Phương pháp hướng dẫn học sinh đọc – hiểu thơ Hai – Cư
PHẦN MỞ ĐẦU
1. LÍ DO CHỌN ĐỀ TÀI
1.1. Về mặt lí luận
Từ năm học 2006 – 2007, Bộ giáo dục thực hiện đổi mới chương trình,
sách giáo khoa đối với cấp trung học phổ thông. Bộ môn ngữ văn được thực
hiện với hai ban là ban Khoa học xã hội và nhân văn và ban Khoa học tự nhiên
( ban cơ bản). Trong chương trình học của mỗi ban đều có những thay đổi với sự
bổ sung các tác giả và tác phẩm mới. Do đó việc nghiên cứu, xác định một
phương pháp dạy học tích cực hiệu quả luôn là nhu cầu và đòi hỏi tất yếu cho
quá trình dạy – học. Việc xây dựng đề tài về phương pháp giảng dạy thơ Hai –
Cư cũng nhằm hưởng ứng tinh thần đổi mới đó.
1.2. Về thực tiễn
1.2.1. Vị trí và tầm quan trọng của thơ Hai – Cư trên thi đàn văn học thế
giới và chương trình ngữ văn 10
Hai – Cư là một thành tựu độc đáo không chỉ cuả riêng nước Nhật mà của cả
thi ca nhân loại. Hiện tượng văn học này đã để lại nhiều giá trị quan trọng và có
những đóng góp to lớn vào kho tàng văn học thế giới.
Nếu thử làm một phép so sánh giữa hai thành tựu thi ca tiêu biểu của Châu
Á: Hai – Cư và Đường thi thì sẽ thấy một điều vô cùng đặc biệt. Đó là nếu
Đường thi có ảnh hưởng sâu rộng đến văn hoá, văn học các nước Châu Á thì Hai
– Cư lại có được sự ngưỡng mộ và ảnh hưởng đặc biệt ở các nước phương Tây.
Ở một số quốc gia Châu Âu ( Pháp, Đức…), Hai – Cư đã được giảng dạy, học
tập trong các trường trung học. Các thi sĩ nổi tiếng R.M.Ri – cơ (Đức), P. Ê – Lu
– a (Pháp), Ốc – ta – vi – ô Pat (Bỉ) cũng đã tiếp nhận và học tập phương thức
sáng tạo đặc biệt của thể loại bằng những bài Hai – cư của chính mình. Những
biểu hiện đó đã chứng tỏ đây là một thành tựu nghệ thuật có tầm nhân loại, có vị
trí lớn lao.
Trong chương trình ngữ văn 10, Hai – cư là tác phẩm mới, lần đầu tiên được
đưa vào giảng dạy. Ở ban cơ bản thuộc chương trình đọc thêm, ở ban nâng cao
thuộc chương trình chính. Việc học tập và giảng dạy thơ Hai – cư có ý nghĩa
quan trọng trong việc trang bị cho học sinh tri thức cơ bản về những thành tựu
quan trọng của thi ca nhân loại, đặc biệt là về nền văn học của một đất nước có
nhiều tương đồng văn hoá với ta.
1.2.2. Thực tiễn giảng dạy và tiếp nhận thơ Hai – cư của giáo viên và học
sinh trong trường trung học
Quá trình dạy và học thơ Hai – cư còn rất nhiều trở ngại, đặc biệt là trong
cách tiếp nhận của học sinh. Đại đa số các em chưa thấy được cái hay, cái đẹp và
tầm quan trọng của các tác phẩm; hoặc nếu ý thức được vị trí của tác phẩm thì
vẫn có cái nhìn e dè, ngần ngại không chủ động, tích cực chiếm lĩnh các bài thơ.
Bản thân người dạy vì vậy đôi khi cũng không tránh khỏi những khó khăn và
lúng túng.
Thực trạng đó trước hết bắt nguồn từ tính chất đặc biệt hàm súc, ngắn gọn và
tư duy nghệ thuật độc đáo của thơ Hai – cư . Tính chất đó làm nên giá trị đồng
Nguyễn Phong Hiền – Trường THPT Sơn Tây
1
Phương pháp hướng dẫn học sinh đọc – hiểu thơ Hai – Cư
thời cũng là một thách thức người học, người dạy. Trong khi đó có thể nói với đa
số nhà giáo và cả giới nghiên cứu văn học ở Việt Nam, thơ Hai – Cư lại là một
đối tượng còn nhiều xa lạ. Vì vậy tìm ra một phương pháp dạy – học đúng đắn
phù hợp là một yêu cầu vô cùng quan trọng.
1.3.Về tính cấp thiết
Thực tiến dạy và học thơ Hai – Cư đã cho thấy tìm ra một phương pháp đúng
đắn trong quá trình học tập đang là một yêu cầu cấp thiết nhằm giúp học sinh
lĩnh hội được những giá trị văn hoá đặc sắc của nhân loại đồng thời tháo gỡ
những khó khăn trong quá trình dạy – học văn.
1.4.Về năng lực nghiên cứu của tác giả
Từ những kiến thức có được trong quá trình học tập và thực tế giảng dạy,
người viết nhận thấy đây là một đề tài nằm trong khả năng và có thể thực hiện
tốt. Bên cạnh đó, đề tài còn được thực hiện dưới một động lực nữa là sự yêu
thích của bản thân người viết với thể loại Hai – cư.
Đó là những lí do chính thúc đẩy người viết thực hiện đề tài này.
2. MỤC ĐÍCH NGHIÊN CỨU
- Tìm ra một phương pháp thích hợp, hiệu quả trong quá trình dạy – học thơ Hai
– Cư nhằm tháo gỡ những khó khăn đồng thời nâng cao chất lượng giờ dạy –
học.
- Giúp học sinh ý thức được tầm quan trọng của tác phẩm và chủ động, tích cực
trong quá trình đọc – hiểu.
3. ĐỐI TƯỢNG NGHIÊN CỨU
Các tác phẩm và phương pháp dạy thơ Hai – Cư.
4. ĐỐI TƯỢNG KHẢO SÁT, THỰC NGHIỆM
Đề tài được nghiên cứu và thử nghiệm chủ yếu trên các tác phẩm thơ Hai –
cư trong chương trình ngữ văn 10 (cơ bản và nâng cao). Đối tượng đối chiếu và
thử nghiệm là các học sinh lớp 10.
5. PHƯƠNG PHÁP NGHIÊN CỨU
- Phương pháp thống kê, tổng hợp
- Phương pháp so sánh, đối chiếu
6. PHẠM VI VÀ KẾ HOẠCH NGHIÊN CỨU
- Quá trình nghiên cứu và thử nghiệm diễn ra trong vòng 5 năm học:
+ Bắt đầu từ năm học 2006 – 2007
+ Kết thúc vào năm học 2010 – 2011
- Trong đó đối tượng đối chứng là học sinh các lớp: 10A2, 10A6 (năm học 2006
- 2007), đối tượng thử nghiệm là học sinh các lớp 10A9 (năm học 2006 - 2007),
10 A7 (2007 - 2008), 10 Anh (2010 - 2011). Người viết cũng sẽ bổ sung và tiếp
tục phát triển đề tài trong nhiều năm tới.
7. KHẢO SÁT TRƯỚC KHI THỰC HIỆN ĐỀ TÀI
- Ở các lớp thuộc chương trình cơ bản
Học sinh phần lớn thấy thơ Hai – Cư rất lạ lùng, và khó chấp nhận được
đánh giá là hay, là có giá trị.
- Ở các lớp thuộc chương trình nâng cao
Học sinh ý thức được những giá trị của tác phẩm nhưng chưa thật sự nắm
được những điểm cốt lõi làm nên điểm độc đáo riêng biệt của Hai – Cư. Một số
Nguyễn Phong Hiền – Trường THPT Sơn Tây
2
Phương pháp hướng dẫn học sinh đọc – hiểu thơ Hai – Cư
em có yêu thích, muốn tìm hiểu thơ Hai – Cư nhưng rất bối rối khi phân tích tác
phẩm và đều cho rằng thơ Hai – Cư khó hiểu.
Nguyễn Phong Hiền – Trường THPT Sơn Tây
3
Phương pháp hướng dẫn học sinh đọc – hiểu thơ Hai – Cư
PHẦN NỘI DUNG
MỘT SỐ PHƯƠNG PHÁP HƯỚNG DẪN HỌC SINH ĐỌC
– HIỂU THƠ HAI – CƯ
1. PHƯƠNG PHÁP ÁP DỤNG ĐẶC TRƯNG THỂ LOẠI VÀO QUÁ
TRÌNH ĐỌC – HIỂU
1.1 . Lí luận chung về phương pháp áp dụng đặc trưng thể loại vào quá trình
đọc – hiểu
Áp dụng đặc trưng thể loại vào quá trình đọc – hiểu là căn cứ vào những
đặc điểm thể loại bao trùm của tác phẩm, hướng dẫn học sinh tìm ra những biểu
hiện cụ thể, từ đó có những đánh giá chính xác, khoa học về nội dung cũng như
nghệ thuật của tác phẩm văn chương.
Phương pháp này xuất phát từ đặc điểm thể loại của văn học. Mỗi tác
phẩm đều thuộc một thể loại nhất định. Trong mỗi thể loại có những đặc điểm về
nội dung hiện thực (đề tài, cảm hứng, cách nhìn thế giới…) và hình thức phản
ánh riêng. Đặc điểm đó qui định phương pháp cảm nhận của người đọc và cũng
từ đó qui định phương pháp dạy – học từng thể loại tác phẩm văn chương.
Ngoài những đặc điểm khái quát của thơ, cũng như Đường thi, Hai –Cư là
một dạng tiểu loại có những qui định nghệ thuật riêng làm thành hiện tượng thi
ca độc đáo. Qui định đó đòi hỏi người đọc phải có một cách cảm nhận phù hợp
bắt nguồn từ những đặc trưng nghệ thuật của Hai – Cư.
Áp dụng đặc trưng thể loại vào quá trình đọc – hiểu sẽ giúp học sinh có
những đánh giá đúng đắn, khoa học về cái hay, cái đẹp của mỗi bài Hai – Cư.
Phương pháp đó cũng sẽ góp phần hình thành ở các em kĩ năng, thao tác khoa
học khi đọc – hiểu tác phẩm văn học bằng cách áp dụng kiến thức khái quát về
thể loại.
1.2. Áp dụng vào việc đọc – hiểu thơ Hai – Cư
Phương pháp áp dụng đặc trưng thể loại vào quá trình giảng dạy thơ Hai –
Cư được cụ thể hoá thành những hoạt động sau:
1.2.1. Trang bị cho học sinh những tri thức khái quát về thơ Hai – Cư
Hoạt động trang bi tri thức khái quát nhằm giúp học sinh nắm được những
đặc trưng cơ bản về nội dung cũng như nghệ thuật của thể loại, đem đến cho các
em những hiểu biết ban đầu về thơ Hai – Cư nhằm giảm bớt những ngỡ ngàng
khi tiếp xúc với các tác phẩm có phần mới lạ và độc đáo. Mặt khác từ những đặc
trưng chung đó học sinh sẽ có sự soi chiếu, ứng dụng vào quá trình tìm hiểu tác
phẩm cụ thể.
Tuỳ vào thời gian giáo viên có thể giới thiệu ngắn gọn những tri thức thể
loại của thơ Hai – Cư đồng thời nhấn mạnh điểm quan trọng, đặc biệt là những
phương diện sẽ biểu hiện trong tác phẩm mà các em sẽ học.
Sau đây là những đặc trưng nghệ thuật của thơ Hai – Cư:
Xét về dung lượng: một bài thơ Hai – Cư bao gồm 17 âm tiết. Như vậy
Hai – Cư là thể thơ cách luật ngắn nhất thế giới. Nếu coi thơ tứ tuyệt của Trung
Quốc là cô đọng thì thơ Hai – Cư đặc biệt cô đọng.
Nguyễn Phong Hiền – Trường THPT Sơn Tây
4
Phương pháp hướng dẫn học sinh đọc – hiểu thơ Hai – Cư
Về bố cục: một bài Hai – Cư phiên âm ra tiếng La Tinh ngắt làm ba dòng :
5/7/5. Trong đó dòng thứ nhất có vai trò giới thiệu ý, dòng hai tiếp tục ý trên và
chuẩn bị cho dòng cuối. Đặc biệt dòng cuối bài thơ bao giờ cũng mở để tạo dư
âm (theo kiểu “cam dư chi vị, huyền ngoại chi âm”- vị ngon sau khi ăn, tiếng
ngân ngoài dây đàn).
Chủ đề: Hai – Cư gắn liền với bốn mùa. Thời gian trong bài được xác
định qua qui tắc quí ngữ (ki – go: từ chỉ mùa). Một bài Hai – Cư bắt buộc phải
có quí ngữ. Các tập thơ Hai – Cư thường được sắp xếp theo mùa. Có quí ngữ
trực tiếp (mùa thu, mùa hè, sương thu, trăng thu, mưa đông…) cũng có quí ngữ
gián tiếp – thông qua những hình ảnh thiên nhiên hay hoạt động đồng áng, nghi
lễ tôn giáo mang đặc trưng mùa (hoa đào, tiếng ve, hoa sen, chim đỗ quyên,
chim nhạn, tuyết, cánh đồng hoang vu…). Việc sử dụng quí ngữ là dấu hiệu cho
biết bài thơ đang làm trong mùa nào. Điều này cho thấy Hai – Cư bao giờ cũng
nói về cảnh vật trước mắt, nó là thơ của thời hiện tại đồng thời biểu hiện sự gắn
bó sâu sắc của người Nhật với thiên nhiên.
Về thiên nhiên và triết lí về thiên nhiên:
Thiên nhiên trong thơ Hai – Cư bao giờ cũng là những vật bình dị, nhỏ bé,
tầm thường và dễ bị lãng quên: một cánh chim quyên, một làn tóc rối, một con
ếch, hay một đoá hoa nở muộn màng bên bờ dậu thưa… Nhưng đằng sau cái
bình dị ấy lại là một quan hệ phổ quát của vũ trụ, nhân sinh. Bởi thế dẫu những
cái bình dị đi vào thơ Hai – Cư ta cũng thấy lớn lao, huyền diệu.
Trong cách nhìn thế giới, thơ Hai – Cư thấm đẫm tinh thần Thiền Tông và
văn hóa phương Đông. Thơ Hai – Cư thường thể hiện con người và vạn vật nằm
trong mối quan hệ nhất thể hoá.
Về cảm thức thẩm mĩ (quan niệm về cái đẹp): thơ Hai- Cư thường đề cao
cái vắng lặng, đơn sơ, u huyền, tịch lặng, cổ xưa… qui tắc thẫm mĩ đặc biệt thể
hiện ở chất Sa – bi.
Với lượng ngôn từ ít ỏi, Hai – Cư sử dụng thủ pháp tượng trưng như là
phương thức phản ánh chính của mình. Ngôn ngữ thơ vì thế rất coi trọng sự
kiệm lời, có tính khơi gợi, đa nghĩa.
Trong những đặc điểm trên, giáo viên cần nhấn mạnh đặc điểm về thời
gian, thiên nhiên, cảm thức thẩm mĩ và phương pháp tượng trưng. Vì đây là
những đặc điểm được biểu hiện rát rõ trong các tác phẩm Hai – Cư mà các em sẽ
học.
1.2.2. Xác định hoàn cảnh ra đời bài thơ
Hoàn cảnh ra đời là những bối cảnh hiện thực (ở thế giới bên ngoài hay
trong tâm trạng) đã tác động, thúc đẩy tác giả sáng tạo nên tác phẩm.
Hoạt động xác định hoàn cảnh ra đời khi phân tích văn học xuất phát từ
mối quan hệ giữa tác phẩm và hoàn cảnh. Thực tế nghiên cứu, lí luận phê bình
văn học cho thấy hoàn cảnh sáng tác là cơ sở hình thành đề tài, cảm hứng và
những yếu tố nghệ thụât quan trọng của một tác phẩm văn chương. Vì vậy tìm
hiểu hoàn cảnh ra đời là một bước quan trọng để lí giải những biểu hiện nghệ
thuật cũng như nội dung liên quan đến tác phẩm.
Mặt khác, căn cứ vào đặc điểm thơ Hai – Cư ta thấy: Hai – Cư là thơ của
thời hiện tại. Mỗi một bài Hai – Cư đều được khơi nguồn từ một sự việc cụ thể,
Nguyễn Phong Hiền – Trường THPT Sơn Tây
5
Phương pháp hướng dẫn học sinh đọc – hiểu thơ Hai – Cư
một thực tại đang diễn ra trước mắt nhà thơ. Nhà thơ đã nắm bắt và lưu giữ ngay
thực tại đó vào trong thế giới ngôn từ ngắn gọn. Đó là hoàn cảnh và cũng là cội
nguồn của những hình ảnh, suy tưởng đơn giản mà sâu thẳm trong bài thơ.
Vì vậy, chỉ ra hoàn cảnh và điển tích làm nền khi tìm hiểu thơ Hai – Cư
sẽ giúp học sinh cắt nghĩa xuất xứ của những hình ảnh có vẻ bề ngoài tưởng
chừng đơn giản nhưng thực ra rất lửng lơ và đa nghĩa; xâu chuỗi, kết nối những
cảm xúc từ đời thực của tác giả với những suy tưởng sâu thẳm biểu hiện qua
những hình ảnh trong bài thơ. Từ đó có thể cắt nghĩa cảm xúc của tác gỉa, tạo
sự đồng cảm sâu sắc.
Để thực hiện hoạt động này, giáo viên có tiến hành qua hai bước:
- Giới thiệu hoặc cho học sinh trình bày về hoàn cảnh ra đời của từng tác phẩm
nhằm khắc sâu ấn tượng trong tâm trí học sinh.
- Hướng dẫn các em tìm ra mối liên hệ giữa hoàn cảnh với những biểu tượng,
suy tưởng trong tác phẩm.
Ví dụ: Khi giảng dạy những bài thơ của Matsuo Ba – Sô, trong
chương trình cơ bản:
Bài 1, 2:
Đất khách mười mùa sương
về thăm quê ngoảnh lại
Ê – đô là cố hương.
Chim đỗ quyên hót
ở kinh đô
mà nhớ kinh đô.
Cần cho học sinh thấy sự kiện thay đổi chỗ ở, trở về thăm quê và kinh đô
sau nhiều năm xa, nghe tiếng chim đỗ quyên hót là nguyên nhân, hoàn cảnh trực
tiếp để Ba – Sô viết nên tác phẩm. Cụ thể:
Ở bài 1: Đó là sự việc về thăm quê của Ba – Sô sau nhiều năm xa. Quê Ba
– Sô ở Mi – Ê, ông lên Ê – đô được 10 năm mới về thăm lại. Nhưng đi rồi lại
thấy Ê- đô thân thiết như quê hương mình.
Ở bài 2: Hoàn cảnh ra đời gắn liền với mối quan hệ giữa cuộc đời Ba – Sô
và kinh đô. Ba – Sô ở kinh đô Ki – ô – tô từ thời trẻ (từ năm 22 đến năm 28 tuổi)
để học thơ cổ điển, thư pháp sau đó lên Ê – đô. Hai mươi năm sau, cuối đời ông
trở lại Ki – ô – tô, nghe tiếng chim đỗ quyên hót mà viết nên bài thơ này.
Như vậy, sự chuyển đổi chỗ trong cuộc đời Ba – Sô chính là cội nguồn
của những hình ảnh cụ thể trong bài thơ. Học sinh sẽ hiểu tại sao các hình ảnh
“đất khách”, “mười mùa sương”, “chim đỗ quyên” lại xuất hiện trong tác
phẩm; sẽ cắt nghĩa được ý nghĩa của chúng; đặt chúng trong mối quan hệ với
cuộc đời tác giả từ đó thấu hiểu những suy tưởng, biến đổi tâm lí lạ lùng mà tất
yếu: “Ê – đô là cố hương”, “ở kinh đô mà nhớ kinh đô”.
Bài 3:
Lệ trào nóng hổi
tan trên tay tóc mẹ
làn sương thu.
Nguyễn Phong Hiền – Trường THPT Sơn Tây
6
Phương pháp hướng dẫn học sinh đọc – hiểu thơ Hai – Cư
Bài thơ được viết năm tác giả 48 tuổi, khi Ba – Sô về thăm nhà.Vừa về
đến nơi thì hay tin mẹ mất. Người anh đưa ra di vật còn lại của người mẹ là một
mớ tóc bạc. Ba – Sô đau đớn mà viết nên bài thơ này. Như vậy có thể thấy hình
ảnh “lệ trào nóng hổi, “mái tóc mẹ”, “làn sương thu” đều xuất phát từ những
điều rất thật. Qua hoàn cảnh đó, học sinh sẽ thấu hiểu, đồng cảm được với nỗi
xúc động, đau đớn của nhà thơ.
Bài 4,5:
Tiếng vượn hú não nề
hay tiếng trẻ con khóc
gió mùa thu tái tê.
Mưa đông giăng đầy trời
chú khỉ con thầm ước
có một chiếc áo tơi.
Hai bài thơ đều được viết từ những sự kiện Ba – Sô chứng kiến trong cuộc
lữ hành về phương Bắc. Đấy là khi đi ngang qua những cánh rừng ông nghe
tiếng vượn hú não nề và trông thấy một chú khỉ nhỏ run rẩy, rét mướt giữa mưa
gió mùa đông. Hình ảnh tiếng vượn hú hay chú khỉ co ro trong mưa đều là
những hình ảnh rất thực xuất phát từ những điều tác giả mắt thấy, tai nghe.
Đặc biệt, cần hướng dẫn học sinh lưu ý đến một hoàn cảnh lớn của xã
hội: hiện thực phũ phàng trong đời sống của nông dân Nhật Bản thời Mạc Phủ
(đói rét, người nông dân đôi khi không nuôi nổi con phải đem bỉ vào rừng). Hiện
thực đó chính là cơ sở cho những liên tưởng, cảm xúc cuả tác giả: liên tưởng
giữa tiếng vượn hú với tiếng trẻ con khóc, giữa hình ảnh chú khỉ co ro trong
mưa lạnh với những người nông dân. Từ đó, học sinh sẽ hiểu được ý nghĩa của
những liên tưởng lạ lùng đầy ám ảnh của bài thơ.
Bài 8:
Nằm mộng giữa cuộc lãng du
mộng hồn còn phiêu bạt
những cánh đồng hoang vu.
Khi khai thác hoàn cảnh ra đời của bài thơ cần chú ý tới hai điều:
Thứ nhất: Bài thơ viết năm 1694 ở Ô – sa – ka khi Ba – Sô lâm bệnh nặng giữa
cuộc hành trình về phương Nam. Trước đó Ba – Sô đã thấy mình yếu lắm rồi,
như cánh chim sắp bay khuất vào mây trời:
Mùa thu năm nay
sao mình già nhanh thế
cánh chim khuất chân mây.
Có thể xem đây là bài thơ từ thế của ông.
Thứ hai: Lưu ý học sinh tới đặc điểm cuộc đời Ba – Sô, cuộc đời của một lữ
nhân với những năm tháng lang thang, phiêu bồng để kiếm tìm cái đẹp.
Từ hoàn cảnh đó, học sinh sẽ hiểu được ý nghĩa các hình ảnh “nằm bệnh
giữa cuộc lãng du” đồng thời hiểu được vẻ đẹp trong tâm hồn tác giả khi so
sánh giữa hoàn cảnh thực tại đau ốm và niềm mơ ước được tiếp tục du ngoạn
trên những cánh đồng trải rộng của nhà thơ.
Nguyễn Phong Hiền – Trường THPT Sơn Tây
7
Phương pháp hướng dẫn học sinh đọc – hiểu thơ Hai – Cư
Như vậy, tìm hiểu hoàn cảnh ra đời của một bài Hai – Cư là biện pháp
đơn giản nhưng sẽ là con đường nhanh nhất giúp học sinh nắm bắt, giải mã lớp
nghĩa ban đầu của tác phẩm. Giúp các em định hướng ý nghĩa và cảm xúc từ đó
tạo cơ sở cho việc phát triển, khái quát những lớp nghĩa sâu hơn.
1.2.3. Khai thác ý nghĩa các hình ảnh thính giác, thị giác của bài thơ
Hình ảnh thính giác, thị giác thực chất là những khoảnh khắc của hiện
thực được tái hiện trong tác phẩm qua sự cảm nhận của nhà thơ. Đó có thể là
một yếu tố tác động vào thị giác (màu sắc, đường nét), hoặc một yếu tố tác động
vào thính giác (âm thanh).
Hoạt động khai thác các lớp ý nghĩa của các hình ảnh thính giác, thị giác
xuất phát từ một đặc trưng nghệ thuật của Hai – Cư đó là: tượng trưng. Do
dung lượng ngắn thơ Hai – Cư không nói nhiều, không miêu tả hết sự vật, phong
cảnh mà luôn lựa chọn một nét đặc sắc nhất của sự vật để biểu hiện toàn thể. Nét
đặc sắc (cũng chính là toàn bộ hiện thực, vũ trụ và suy tưởng sâu rộng) thường
gói gọn trong một hình ảnh, một âm thanh. Ngôn ngữ của thơ Hai – Cư là :
kiệm lời, có tính khơi gợi, đa nghĩa, Vì vậy tìm hiểu thơ Hai – Cư, cần hướng
dẫn học sinh tìm ra những sắc thái ý nghĩa ẩn trong những hình ảnh tưởng chừng
giản dị đó. Đó cũng chính là biện pháp giúp học sinh rút ra được những suy
tưởng của tác giả, các quan hệ phổ quát về vũ trụ, nhân sinh. Từ đó giúp học
sinh thấy được tính cô đọng, hàm súc, vừa đơn sơ, giản dị lại vừa sâu thẳm của
Hai – Cư.
Để thực hiện tốt quá trình khai thác các hình ảnh thính giác, thị giác, cần
cho học sinh:
- Phát hiện các hình ảnh nổi bật trong bài.
- Hướng dẫn học sinh nhận xét về sắc thái ý nghĩa của những hình ảnh đó
theo trình tự: từ ý nghĩa thực đến ý nghĩa tượng trưng. Từ đó khái quát lại
giá trị biểu hiện chung:
Ví dụ: Đọc – hiểu thơ Hai – Cư của Ba – Sô
Bài 1 (Chương trình nâng cao):
Trên cành khô
chim quạ đậu
chiều thu
Giáo viên cho học sinh tìm hiểu sắc thái ý nghĩa của các hình ảnh thị giác:
- Cành khô:
+ Ý nghĩa thực: trơ trụi không lá, không chồi xanh tươi.
+ Ý nghĩa tượng trưng: gợi cảm giác về sự héo úa, tàn phai rơi rụng, nơi sự sống
đang bị vắt kiệt đến tận cùng. Hình ảnh đó dự báo một mùa đông xơ xác, điêu
tàn, trống trải đang đến gần.
- Chim quạ:
+ Ý nghĩa thực: Gây ấn tượng bởi hình dáng, tư thế cô độc, im lìm đậu trên cành
cây khô.
+ Ý nghĩa tượng trưng: Chim quạ có ý nghĩa tượng trưng cho cái chết, khắc sâu
ấn tượng tang tóc, u buồn, vắng lặng và cô đơn.
Nguyễn Phong Hiền – Trường THPT Sơn Tây
8
Phương pháp hướng dẫn học sinh đọc – hiểu thơ Hai – Cư
Như vậy, hai hình ảnh thị giác là hai biểu tượng như hai khúc hát bè đôi
đã tái hiện một chiều thu đơn sơ mà sâu thăm, cô tịch và tàn úa. Qua đó thấy
được tâm trạng cô đơn, hiu quạnh của nhà thơ.
Bài 2 (Chương trình nâng cao):
Cây chuối trong gió thu
tiếng mưa tí tách vào chậu
ta nghe tiếng mưa
Cần khai thác ý nghĩa các hình ảnh:
- Cây chuối (hình ảnh thị giác): loại chuối thân nhỏ, mềm mại, dễ úa tàn.
+ Quan niệm của Phật giáo: coi cây chuối là biểu tượng của sự mỏng manh
không ổn định của vạn vật và cho rằng “mọi cấu tạo tinh thần chẳng khác nào
cây chuối”.
+ Vị trí hình ảnh cây chuối trong tâm hồn Ba – Sô: Ba – Sô dành cho cây chuối
một tình yêu đặc biệt. Ông thích được ngồi dưới gốc cây và lắng nghe âm thanh
của gió của mưa văng trên tàu lá. Ông bị những tàu lá dài, rộng quyến rũ. Với
ông tàu lá đó “đủ lớn để che cho một ẩn sĩ”. Trong cơn gió, tàu lá rách tướp gợi
cho ông nghĩ đến cái đuôi phượng hoàng trong huyền thoại hoặc một chiếc quạt
xanh tả tơi vì gió. Với Ba – Sô cây chuối tượng trưng cho sự trong sáng và tính
nhạy cảm.
+ Trong bài thi nhân chọn cây chuối để ví thân phận mình cũng từng bị cuộc
sống xô đẩy tả tơi chẳng khác nào thân phận cây chuối bị mưa gió xô đẩy tả tơi,
lay lắt trong đêm thu này.
- Tiếng gió thu (hình ảnh thính giác): đây là tiếng gió xô tàu lá. Âm thanh đó
gợi cảm giác lạnh lùng, rét mướt.
- Tiếng mưa (hình ảnh thính giác): tiếng rơi tí tách từ tàu lá vào chậu gợi cảm
giác não nuột trong đêm.
- Tiếng đêm (hình ảnh thính giác): bài thơ thật ra không có tiếng đêm chỉ có
tiếng tạo vật trong đêm. Hay nói đúng hơn tiếng đêm đã được cụ thể hoá qua
tiếng gió thu, tiếng mưa.
Như vậy qua các hình ảnh và âm thanh đó, học sinh cảm nhận được một
đêm thu lạnh lùng, hiu hắt. Đằng sau tính chất đêm thu chính là tâm trạng cô
đơn, lạnh lẽo, u buồn của Ba – Sô. Giữa tâm hồn tác giả và hình ảnh đêm thu có
sự hoà điệu sâu sắc. Bài thơ là tiếng thu trong tâm hồn cô đơn.
Bài 2 ( chương trình cơ bản):
Chim đỗ quyên hót
ở kinh đô
mà nhớ kinh đô.
Trong bài thơ có những hình ảnh cần khai thác: chim đỗ quyên, kinh đô.
- Chim đỗ quyên: Đây là hình ảnh vừa tác động đến thị giác vừa tác động đến
thính giác của người đọc. Khai thác hình ảnh chim đỗ quyên cần làm rõ các ý
nghĩa:
+ Tên gọi khác: chim quyên, chim đỗ vũ, chim tử qui…
+ Trong văn học Trung Quốc, chim đỗ vũ với điển tích vua Thục mất nước.
Trong văn học Việt Nam ngoài ý nghĩa dùng để chỉ nỗi nhớ quê hương (thơ Bà
Nguyễn Phong Hiền – Trường THPT Sơn Tây
9
Phương pháp hướng dẫn học sinh đọc – hiểu thơ Hai – Cư
Huyện Thanh Quan, Nguyễn Khuyến), chim cuốc chủ yếu dùng để chỉ thời gian
chuyển từ xuân sang hè.
+ Ở Nhật Bản: Đỗ quyên được gọi là “hô – tô – tô – ghi – su ”, là hình tượng
nổi bật trong thơ Hai – Cư và thơ Tan – Ka, thường dùng với ý nghĩa thương tiếc
thời gian, đặc biệt thể hiện nỗi buồn và sự vô thường.
+ Trong bài: tiếng chim đỗ quyên gợi về sự biến đổi đồng thời thể hiện nỗi nhớ
tiếc một kinh đô đầy kỉ niệm đã vĩnh viễn dời xa. Tiếng đỗ quyên hót nối liền
quá khứ với hiện tại, đó cũng chính là tiếng lòng người vọng về quá khứ.
- Kinh đô: là hình ảnh kép, biểu hiện một sự vật trong hai thời điểm khác nhau.
+ Ở dòng 1: Chỉ hình ảnh kinh đô trong hiện tại, một kinh đô đang hiện ra trong
tầm nhìn của tác giả, cũng là một kinh đô đã có nhiều biến chuyển, đổi thay.
+ Ở dòng 2: Chỉ kinh đô trong quá khứ, kinh đô đầy kỉ niệm chỉ còn tồn tại
trong niềm thương, nỗi nhớ của tác giả.
Cả hai hình ảnh chim quyên và kinh đô đều thể hiện nỗi bùôn hoài cổ của
tác giả, nỗi tiếc kỉ niệm trước những vô thường của thời gian.
Bài 3 (chương trình nâng cao):
Hoa đào như áng mây xa
chuông đền U – ê – nô vang vọng
hay đền A – sa – cư – sa
Hướng dẫn học sinh tìm hiểu ý nghĩa các hình ảnh: hoa đào, tiếng chuông.
- Hoa đào:
+ Ý nghĩa thực: Hoa đào còn gọi là hoa anh đào, loại hoa đặc sắc của Nhật Bản,
thường nở rộ vào mùa xuân. Hoa nhỏ, không hương, thường có màu hồng nhạt.
Một cây đứng riêng rẽ thì không đẹp nhưng quần tụ lại từng hàng, từng hàng thì
rất đẹp.
+ Ý nghĩa tượng trưng: Anh đào tượng trưng cho sức sống dồi dào và tinh thần
hoà hợp, đoàn kết của người Nhật Bản. Nó là biểu tượng cho tâm hồn và sinh
hoạt văn hoá đầu xuân của người Nhật Bản.
+ Hình ảnh so sánh “hoa đào như áng mây xa” vẽ ra cảnh tượng những khóm
hoa lơ lửng, bồng bềnh trước mắt. Hoa mà ngỡ như mây, gần mà ngỡ như xa.
Hình ảnh đó gợi cảm giác về một cái đẹp nhẹ nhàng, phảng phất, một sắc xuân
dịu dàng, mênh mang.
- Tiếng chuông:
+ Chuông là biểu tượng của tiếng gọi thức tỉnh, ở đây là tiếng chuông ngân vang
từ các ngôi đền vào buổi chiều.
+ Tiếng chuông lan ra trong không gian rộng lớn, không xác định cụ thể từ
hướng nào mang tới sắc thái bâng khuâng, mơ hồ đồng thời thể hiện tâm trạng
cô đơn, trống vắng của nhà thơ. Nhà thơ như đang hoà mình vào không gian
mênh mông, vô tận để cảm nhận mùa xuân.
Như vậy, qua một hình ảnh thị giác (hoa đào) và một hình ảnh thính giác
(âm thanh) học sinh sẽ cảm nhận được vẻ đẹp mùa xuân trong tâm hồn cô đơn
và trống vắng.
Đọc – hiểu thơ Hai – Cư của Bu – Son
Bài 1:
Gần xa đâu đây
Nguyễn Phong Hiền – Trường THPT Sơn Tây
10
Phương pháp hướng dẫn học sinh đọc – hiểu thơ Hai – Cư
nghe tiếng thác chảy
lá non tràn đầy
Đọc bài thơ cần khai thác các hình ảnh: dòng thác và lá non
- Hình ảnh dòng thác:
Đây là hình ảnh quan trọng, chứa đựng nhiều sắc thái biểu tượng. Tìm hiểu
hình ảnh dòng thác cần đi từ ý nghĩa thực đến ý nghĩa tượng trưng. Sau đây là
các lớp ý nghĩa của hình ảnh thác.
+ Theo từ điển tiếng Việt: “Thác” là “chỗ nước chảy qua vách đá cao nằm chắn
ngang lòng sông, suối”. Thác là mô típ chủ chốt trong hội hoạ phong cảnh
Trung Hoa và Nhật Bản.
+ Trong tự nhiên, thác luôn chuyển động, nước chảy từ trên vách núi cao tràn
xuống, nước len lỏi qua các phiến đá tràn ra sông, biển nên là biểu tượng cho sự
chuyển động liên tục, đối lập với sự tĩnh tại, “cho một thế giới mà các yếu tố
của nó thay đổi không ngừng trong khi các hình thức bên ngoài vẫn giữ
nguyên”. Thác cũng như cuộc sống đời người luôn biến động.
Trong bài, thác là biểu tượng cho sức sống, tiếng gọi của mùa xuân, thúc
giục ta hoà vào tiếng reo vui của dòng thác để cảm nhận mùa xuân bất tận. Tiếng
thác vừa gần, vừa xa thể hiện một sự vận động mơ hồ nhưng âm thầm, mãnh
liệt.
Hình ảnh dòng thác vừa gợi âm thanh, vừa gợi hình ảnh. Người đọc như
vừa phải lắng nghe vừa phải tập trung thị giác để hình dung dòng thác đang
chảy, đang vận động chuyển mình.
- Hình ảnh “lá non tràn đầy” :
+ Lá non: là một sự vật cụ thể biểu hiện cho sự biến đổi của vạn vật trước tiếng
gọi của mùa xuân.
+ Tràn đầy: là tràn đầy sức sống mới, tràn đầy những thay đổi trước tiếng gọi
của mùa xuân.
Như vậy bằg việc khai thác ý nghĩa của hai hình ảnh “dòng thác”, “lá
non” học sinh sẽ cảm nhận được hình ảnh mùa xuân hiển hiện trong bài thơ.
Một mùa xuân căng tràn sự sống, cây cối đâm chồi nảy lộc. Mùa xuân đựơc cảm
nhận bằng cả tâm hồn tươi trẻ của Bu – Son và dường như nhà thơ đang kêu gọi
con người hãy hoà mình vào mùa xuân đó.
Bài 2:
Dưới mưa xuân lất phất
áo tơi và ô
cùng đi
Bài thơ là một ví dụ tiêu biểu cho phong cách nghệ thụât coi trọng sự
kiệm lời của Bu – Son. Ngôn từ trong bài ngắn gọn, có ý nghĩa khơi gọi, các
hình ảnh mang tính tượng trưng cao. Tìm hiểu bài thơ cần chú ý tới hai hình
ảnh:
- Áo tơi: Áo làm bằng tranh hay bằng rạ, người đàn ông dùng để khoác lúc mưa,
trên đầu đội thêm nón hình rơm.
- Ô: Vật dụng phụ nữ Nhật Bản thường dùng để che mưa, nắng.
“Áo tơi” trong bài lầ biểu tượng chỉ người con trai, “Ô” chỉ người con
gái. Đôi tình nhân ngày đang sánh vau cùng bước đi trong mưa xuân. Đó chính
Nguyễn Phong Hiền – Trường THPT Sơn Tây
11
Phương pháp hướng dẫn học sinh đọc – hiểu thơ Hai – Cư
là bức tranh mùa xuân tình yêu, tuổi trẻ. Bu – Son không tả người con trai,
người con gái, chỉ dùng hai hình ảnh đơn giản để người đọc xét đoán ý nghĩa bài
thơ. Đó là một ví dụ tiêu biểu cho tính cô đọng, hàm súc và khả năng khơi gợi
của hình ảnh trong thơ Hai – Cư.
Bài 3:
Hoa xuân nở tràn
bên lầu du nữ
mua sắm đai lưng.
Học bài thơ này cần giải thích và khai thác các hình ảnh “hoa xuân”, “du
nữ”, “đai lưng”. Đặc biệt những hình ảnh “du nữ”, “đai lưng” là những hình
ảnh ít nhiều liên quan đến văn hoá Nhật. Giải thích rõ ý nghĩa văn hoá của hình
ảnh sẽ giúp học sinh phát hiện và nắm bắt nội dung tiềm ẩn của bài thơ.
- Hoa xuân: Ở đây là hoa đào, hoa mơ, hoa mận đua nở khắp nơi, gợi lên sức
sống dâng tràn của mùa xuân.
- Du nữ: Chính là người kĩ nữ (gheisa). Ở đây du nữ chỉ những cô gái biết múa
hát, rót rượu, dâng trà, cắm hoa, tiếp khách, có khi làm gái làng chơi. Những du
nữ thường sống ràng buộc trong những ngôi lầu sang trọng, ít được ra ngoài.
Đây là đặc điểm quan trọng của hình ảnh vì nó liên quan đến các sự việc được
miêu tả ở câu sau.
- Đai lưng: Khăn buộc quanh lưng, vật dụng quan trọng trong loại áo Ki – mô –
nô của người Nhật. Ở đai lưng, tuỳ theo mùa mà dệt hoa lá: mùa xuân thường
thêu ảnh hoa mơ, hoa mận, mùa hè là những dòng suối, dòng sông, mùa thu là
loại cây gỗ màu lá đỏ rực, mùa đông là cây thông.
Xâu chuỗi tính chất của các hình ảnh ta sẽ thấy có điểm tương đồng đặc
biệt. Hình ảnh hoa xuân có ở thiên nhiên và cả trên vật dụng con người (những
chiếc đai lưng). Đặc biệt ở hình ảnh những người du nữ thì hoàn cảnh sống bó
buộc của họ dường như đã hoàn toàn bị xoá nhoà ở câu cuối. Các du nữ cũng
mua sắm đai lưng và những chiếc đai lưng trên tay họ gợi lên cả một sức xuân
lan tràn, sự hoà mình giữa con người và tự nhiên vượt qua mọi cách biệt không
gian. Con người và thiên nhiên hoà hợp càng tô điểm cho mùa xuân thêm rực rỡ.
Như vậy, khai thác ý nghĩa các hình ảnh thính giác và thị giác là bước cụ
thể hoá quá trình nắm bắt tác phẩm của học sinh sau những ấn tượng ban đầu
được gợi lên từ việc tìm hiểu hoàn cảnh ra đời của tác phẩm. Đó là hoạt động
khai thác các tầng ý nghĩa của hình tượng qua những hình ảnh giản đơn.
1.2.4. Khai thác cách nhìn về thiên nhiên, thế giới và cảm thức thầm mĩ
trong thơ Hai – Cư
Triết lí về thiên nhiên là một đặc điểm quan trọng biểu hiện nét độc đáo
trong cách nhìn thế giới của thơ Hai – Cư. Nó cho thấy tính chất uyên thâm, sâu
thẳm của thi phẩm ẩn đằng sau vẻ giản dị ngôn từ.
Khai thác cách nhìn về thế giới, cảm thức thẩm mĩ khi giảng dạy Hai –
Cư là giúp học sinh tiếp cận tác phẩm ở góc độ cao hơn, trừu tượng hơn, nhằm
phát hiện nét độc đáo trong tư duy nghệ thuật, cách nhìn thế giới, cảm thức
thẩm mĩ của tác phẩm. Đây là vấn đề khái quát tưởng chừng như khó nhưng lại
được thể hiện rất cụ thể và tinh tế trong từng bài thơ. Chỉ cho học sinh thấy
được những vấn đề đó là quá trình đọc – hiểu sẽ đạt tới chiều sâu vì sự nắm bắt
Nguyễn Phong Hiền – Trường THPT Sơn Tây
12
Phương pháp hướng dẫn học sinh đọc – hiểu thơ Hai – Cư
của học sinh không dừng ở sự cảm nhận nghệ thuật đơn thuần nữa mà đã nâng
lên sự cảm nhận về quan niệm nhân sinh.
Hai – Cư thường đề cao cái vắng lặng, đơn sơ, u huyền, mềm mại, nhẹ
nhàng và đặt vạn vật trong mối quan hệ thống nhất. Việc khai thác cách nhìn về
thiên nhiên cần tập trung chỉ rõ và làm nổi bật đặc điểm đó.
Để quá trình hướng dẫn học sinh nắm bắt quan niệm về thế giới và cảm
thức thẩm mĩ cũng cần đi từ những biểu hiện cụ thể đến khái quát. Hoạt động
khơi gợi để học sinh tự phát hiện có thể tiến hành bằng những thao tác sau:
- Cho học sinh xác định quí ngữ (từ chỉ mùa)
- Tìm các hình ảnh thiên nhiên
- Nhận xét về:
+ Tính chất của các hình ảnh. Việc nhận xét về tính chất của các hình ảnh
sẽ giúp học sinh thấy được cảm thức thẩm mĩ trong thơ.
+ Mối quan hệ giữa các hình ảnh thiên nhiên và mối quan hệ giữa thiên
nhiên với con người. Việc nhận xét về mối quan hệ này chính là hoạt động
để chỉ rõ cách nhìn về thế giới của Hai – Cư.
Ví dụ:
Bài 7 (Chương trình cơ bản):
Từ bốn phương trời xa
cánh hoa đào lả tả
gợn sóng hồ Bi – Oa
Để chỉ cho học sinh thấy được cảm thức thẩm mĩ và quan niệm về thế giới
trong bài thơ, giáo viên yêu cầu học sinh:
- Xác định quí ngữ: hoa đào (đây là quí ngữ gián tiếp)
- Phát hiện và nhận xét về đặc điểm của các hình ảnh thiên nhiên:
+ Cánh hoa đào: màu hồng nhạt, mỏng manh rụng xuống mặt hồ.
+ Mặt hồ: tĩnh lặng, êm đềm
Hai hình ảnh đẹp giản dị, gợi lên cảm thức nhẹ nhàng. Như vậy, học sinh
sẽ rút ra được một đặc điểm về thiên nhiên: sự giản dị và một cảm thức thẩm mĩ
tiêu biểu là sự thanh thoát, nhẹ nhàng (ka – ru – mi ) trong thơ Hai – Cư .
- Nhận xét về tác động của cánh hoa đến mặt hồ (mối quan hệ giữa các hình ảnh
thiên nhiên): Cánh hoa đào mỏng manh tưởng sẽ không có tác động gì vậy mà
cũng làm mặt hồ xao động, nổi sóng. Mối quan hệ đó thể hiện cái nhìn về thiên
nhiên, vạn vật: thế giới không baô gồm những sự vật đơn lẻ mà tất cả đều
chuyển hoá, tác động lẫn nhau. Luôn diễn ra sự tương giao giữa các sự vật, hiện
tượng trong vũ trụ.
Bài 6 (Chương trình cơ bản):
Vắng lặng thâm trầm
thấm sâu vào đá
tiếng ve ngâm.
- Xác định quí ngữ: tiếng ve (quí ngữ gián tiếp)
- Nhận xét:
+ Về hình ảnh tiếng ve: Tiếng ve ngân là nổi bật cái vắng lặng, thâm trầm
của không gian. Ba – Sô đã lấy động để tả tĩnh, tiếng ve mạnh và sắc được dùng
để thể hiện niềm cô tịch. Bức tranh thiên nhiên im ắng, tịch lặng. Đó là một cảm
Nguyễn Phong Hiền – Trường THPT Sơn Tây
13
Phương pháp hướng dẫn học sinh đọc – hiểu thơ Hai – Cư
thức thẩm mĩ tiêu biểu của thơ Ba – Sô: đề cao cái u hoài, tịch lặng, cô liêu…
( chất Sa- bi).
+ Về mối quan hệ giữa tiếng ve và đá:
Tiếng ve là thanh, đá là vật. Hai sự vật tồn tại ở hai dạng và tác động đến
người đọc ở những phương diện trực giác khác nhau (tiếng ve tác động vào
thính giác, đá tác động vào thị giác). Nhưng trong cái u tịch, vắng lặng của chiều
tà lại có thể cảm nhận được tiếng ve rền rĩ như thấm sâu vào đá. Đá không còn
là vật thể vô tri, hữu hình mà cũng trở nên có hồn, biết giao hoà với vạn vật
xung quanh. Liên tưởng mạnh mẽ, độc đáo đó cho thấy cái nhìn nhất thể hoá về
thế giới: vạn vật trong vũ trụ là một, có thể chuyển hoá và dung chứa lẫn nhau.
Đằng sau đó người đọc còn có thể thấy được nỗi u hoài, niềm cô đơn trong tâm
hồn tác giả. Tuy nhiên đó không phải là cái cô đơn riêng lẻ, không phải nỗi buồn
bi lụy mà là cái cô đơn vũ trụ - tức sự dừng lại của những dục vọng để thấu hiểu
những khoảnh khắc nhiệm màu của thế giới rộng lớn xung quanh.
Bài 2 (chương trình nâng cao – Bu – Son )
Dưới mưa xuân lất phất
áo tơi và ô
cùng đi.
Bài thơ thể hiện rất rõ mối quan hệ giữa con người và thiên nhiên. Để học
sinh nhận ra mối quan hệ đó cần hướng dẫn học sinh tìm hiểu các hình ảnh miêu
tả thiên nhiên và con người.
Câu đầu: tả cảnh mưa xuân lất phất bay, mưa không nặng hạt, không đủ
thấm áo, không rét mướt. Cảnh vật đang ở giai đoạn đầu của mùa xuân.
Câu sau: miêu tả con người, đôi tình nhân đang sánh bước trong tình yêu,
tuổi trẻ.
Hai ý thơ thể hiện mối quan hệ giữa thiên nhiên và con người: cảnh đang
ở giây phút đầu xuân còn con người thì đang ở trong tình yêu, tuổi trẻ. Con
người sánh bước dưới mưa xuân tạo nên sự gắn bó, hoà hợp. Đó là chính là mùa
xuân của tuổi trẻ, tình yêu.
Bài 1 (chương trình nâng cao của Ba – Sô )
Cây chuối trong gió thu
tiếng mưa tí tách vào chậu
ta nghe tiếng đêm
Mối quan hệ giữa con người và thiên nhiên biểu hiện của tính chất của
đêm thu và tâm trạng con người. Ba – Sô viết bài thơ ở túp lều tranh do môn đồ
tặng trong một tâm trạng cô đơn và âm thanh phát ra rả rích trong đêm như hoà
nhập với tâm trạng con người. Ngược lại, tác giả cũng mở rộng hồn mình để hoà
vào nỗi buồn của đêm thu. Bài thơ là tiếng đêm trong tâm trạng cô đơn.
Trên đây là những hoạt động dựa trên phương pháp áp dụng đặc trưng thể
loại để giảng dạy thơ Hai – Cư. Sau đây là phương pháp thứ hai người viết đã
ứng dụng vào quá trình hướng dẫn đọc – hiểu thơ Hai – Cư.
2.
PHƯƠNG PHÁP SO SÁNH
2.1 . Những vấn đề lí luận chung về phương pháp so sánh
Nguyễn Phong Hiền – Trường THPT Sơn Tây
14
Phương pháp hướng dẫn học sinh đọc – hiểu thơ Hai – Cư
So sánh văn học là phương pháp nghiên cứu dựa trên cơ sở đối chiếu hai
đối tượng (tác giả, tác phẩm ) trên cùng một phương diện nào đó để thấy sự
tương đồng hay khác biệt từ đó làm nổi bật đặc điểm của đối tượng được đề ra.
Thực tế sáng tạo và phát triển tác phẩm văn chương cho thấy, ở bất kì một
phương diện nào cũng có thể tìm ra được sợi dây liên hệ giữa các tác giả, các tác
phẩm với nhau. Dẫu có những cách biệt về không gian, thời gian thì những qui
luật tình cảm lớn lao vẫn như một sợi dây nối liền tâm hồn các dân tộc. Vì vậy,
người đọc có thể dễ dàng tìm được những điểm tương đồng trong các tác phẩm
ở những phương trời khác nhau. Ngoài ra qui luật lan truyền, kế thừa và sáng tạo
của các tác phẩm văn chương đã tạo nên những cơ sở để đối chiếu vô cùng độc
đáo. Phương pháp so sánh, do đó đã trở thành một phương pháp có hiệu lực và
khá quen thuộc trong nghiên cứu, phê bình lí luận cũng như giảng dạy tác phẩm
văn chương.
2.2 . Áp dụng vào việc đọc – hiểu thơ Hai cư
2.2.1. So sánh giữa thơ Hai cư của Ba sô và thơ Hai cư của Bu son
Ba sô và Bu son là hia bậc thầy cảu thi ca Nhật Bản, đặc biệt là của thơ
Hai cư. Nếu Ba-sô là viên ngọc thì Bu-son là viên kim cương vô giá. Bu-son là
người đã kế thừa và phát triển xuất sắc những qui tắc nghệ thuật mà Ba-sô đề ra.
Việc so sánh, đối chiếu giữa Ba-sô và Bu-son trong quá trình đọc-hiểu
(đặc biệt ở chương trình nâng cao) sẽ mang tới hai tác dụng: Thứ nhất, giúp học
sinh nắm vững những qui tắc nghệ thuật của thể loại biểu hiện thống nhất ở hai
tác giả; thứ hai, giúp học sinh thấy được điểm khác biệt trong từng phong cách.
Từ đó thấy được sự thống nhất mà đa dạng của thơ Hai cư.
Ví dụ: Khi hướng dẫn đọc hiểu thơ của Bu-son, giáo viên nên liên hệ với
thơ Ba-sô ở cách nhìn thế giới biểu hiện cụ thể ở mối quan hệ giữa thiên nhiên
và con người. Vì sự hòa hợp giữa thiên nhiên, các sự vật trong vũ trụ (trong đó
có con người) được biểu hiện rất rõ ở các bài thơ của Ba-sô và Bu-son. Sự liên
hệ này sẽ khắc sâu trong tâm trí học sinh về một đặc điểm quan trọng, đó là cái
nhìn nhất thể hóa về thế giới của thơ Hai-cư.
Ngược lại, để tìm ra sự khác nhau hãy xem xét trên góc độ chủ đề, cảm
hứng. Là học trò xuất sắc của Ba-sô nhưng Bu-son đã có những sáng tạo riêng
trong phong cách của mình. Nếu Ba-sô thiên về tả bốn mùa thì Bu-son lại thích
viết về mùa xuân. Nếu thơ Ba-sô mang âm hưởng sâu thẳm của Thiền Tông ở
cảm giác vắng vẻ, tịch liêu thì thơ Bu-son rộn rã niềm vui và luôn gắn với cuộc
đời trần thế. Ba-sô được mệnh danh là thiền sư cư sĩ còn Bu-son được mệnh
danh là thi sĩ của mùa xuân.
Những liên hệ, so sánh này có thể chỉ dừng ở mức độ khái quát nhưng sẽ
trang bị cho các em cái nhìn linh động đối với một thể thơ cách luật vốn rất sâu
thẳm, thâm trầm. Bên cạnh tá dụng củng cố lại tri thức thể loại để học sinh thấy
được sự phong phú trong phong cách của mỗi tác giả thơ Hai-cư ẩn sau vẻ bề
ngoài vốn gần như cố định của thơ Hai-cư.
2.2.2 . So sánh giữa thơ Hai-cư và các tác phẩm thơ ca Việt Nam,
Trung Quốc
2.2.2.1. Thơ Hai-cư là một thành tựu độc đáo có một không hai, là tinh
hoa văn hóa của người Nhật. Nhưng Hai-cư cũng là một thể loại nằm trong qui
Nguyễn Phong Hiền – Trường THPT Sơn Tây
15
Phương pháp hướng dẫn học sinh đọc – hiểu thơ Hai – Cư
luật (lan truyền, tiếp nhận, sáng tạo) của văn chương. Vì vậy, sẽ có sự liên hệ
giữa những nhà thơ Hai cư và văn học của những dân tộc khác (đặc biệt là châu
Á – trong đó có Việt Nam).
Tiến hành so sánh giữa thơ Hai-cư với một số tác phẩm văn học Trung
Quốc và Việt Nam người thực hiện đề tài này hi vọng giảm bớt những bỡ ngỡ
cho học sinh trong quá trình tiếp cận. Sự so sánh đối chiếu nhằm mục đích chỉ
rõ những tương đồng trong cảm xúc của thơ Hai-cư với các tác phẩm quan
thuộc ở Việt Nam và Trung Quốc, từ đó tạo ra sự gần gũi cho học sinh khi cảm
nhận một bài Hai-cư. Mặt khác, chỉ ra sự tương đồng giữa nội dung cảm xúc
của thơ Hai-cư cũng sẽ chứng tỏ cho học sinh thấy con đường của Hai-cư chính
là con đường của thi ca nhân loại. Còn những điểm khác biệt sẽ giúp học sinh
thấy được nét độc đáo cùng những giá trị nổi bật của thơ Hai – cư.
2.2.2.2. Ví dụ : Khi đọc hiểu các bài thơ Hai-cư:
Bài 1 (Chương trình Cơ bản)
Đất khách mười mùa sương
về thăm quê ngoảnh lại
Ê đô là cố hương
Có thể tiến hành so sánh với các tác phẩm:
Độ Tang Càn
(Giả Đảo, thời Đường)
Khách xá Tinh Châu dĩ thập sương
Quy tâm nhật dạ ức Hàm Dương
Vô đoan cánh độ Tang Càn thủy
Khước vọng Tinh Châu thị cố hương.
(Làm quan ở Tinh Châu – đất khách đã mười năm
Ngày đêm nhớ quê Hàm Dương muốn trở về
Không dưng lại vượt sông Tang Càn
Ngoảnh lại Tinh Châu thấy đó như quê mình)
Khó có thể phủ nhận dấu ấn của Độ Tang Càn trong thơ Ba-sô, tuy nhiên
Ba-sô đã có cách nói chắt lọc. Bài thơ của Giả Đảo còn nhiều lời trình bày, diễn
giải. Thơ của Ba-sô súc tích hơn nhiều. Nó chỉ lọc lấy cái hay nhất là tứ thơ, chỉ
khắc học một khoảnh khắc biến đổi tâm lí còn lại để cho người đọc cảm nhận.
Đó chính là nghệ thuật để lại khoảng lặng, để lại khoảng trống của thơ Hai-cư.
Khoảng trống đó sẽ được lấp đầy bởi những suy tư, cắt nghĩa của người đọc.
Nói thơ tứ tuyệt của Trung Quốc cô đọng, còn thơ Hai cư đặc biệt cô đọng là vì
thế.
Ngoài ra, khi phân tích biến đổi tâm lí bất ngờ, đột ngột của tác giả, tâm lí
thấy Ê-đô như quê hương của mình có thể liên hệ với ý thơ của Chế Lan Viên:
Khi ta ở chỉ là nơi đất ở
Khi ta đi đất đã hóa tâm hồn
(Tiếng hát con tàu)
Câu thơ của Chế Lan Viên đã phản ánh một qui luật của tình cảm: sự
chuyển hóa về vị trí của mảnh đất từng sinh sống trong thế giới tâm hồn con
Nguyễn Phong Hiền – Trường THPT Sơn Tây
16
Phương pháp hướng dẫn học sinh đọc – hiểu thơ Hai – Cư
người lúc rời xa. Đó cũng chính là qui luật dẫn đến những biến đổi sâu sắc trong
tâm trạng của Ba-sô gần 400 năm về trước.
Bài 1(Chương trình Nâng cao):
Trên cành khô
chim quạ đậu
chiều thu
So sánh với bài Thiên tịnh sa:
Lão đằng khô tụ hàn nha
Cổ đạo tây phong sấu mã
Tiểu kiều lưu thủy nhân gia
Tịch dương tây hạ
Đoạn trường nhân tại thiên nha.
(Dây già cây khô quạ lạnh
Đường xưa gió bấc ngựa gầy
Nhà ai cầu tre nước chảy
Mặt trời lặn về tây
Người đoạn trường nơi chân mây).
Bài thơ của Ba-sô cũng được gợi ý từ Thiên tịnh sa nhưng rõ ràng Ba-sô
đã gạt hết tất cả những gì không cần thiết cho sự thể hiện cảm nhận của mình
trong khoảnh khắc. Một khoảnh khắc chiều thu.
Bài 2 (Chương trình Cơ bản):
Chim đỗ quyên hót
ở kinh đô
mà nhớ kinh đô.
So sánh với Nguyễn Khuyến và Nguyễn Bính:
Bài thơ có một tứ thơ rất hay đó là “Ở kinh đô mà nhớ kinh đô”. Theo qui
luật tâm lí của con người, nỗi nhớ thường chỉ xảy ra trong xa cách không gian.
Ví dụ, Nguyễn Khuyến ở kinh đô nghe tiếng chích chòe kêu bỗng nhớ quê
hương. Ba-sô không thế. Ba-sô ở giữa không gian mà vẫn nhớ thương, đơn giản
bởi nỗi nhớ của Ba-sô là nỗi nhớ thời gian, nhớ một kinh đô ngày xưa đã vĩnh
viễn một đi không trở lại. Nỗi nhớ xuất phát từ sự nuối tiếc kỉ niệm và những
biến đổi của kinh đô trong hiện tại. Song tâm lí của Ba-sô không hề dị biệt. Hơn
300 năm sau, Nguyễn Bính, nhà thơ Mới của Việt Nam cũng mang một tâm
trạng như thế:
Hôm nay có một người du khách
Gió bụi mang về xóm Ngự Viên
Hôm nay có một người du khách
Ở Ngự Viên mà nhớ Ngự Viên
(Xóm Ngự Viên)
Giữa sự tàn tạ của một nơi vốn là kinh thành ngày trước, thi sĩ nhớ về một
thời huy hoàng, lộng lẫy. Bởi Ngự Viên bây giờ đã khác ngày xưa.Tâm lí đó
chẳng phải đồng điệu với tâm lí của Ba-sô đó sao?
Bài 3 (Chương trình Nâng cao):
Cây chuối trong gió thu
tiếng mưa tí tách vào chậu
Nguyễn Phong Hiền – Trường THPT Sơn Tây
17
Phương pháp hướng dẫn học sinh đọc – hiểu thơ Hai – Cư
ta nghe tiếng đêm.
Khi khai thác hình ảnh cây chuối và âm thanh tiếng mưa có thể so sánh
với câu thơ của Lí Bạch:
Cách song đêm biết mưa sa
Tiếng nghe lộp độp biết là tàu tiêu.
(Tiếng mưa)
Hay của Nguyễn Trãi:
Tĩnh mịch trai phòng vắng
Đêm nằm nghe tiếng mưa
Não nùng rung gối khách
Thánh thót điểm canh mờ.
(Nghe mưa)
Ở đây, cảm giác vế sự rét mướt, não nuột của đêm mưa như một sợi dây
liên hệ nối liền tâm trạng của ba thi nhân ở ba đất nước, ba thời đại khác nhau.
Mặt khác, so sánh với bài thơ Cây chuối của Nguyễn Trãi, ta lại có kết
quả vô cùng đặc biệt. Cũng nói về cây chuối, nhưng trong thơ Nguyễn Trãi cây
chuối tràn đầy sức sống, tình tứ, thanh tân:
Tự bén hơi xuân tốt lại thêm
Đầy buồng là màu thâu đêm
Tình như một bức phong còn kín
Gió nơi đâu gượng mở xem.
Còn cây chuối của Ba-sô lay lắt, tả tơi vì gió mưa vùi dập. Thật thú vị là
chúng ta vừa có thể tìm ra những nét tương đồng, vừa tìm ra được những nét
khác biệt giữa những nhà thơ với nhau.
Bài 3 (Chương trình Cơ bản)
Lệ trào nóng hổi
tan trên tay tóc mẹ
làn sương thu.
Bài thơ có một hình ảnh lơ lửng, mờ ảo và đa nghĩa làn sương thu. Ở đây,
có ba cách hiểu về hình ảnh: giọt lệ như sương, tóc mẹ như sương, đời người
như giọt sương, ngắn ngủi, vô thường. Để tăng tính thuyết phục cho từng cách
hiểu có thể liên hệ với một số hình ảnh liên quan đến giọt sương trong thi ca Việt
Nam. Ví dụ:
Với cách hiểu thứ nhất có thể liên hệ đến câu thơ của Nguyễn Khuyến:
Tuổi già giọt lệ như sương
Hơi đâu ép lấy hai hàng chứa chan.
(Khóc Dương Khuê)
Với cách hiểu thứ hai có thể liên hệ với câu thơ của Đoàn Thị Điểm:
Mẹ già phơ phất mái sương
Con thơ mang sữa vả đương bù trì.
(Chinh phụ ngâm)
Với cách hiểu thứ ba có thể liên hệ với bài thơ của Thiên Sư Vạn Hạnh:
Thân như ánh chớp có rồi không
Cây cối xuân tươi thu não nùng
Mặc cuộc thịnh suy đừng sợ hãi
Nguyễn Phong Hiền – Trường THPT Sơn Tây
18
Phương pháp hướng dẫn học sinh đọc – hiểu thơ Hai – Cư
Kìa kìa ngọn cỏ giọt sương đông.
(Thị đệ tử)
Hình ảnh giọt sương trong bài thơ của Vạn Hạnh Thiền sư sẽ làm rõ quan
niệm về cuộc đời vô thường ngắn ngủi của Ba-sô. Như vậy, giữa hai nhà thơ có
sự đồng cảm lớn về quan niệm cuộc đời, triết lí nhân sinh. Ở đây, nên lưu ý cả
Ba-sô và Vạn Hạnh đều là thiền sư.
Ngoài ra, khi hướng dẫn cho học sinh tìm hiểu cái nhìn nhất thể hóa về
thế giới (biểu hiện trong mối quan hệ của vạn vật – bài 6, bài 7 chương trìn Cơ
bản; quan hệ giữa thiên nhiên với con người) có thể liên hệ với những câu thơ
của Nguyễn Trãi:
Khách lạ đến, ngàn hoa chửa rụng
Câu mầu ngâm, dạ nguyệt càng cao.
(Thuật hứng)
Hái cúc ương lan hương bén áo
Tìm mai đạp nguyệt tuyết xâm khăn.
(Thuật hứng 12)
Trong ý thơ của Nguyễn Trãi, một câu thơ hay có thể làm vầng trăng cao
hơn, hương lan, hương cúc, trăng tuyết cũng hòa nhập, thẩm thấu vào con người.
Đó cũng chính là cái nhìn nhất thể hóa về thế giới: vạn vật đều là một của thơ
Hai-cư.
Hay khi tìm hiểu những bài 4, 5 – Chương trình Cơ bản, những bài thơ thể
hiện tấm lòng nhân đạo, sự ưu ái bao la của Ba-sô tới những sinh vật, kiếp người
nhỏ bé có thể liên hệ với những câu thơ viết về trẻ nhỏ của Nguyễn Du để thấy
được tình yêu bao la của những nhà thơ lớn, và nỗi đau xót, tiếng thơ dài trước
bất hạnh của con người dù ở phương trời nào cũng giống nhau.
3.
THIẾT KẾ THỬ NGHIỆM QUÁ TRÌNH ĐỌC – HIỂU MỘT BÀI
THƠ HAI – CƯ CỤ THỂ
Trên đây là những phương pháp người viết đã rút ra từ quá trình giảng
dạy. Trên cơ sở những phương pháp đó, xin được trình bày một giáo án mà
người dạy đã áp dụng và nhận thấy có hiệu quả cao trong quá trình giảng dạy
thơ Hai – Cư .
Tiết 61: Thơ Hai – Cư (Chương trình nâng cao - Toàn bộ bài học về thơ
Hai – Cư trong chương trình nâng cao được dạy trong 1 tiết rưỡi. Sau đây là
giáo án một tiết dạy).
Phương pháp
Nội dung
Học sinh: đọc tiểu dẫn
I. TÌM HIỂU CHUNG VỀ THƠ HAI - CƯ
(?): Trình bày những hiểu 1. Vị trí:
biết của em về thơ Hai – - Một thể loại quan trọng của thơ ca truyền thống
Cư?
Nhật Bản (cùng với thơ Tan - Ka).
- Hình thành vào thế kỉ XVI, đến thế kỉ XVII thì
đạt tới đỉnh cao với Ba – Sô, Bu – Sôn, It – Sa.
2. Đặc điểm:
Giáo viên: Giới thiệu
- Dung lượng: một bài thơ Hai – Cư bao gồm 17
âm tiết, ngắt làm ba đoạn. Như vậy Hai – Cư là
thể thơ cách luật ngắn nhất thế giới.
Nguyễn Phong Hiền – Trường THPT Sơn Tây
19
Phương pháp hướng dẫn học sinh đọc – hiểu thơ Hai – Cư
- Chủ đề: Hai – Cư gắn liền với bốn mùa. Thời
gian trong bài được xác định qua qui tắc quí ngữ
(ki – go: từ chỉ mùa). Một bài Hai – Cư bắt buộc
phải có quí ngữ.
- Về thiên nhiên và triết lí về thiên nhiên:
+ Thiên nhiên trong thơ Hai – Cư bao giờ cũng
là những vật bình dị, nhỏ bé, tầm thường và dễ bị
lãng quên: một cánh chim quyên, một làn tóc rối,
một con ếch, hay một đoá hoa nở muộn màng bên
bờ dậu thưa… Nhưng đằng sau cái bình dị ấy lại
là một quan hệ phổ quát của vũ trụ, nhân sinh.
Bởi thế dẫu những cái bình dị đi vào thơ Hai –
Cư ta cũng thấy lớn lao, huyền diệu.
+ Trong cách nhìn thế giới, thơ Hai – Cư thấm
đẫm tinh thần Thiền Tông và văn hóa phương
Đông. Thơ Hai – Cư thường thể hiện con người
và vạn vật nằm trong mối quan hệ nhất thể hoá.
- Về cảm thức thẩm mĩ (quan niệm về cái đẹp):
thơ Hai- Cư thường đề cao cái vắng lặng, đơn sơ,
u huyền, tịch lặng, cổ xưa… qui tắc thẫm mĩ đặc
biệt thể hiện ở chất Sa – bi.
- Với lượng ngôn từ ít ỏi, Hai – Cư sử dụng thủ
pháp tượng trưng như là phương thức phản ánh
chính của mình. Ngôn ngữ thơ vì thế rất coi trọng
sự kiệm lời, có tính khơi gợi, đa nghĩa.
II. TÌM HIỂU CHI TIẾT
1. Ba bài thơ của Ba - Sô
(?): Trình bày nét chính về a. Về tác giả
Ba – Sô?
- Ba – Sô là bậc thấy của thơ Hai – Cư, người đã
Giáo viên: chốt lại.
đưa thể thơ này lên tới đỉnh cao, tới địa vị độc tôn
trên thi đàn văn học Nhật Bản và làm cho nó lừng
lẫy trên thi đàn văn học thế giới.
- Với những cách tân của Ba – Sô, thơ Hai – Cư
xưa đậm chất trào lộng, hài hước giờ đây đậm
chất lãng mạn, trữ tình.
- Thiên tài Ba – Sô có sự ảnh hưởng sâu sắc tới
văn học Nhật Bản. Vì những lẽ đó, Ba – Sô được
xem như người tạo nên linh hồn nước Nhật.
b. Về tác phẩm
Học sinh: đọc văn bản.
Bài 1:
Trên cành khô
chim quạ đậu
Giáo viên: Giới thiệu.
chiều thu.
* Hoàn cảnh ra đời:
- Viết năm 1679, lúc Ba – Sô 35 tuổi, ấn hành
Nguyễn Phong Hiền – Trường THPT Sơn Tây
20
Phương pháp hướng dẫn học sinh đọc – hiểu thơ Hai – Cư
(?): Bài thơ miêu tả bức
tranh thiên nhiên trong thời
điểm nào? Tìm quí ngữ?
(?): Cảm nhận về chiều thu
hiện lên qua những hình ảnh
nào?
(?): So sánh bài thơ của Ba
– Sô với bài thơ Thiên tịnh
sa?
So sánh với bài Thiên tịnh
sa:
Lão đằng khô tụ hàn nha
Cổ đạo tây phong sấu mã
Tiểu kiều lưu thủy nhân gia
Tịch dương tây hạ
Đoạn trường nhân tại thiên
nha.
(Dây già cây khô quạ lạnh
Đường xưa gió bấc ngựa
gầy
Nhà ai cầu tre nước chảy
trong hợp tuyển Nhật kí A – du – ma.
- Ba – Sô thâm nhập Thiền đạo dưới sự hướng
dẫn của 2 Thiền sư nổi tiếng.
- Mối tình u uẩn với nàng Ju – te – i để lại trong
lòng Ba – Sô một nỗi cô đơn, hiu quạnh.
* Xuất xứ, vị trí bài thơ.
- Thường được gọi là bài thơ Con quạ.
- Trước khi bài thơ ra đời, Ba – Sô đã viết nhiều
bài thơ khác nhưng ông chưa thật hài lòng. Đến
khi sáng tác bài thơ ông đã viết theo phong cách
mới gọi là Tiêu phong.
* Nội dung:
- Bài thơ miêu tả bức tranh thiên nhiên chiều thu.
Quí ngữ: Chiều thu.
- Hình ảnh:
+ Cành khô: trơ trụi không lá, không chồi xanh
tươi => gợi cảm giác về sự héo úa, tàn phai rơi
rụng, nơi sự sống đang bị vắt kiệt đến tận cùng.
Hình ảnh đó dự báo một mùa đông xơ xác, điêu
tàn, trống trải đang đến gần.
+ Chim quạ: Gây ấn tượng bởi hình dáng, tư thế
cô độc, im lìm đậu trên cành cây khô. Chim quạ
có ý nghĩa tượng trưng cho cái chết, khắc sâu ấn
tượng tang tóc, u buồn, vắng lặng và cô đơn.
Như vậy, hai hình ảnh thị giác là hai biểu
tượng như hai khúc hát bè đôi đã tái hiện một
chiều thu đơn sơ mà sâu thăm, cô tịch và tàn úa.
Đằng sau khung cảnh đó ta như nghe rõ những
thì thầm của một tâm trạng cô đơn, hiu quạnh .
Bài thơ của Ba-sô cũng được gợi ý từ
Thiên tịnh sa nhưng rõ ràng Ba-sô đã gạt hết tất
cả những gì không cần thiết cho sự thể hiện cảm
nhận của mình trong khoảnh khắc. Một khoảnh
khắc chiều thu.
- Bài thơ như một bức tranh thủy mặc tả một
chiều thu thật đơn so và sâu thẳm.
Nguyễn Phong Hiền – Trường THPT Sơn Tây
21
Phương pháp hướng dẫn học sinh đọc – hiểu thơ Hai – Cư
Mặt trời lặn về tây
Người đoạn trường nơi chân
mây).
Bài 2:
Giáo viên: giới thiệu
(?): Tìm quí ngữ trong bài
thơ?
(?): Hình ảnh hoa đào gợi
cho em suy nghĩ gì?
(?): Cảm nhận về hình ảnh
tiếng chuông? Tại sao Ba –
Sô tự hỏi không biết tiếng
chuông từ đâu vọng tới?
Điều đó hé mở điều gì về
tâm trạng nhà thơ?
Hoa đào như áng mây xa
chuông đền U – ê – nô vang vọng
hay đền A – sa – cư – sa .
* Hoàn cảnh sáng tác:
Bài thơ được viết trong túp lều của Ba – Sô,
phía dưới A – sa – cư – sa chừng một dặm. Từ
đây có thể nhìn thấy hoa anh đào nở và nghe thấy
chuông chùa vang vọng.
* Nội dung
- Bài thơ miêu tả khung cảnh mùa xuân, quý
ngữ: hoa đào.
- Hình ảnh:
+ Hoa đào:
Ý nghĩa thực: Hoa đào còn gọi là hoa anh đào,
loại hoa đặc sắc của Nhật Bản, thường nở rộ vào
mùa xuân. Hoa nhỏ, không hương, thường có
màu hồng nhạt. Một cây đứng riêng rẽ thì không
đẹp nhưng quần tụ lại từng hàng, từng hàng thì
rất đẹp.
Ý nghĩa tượng trưng: Anh đào tượng trưng cho
sức sống dồi dào và tinh thần hoà hợp, đoàn kết
của người Nhật Bản. Nó là biểu tượng cho tâm
hồn và sinh hoạt văn hoá đầu xuân của người
Nhật Bản.
Hình ảnh so sánh “hoa đào như áng mây xa” vẽ
ra cảnh tượng những khóm hoa lơ lửng, bồng
bềnh trước mắt. Hoa mà ngỡ như mây, gần mà
ngỡ như xa. Hình ảnh đó gợi cảm giác về một cái
đẹp nhẹ nhàng, phảng phất, một sắc xuân dịu
dàng, mênh mang.
- Tiếng chuông:
+ Chuông là biểu tượng của tiếng gọi thức tỉnh, ở
đây là tiếng chuông ngân vang từ các ngôi đền
vào buổi chiều.
+ Tiếng chuông lan ra trong không gian rộng lớn,
không xác định cụ thể từ hướng nào mang tới sắc
thái bâng khuâng, mơ hồ đồng thời thể hiện tâm
trạng cô đơn, trống vắng của nhà thơ. Nhà thơ
như đang hoà mình vào không gian mênh mông,
vô tận để cảm nhận mùa xuân.
Nguyễn Phong Hiền – Trường THPT Sơn Tây
22
Phương pháp hướng dẫn học sinh đọc – hiểu thơ Hai – Cư
Học sinh: đọc văn bản
Như vậy, qua một hình ảnh thị giác (hoa
đào) và một hình ảnh thính giác (âm thanh) học
sinh sẽ cảm nhận được vẻ đẹp mùa xuân trong
tâm hồn cô đơn và trống vắng.
Bài 3:
Cây chuối trong gió thu
tiếng mưa tí tách vào chậu
ta nghe tiếng đêm.
Giáo viên: giới thiệu hoàn * Hoàn cảnh ra đời
cảnh ra đời bài thơ
- Sau khi dời Ê – đô, Ba – Sô dời Phu – ca – ga –
oa và sống trong một túp lều tranh do môn đồ
tặng. Trước sân nhà thơ trồng một cây chuối do
một học trò mang từ Trung Quốc về. Từ đó bút
danh Ba – Sô (âm Hán Việt là Ba Tiêu ) cũng
hình thành.
- Bài thơ được sáng tác trong một tâm trạng cô
đơn.
* Nội dung
(?): Bài thơ khắc hoạ thời - Bài thơ miêu tả một đêm mùa thu. Quý ngữ: gió
điểm nào trong năm? Tìm thu.
quý ngữ?
- Bức tranh thiên nhiên đêm mùa thu được gợi tả
(?): Đêm mùa thu được gợi qua những hình ảnh, âm thanh gây ấn tượng sâu
tả qua những hình ảnh, âm sắc: cây chuối, tiếng gió thu, tiếng mưa, tiếng
thanh nào?
đêm.
Giáo viên: cung cấp cho học - Cây chuối:
sinh những ý nghĩa biểu + Loại cây thân nhỏ, mềm mại, dễ héo tàn.
tượng của cây chuối.
+ Phật giáo coi cây chuối là biểu tượng của sự
mong manh, không ổn định của vạn vật và cho
rằng “mọi cấu tạo tinh thần chẳng khác nào cây
chuối”.
(?): Bút danh Ba – Sô gợi + Ba – Sô dành cho cây chuối một tình yêu đặc
cho em suy nghĩ gì về thái biệt. Ông thích ngồi dưới gốc chuối và lắng nghe
độ, tình cảm của Ba – Sô âm thanh của gió, của mưa vang trên tàu lá. Ông
dành cho cây chuối?
bị những tàu lá dài, rộng quyến rũ. Với ông tàu lá
Giáo viên: chốt lại, mở “đủ lớn để che cho một ẩn sĩ”. Trong cơn gió, tàu
rộng.
lá rách mướp gợi cho ông nhớ đến cái đuôi loài
phượng hoàng trong huyền thoại hoặc một chiếc
quạt xanh tả tơi vì gió. Với Ba – Sô, cây chuối
tượng trưng cho sự trong sáng và tính nhạy cảm.
(?): So sánh hình ảnh cây + Cây chuối trong thơ Nguyễn Trãi lầ cây chuối
chuối trong thơ Ba – Sô với trong mùa xuân tràn đầy sức sống, tràn đầy vẻ
hình ảnh cây chuối trong thanh tân và tình tứ. Còn cây chuối trong thơ của
thơ Nguyễn Trãi?
Ba – Sô là cây chuối trong đêm thu, bị gió mưa
Tự bén hơi xuân tốt lại thêm làm cho tơi tả. Ở đây Ba – Sô chọn cây chuối để
Nguyễn Phong Hiền – Trường THPT Sơn Tây
23
Phương pháp hướng dẫn học sinh đọc – hiểu thơ Hai – Cư
Đầy buồng lạ màu thâu đêm
Tình thư một bức phong còn
kín
Gió nơi đâu gượng mở xem.
Học sinh
: cảm nhận, phát hiện
(?): Trình bày cảm nhận về
các âm thanh được khắc
họa?
Giáo viên: mở rộng so sánh.
ví thân phận mình cũng từng bị cuộc sống xô đẩy
chẳng khác nào cây chuối trong đêm thu này.
- Tiếng gió thu: Đây là tiếng gió xô tàu lá, gợi
cảm giác lạnh lùng, rét mướt trong đêm.
- Tiếng mưa: Đây là tiếng mưa ti táct rơi từ tàu ls
chuối xuống nhỏ vào chậu. Tiếng rơi gợi cảm
giác não nuột trong đêm.
Âm thanh tiếng mưa rơi cho ta liên tưởng đến
câu thơ của Lí Bạch:
Cách song đêm biết tiếng mưa
Tiếng nghe lộp độp tưởng là tàu tiêu.
(Mưa đêm)
Và Nguyễn Trãi:
Tĩnh mịch trai phòng vắng
Đêm nằm nghe tiếng mưa
Não nùng rung gối khách
Thánh thót đêm mưa
(Tiếng mưa)
Lí Bạch đã nghe tiếng mưa, Nguyễn Trãi của
ta cũng thức theo tiếng mưa và dường như cảm
giác não nuột bởi những âm thanh đó đã nối một
Chuyển: Như vậy, Ba – Sô sợi dây qua các tác phẩm, qua các thời đại và
đã cảm nhận đem thu qua không gian để trở thành niềm đồng cảm chung.
thính giác, những hình ảnh
như tiếng gió, tiếng mưa. - Tiếng đêm: Bài thơ không có tiếng đêm, chỉ có
Nhưng có một âm thanh mà tiếng tạo vật trong đêm. Âm thanh của gió, của
nhà thơ là chủ thể cảm nhận mưa chính là sự cụ thể hoá của tiếng đêm.
trực tiếp. Đó là tiếng đêm.
Vậy theo em, tiếng đêm
được miêu tả trong bài thơ
như thế nào?
(?): Qua hình ảnh cây chuối - Qua các hình ảnh, âm thanh người đọc cảm
và âm thanh tiếng đêm, bức nhận được một đêm thu u buồn, lạnh lùng, hiu
tranh đêm thu hiện lên như hắt.
thế nào?
(?): Ba – Sô viết bài thơ
trong tâm trạng trống trải,
cô đơn. Những hình ảnh
thiên nhiên có mối quan hệ - Những âm thanh của đêm thu phát ra trong đêm
như thế nào với hiện thực rả rích dội vào trong lòng nhà thơ đang nằm cô
tâm trạng này?
đơn trong túp lều nhỏ càng trở nên não nuột.
Thiên nhiên như hoà nhập với tâm trạng con
người. Nhà thơ cũng mở rộng lòng mình để hoà
vào nỗi buồn cô tịch của đêm thu. Như vậy giữa
Nguyễn Phong Hiền – Trường THPT Sơn Tây
24
Phương pháp hướng dẫn học sinh đọc – hiểu thơ Hai – Cư
thiên nhiên và con người có mối quan hệ hoà
hợp. Bài thơ là tiếng thu trong tâm trạng cô đơn.
Nguyễn Phong Hiền – Trường THPT Sơn Tây
25