Tải bản đầy đủ (.docx) (21 trang)

PHONG TỤC HÔN NHÂN ĐỘC ĐÁO CỦA MỘT SỐ DÂN TỘC CHỦ YẾU Ở VÙNG TÂY BẮC

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (1.47 MB, 21 trang )

PHONG TỤC HÔN NHÂN ĐỘC ĐÁO
CỦA MỘT SỐ DÂN TỘC CHỦ YẾU Ở VÙNG TÂY BẮC

MỤC LỤC
LỜI MỞ ĐẦU......................................................................................................3
CHƯƠNG 1: KHÁI QUÁT CHUNG VỀ VÙNG TÂY BẮC..........................3
1.1. Vị trí địa lí, điều kiện tự nhiên......................................................................................4
1.2. Đặc điểm tình hình kinh tế - xã hội............................................................................5
1.3. Dân cư và dân tộc...............................................................................................................5
CHƯƠNG 2: PHONG TỤC HÔN NHÂN ĐỘC ĐÁO Ở VÙNG NÚI TÂY
BẮC.......................................................................................................................6
2.1. Dân tộc Thái.............................................................................................................................6
2.2. Dân tộc H’Mông.....................................................................................................................9
2.3. Dân tộc Dao............................................................................................................................11
2.4. Dân tộc Mường.....................................................................................................................14
2.5. Dân tộc Tày.............................................................................................................................16
2.6. Dân tộc Hà Nhì.....................................................................................................................18
TỔNG KẾT........................................................................................................21


LỜI MỞ ĐẦU
Văn hóa tộc người là một trong những tài nguyên du lịch quý giá của quốc
gia. Vùng văn hóa Tây Bắc là một trong những nơi có nhiều dân tộc thiểu số
sinh sống. Nơi đây còn lưu giữ, bảo tồn được nhiều nét văn hóa truyền thống tộc
người rất đa dạng và độc đáo, một trong những nét văn hóa đặc sắc đó là phong
tục hôn nhân.
Trong quan niệm của người Việt cũng như các dân tộc khác của Việt Nam,
hôn nhân không chỉ là việc trai gái lấy nhau, hai họ dựng vợ gả chồng cho con
cái mà còn giúp duy trì nòi giống, người con tương lai có trách nhiệm xây dựng
mối quan hệ giữa 2 gia đình và giữa 2 gia tộc.
Đối với nhiều dân tộc thiểu số ở Việt Nam, trong hệ thống lễ nghi vòng đời


người, lễ cưới là lễ hội quan trọng nhất. Lễ cưới của các dân tộc thiểu số được
chọn vào lúc thu hoạch xong mùa lúa rẫy. Mùa ấy cũng đồng thời diễn ra nhiều
lễ hội khác như lễ mừng mùa, lễ chúc phúc, lễ tạ ơn thần linh...cho nên người ta
gọi là mùa “ăn nằm uống tháng”.
Lễ cưới tuy diễn ra trong khuôn khổ gia đình nhưng có sự đóng góp lớn của
cả cộng đồng. Lễ cưới các dân tộc thiểu số chứa đựng nhiều giá trị văn hóa
truyền thống nổi bật, nhất là nghi lễ, tập tục hay, lạ, các hình thức sinh hoạt văn
nghệ, vui chơi và đặc biệt là trang phục, trang sức của cô dâu trong lễ cưới. Với
mỗi dân tộc, phong tục hôn nhân, lễ nghĩa khác nhu, đã tạo nên nét độc đáo cho
văn hóa vùng Tây Bắc. Do đó, đây chính là nét hóa đặc sắc, tiêu biểu của Tây
Bắc cần được duy trì, gìn giữ và phát huy, tránh tình trạng phai mờ, biến tướng
như hiện nay.
Mục đích của đề tài nhằm đi sâu tìm hiểu nguồn gốc, lịch sử phát triển và
đặc trưng văn hóa trong phong tục hôn nhân của các dân tộc vùng núi Tây Bắc.
Đồng thời giới thiệu về phong tục hôn nhân trong một cái nhìn hệ thống, nêu lên
được những giá trị văn hóa đặc trưng, làm tiền đề cho việc phát triển dụ lịch văn
hóa, đóng góp vào sự phát triển của ngành du lịch nói riêng, và kinh tế nước nhà
nói chung.

2


CHƯƠNG 1: KHÁI QUÁT CHUNG VỀ VÙNG TÂY BẮC
1.1.

Vị trí địa lí, điều kiện tự nhiên

 Vị trí địa lí
Vùng Tây Bắc là vùng miền núi phía Tây của
miền Bắc Việt Nam, còn được gọi là Tây Bắc Bắc Bộ,

là một trong 3 tiểu vùng địa lý tự nhiên của Bắc Bộ
Việt Nam (2 tiểu vùng kia là Vùng Đông Bắc và Đồng
bằng sông Hồng). Vùng Tây Bắc có chung đường biên
giới với Lào và Trung Quốc, tổng diện tích vùng
50.728km2 ,chiếm 15% diện tích đất liền cả nước. Nhìn theo hình kỷ hà, vùng
Tây Bắc là một hình thang có đáy lớn ở phía Bắc (gồm Lai Châu và Lào Cai)
giáp Mông Tự, Trung Quốc. Đáy nhỏ là tỉnh Hòa Bình giáp với Thanh Hóa về
hướng Nam. Phía đông giáp vùng Đông Bắc qua dãy Hoàng Liên Sơn. Phía Tây
giáp với Luông Pha Băng của Lào mà điểm xa nhất của Tây Bắc tiếp giáp với
Lào là A Pa Chải.

 Địa hình
Tây Bắc là vùng núi, cao nguyên hiểm trở có mức độ chia cắt mạnh nhất
nước ta. Đó chính là hệ quả của quá trình phát triển địa chất kiến tạo.
Địa hình Tây Bắc rất phức tạp. Phía đông và đông bắc là khối núi Hoàng
Liên Sơn; phía tây và tây nam là dãy núi sông Mã nằm giữa 2 khối núi khổng lồ
là 1 dãy núi đá vôi chạy liên tục từ Phong Thổ đến Lạc Thủy (Hòa Bình). Ở Tây
Bắc, núi và cao nguyên chiếm 4/5 diện tích lãnh thổ, các dãy núi và cao nguyên
đều chạy song song nhau theo hướng Tây Bắc – Đông Nam, trừ phía cực tây có
nhiều mạch núi rẽ theo hướng Đông Bắc.

3


Ở phía Đông và Đông Bắc của Tây Bắc là dãy núi cao Hoàng Liên Sơn đồ
sộ nằm thành 1 khối chắc nịch dài 180km từ biên giới Trung Quốc đến Vạn Yên,
rộng 30km; trong đó chỉ có một nơi hạ thấp xuống đến 1069m ở đèo Khau Cọ.
Các đỉnh núi đều cao từ 2800m đến trên 3000m. Trong đó có đỉnh Phanxipang
cao nhất(3143m). Dãy núi Hoàng Liên Sơn chạy dài liên tục thành một dải theo
hướng Tây Bắc – Đông Nam có đỉnh sắc

nhọn như răng cưa.
Vùng Tây Bắc có hai con sông lớn là
sông Đà và sông Thao (một đoạn của sông
Hồng). Thượng nguồn của sông Mã cũng ở
trên vùng đất Tây Bắc. Điện Biên, Nghĩa Lộ,
Mường Thanh là các bồn địa ở Tây Băc, còn
Tà Phình, Mộc Châu, Nà Sản là các cao
nguyên ở đây.
Về mặt hành chính, vùng Tây Bắc gồm có các tỉnh ; Lai Châu, Điện Biên,
Sơn La, Hòa Bình, Yên Bái, Lào Cai.

 Khí hậu
Mặc dù nền khí hậu chung không có sự khá biệt lớn giữa các khu vực,
nhưng sự biểu hiện của nó không gống nhau theo chiều nằm ngang và theo chiều
thẳng đứng. Dãy núi Hoàng Liên Sơn chạy dài liền một khối theo hướng Tây
Bắc – Đông Nam đóng vai trò của một bức tường thành ngăn không cho gió
mùa đông (hướng đông bắc – tây nam) vượt qua để vào lãnh thổ Tây Bắc mà
khong bị suy yếu nhiều. Trái với vùng Đông Bắc có hệ thống các vòng cung mở
rộng theo hình quạt làm cho các đợt sóng lạnh có thể theo đó mà xuống đến tận
đồng bằng sông Hồng và xa hơn nữa về phía nam. Vì vậy, trừ khi do ảnh hưởng
của độ cao, nền khí hậu Tây Bắc nói chung ấm hơn Đông Bắc, chênh lệch nhiệt
độ có thể từ 2-3oC.
Ở miền núi, hướng phơi của sườn đóng một vai trò quan trọng trong chế độ
nhiệt - ẩm, sườn đón gió (sườn đông) tiếp nhận những lượng mưa lớn trog khi
sườn tây tạo điều kiện cho gió Phơn (gió Lào) được hình thành khi thổi xuống
các thung lũng, rõ nhất ở Tây Bắc.
Nhìn chung, trong điều kiện của trung du và miền núi, việc nghiên cứu khí
hậu là rất quan trọng vì sự biến dạng của khí hậu xảy ra trên từng khu vực nhỏ.
Những biến cố khí hậu ở miền núi mang tính chất cực đoan, nhất là trong điều
kiện lớp phủ rừng bị suy giảm, và lớp phủ thổ những cũng bị thoái hóa. Mưa lớn

và tập trung gây ra lũ nhưng kết hợp với một số điều kiện thì xuất hiện lũ quét;
hạn hán xảy ra nhưng có khi hạn hán kéo dài ngoài sức chịu đựng của cây cối.

4


1.2. Đặc điểm tình hình kinh tế - xã hội
Hoạt động kinh tế của Tây Bắc chủ yếu là nông nghiệp mà cụ thể là trồng
lúa nước ở vùng thung lũng, ruộng bậc thang ven sườn núi, các loại cây như
ngô, sắn, đậu tương ở nương rẫy,...
Chiếm gần 1/3 diện tích cả nước với trên 9,8 triêu dân, Tây Bắc là địa bàn
chiến lược đặc biệt quan trọng về Kinh tế - xã hội, An ninh quốc phòng. Đây
cũng là nơi có nhiều tiềm năng, lợi thế về tài nguyên khoáng sản, du lịch và kinh
tế cửa khẩu.
1.3. Dân cư và dân tộc
Về cơ bản, vùng Tây Bắc là không gian văn hóa của dân tộc Thái, nổi tiếng
với điệu múa xòe, tiêu biểu là điệu múa xòe hoa rất nổi tiếng được nhiều người
biết đến. Mường là dân tộc có dân số lớn nhất vùng. Ngoài ra, còn có khoảng 20
dân tộc khác như H’Mông, Dao, Tày, Nùng, Bố Y, Hà Nhì, Kháng, Máng,
Khơmu, Sila, Xinh-mun, La-ha...

Ai đã từng qua Tây Bắc không thể quên hình ảnh những cô gái Thái với
những bộ váy áo thật rực rỡ, đặc trung cho Tây Bắc. Tây Bắc là một vùng có sự
pân bố dân cư theo độc cao rất rõ rệt: Vùng đỉnh núi (rẻo cao) là nơi cư trú của
các dân tộc thuộc nhóm ngôn ngữ Mông – Dao, Tạng Miến với phương thức lao
động sản xuất chủ yếu là phát nương làm rẫy, phụ thuộc rất nhiều vào thiên
nhiên. Vùng sườn núi (rẻo giữa) là nơi cư trú của các dân tộc thuộc nhóm ngôn
ngữ Môn - Khmer, phương thức sản xuất chính là trồng lúa cạn, chăn nuôi gia
súc và một số nghề thủ công; còn ở vùng thung lũng, chân núi là nơi sinh sống
của các dân tộc thuộc nhóm ngôn ngữ Việt - Mường, Thái – Kadai, điều kiện tự

nhiên thuận lợi hơn để phát triển nông nghiệp và các ngành nghề khác. Sự khác
biệt về điều kiện sinh sống và phương thức lao động sản xuất cũng gây ra sự
khác biệt văn hóa rất lớn. Mặc dù văn hóa chủ thể và đặc trưng là văn hóa dân
tộc Mường.

5


CHƯƠNG 2: PHONG TỤC HÔN NHÂN ĐỘC ĐÁO CỦA MỘT SỐ
DÂN TỘC CHỦ YẾU Ở VÙNG NÚI TÂY BẮC
Như chúng ta đã biết, gia đình là “tế bào” của xã hội, một xã hội muốn phát
triển thịnh vượng thì cuộc sống phải ấm no, hạnh phúc, phải có những “gia đình
văn hóa”. Để xây dựng một gia đình hạnh phúc, yên bề gia thất, duy trì nòi
giống cho thế hệ mai sau thì phải bắt đầu từ một cuộc hôn nhân lành mạnh tốt
đẹp. Hôn nhân của các đồng bào dân tộc phía Tây Bắc cũng không nằm ngoài
mục đích đó, do vậy vấn đề tình yêu, hôn nhân luôn được tất cả mọi dân tộc Việt
Nam thường xuyên quan tâm và đặt lên hàng đầu. Tuy nhiên, 54 dân tộc anh em
không phải dân tộc nào cũng giống dân tộc nào. Mỗi dân tộc ở mỗi vùng miền
lại có lối sống, văn hóa, phong tục tập quán, tin ngưỡng khác nhau. Và chính
điều này đã tạo nên những nét độc đáo, đặc sắc trong phong tục tập quán mỗi
dân tộc, mà ở đây muốn đề cập đến đó là nét độc đáo trong phong tục hôn nhân
của một số dân tộc tiêu biểu ở vùng núi Tây Bắc.
2.1. Dân tộc Thái
2.1.1. Khái quát
Với trên 1 triệu người sinh sống, dân tộc Thái tập
trung chủ yếu tại các tỉnh Tây Bắc như: Lai Châu, diện
Biên, Sơn La, Hòa Bình, Yên Bái và sinh sống rải rác ở
một số tỉnh miền núi phía Bắc; trong đó, tại Sơn La có
482,485 người (54,8% dân số, năm 1999), Lai Châu cũ
(nay là Lai Châu và Điện Biên) có 206.001 người

(35,1 % dân số, năm 1999).
Dân tộc Thái còn có những tên gọi khác là Tày
(Thái Trắng) và có các nhóm Tày Đăm (Thái Đen), Tày
Khao, Tày Mười, Tày Thanh (Man Thanh), Hàng Tổng
(Tày Mường), Pu Thay, Thổ Đà Bắc. Họ đã có mặt ở miền Tây Bắc Việt Nam
trên 1200 năm, là con cháu người Thái di cư từ vùng đất thuộc tỉnh Vân Nam,
Trung Quốc bây giờ. Tiếng Thái thuộc hệ ngôn ngữ Tày – Thái.
2.1.2. Tập tục hôn nhân và gia đình của người Thái
Trong luật lệ của người Thái, hôn nhân bền vững và chế độ hôn nhân một
vợ một chồng luôn được đề cao. Sự tôn trọng hôn nhân vợ chồng nhằm mục
đích xây dựng gia đình hòa thuận, hạnh phúc. Người Thái bảo vệ sự bền vững
của hôn nhân bằng nhiều hình thức như răn dạy, chế tài, giáo dục truyền miệng
của cha ông về sự chung thủy cũng như trách nhiệm của người vợ người chồng.

6


Theo cách thức truyền miệng cổ truyền, người Thái có câu “Vợ chồng
không tự có/ Quả cây không tự thành/ Trời se duyên, thiên định đoạt” hay “Vợ
chồng do hai bên tự chọn/ Dại khôn, xấu đẹp mình đã thấy/ Lấy nhau chớ có
bỏ”. Việc tự do tìm hiểu trước khi tiến tới hôn nhân còn được thể hiện qua
phong tục chọc sàn. Có thể nói, nam nữ Thái tự do tìm hiểu, lựa chọn tiến tới
hôn nhân và không bị sự áp đặt của bất cứ ai hay sức ép của bất cứ điều gì. Tuy
nhiên, việc nam nữ tự do lựa chọn phải tuân thủ các phong tục tập quán của dân
tộc. Lệ bản luật mường ngăn cấm các hành vi đi ngược lại thuần phong mỹ tục,
những hành vi quan hệ bất chính mà dân gian gọi là trộm yêu.
2.1.3. Tục chọc sàn của người Thái
“Chọc sàn” là phong tục đẹp trong hôn nhân của trai gái dân tộc Thái. Từ
quen nhau, yêu nhau qua ánh mắt, người con trai mới đến chọc sàn.
Nên duyên vợ chồng

Sau những buổi gặp gỡ trên nương, trong các phiên chợ, nếu cô gái ưng
thuạn chàng trai nào thì gợi ý bằng ánh mắt để chàng trai đến chọc sàn. Vì vậy,
thường khi mùa vụ xong xuôi, thóc ngô đầy nhà, vào ban đêm, ở những nhà có
con gái đến tuổi cập kê đều vang lên những tiếng lộc cộc.
Các chàng trai thường chọn thời điểm khoảng 11 giờ đêm, khi mọi người
đã ngủ hết để đến nhà bạn gái. Họ mang theo một số nhạc cụ như sáo, nhị, tính
tẩu, đàn môi và một đoạn gỗ nhỏ dài chừng nửa mét đẻ gõ lên sàn, nơi cô gái
đang nằm.
Chàng trai sẽ thổi sáo, đánh đàn gửi gắm tình yêu, lời tỏ tình qua những
câu hát da diết, yêu thương. Khi đến gần sàn, chàng trai lấy mọt đoạn gõ nhỏ
chọc lên đúng chỗ nàng nằm. Nếu cảm thấy ưng thuận, cô gái sẽ mở cửa ra. Họ
có thể ngồi nói chuyện trong nhà hay ra ngoài sân, lên những thửa ruộng bậc
thang ngồi tình tự.
Sau vài đêm chuyện trò như vậy, chàng trai thổ lộ chuyện muốn cưới cô gái
về làm vợ. Nếu cô gái đồng ý, chàng trai sẽ về thưa chuyện với bố mẹ và đưa bố
mẹ đến hỏi cưới. Theo tục lệ cũ, người con trai phải đến ở nhà gười con gái
trong 3 tháng trước khi làm lễ cưới chính thức. Chàng trai chỉ được phép ở gian
đầu sàn dành cho khách nam giới và chỉ được phép mang theo một con dao để
làm việc.

7


Sau thời gian “thử thách” 3 tháng, nếu được bố mẹ vợ tương lai ưng ý,
chàng trai sẽ trở về nhà báo cho bố mẹ mình biết. Lần này, chàng trai mới được
mang tư trang của mình đến nhà gái và ở rể nhà cô gái suốt 3-6 năm (tùy nhà gái
yêu cầu) đồng thời trở thành một người trụ cột chính trong gia đình. Sau một
thời gian, nếu đồng ý lấy chàng trai, cô gái sẽ búi tóc bằng trâm cài đầu và cái
độn tóc giả do gia đình nhà trai mang đến. Cô gái nào không muốn cưới chàng
trai sau 3-6 năm đó sẽ phản kháng bằng cách tự cắt tóc mình. Còn chàng trai sẽ

làm một lễ tạ ơn bố mẹ đã sinh ra người vợ cho mình, và thêm một lần cưới nữa
để đưa cô gái về nhà.
Lần này, nàng dâu phải chuẩn bị nhiều quà biếu gia đình bên chồng như
tấm áo khoác thật đẹp cho mẹ chồng, một bộ quần áo thật đẹp biếu bố mẹ chồng
và những tấm khăn piêu biết cô bác bên chồng.
Tưởng chừng chọc sàn chỉ là một cách để trai gái có thể gặp gỡ nhau nhưng
ẩn sâu trong đó là một nét văn hóa trong giao tiếp. Chọc sàn thể hiện được sự
tôn trọng giữa hai bên khi cuộc trò chuyện của họ không đi đâu xa mà nói
chuyện ngay dưới nhà vì người con trai tôn trọng giữ gìn cho người con gái, và
người con gái cũng thể hiện được sự trân trọng, cái duyên khi nói chuyện.
Từ lâu, chọc sàn vẫn luôn là sợi chỉ đỏ chắp nối cho biết bao nhiêu cuộc
hôn nhân hạnh phúc. Vì thông qua chọc sàn, họ mới có cơ hội tìm hiểu nhau thật
kĩ.
2.2. Dân tộc H’Mông
2.2.1. Khái quát
Người H’Mông là một trong những dân tộc thiểu số đông ở miền Bắc Việt
Nam. Cùng với 53 dân tộc anh em, người H’Mông luôn luôn là một phần của sự
thống nhất khối đại đoàn kết dân tộc và góp phần làm phong phú cho nền văn
hóa các dân tộc Việt Nam.

8


Người H’Mông bao gồm nhiều ngành: H’Mông Hoa (H’Mông Lềnh),
H’Mông đen (H’Mông Dú), H’Mông trắng (H’Mông Đu) và H’Mông Xanh
(H’Mông Chúa), sống rải rác khắp vùng núi phía Bắc, đặc biệt tập trung chủ yếu
ở khu vực Tây Bắc.
Hôn nhân gia đình của người H’Mông theo tập quán tự do kén chọn bạn
đời. Nhưng cùng dòng họ không được phép lấy nhau. Thanh niên nam nữ được
lựa chọn bạn đời. Việc lựa chọn bạn đời được biểu hiện ở tục “cướp vợ” và tục

“vỗ mông kén vợ” trước đây. Người thanh niên cùng bạn bè cướp người con gái
yêu thích về nhà mình vài hôm rồi thông báo cho gia đình nhà gái biết. Vợ
chồng người H’Mông rất ít bỏ nhau, họ sống với nhau hòa thuận, cùng làm ăn,
cùng lên nương, xuống chợ...
Trong cộng đồng 54 dân tộc Việt Nam, dân tộc H”Mông là một trong
những dân tộc ít bị mai một hơn về bản sắc văn hóa truyền thống của dân tộc.
Văn hóa H’Mông là một thành tố văn hóa Việt Nam, bản sắc văn hóa độc đáo
của họ đã đóng góp, duy trì và gìn giữ nền văn hóa Việt Nam.
2.2.2. Vỗ mông kén vợ của chàng trai H’Mông
Các chàng trai cô gái H’Mông tìm đến nhau bằng tục vỗ mông – đã gắn
liền với ngày xuân của người H’Mông từ bao đời. Đó là một nét văn hóa đẹp, là
sợi dây kết nối yêu thương và cũng là một thứ tình cảm, lười tỏ tình độc đáo có
một không hai. Các thế hệ trai gái người Mông đã chọn bạn đời cho mình theo
cách đươn giản nhưng kỳ lạ như vậy.
Vỗ mông giữa đêm hội xuân tình
Vào những ngày xuân, trai thanh nữ tú ở
khắp các bản làng thường tụ tập nơi bãi đất
trống, dưới chân đồi để tổ chức chơi các trò
chơi dân gian như tung còn, đẩy gậy, kéo co,
hát giao duyên, thổi khèn... Người ta mời nhau
uống rượu, chúc tụng nhau một năm gà lợn
đầy nhà, thóc đầy sân. Đây cũng là nơi trai gái
gặp gỡ nhau rồi tìm nhau qua điệu khèn dìu dặt, trao nhau những ánh mắt tình
tứ. Khi đã ưng chàng trai nào, cô gái sẽ đưa mắt rồi e thẹn tách khỏi đám đông
chờ đợi. Chàng trai lúc này ngay lập tức đi theo tiếng gọi mời.
Họ nhanh chóng tiếp cận, vỗ nhẹ mông cô gái và trao nhau lời ngọt ngào.
Thiếu nữ lúc này cũng thẹn thùng vô lại vào mông chàng trai, coi như một lời
đồng ý. Cứ như vậy, họ vừa đi, vừa vỗ qua vỗ lại trao nhau những lời yêu
thương cho đến khi vỗ đủ chín cặp, tức là hai bên đã chấp thuận nhau, chỉ chờ


9


ngày tìm người làm mai mối đưa nhau về nhà làm lễ cúng gia tiên để nên vợ nên
chồng.
Nếu trong cuộc vui, hai bên chưa thực lòng ưng thuận, chưa vỗ đủ chín
cặp, họ sẽ hẹn nhau chờ ngày hôm sau, gặp nhau tâm sự và vỗ tiếp cho đủ. Còn
nếu không vỗ đủ và không có cơ hội gặp nhau lần nữa, họ sẽ không thể thành
đôi. Mỗi người lúc này sẽ lại đi tìm một chàng trai hay cô gái khác đển khi hợp
ý, hợp duyên.
2.2.3. Tục bắt vợ
Khi đôi trai gái đồng ý cưới nhau, chàng trai sẽ báo trước cho người yêu
biết ngày và nơi mà cô sẽ bị “bắt”. Theo tục lệ “bắt vợ” này, người con gái sẽ
được đưa về nhà người yêu như một “tù nhân”. Sau 3 ngày bị “bắt”, nếu cô gái
không trốn khỏi nhà trai có nghĩa là cô đã đồng ý cưới chàng trai. Sau đó, cha
mẹ chàng trai nhờ ông mối chọn ngày lành tháng tốt làm đám cưới. Đôi khi,
thêm một lần thử thách người yêu, cô gái Mông lại yêu cầu người yêu “bắt” cô
ngay tại nhà vào giữa đêm – việc này không phải là dễ vì lúc này trong nhà
thường có đầy đủ mọi người. Để giúp người yêu, cô gái thường để ngỏ cửa sau.

Khi bị “bắt”, cô gái có thể sẽ hoảng sợ, kêu thật to, đánh thức cả nhà. Nếu
chàng trai kéo được cô thật nhanh ra khỏi nhà thì càng chứng tỏ chàng trai của
cô là người dũng cảm và mạnh mẽ. Nhiều chàng trai Mông muốn mang hạnh
phúc bất ngờ cho người yêu. Họ đến “bắt” mà không báo trước, lại còn giả làm
người lạ để cô gái không nhận ra ngay từ đầu. Nhưng sau đó, cô gái sẽ vô cùng
hạnh phúc khi nhận ra người yêu. Cũng có tường hợp, cô gái đã biết trước nên
tách ra khỏi bạn bè, ở nơi vắng vẻ để việc bị “bắt” được thuận tiện.
2.2.3. Cùng họ không được phép lấy nhau
Dù mang họ gì ví dụ họ Giàng, họ Tráng, họ Thào, họ Cư, họ Má, họ Lừu...
trai gái yêu nhau mà phát hiện ra cùng có họ giống nhau, dù họ xa bao nhiêu đời

đi nữa, cũng không được phép lấy nhau.

10


Theo quan niệm truyền thống của người Mông, đã cùng mang tên họ giống
nhau thì đều coi là có chung tổ tiên, coi nhau như họ hàng. Ngoài ra, ở nhiều
nơi, chú rể người Mông còn thực hiện một phong tục đặc biệt: sáng mùng 1 Tết
Nguyên Đán, phải tự nguyện làm tất cả mọi việc cho gia đình từ nấu cỗ cho đến
rửa bát... Sau đó, khách quý đến chơi nhà, người vợ chủ động làm cơm mời
khách, chồng và khách uống rượu càng say thì người vợ càng vui vì được coi là
người hiếu khách và rất yêu quý chồng. Thế mới có chuyện ông chồng đêm đến
lấy váy thổ cẩm mới mua của vợ đắp cho bạn ngủ sau tiệc rượu khuya, mà người
vợ vẫn không phàn nàn gì.
2.3. Dân tộc Dao
2.3.1. Khái quát
Người Dao còn có tên gọi khác: Đông, Trại, Dìu Miền, Kim Miền,...là dân
tộc có dân số đứng thứ 9 trong 54 dân tộc ở Việt Nam, với gần 1 triệu người.
Người Dao cư trú tại các bản làng miền rừng núi trải rộng từ phía Bắc như Cao
Bằng, Hà Giang, Lào Cai, Lai Châu, Tuyên Quang... đến một số tỉnh trung du
như: Phú Thọ, Vĩnh Phúc, Hòa Bình.
Người Dao chia ra thành nhiều nhóm khác nhau với những nét riêng về
phong tục tập quán mà biểu hiện rõ nhất là trên trang phục của họ như: Dao Đỏ,
Dao Quần Chẹt, Dao Thanh Y, Dao Áo Dài, Dao Quần Trắng,... Mặc dù họ có
nhiều nhóm người khác nhau như vậy nhưng ngôn ngữ của học là thống nhất để
đảm bảo mối quan hệ gắn kết giữa các công đồng người Dao với nhau.

Người Dao là một trong những dân tộc cho đến bây giờ vẫn duy trì được
bản sắc truyền thống đậm nét, không chỉ thể hiện qua trang phục, mà còn thể
hiện qua tiếng nói. Người Dao sinh sống ở nhiều vùng miền nhưng sinh hoạt vẫn

mang tính chất khép kín, thể hiện qua phong tục tập quán, qua hôn nhân. Khi
dựng vợ gả chồng cho con gái, người Dao chỉ mong là gả trong cộng đồng. Đấy
là một trong những đặc điểm đê người Dao giữ gìn ngôn ngữ và phong tục tập
quán của mình.

11


Theo các nhà nghiên cứu thì ngời Dao có quan hệ mật thiết với người
H’Mông. Trước đây, hai nhóm này được cho là có cùng nguồn gốc, nhưng sau
khi thiên cư từ Trung Hoa vào Việt Nam thì hai cộng đồng này đã hình thành
những đặc điểm khác nhau về hình dáng, trang phục, cách sinh hoạt v.v…,
nhưng họ vẫn chung sống tại cùng một vùng núi mặc dù nơi cao nơi thấp khác
nhau.
Ở Sa Pa, người Dao Đỏ có dân số đứng thứ 2 sau người H’Mông. Họ cũng
có nguồn gốc từ Vân Nam, Trung Quốc, và là một bộ phận nhỏ của tộc người
Dao di cư vào Việt Nam từ thế kỷ XIII đến những năm 1940 của thế kỷ trước.
Họ sống tập trung đông nhất ở các xã Tả Phìn, Nậm Cang, Thanh Kim, Suối
Thầu, Trung Chải...
2.3.2. Quan niệm hôn nhân của người Dao
Đồng bào Dao có nhiều phong tục kì lạ trong hôn nhân gia đình. Nam giới
phải ở rể từ 2 đến 3 năm, có khi ở luôn nhà vợ (nếu ở luôn nhà vợ phải đổi họ
bên vợ). Họ còn có tục dùng bạc trắng để định giá cô dâu, theo nghĩa đen là mua
và gả bán, số bạc ấy sau này sẽ là của đôi vợ chồng trẻ. Ngày cưới, cô dâu trang
điểm rất đẹp, đội mũ màu đỏ, có hoa văn; cổ và tay đeo nhiều vòng bạc.

Ngày cưới, đoàn đưa cô dâu có cả thầy cúng và thổi kèn đánh chiêng, khua
trống, rung nhạc. Tới nhà chồng, cô dâu phải phải qua nhà tạm, khi được giờ thì
mới được vào nhà chồng. Lên tới nhà chồng, cô dâu phải “rửa tay”, bước qua
chậu than hồng và nhiều nghi thức khác trước sự chứng kiến của hai họ rồi mới

bước qua cửa nhà với ý nghĩa là “từ nay đoạn tuyệt với con ma họ ngoại và từ
nay theo con ma họ nhà nội”. Sau khi vợ chồng lấy nhau, khi sinh con đầu lòng
thì họ đẻ ngay tại buồn ngủ của mình. Ba ngày đầu, các cửa ra vào đều phải cắm
lá kiêng không cho ngời lạ vào nhà. Gia đình dân tộc Dao tồn tại bền vững theo
chế độ phụ quyền, người con gái không có tên trong chúc thư, không được
hưởng thừa kế tài sản của gia đình.
2.3.3. Tục kéo vợ của người Dao Đỏ ở SaPa, Lào Cai

12


Trời Tây Bắc vào xuân, thiên nhiên giao
hòa, cây cối nảy lộc, cũng là lúc những chàng
trai Dao Đỏ hòa vào điệp khúc mùa xuân – điệp
khúc của tình yêu– đang tràn ngập trên khắp núi
đồi với tục lệ riêng của người Dao Đỏ: “Kéo
người mình thương về… làm vợ!”.
Từ những ngày giáp Tết đến hết tháng
Giêng, khi nhà nào thóc cũng đã đầy bồ, thịt đã treo kín trên ránh bếp, người
người được nghỉ ngơi chuẩn bị cho vụ mùa năm tới thì cũng là lúc trai gái đến
tuổi trưởng thành hướng theo tiếng gọi của tình yêu đôi lứa, lo chuyện xây dựng
mái ấm gia đình.
Nếu các dân tộc thiểu số khác thuộc vùng Tây Bắc có tục “ngủ thăm”,
“chọc sàn”, “bắt vợ” v.v… để chàng trai có thể lấy được người con gái mà mình
yêu về làm vợ thì dân tộc Dao Đỏ có tục kéo vợ.
Những chàng trai bản người Dao
thường kéo vợ rầm rộ nhất bắt đầu từ ngày
1 Tết âm lịch đến hết rằm tháng giêng bởi
những thủ tục vào ngày Tết cũng thường
rất đơn giản, không bị bắt vạ.

Tuy nhiên, không phải cứ thích ai thì
mặc nhiên được kéo về nhà mà thường các
đôi trai gái đã tìm hiểu nhau, phải lòng
nhau. Tục kéo vợ cũng chỉ là một hình thức để cho mọi người quanh bản biết, là
cái cớ để người con gái chính thức bước chân về nhà chồng. Thường đôi trai gái
sẽ hẹn nhau ở trên đồi, trên nương. Chàng trai sẽ tự mình kéo vợ hoặc nhờ một
vài người bạn đến điểm hện để giúp sức. Theo phong tục, khi được kéo, cô gái
càng tỏ ra chống đối quyết liệt thì sau này gia đình sẽ con cái đầy nhà, vợ chồng
thuận hòa hạnh phúc. Khi đám kéo chỉ cần một người trong bản nhìn thấy sẽ
loan tin cho cả bản biết, lúc đó đôi trai gái đó đã nên vợ nên chồng.
Sau khi bị kéo về nhà chàng trai, cô gái được giữ lại ở trong nhà 3 ngày và
vẫn sinh hoạt bình thường, được cha mẹ chàng trai xem như con cái trong nhà.
Hết thời hạn, cô gái sẽ thông báo cho bố mẹ đến làm thủ tục cưới.
2.3.4. Ăn hỏi 2 lần mới được kết hôn
Ðó là phong tục đối với người con trai dân tộc Dao Ðỏ. Sau khi để ý từ
phiên chợ hay lễ hội của bản làng, nếu thích cô gái nào thì chàng trai về nói với
bố mẹ tới nhà gái hỏi tuổi người mình yêu. Nếu hợp tuổi nhau thì gia đình chàng
trai trao tặng nhà cô gái đồng bạc trắng. Nhà gái dù muốn gả con hay không thì
13


lần xin hỏi đầu họ cũng đều từ chối nhận đồng
bạc trắng ấy. Một thời gian sau, nhà trai lại tới
xin ăn hỏi lần hai, nếu ba ngày sau đó mà
không thấy nhà gái đem trả đồng bạc trắng thì
nhà trai biết chắc họ đã đồng ý gả con cho nhà
mình. Gia đình chàng trai chọn ngày lành tháng
tốt mang lễ vật tới nhà cô gái.
Sau lễ ăn hỏi chính thức, cô dâu tương lai được gia đình tạo điều kiện thời
gian nhàn rỗi trong một năm để dệt may, thêu thùa hai bộ quần áo cưới từ số vải

và chỉ thêu do nhà trai đưa tới hôm lễ ăn hỏi chính thức.
Nổi bật nhất trong đám cưới của người Dao Ðỏ là trang phục của cô dâu
với chiếc khăn đỏ lớn trùm lên chiếc mũ đỏ màu cờ, đính nhiều nụ hoa tết từ len
đỏ, cài xen những chiếc lắc đồng xinh xinh. Mũ áo của cô dâu người Dao đỏ là
một tác phẩm nghệ thuật độc đáo về màu sắc và sự tinh xảo trong từng đường
thêu hoa văn thổ cẩm truyền thống.
Ðã có khá nhiều tác phẩm văn học - nghệ thuật mô tả vẻ đẹp hiếm có của
trang phục phụ nữ Dao Ðỏ. Ðặc biệt là phong tục mời cưới của họ thay thiếp
mời hồng bằng giấy là hai đồng tiền xu bằng kẽm cổ truyền (là biểu tượng gắn
bó cả đời giữa cô dâu và chú rể). Người được mời dự đám cưới phải trả lại hai
đồng tiền xu trên khi đi dự cưới và mừng cô dâu chú rể đồng tiền giấy (giống
nhau về giá trọ và giống nhau cả về hình thức, đựng trong phong bì kín).
2.4. Dân tộc Mường
2.4.1. Khái quát
Hòa cùng 54 dân tộc của Việt Nam, người Mường (tên gọi khác là Mol,
Mual, Moi) có dân số hơn một triệu người. Họ cùng có
nguồn gốc với Việt cổ, cư trú ở nhiều tỉnh phái Bắc, tập
trung đông nhất ở Hòa Bình. Bản sắc văn hóa dân tộc của
dân tộc Mường gắn liền với nền văn hóa Hòa Bình ra đời
cách đây hơn một vạn năm.
Dân tộc Mường được mọi người biết tới bởi họ có
nền âm nhạc đặc sắc, những bài hát, câu ca họ kể thường
lôi cuốn người nghe đến lạ lùng. Mộc mạc giản dị đó
chính là nền văn hóa đặc sắc của người Mường cùng
trường ca nổi tiếng “Đẻ đất đẻ nước” đã được truyền quaTrang phục dân tộc Thái
bao thế thệ, đẻ ngày nay mang trong mình một sức sống mạnh mẽ, lâu bền.
2.4.2. Nghi lễ hôn nhân của người Mường

14



Trai gái Mường được tự do yêu đương, tìm
hiểu nhau. Nếu 2 bên ưng ý, chàng trai và cô gái
đó sẽ về thông báo với gia đình để gia đình
chuẩn bị lễ cưới. Đám cưới của người Mường
phải trải qua các bước: ướm hỏi (kháo thiếng), lễ
bỏ trầu (ti nòm bánh), lễ xin cưới (nòm khảu), lễ
cưỡi lần thứ nhất (ti cháu), lễ đón dâu (ti du).
Trong ngày cưới, ông mối dẫn đầu đoàn nhà trai
khoảng ba, bốn chục người gồm đủ nội, ngoại, bạn bè mang lễ vật sang nhà gái
tổ chức cưới. Chú rể mặc quần áo đẹp chít khăn trắng, gùi một chón (gùi) cơm
đồ chín (bằng 10 đấu gạo), trên miệng chón để 2 con gà sống thiến luộc chín.
Trong lễ đón dâu, cô dâu đội nón, mặc váy áo đẹp ngoài cùng là chiếc áo dài
màu đen thắt 2 vạt ở phía trước. Cô dâu mang về nhà chồng thường là 2 chăn, 2
cái đệm, 2 quả gối tựa để biếu bố mẹ chồng và hàng chục gối con để nhà trai
biếu cô dì, chú bác.
Sự khác biệt lớn giữa đám cưới nhà giàu và nhà nghèo ở các bản người
Mường đó chính là ở số lượng và chất lượng của đồ lễ thách cưới và cỗ cưới.
Trong nhiều gia đình, đám cưới con trai được chú ý hơn là đám cưới con gái,
con trai trưởng càng quan trọng hơn, nhất là gia đình nhà giàu, nhà trưởng họ.
2.4.3. Tục “ngủ thăm” của người Mường
Ngủ thăm là một tục lệ lâu đời của các dân tộc thiểu số ở vùng cao Tây Bắc
như Thái, Dao, Mường, Mông... Tuy nhiên, ngày nay, tập tục ngủ thăm này đã bị
mai một và nhiều nơi không còn tồn tại. Nhưng với người dân tộc Mường ở bản
Mọc, xã Đồng Nghê (Hòa Bình), tục cạy của ngủ thăm vãn còn được lưu giữ.
Các chàng trai đến tuổi trưởng thành
đều nắm rõ nhà nào trong bản có con gái
lớn đến tuổi cập kê. Các thiếu nữ ở độ tuổi
trăng tròn cũng thường đốt nến, mắc màn
vào mỗi đêm, chờ chàng trai đến ngủ thăm,

Thường khi đèn sáng, là nhà cô gái cưa có
ai vào ngủ thăm, lúc này chàng trai sẽ biết
được tín hiệu, cạy cửa chui vào nhà. Nếu
cô gái ưng thuận sẽ tự tay vặn nhỏ đèn, để các chàng trai khác biết đã có người
“ngủ thăm”. Tuy nhiên, hai người chỉ được trò chuyện, tâm sự ở tư thế chung
chăn, chung gối mà không được chạm vào người nhau.
Sau vài đêm ngủ thăm tìm hiểu, nếu cô gái đồng ý, chàng trai sẽ mang bạc
trắng, lợn béo sang nhà cô gái thưa chuyện.

15


2.5. Dân tộc Tày
2.5.1. Khái quát

Dân tộc Tày có mặt ở Việt Nam từ rất sớm, có thể từ nửa cuối thế kỉ thứ
nhất trước Công nguyên. Người Tày có nhóm ngôn ngữ Tày – Thái riêng biệt
riêng biệt. Trong nhóm 5 dân tọc cư ngụ ở Sa Pa, người Tày đứng thứ 3 về dân
số. Học sống tập trung ở một số xã phía Nam như Bản Hồ, Naajm Sài, Thanh
Phú là vùng thung lũng bằng phẳng, màu mỡ, nhiều sông suối. Nơi đây thuận lợi
cho việc cày cấy làm nông, đánh bắt thủy sản nước ngọt.
Người Tày có lối sống quần tụ thành từng bản. Mỗi bản có từ 15 đến 20
nóc nhà. Nếu người Tày ở bản lớn thì họ chia bản lớn thành nhiều xóm nhỏ. Đặc
biệt ở chỗ bản làng của người Tày thường nằm ven các suối hay đồi núi, họ
thường lấy tên suối hay đồi núi đó làm tên của bản làng.
2.5.2. Quan niệm hôn nhân của người Tày
Trước đây, hôn nhân là một việc hệ trọng không chỉ của trai gái trưởng
thành mà còn là việc vô cùng quan trọng của gia đình, họ hàng, làng xóm, bạn
bè. Một đám cưới được coi là vui vẻ phải có sự tham ga của đông đảo họ hàng,
làng xóm và bạn bè cô dâu, chú rể. Bố mẹ là người trực tiếp quyết định đến hôn

nhân của con cái, con cái phải chấp thuận theo sự sắp đặt của bố mẹ “Cha mẹ
đặt đâu, con ngồi đấy”.
Người Tày nơi đây quan niệm về tuổi trưởng thành của
con trai là 14 tuổi trở lên và con gái từ 12 tuôi trở lên. Đến
tuổi trưởng thành là nam nữ được tìm hiểu nhau, được tham
gia vào các công việc lớn của gia đình và phải tham gia các
hoạt động xã hội như lao động công ích, giúp đỡ những gia
đình khó khăn. Và việc quan trọng nhất của những người
trưởng thành đó là việc dựng vợ gả chồng. Khi con trai, con
gái biết làm đẹp, ăn diện là lúc họ có cơ hội tìm hiểu nhau.
Theo quan niệm của các cụ thì con trai, con gái bắt đầu tuổi
16


trưởng thành từ rất sớm. Do đó, việc mối lái đến việc dựng vợ gả chồng rất là
sớm. Hôn nhân là do cha mẹ sắp đặt.
Ngày nay, dân tộc Tày cho phép hai bên nam nữ được tự do yêu đương, qua
lại. Song họ vẫn phải chịu ảnh hưởng của hai bên gia đình nếu muốn tiến tới hôn
nhân. Khi đôi nam nữ gặp gỡ, tìm hiểu, cảm thấy tâm đầu ý hợp, họ sẽ thông
báo cho 2 bên gia đình. Gia đình chàng trai nhờ bà mối đến nhà gái ướm hỏi,
nếu nhà gái ưng thuận, sẽ định ngày tốt để 2 bên gia đình gặp mặt. Đây chính là
lễ dạm hỏi (khát pu mác), lễ vật dùng trong buổi gặp mặt tùy theo điều kiện kinh
tế của nhà trai. Bên cạnh đó, người Tày cũng rất đề cao vấn đề “môn đăng hậu
đối”. Người con gái từ xưa đã được ví thân em như hạt mưa sa; hạt vào đài các,
hạt ra luống cày. Người phụ nữ có được hạnh phúc và sung sướng hay không là
phải nhờ phúc nhà chồng. Do vậy, cha mẹ các cô gái phải chọn những gia đình
có vị trí trong xã hội, chàng rể tương lai phải là người có khả năng lao động, yêu
thương vợ con. Có hiếu với cha mẹ và phải có trách nhiệm gây dựng kinh tế cho
gia đình.
2.5.3. Trăng mật của người Tày

Cũng như các dân tộc khác, người Tày ở Tây Bắc rất coi trọng và cầu kỳ
trong nghi lễ hôn nhân. Họ quan niệm rất nhân văn về đêm tân hôn, tuần trăng
mật,...
Đám cưới khi đã được định sẵn, người già chọn ngày tốt, trẻ lo chuẩn bị.
Khi về nhà chồng, của hồi môn quan trọng nhất của sơn nữ Tày là chăn thêu thổ
cẩm, càng nhiều càng tốt. Trong đám cưới tại nhà trai, tất cả thanh niên đến dự
phải mang bằng hết chăn hoa của cô dâu ra đắp để lấy lộc.

Đó là thời điểm các chàng trai có cơ hội tiếp cận những cô gái mình thích,
đồng thời “dụ” bằng được cô dâu ra khỏi buồng cưới và đẩy chú rể đến bên
cạnh, dồn họ vào gữa, cùng đắp chăn và ca hát. Đám cưới truyền thống diễn ra.

17
Đám cưới của người Tày


Giữa nhà thanh niên uống rượu, đắp chăn mới; trên gác các cụ đàm đạo chuyện
đời; dưới bếp, các cô các bà chế biến món ăn phục vụ...
Đám cưới xong, cô dâu quay lại về nhà mình và đợi cho đến những ngày
mùa, chọn một buổi chiều thật tốt, bên nhà trai sẽ cử người sang đón con dâu
mới về. Ngay đêm hôm ấy, chú rể cũng chưa được phép “động phòng”. Sáng
sớm hôm sau, đôi vợ chồng trẻ dậy thật sớm để lên nương, họ mang theo cơm
nắm, xôi ga... và được phép ở trong núi đến tận tối khuya mới phải về.
Những ngày sau cũng thế. Hết ngày mùa, người con dâu lại được đưa về
nhà mẹ đẻ. Khi nào kết quả sau những lần lên nương riêng với chồng của cô gái
được khẳng định bằng việc mang bầu, cô sẽ được làm lễ chính thức mang họ
nhà chồng. Buổi lễ ấy diễn ra rất trang trọng, thầy Tào làm pháp, múa hát,
chiêng cồng. Nhà chồng mổ lợn, đồ xôi, mời cả bản đến dự. Từ bữa đó, cô con
dâu không quay về nhà cha mẹ đẻ nữa.
Theo người Tày đã sống lâu năm, trong quan niệm ngàn đời về hôn nhân

của người Tày, điều quan trọng nhất là người con dâu phải chứng tỏ được khả
năng làm vợ, làm mẹ và lao động hòa thuận bên chồng. Phong tục về đêm tân
hôn hay trăng mật lứa đôi nguyên sơ giữa đại ngàn là niềm tự hào của đồng bào
Tày từ bao đời. Phong tục ấy giúp họ tìm ra được hạnh phúc đích thực của mình.
2.6. Dân tộc Hà Nhì
2.6.1. Khái quát

Hà Nhì có tên gọi khác là U Ní, Xá U Ní là một trong 54 dân tộc sống trên
đất nước Việt Nam, là một gia đình nhỏ tạo nên đại gia đình các dân tộc Việt
Nam. Vì vậy, đã có rất nhiều bài viết, nhiều tác phẩm viết về nguồn gốc của
người Hà Nhì.
Cho đến ngày nay, nguồn gốc của dân tộc Hà Nhì vẫn đang là một vấn đề
khoa học cần được nghiên cứu. Theo lời truyền miệng thì dân tộc Hà Nhì có
nguồn gốc từ người Di (Yi) tách ra thành bộ tộc riêng khoảng 50 đời về trước.
18


Theo các nhà khoa học, thủy tổ của người Hà Nhì là tộc người Khương đã di cư
từ vùng Cao Nguyên Thanh Tạng (Trung Quốc) xuống phía Nam từ trước thế kỉ
III đến thế kỉ VIII, thư tịch cổ đã viết về sự có mặt của dân tộc Hà Nhì ở Tây
Bắc Việt Nam.
Mặc dù có nhiều ý kiến khác nhau về nguồn gốc của dân tộc Hà Nhì, song
tất cả đều có một điểm thống nhất đó là người Hà Nhì đã có mặt ở nước ta từ
khá sớm. Họ sống tập trung ở các tỉnh giáp Trung Quốc như: Điện Biên, Lai
Chây, Lào Cai. Ở Việt Nam có khoảng 17500 người Hà Nhì (năm 1999) và gồm
ba nhóm địa phương: Cồ Chồ (sinh sống ở tỉnh Lai Châu), Lạ Mí (Điện Biên) và
Hà Nhì Đen (Lào Cai).
2.6.3. Tổ chức đám cưới hai lần
Trai gái dân tộc Hà Nhì có phong tục trùm kín chăn khi hát giao duyên tình
tứ với nhau mỗi khi trong bản có lễ hội. Trùm chung chăn kín nhung họ vẫn giữ

được ranh giới nhất định bời vỉ luật tục của người Hà Nhì rất khắt khe với những
cô gái chưa chồng. Cô gái Hà Nhì và các thanh niên Hà Nhì được tự do lựa chọn
bạn đời và tự quyết định hôn nhân của mình. Nếu bạn gái yêu mình thì chàng
trai dẫn về nhà thưa chuyện với cha mẹ xin cưới làm vợ. Cả nhà đồng ý thì làm
lễ trước bàn thời “kính cáo” với tổ tiên gia đình mình có cô con dâu mới, sau đó
nhà chú rể làm cỗ mời cả họ hàng và dân bản tới cùng vui. Nếu có điều kiện thì
nhà trai mang lễ sang nhà cô dâu, gồm: mấy đồng bạc trắng hoặc tiền mặt, một
con lợn 50kg, 50 lít rượu trắng, đôi gà sống cùng xôi nếp và trứng chia đều
thành 2 gói... Đây là lần cưới đầu tiên của chàng trai. Người vợ từ đó trở đi phải
mang họ nhà chồng.

Cô dâu Hà Nhì

Trang phục của người Hà Nhì

Khi có con hoặc kinh tế gia đình khá giả thì người chồng phải tổ chức đám
cưới lần thứ hai với chính vợ của mình, thâm chí có cặp vợ chồng sau hàng chục
năm sống chung mới tổ chức hôn lễ. Lúc ấy, dù chưa có con hay đã có con, có ít
hoặc nhiều con, đông cháu, đều không quan hệ gì tới hôn lễ. Vợ chồng người Hà
Nhì sống chung thủy, cùng cso trách nhiệm trong việc phụng dưỡng cha mẹ hai
bên, nuôi dạy con cái và chăm lo cuộc sống Trang
gia đình.
phục củaTừ
ngườixưa,
Hà Nhìviệc ly hôn được

19


xem là vấn đề vô cùng hệ lụy, thuộc phạm trù đạo đức, ảnh hưởng xấu đến danh

dự gia đình và uy tín dòng tộc; do vậy, rất hiếm khi xảy ra.
2.6.4. Tục trùm chăn đi tìm người yêu của người Hà Nhì đen
Theo phong tục truyền thống, trong các lễ hội của dân tộc mình, mỗi khi
hát giao duyên, trai gái Hà Nhì thường trùm chăn hát cùng nhau để thổ lộ tâm
tình và để đi đến hôn nhân, người Hà Nhì đen ở huyện Bát Xát, tỉnh Lào Cai
còn có tục trùm chăn đi tìm người yêu. Các chàng trai Hà Nhì phải trùm chăn đi
một mình đến nhà bạn gái, rủ cô gái ra ngoài tâm sự và tìm hiểu người mình
yêu. Họ phải đi ít nhất phải 3 - 4 lần như thế để đi đến nhà bạn gái. Những đêm
đi trùm chăn như thế chính là để đôi trai gái được tìm hiểu và hiểu nhau hơn.
Trùm chăn đi tìm người yêu là phong tục có từ bao đời nay của người Hà
Nhì đen. Con trai trong các bản của người Hà Nhì, khi đến tuổi trưởng thành có
thể rủ chúng bạn đi trùm chăn tìm hiểu bạn đời. Tối tối khi cơm nước đã xong
cũng là thời điểm thanh niên trong bản tụ họp, rủ nhau đi trùm chăn. Không phải
chàng trai nào cũng đem sẵn tấm chăn để đi trùm chăn. Đôi khi chỉ cần qua trao
đổi, theo quy ước, các chàng trai có thể mượn chăn của nhau để đến nhà bạn gái
rủ đi chơi. Trước khi đi trùm chăn, người con trái đã có ý phải lòng người con
gái mà mình thích. Đến cổng nhà cô gái, chàng trai bèn giũ chiếc chăn thành tấm
vải rộng, trùm từ đầu đến chân rồi tiến vào trong nhà. Tới nơi cô gái đang ngồi,
chàng trai bèn nắm tay, đỡ cô gái đứng dậy. Gia đình cô gái nhìn thấy vậy sẽ
hiểu, con gái trong nhà đã có người đến tìm hiểu tâm sự. Nếu đồng ý thì cha mẹ
cô gái sẽ làm ngơ để chàng trai đưa cô gái ra ngoài nói chuyện. Có khi cha mẹ đi
ra chỗ khác để con gái và chàng trai đỡ ngại khi phải tiếp xúc. Hai người ra
ngoài biết nhau hoặc chưa biết nhau, thì nói chuyện tâm sự. Nếu cô gái thích thì
ngồi lại, còn nếu không đồng ý thì về. Khi ngồi nói chuyện hai người có thể đắp
chung cái chăn đó, vì thời tiết buổi tối ở vùng cao rất lạnh.

Các cô gái người Hà Nhì

Theo quan niệm của dân tộc Hà Nhì, tục trùm chăn đơn giản là để có dịp bày
tỏ tình cảm. Tuy nhiên người con gái không được có con trước khi cưới, bởi nếu

20


không cô gái đó và cả chàng trai sẽ phải chịu hình phạt khắt khe của làng. Người
phụ nữ nếu có con trước khi cưới sẽ phải ra sống ở ngoài làng cho đến khi có
người đàn ông nhận làm vợ thì mới được quay trở về làng.

TỔNG KẾT
Hôn nhân là một trong những sự kiện hệ trọng trong vòng đời của con người, là
mốc quan trọng đánh dấu sự trưởng thành và khẳng định vai trò của mỗi con
người trong gia đình, dòng họ và trong xã hội. Không riêng gì Việt Nam mà
khắp các nơi trên thế giới, vấn đề hôn nhân luôn được các dân tộc coi trọng và
dành được sự quan tâm đặc biệt. Hôn nhân luôn gắn liền với những tục lệ cưới
xin để giúp thể hiện rõ đặc trưng văn hóa riêng, đậm đà bản sắc của mỗi tộc
người.
Hôn nhân không chỉ nhằm mục đích duy trì giống nòi, sinh ra đước con tương
lai có trách nhiệm và nghĩa vụ đè nặng trên vai, mà hôn nhân còn là cách để mọi
người, để cộng đồng đoàn kết, gắn bó. Với các dân tộc vùng Tây Bắc, họ coi
trong hôn nhân, cưới xin của các chàng trai, cô gái bởi chính họ là những sợi
dây kế nối giữa người với người, giữa cộng đồng với cộng đồng, giữa các gia
tộc với nhau. Các dân tộc đều coi trọng giá trị nhân văn mà hôn nhân đem lại
cho họ.
Tuy nhiên, ngày nay do sự phát triển của xã hội hiện đại, ở một số nơi vùng Tây
Bắc, những phong tục này đang dần mất đi hoặc bị biến tấu đi khiến cho văn hóa
tộc người vùng Tây Bắc đang dần bị mai một. Bên cạnh đó, Tây Bắc đang dần
phát triển du lịch, nơi đây đang thu hút lượng lớn khách du lịch trong và ngoài
nước đến du lịch, tham quan, ngắm cảnh. Vì vậy, việc duy trì, gìn giữ và bảo vệ
những phong tục độc đáo của các dân tộc vùng cao là điều rất cần thiết hiện nay.
Nói tóm lại, văn hóa Tây Bắc là sản phẩm của sự kết hợp và đan xen các bản sắc
riêng của hơn 20 dân tộc cư trú từ vùng núi non trùng điệp bên hữu ngạn sông

Hồng kéo dài tới Bắc Thanh Nghệ. Bằng những nét văn hóa riêng độc đáo và đa
dạng, Tây Bắc góp phần làm nên sự đa dạng và phong phú của văn hóa Việt
Nam.

21



×