào cuộc sống
sẽ vấp phải những khó khăn không thể giải quyết được. Trên thực tế, những văn
bản dưới luật hết sức phong phú, chiếm một số lượng rất lớn trong hệ thống pháp
luật. Nếu không thực hiện tốt yêu cầu về tôn trọng tính tối cao của Hiến pháp và
luật thì tình trạng tản mản, trùng lặp, chồng chéo hoặc mâu thuẫn trong các quy
phạm pháp luật, phá vỡ tính thống nhất của hệ thống pháp luật là không thể tránh
khỏi.
Để thực hiện tốt yêu cầu này cần chú ý cả hai mặt: thứ nhất, phải chú trọng
tới việc hoàn thiện Hiến pháp và xây dựng các văn bản luật để làm cơ sở cho sự
phát triển và hoàn thiện của toàn bộ hệ thống pháp luật; thứ hai, phải nhanh chóng
cụ thể hóa những quy định của Hiến pháp và luật, triệt để tôn trọng tính tối cao của
Hiến pháp và luật.
Bảo đảm tính thống nhất của pháp chế trên quy mô toàn quốc:
Xuất phát từ bản chất và những đặc điểm đặc thù của Nhà nước và pháp luật xã
hội chủ nghĩa và nguyên tắc mọi công dân đều bình đẳng trước pháp luật, pháp chế xã

hội chủ nghĩa đòi hỏi phải có tính thống nhất về nhận thức và tổ chức thực hiện pháp


luật trên quy mô toàn quốc, không chấp nhận những đặc quyền và biệt lệ vô nguyên
tắc. Thực hiện tốt yêu cầu này là điều kiện quan trọng để thiết lập một trật tự kỷ
cương, trong đó cơ quan cấp dưới phải phục tùng cơ quan cấp trên, lợi ích của địa
phương phải phù hợp với lợi ích quốc gia, cá nhân có quyền tự do dân chủ nhưng phải
tôn trọng quyền của những chủ thể khác. Bảo đảm nguyên tắc pháp chế thống nhất là
điều kiện để xóa bỏ tư tưởng cục bộ, bản vị, địa phương chủ nghĩa, tự do vô chính
phủ, bảo đảm công bằng xã hội. Tuy nhiên, cũng không nên hiểu rằng tính thống nhất
của pháp chế xã hội chủ nghĩa loại bỏ hoàn toàn sự cần thiết phải tính đến những điều
kiện và hoàn cảnh cụ thể ở từng nơi, từng vùng. Trong quá trình xây dựng và tổ chức
thực hiện pháp luật, củng cố pháp chế cũng cần phải xem xét những điều kiện và hoàn
cảnh cụ thể, tìm ra những hình thức và phương pháp phù hợp để đưa pháp luật vào đời
sống với hiệu quả cao nhất mà không vi phạm pháp luật, không xâm hại đến tính
thống nhất của pháp chế.
Các cơ quan xây dựng pháp luật, tổ chức thực hiện và bảo vệ pháp luật
phải hoạt động một cách tích cực, chủ động và có hiệu quả:
Pháp luật là cơ sở để củng cố và tăng cường pháp chế, vì vậy đòi hỏi phải có
một hệ thống pháp luật hoàn chỉnh và đồng bộ. Pháp luật được hình thành và phát
triển theo nhu cầu khách quan cần thiết phải điều chỉnh các quan hệ xã hội. Nhưng
pháp luật được xây dựng như thế nào là kết quả của quá trình hoạt động chủ quan
của con người. Không thể có cơ sở vững chắc để củng cố nền pháp chế nếu không
chú ý đến những biện pháp để bảo đảm cho các cơ quan có trách nhiệm xây dựng
pháp luật có đủ khả năng và điều kiện để hoàn thiện hệ thống pháp luật.
Tổ chức và thực hiện pháp luật là một mặt quan trọng của nền pháp chế. Kết
quả của việc tổ chức và thực hiện pháp luật là một trong những tiêu chuẩn để xác
định tính chất của nền pháp chế xã hội chủ nghĩa. Vì vậy, một trong những yêu cầu
đặt ra là muốn củng cố và tăng cường pháp chế thì phải bảo đảm cho các cơ quan,
tổ chức thực hiện pháp luật hoạt động có hiệu quả.

Một trong những yêu cầu của pháp chế xã hội chủ nghĩa là phải có những
biện pháp nhanh chóng và hữu hiệu để xử lý nghiêm minh và kịp thời các hành vi
vi phạm pháp luật, nhất là tội phạm. Nhiệm vụ của các cơ quan bảo vệ pháp luật
như tòa án, viện kiểm sát, thanh tra… hết sức phức tạp. Kết quả hoạt động của các
cơ quan bảo vệ pháp luật sẽ có tác động trực tiếp tới việc củng cố và tăng cường
pháp chế. Vì vậy, cần thiết phải chú trọng các biện pháp để bảo đảm cho các cơ
quan bảo vệ pháp luật có thể hoạt động một cách tích cực, chủ động và có hiệu quả.
Đồng thời nhiệm vụ bảo vệ pháp luật, pháp chế còn là nhiệm vụ của các tổ
chức xã hội và của toàn dân, vì vậy yêu cầu này cũng đòi hỏi các tổ chức và mọi
công dân phải có trách nhiệm tham gia đấu tranh chống vi phạm pháp luật, bảo vệ
pháp chế xã hội chủ nghĩa.
Nguyên tắc phải chịu trách nhiệm pháp lý bắt buộc khi vi phạm pháp luật
Mọi vi phạm pháp luật điều bị xử lý theo pháp luật là nguyên tắc của pháp
chế XHCN. Về mặt lý thuyết có 4 loại vi phạm pháp luật: vi phạm pháp luật hành


chính, vi phạm pháp luật dân sự, vi phạm pháp luật về kỷ luật nhà nước, vi phạm
pháp luật hình sự.
Người nào có hành vi nguy hiểm cho xã hội mà vi phạm pháp luật thuộc loại
nào thì chịu trách nhiệm pháp lý bắt buộc hay còn gọi là chịu chế tài của loại ấy: có
4 loại chế tài ứng với 4 loại vi phạm pháp luật: chế tài hành chính, chế tài dân sự,
chế tài kỷ luật nhà nước, chế tài hình sự.
Mọi người đều bình đẳng trước pháp luật do vậy trách nhiệm pháp lý bắt
buộc đối với người vi phạm pháp luật không có ngoại lệ và không có sự phân biệt
dân tộc, tôn giáo, giai cấp, giới tính, giàu nghèo và địa vị xã hội. Không bỏ lọt vi
phạm pháp luật và không làm oan cho người ngay.
Các cơ quan bảo vệ pháp luật phải có những biện pháp nhanh chóng và hữu
hiện để xử lý nghiêm minh và kịp thời các hành vi vi phạm pháp luật, nhất là tội
phạm. Các cơ quan điều tra, tòa án nhân dân, viện kiểm sát…là lực lượng chủ yếu
trong bảo vệ pháp luật.

3. Mối quan hệ giữa pháp luật và pháp chế XHCN
Pháp chế XHCN và pháp luật XHCN có quan hệ mật thiết với nhau. Pháp luật
và pháp chế là 2 khái niệm rất gần nhau nhưng không đồng nhất với nhau.
Pháp luật là hệ thống các quy phạm do Nhà nước ban hành hoặc thừa nhận để
điều chỉnh các quan hệ xã hội còn pháp chế là 1 phạm trù thể hiện những yêu cầu
và sự đòi hỏi đối với các chủ thể pháp luật phải tôn trọng và triệt để thực hiện pháp
luật trong đời sống xã hội . Như vậy pháp luật là tiền đề của pháp chế nhưng có
pháp luật chưa hẳn đã có pháp chế. Pháp luật ban hành ra mà không không được
tuân thủ, thi hành hoặc dù nó được thi hành nhưng pháp luật ấy có nhiều thiếu sót ,
mâu thuẩn thì xã hội sẽ rơi vào tình trạng vô pháp chế trật tự kỷ cương trong xã hội
bị đảo lộn. Do đó pháp luật chỉ có thể phát huy được hiệu lực của mình,điều chỉnh
1 cách có hiệu quả các quan hệ xã hội khi dựa trên cơ sở vững chắc của nền pháp
chế và ngược lại pháp chế chỉ có thể được củng cố và tăng cường khi có 1 hệ thống
pháp luật hoàn chỉnh, đồng bộ, phù hợp và kịp thời
-Về bản chất pháp luật XHCN : Cũng như các kiểu pháp luật trước đó, pháp
luật XHCN cũng mang bản chất GC. Bản chất GC của pháp luật XHCN chính là ý
chí của GCCN được thể hiện trong pháp luật. Nhưng dưới chế độ XHCN, ý chí của
GCCN phù hợp với ý chí, nguyện vọng của NDLĐ trên cơ sở chề độ công hữu
XHCN về các TLSX chủ yếu. Do đó pháp luật XHCN là thể hiện ý chí của GCCN
và NDLĐ.
- Đặc trưng của pháp luật XHCN: Pháp luật XHCN cũng có 2 đặc trưng cơ
bản đó là:tính quy phạm và tính bắt buộc chung. Những đặc trưng của pháp luật
XHCN có những sự khác biệt với đặc trưng của các kiểu pháp luật bóc lột.
- Chức năng của pháp luật XHCN:
Pháp luật XHCN là điều chỉnh các quan hệ XH theo định hướng XHCN. Chức
năng cơ bản của pháp luật XHCN là điều chỉnh các quan hệ XH theo ý chí của
GCCN và NDLĐ nhằm xây dựng XH mới: XH –XHCN.


Pháp luật XHCN qui định thẩm quyền(quyền và nghĩa vụ)cho các bên tham

gia các quan hệ XH(cơ quan Nhà nước, tổ chứcvà công dân)và những hậu quả pháp
lí khi vi phạm các qui định đó. Trên cơ sở đó, pháp luật tuyên truyền giáo dục
hướng dẫn mọi tổ chức và cá nhân ý thứcthực hiện các hành vi theo ý chí của Nhà
nước. Đồng thời,thông qua đó thiết lập các QHXH mới, thiết lập kỷ cương XH trên
tất cả các lĩnh vực của đời sống XH (KT, chính trị, XH, ANQP),bảo vệ các QHXH
phù hợp, ngăn cấm và loại trừ các QHXH lạc hậu, không phù hợp với lợi ích của
GCCN và NDLĐ
Pháp luật XHCN quy định tổ chức và hoạt động của Nhà nước, quy định các
quyền và nghĩa vụ của các chủ thể tham gia các QH XH quan trọng trên tất cả các
lĩnh vực của đời sống XH.Vì vậy, pháp luật XHCN vừa là cơ sở pháp lý để XD và
hoàn thiện Nhà nước XHCN vừa là công cụ chủ yếu ccủa Nhà nước để quản lý XH,
thực hiện chức năng đối nội và đối ngoại của Nhà nước bảo vệ lợi ích của Nhà
nước các quyền và lợi ích hợp pháp của tập thể và của mọi cá nhân trong XH
-Ý nghĩa của việc tăng cường pháp chế XHCN : Tăng cường pháp chế XHCN
có nhiều mặt.
+Đối với quyền dân chủ của công dân: pháp luật XHCN là thể hiện ý chí của
GCCN và NDLĐ,xác định các quyền và nghĩa vụ của công dân trong các QH XH.
Vì vậy, tăng cường pháp chế XHCN là ĐK, là biện pháp cơ bản bảo đảm thực hiện
các quyền và nghĩa vụ của công dân, bảo đảm sự bình đẳng của công dân trước
pháp luật, bảo đảm công bằng XH.
+Đối với hiệu lực quản lý của Nhà nước: Nhà nước XHCN quản lý XH bằng
pháp luật. Pháp luật là công cụ quản lý của Nhà nước. Hiệu lực quản lý của Nhà
nước được xác địng bằng sự thực hiện pháp luật nghiêm chỉnh và thống nhất trong
toàn XH. Vì vậy, tăng cường pháp chế XHCN là ĐK, là biện pháp cơ bản để nâng
cao hiệu lực quản lý của Nhà nước.
+Đối với sự lảnh đạo của Đảng: Đảng lảnh đạo Nhà nước và XH bằng cách đề
ra cương lĩnh, đường lối, chính sách làm cơ sở cho Nhà nước thể chế hóa thành
pháp luật. Thông qua việc thực hiện pháp luật màcương lĩnh, đường lối, chính sách
của Đảng biến thành hiện thực trong cuộc sống. Vì vậy, tăng cường pháp chế
XHCN là ĐK, là biện pháp cơ bản bảo đảm sự lảnh đạo của Đảng đối với Nhà

nước và XH.
Như vậy, tăng cường pháp chế XHCN có ý nghĩa rất quan trọng thực hiện
chế độ dân chủ XHCN. Chế độ dân chủ XHCN chỉ có thể được XD, củng cố và
tăng cường trên cơ sở pháp chế XHCN. Trong ĐK nước ta hiện nay tăng cường
pháp chế XHCN là yêu cầu cấp bách để thiết lập trật tự kỷ cương XH bảo đảm
thắng lợi sự nghiệp XD và bảo vệ Tổ quốc VN XHCN.
4. Liên hệ
BÀI CÁC NGÀNH LUẬT
Câu hỏi: Khái niệm, đối tượng điều chỉnh, phương pháp điều chỉnh của
Luật đất đai.... Liên hệ thực tế?


×