BỘ VĂN HÓA, THỂ THAO VÀ DU LỊCH
_________________________
CỘNG HÒA XÃ HỘI CHỦ NGHĨA VIỆT NAM
Độc lập - Tự do - Hạnh phúc
Hà Nội, ngày
tháng 6 năm 2018
Dự thảo lần 4
ĐỀ ÁN
TUYỂN CHỌN, ĐÀO TẠO TÀI NĂNG TRONG LĨNH VỰC
THỂ THAO THÀNH TÍCH CAO ĐẾN NĂM 2030 VÀ TẦM NHÌN ĐẾN 2035
(Ban hành theo Quyết định số
/QĐ-TTg ngày / /2018
của Thủ tướng Chính phủ)
1. PHẦN MỞ ĐẦU
1.1. Sự cần thiết phải xây dựng đề án
Để có được thành tích thể thao trên các đấu trường khu vực và quốc tế, tuyển
chọn và huấn luyện phải trải qua quá trình liên tục kéo dài từ 8 đến 10 năm liên tục.
Tùy thuộc vào từng môn thể thao, vận động viên (VĐV) sẽ được tuyển chọn huấn
luyện ban đầu ngay từ 4 đến 5 tuổi đối với các môn thể dục dụng cụ, 7 đến 8 tuổi môn
bóng đá, bóng bàn, 10 đến 11 tuổi môn điền kinh, cử tạ… Quá trình huấn luyện được
bắt đầu khi tuyển chọn được những trẻ em có năng khiếu bẩm sinh, có khả năng sinh
vật tiềm tàng ở môn thể thao nào đó, các em sẽ được đưa vào trường năng khiếu thể
thao, tại đây các cháu sẽ được học văn hóa, được các huấn luyện viên giỏi huấn luyện
theo các chu kỳ nghiêm ngặt chặt chẽ với những lượng vận động lớn về thể lực và tâm
lý, kết quả cuối cùng của quá trình huấn luyện thể thao chuyên nghiệp được hiện thực
hóa bằng các huy chương vàng, các kỷ lục được thiết lập mới tại các giải đấu, đặc biệt
là tại các giải thuộc đấu trường châu lục, thế giới và thế vận hội Olympic.
Trong thời đại ngày nay, chúng ta không thể không kinh ngạc và thán phục,
trước sự phát triển nhanh chóng về trình độ thi đấu của các VĐV, các kỉ lục thế giới
liên tục bị phá cũng như trình độ phát triển cao của các loại hình thể thao. Các giải đấu
ngày càng căng thẳng, dữ dội đòi hỏi VĐV phải có tố chất và năng khiếu thể thao thiên
phú, kết hợp với luyện tập một cách khoa học hợp lý, kiên trì nỗ lực mới có thể bước
ra đấu trường quốc tế tranh tài với các đối thủ mạnh trên thế giới để đem về vinh
quang cho Tổ quốc. Hiện nay sự cạnh tranh về trình độ thi đấu thể thao, thành tích thể
thao đã phát triển thành cuộc chạy đua quyết liệt ở các châu lục nhằm tuyển chọn, đào
tạo được những VĐV tài năng ưu tú nhất. Nhìn từ góc độ thể thao quốc tế, các quốc
gia giành được thành tích xuất sắc tại Olympic đều là những quốc gia có sự đầu tư
chiến lược về thể thao thành tích cao, nắm bắt tốt các bước quan trọng bao gồm tuyển
chọn, đào tạo tài năng thể thao, huấn luyện khoa học, hồi phục cơ thể và khả năng của
VĐV, trong đó điều kiện tiên quyết là phải có một hệ thống tuyển chọn, đào tạo VĐV
thể thao tài năng hoàn chỉnh.
Trong những năm qua, được sự quan tâm của Đảng và Nhà nước, thể dục thể thao
đã có những bước phát triển cả về bề rộng và chiều sâu. Trong đó, thể thao thành tích cao
đã đạt được những kết quả đáng kể trên các đấu trường khu vực và thế giới. Năm 2017
Tài năng thể thao trẻ, VĐV Nguyễn Thị Ánh Viên đã giành được 8 HCV, 2 HCB và
phá 3 kỉ lục của Sea Games28 được tổ chức ở Singapore. Năm 2018 đánh dấu cho sự
phát triển vượt trội của thể thao Việt Nam là sự kiện được ghi nhận ngày 23/01/2018 đội
tuyển bóng đá U23 của Việt Nam đã chiến thắng vang dội trong trận bán kết giải vô địch
U23 Châu Á tại Giang Tô Trung Quốc làm chấn động cả châu lục, là động lực mạnh mẽ,
thúc đẩy, động viên, khích lệ cho thể thao Việt Nam tự tin vươn lên để sánh vai với các
cường quốc thể thao trong khu vực, châu lục và thế giới. Tại giải vô địch điền kinh trong
nhà châu Á 2018 tổ chức tại Iran (từ ngày 1 đến ngày 3/2/2018), đội tuyển điền kinh
Việt Nam xuất quân với 3 tuyển thủ đã thi đấu xuất sắc và giành được 1 HCV, 3 HCĐ
hoàn thành mục tiêu đề ra. Tại giải Điền kinh Singapore mở rộng Việt Nam có 4 VĐV
thi đấu và đã giành được 4HCV, 1HCB. Tại giải cử tạ vô địch trẻ và thanh thiếu niên
châu Á 2018 diễn ra từ ngày 24/4 tại Uzbekistan, đồng thời cũng là vòng loại Olympic
trẻ 2018, lực sĩ Đỗ Tú Tùng đã giành cả 3 tấm HCV. Có thể thấy, thể thao thành tích
cao, thể thao chuyên nghiệp của Việt Nam đang trên đà phát triển mạnh cả về số lượng
và chất lượng. Trong tương lai không xa, thể thao chuyên nghiệp Việt Nam hứa hẹn sẽ
có nhiều VĐV tài năng làm rạng danh cho Tổ quốc. Tuy nhiên, để thể thao thành tích
cao của Việt Nam phát triển bền vững, đòi hỏi hệ thống tuyển chọn, đào tạo (huấn
luyện) tài năng thể thao phải có sự đổi mới toàn diện, triệt để, phải có chiến lược đầu
tư về nhân lực, vật lực… khoa học, thiết thực, hiệu quả. Vì tuyển chọn, đào tạo tài
năng thể thao là 2 mặt thống nhất, là điều kiện tiên quyết cho sự phát triển của thể thao
thành tích cao, thể thao chuyên nghiệp.
Xác định được vai trò, tầm quan trọng của việc tuyển chọn, đào tạo tài năng thể
thao Việt nam trong tương lai, Đề án: “Tuyển chọn, đào tạo tài năng trong lĩnh vực
thể thao thành tích cao đến năm 2030 và tầm nhìn đến năm 2035” được Thủ
tướng Chính phủ triển khai thực hiện sẽ là tiền đề phát triển toàn diện thể thao Việt Nam
theo định hướng tiên tiến, bền vững, tương xứng với trình độ phát triển kinh tế - xã hội và
phù hợp nhu cầu của nhân dân cả nước. Sự kiện thể thao, hình ảnh đất nước, con người
Việt Nam yêu hòa bình, là bạn với tất cả các dân tộc sống trên trái đất sẽ được quảng
bá rộng rãi trên toàn thế giới.
1.2. Mục đích, phạm vi, đối tượng của đề án
1.2.1. Mục đích
Đề án xây dựng nhằm đánh giá được thực trạng sự phát triển của thể thao thành
tích cao Việt Nam trong những năm gần đây, đặc biệt là giai đoạn từ 2008 đến 2017
(sau 10 năm). Trên cơ sở những kết quả đã đạt được cũng như những tồn tại, yếu kém
cần khắc phục. Đề án sẽ đề xuất những giải pháp thiết thực, hiệu quả để Đảng, Nhà
nước có biện pháp tháo gỡ kịp thời, để ngành thể thao tuyển chọn, đào tạo (huấn
luyện) được nhiều HLV, VĐV tài năng. Trong thi đấu vận động viên sẽ giành được
nhiều HCV, HCB, HCĐ trong các giải quốc tế góp phần thực hiện thắng lợi Chiến
lược phát triển thể dục, thể thao Việt Nam đến năm 2020 cũng như các Nghị quyết của
Đảng, Nhà nước đã ban hành về việc phát triển thể dục, thể thao nói chung và thể thao
chuyên nghiệp, thể thao thành tích cao nói riêng, giúp thể thao Việt nam nhanh chóng
phát triển theo kịp với trình độ thể thao của các nước có nền thể thao tiên tiến trong
khu vực, châu lục và thế giới.
1.2.2. Phạm vi
- Phạm vi về không gian: Đề án được tiến hành trên phạm vi các trung tâm huấn
luyện thể thao, trường năng khiếu thể thao, trung tâm đào tạo vận động viên của 63
tỉnh thành trên toàn quốc. Đặc biệt là 4 Trung tâm huấn luyện quốc gia, các trường Đại
học TDTT và các trung tâm huấn luyện phụ trợ Công an, quân đội, các Liên đoàn,
Hiệp hội thể thao quốc gia, các tổ chức xã hội hóa về thể thao như HAGL, JMG,
VinGroup, Viettel…
- Phạm vi về thời gian: Đề án được triển khai theo 4 giai đoạn.
+ Giai đoạn 1: Từ năm 2019 – 2020
+ Giai đoạn 2: Từ năm 2021 – 2025
2
+ Giai đoạn 3: Từ năm 2026 – 2030
+ Giai đoạn 4: Từ năm 2030 – 2035
1.2.3. Đối tượng
Những trẻ em có năng khiếu thể thao đặc biệt, học sinh, VĐV đang theo học tại
các trường TDTT trên cả nước; Vận động viên đang tập luyện, thi đấu tại các Trung
tâm huấn luyện thể thao quốc gia, quân đội, công an, các Liên đoàn, Hiệp hội thể thao
quốc gia, các tổ chức xã hội hóa về thể thao…
Vận động viên đỉnh cao đam mê nghề nghiệp, có kinh nghiệm tập luyện, thi
đấu, phẩm chất nhân cách, đạo đức tốt đã hết khả năng thi đấu được tuyển chọn, đào
tạo thành huấn luyện viên thể thao tài năng.
1.3. Căn cứ chủ yếu xây dựng đề án
1.3.1 Căn cứ mang tính quan điểm
- Nghị quyết số 08-NQ/TW, ngày 01/12/2011 của Bộ Chính trị về tăng cường
sự lãnh đạo của Đảng, tạo bước phát triển mạnh mẽ về thể dục, thể thao đến năm 2020;
- Nghị quyết số16/2013/NQ-CP, ngày 14/01/2013 của Chính phủ về triển khai
thực hiện Nghị quyết 08-NQ/TW, ngày 01/12/2011 của Bộ Chính trị về tăng cường sự
lãnh đạo của Đảng tạo bước phát triển mạnh mẽ về Thể dục thể thao đến năm 2020.
- Nghị quyết số 44/NQ-CP, ngày 09/6/2014 của Chính phủ về việc ban hành
chương trình hành động của Chính phủ thực hiện Nghị quyết số 29-NQ/TW ngày
04/11/2013 Hội nghị lần thứ 8 Ban Chấp hành Trung ương Đảng (khoá XI) về đổi mới
căn bản, toàn diện giáo dục và đào tạo, đáp ứng yêu cầu công nghiệp hoá, hiện đại hoá
trong điều kiện kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa và hội nhập quốc tế.
- Nghị Quyết số 102/NQ-CP, ngày 31/12/2014 của Chính phủ về việc ban hành
chương trình hành động của Chính phủ thực hiện Nghị quyết số 33-NQ/TW, ngày
09/6/2014 Hội nghị lần thứ 9 Ban Chấp hành Trung ương Đảng (khóa XI) về xây dựng
và phát triển văn hóa, con người Việt Nam đáp ứng yêu cầu phát triển bền vững đất
nước
1.3.2. Căn cứ pháp lý
- Luật Thể dục, Thể thao 2006, 77/2006/QH11, ngày 29/11/2006 của
Quốc hội nước cộng hòa xã hội chủ nghĩa Việt Nam;
- Quốc hội ban hành Luật sửa đổi, bổ sung một số điều của Luật Thể dục, thể
thao số 77/2006/QH11;
- Nghị định số 112/2007/NĐ-CP ngày 26 tháng 06 năm 2007 của Thủ tướng
chính phủ quy định chi tiết và hướng dẫn thi hành một số điều của luật thể dục thể thao;
- Quyết định số 2198/QĐ-TTg, ngày 03/12/2010 của Thủ tướng Chính phủ về
việc phê duyệt Chiến lược phát triển thể dục, thể thao Việt Nam đến năm 2020;
- Quyết định số 3067/QĐ-BVHTTDL, ngày 30/7/2011 của Bộ trưởng Bộ Văn
hóa, Thể thao và Du lịch phê duyệt Quy hoạch phát triển nhân lực nhóm ngành Văn
hóa và Thể thao giai đoạn 2011-2020;
- Quyết định số 1752/QĐ-TTg, ngày 30/9/2013 của Thủ tướng Chính phủ phê
duyệt Quy hoạch cơ sở vật chất - kỹ thuật TDTT quốc gia Việt Nam đến năm 2020;
- Quyết định số 2160/QĐ-TTg, ngày 11/11/2013 của Thủ tướng Chính phủ về
việc phê duyệt Quy hoạch phát triển thể dục, thể thao Việt Nam đến năm 2020, định
hướng đến năm 2030;
- Quyết định số 375/QĐ-BVHTTDL, ngày 06/02/2018 của Bộ trưởng Bộ Văn
hóa, Thể thao và Du lịch về việc xây dựng Đề án “Tuyển chọn, đào tạo tài năng trong
lĩnh vực thể thao thành tích cao đến năm 2030 và tầm nhìn đến năm 2035”.
3
- Công văn số 371/VPCP-TH ngày 02/02/2018 của Văn phòng Chính phủ về
Chương trình công tác năm 2018.
1.3.3. Căn cứ thực tiễn
- Xuất phát từ thực trạng nhu cầu tuyển chọn, đào tạo tài năng thể thao thành
tích cao HLVvà VĐV giai đoạn hiện nay.
- Căn cứ vào thực trạng thành tích của thể thao Việt Nam tại các đấu trường khu
vực, châu lục và thế giới.
- Căn cứ vào quy mô, số lượng, chất lượng huấn luyện viên.
- Căn cứ vào thực tiễn cơ sở vật chất, cơ chế chính sách đối với huấn luyện
viên, vận động viên thể thao thành tích cao.
- Những kết quả điều tra, thống kê, về thực trạng việc tuyển chọn, đào tạo tài
năng thể thao thành tích cao giai đoạn hiện nay cho thấy, chủ yếu dựa trên kinh
nghiệm chưa có hệ thống tiêu chuẩn tuyển chọn cũng như chưa có chương trình đào
tạo huấn luyện thống nhất cho các lứa tuổi.
1.4. Kết cấu của đề án
Nội dung chính của Đề án ngoài phần mở đầu, kết luận và các phụ lục được bố
cục thành 03 phần.
Phần thứ Nhất: Vấn đề tuyển chọn, đào tạo tài năng thể thao thành tích cao ở
Việt Nam.
Phần thứ Hai: Quan điểm, mục tiêu, nhiệm vụ và giải pháp tuyển chọn, đào
tạo tài năng thể thao thành tích cao đến năm 2030 và tầm nhìn đến năm 2035.
Phần thứ Ba: Tổ chức thực hiện.
4
PHẦN THỨ NHẤT
TUYỂN CHỌN, ĐÀO TẠO TÀI NĂNG LĨNH VỰC THỂ THAO
THÀNH TÍCH CAO GIAI ĐOẠN 2008 - 2017
1.1. Khái quát chung về tuyển chọn, đào tạo tài năng thể thao lĩnh vực thể
thao thành tích cao.
1.1.1. Trên thế giới
Lý luận về tuyển chọn, đào tạo tài năng thể thao và dự báo tài năng thể thao đã
hình thành từ những năm 60 của thế kỷ 20, nhưng nó chỉ thực sự phát triển mạnh mẽ
vào thập kỷ 80 với sự tham gia của nhiều nhà khoa học lớn trên thế giới. Các công
trình khoa học trong lĩnh vực dự báo và tuyển chọn thể thao được thực hiện theo hai
xu hướng:
Một là, nghiên cứu xây dựng cơ sở lý luận phương pháp tuyển chọn và dự báo,
tiêu biểu có: A.A.Guzannovski, 1979, 1986; B.K.Bansevich, C.V.Khrusev, 1984;
V.P.Philin, V. M. Vonkov, 1983; E.G.Marchinrosov, G.C.Tumannhian.
Hai là, nghiên cứu về tuyển chọn và dự báo trong từng môn thể thao, các đại
diện tiêu biểu có: N.G. Bungacôva, 1986; L.A.Sevchenco,1989; M.C.Brinlia, 1980;
V.I.Kotov, 1988; V.Đ.Xiatrin, 1992.
Cho đến ngày nay việc tuyển chọn, đào tạo tài năng thể thao đã đạt được kết
quả đáng ghi nhận. Các quốc gia có nền thể thao phát triển mạnh như Mỹ, Nga, Đức,
Ý, Trung Quốc... quan tâm thời kỳ và giai đoạn tuyển chọn, kết quả nghiên cứu của
nhiều nhà khoa học như P.E.Motulianski (1979), V.M.Vôncôv, V.P.Philin (1983) đều
chia quá trình tuyển chọn, đào tạo tài năng thể thao làm 4 giai đoạn: Tuyển chọn sơ bộ;
tuyển chọn định hướng ban đầu; tuyển chọn tài năng trong từng môn thể thao chuyên
sâu theo từng giai đoạn huấn luyện của quá trình huấn luyện nhiều năm và tuyển chọn
cho đội tuyển quốc gia hoặc tuyển chọn qua 3 giai đoạn: Giai đoạn tuyển chọn định
hướng cho môn thể thao chuyên sâu; giai đoạn tìm kiếm các trẻ em thích ứng thực sự
với loại hình hoạt động trong quá trình đào tạo và giai đoạn tuyển chọn những em thực
sự có tài, có khả năng phô diễn thành tích thể thao cao ở trình độ quốc tế.
Những thành tựu nghiên cứu vào những năm 80 và đầu 90 trong lĩnh vực tuyển
chọn và đào tạo tài năng thể thao đã tạo ra cơ sở tốt nhằm giải quyết một loạt nhiệm vụ
then chốt về phương pháp tuyển chọn và xây dựng những nền tảng cho việc dự báo
triển vọng của các tài năng thể thao trẻ. Việc xác định các thuộc tính riêng biệt dưới
tác động của bài tập kiểm tra và mức độ phát triển trạng thái tâm lý phổ biến của tài
năng thể thao trẻ trong các giai đoạn huấn luyện và hoàn thiện thể thao khác nhau có
vai trò đặc biệt quan trọng. Các cơ sở phương pháp luận này được thể hiện rõ nhất ở
những nguyên tắc “quyết định luận” và “đồng nhất luận” do B.K. Bansevich thiết lập
khi nghiên cứu công nghệ mới trong quá trình đào tạo lực lượng Olympic kế cận và
các tài năng thể thao có trình độ chuyên môn cao. Quan điểm phương pháp luận nói
trên đặc biệt chú ý tới việc xác định những thuộc tính chung và riêng biệt trong cấu
trúc hình thái, chức năng của tài năng thể thao trong quy trình tuyển chọn và huấn
luyện thể thao nhiều năm.
Một vấn đề hết sức rõ ràng là trong giai đoạn hoàn thiện hệ thống tuyển chọn và
đào tạo thể thao hiện nay cần chú ý nhiều đến nguyên tắc cá thể hóa trong quá trình
tìm kiếm tài năng thể thao và đào tạo họ. Quan điểm này hình thành trên cơ sở những
thành tựu của các môn khoa học như: động lực học phân tử, tâm – sinh lý học vận
động và y học lượng tử. Xuất phát từ những môn khoa học này đã hình thành cơ sở
khoa học vững chắc trong việc dự báo những đặc điểm tâm sinh lý, hình thái, chức
năng và năng lực vận động của con người. Nhờ đó, trên cơ sở phân tích những mẫu
5
gen tổng hợp và sử dụng công nghệ DNK có thể xác định những tố chất vận động
được kế thừa bền vững, có ảnh hưởng lớn tới những đặc điểm hình thái và khả năng
bẩm sinh của con người. Ngay từ những nghiên cứu đầu tiên về việc áp dụng vào thực
tiễn khoa học TDTT, các phương pháp phân tích chuyển động của các phân tử đã xác
định được mẫu gen của từng vận động viên, căn cứ vào những kiểu gen có chứa men
biến đổi Angiotenzim đã cho phép chứng minh rằng các vận động viên có các kiểu gen
chứa men biến đổi Angiotenzim (II, ID, DD) khác nhau thường có sự khác biệt về khả
năng chịu đựng lượng vận động trong các dạng hoạt động thể lực.
Kết quả nghiên cứu về mối tương quan giữa các gen chứa men biến đổi
Angiotenzim và mức độ sức bền thể lực, tâm lý của tài năng thể thao đã chỉ rõ về hiệu
suất ưa khí tối đa của cơ thể tài năng thể thao có các kiểu gen có chứa gen biến đổi
Angiotenzim khác nhau. Các cuộc thực nghiệm đối với các sinh viên chuyên sâu điền
kinh của học viện TDTT mang tên P.E Lexgaft không những đã khẳng định quy luật
nói trên, mà còn cho phép xác định những đặc điểm của sự tác động tương hỗ giữa
nhân tố động lực học và “những ảnh hưởng trung gian” của quy trình học tập - tập
luyện. Các số liệu thu được đã chứng tỏ ảnh hưởng của nhân tố động lực học trong quá
trình huấn luyện một năm của các vận động viên có bị yếu đi, mặc dầu vậy vẫn duy trì
sự tác động có độ tin cậy thống kê cao đối với hoạt động thể thao. Các nghiên cứu
khoa học đã khẳng định các mẫu gen có chứa men biến đổi Angiotenzim (II, ID, DD)
có liên hệ chặt chẽ với khả năng đồng hóa của cơ thể trước tác động của các lượng vận
động tập luyện. Việc ứng dụng những thành tựu nghiên cứu về gen sẽ nâng cao được
hiệu quả trong quá trình tuyển chọn và đào tạo tài năng thể thao.
Tuyển chọn và đào tạo tài năng thể thao sẽ đạt được kết quả tốt nhờ ứng dụng
những phương pháp lý – sinh và y học hiện đại như: Công nghệ điện sinh học cho
phép đánh giá khách quan những khả năng huy động năng lực tâm lý của tài năng thể
thao và quá trình tự điều chỉnh tâm lý. Những nghiên cứu được tiến hành ở các nhóm
thực nghiệm tại thành phố San – Peterburg cho phép khẳng định các mô hình về mức
tiêu hao năng lượng có mối quan hệ cả với nhân tố động lực học lẫn các nhân tố “trung
gian”. Điều đó phản ánh khả năng tiềm tàng về tải trọng tâm lý của tài năng thể thao.
Công nghệ điện sinh học RGV cho phép nâng cao hiệu quả chẩn đoán chính xác về
trạng thái tâm lý và đảm bảo việc đánh giá khả năng hoạt động chức năng tiềm ẩn của
mỗi vận động viên. Trên cơ sở đó có thể xây dựng quy trình tập luyện tối ưu và dự báo
thành tích trong các cuộc thi đấu.
Việc hiện thực hóa những quan điểm đổi mới trên đây trong hệ thống tuyển
chọn, đào tạo tài năng thể thao kế cận hoàn toàn phù hợp với nguyên tắc tuyển chọn
tích cực dựa trên những thành tựu khoa học TDTT thế giới. Những quan điểm này tạo
điều kiện để nâng cao tính hiệu quả của việc tuyển chọn, đào tạo tài năng thể thao
trong tương lai.
Tuyển chọn, đào tạo tài năng thể thao xuất sắc trình độ thế giới là công việc
tiềm tàng, tổng hợp rất nhiều yếu tố bao gồm gen di truyền, hình thái cơ thể, chức
năng sinh lý, tố chất vận động, tố chất tâm lí, kiến thức vận động, kĩ thuật vận động…
Đặc điểm nổi bật của tuyển chọn, đào tạo tài năng thể thao hiện đại là vận dụng
tổng hợp các thành tựu của khoa học tự nhiên hiện đại, đặc biệt là ứng dựng các kiến
thức mới, các thành tựu mới, các kỹ thuật mới của Di truyền học, Sinh học phân tử,
Giải phẫu cơ thể người, Sinh lí học thể dục thể thao, Tâm lí học thể dục thể thao, Sinh
hóa thể thao, Sinh cơ thể thao, Lý luận chuyên ngành thể dục thể thao, Giáo dục học
thể dục thể thao… Điều đó dẫn đến tuyển chọn, đào tạo tài năng thể thao đã được
chuyển từ hình thức tuyển chọn, đào tạo dựa vào kinh nghiệm, dựa vào sự may mắn
6
sang tuyển chọn, đào tạo một cách khoa học và trí tuệ. Tất nhiên, khoa học tuyển
chọn, đào tạo tài năng thể thao hiện nay vẫn còn chưa phát triển đầy đủ cả về cơ sở lý
luận, cơ sở sinh học cũng như cơ chế, hệ thống, vẫn còn tồn tại sự không ăn khớp và
đồng bộ giữa lý luận và thực tiễn. Điều này đòi hỏi những người làm công tác quản lý,
tuyển chọn, đào tạo tài năng thể thao phải nỗ lực không ngừng để đóng góp hơn nữa
cho sự nghiệp phát triển thể thao chuyên nghiệp, thể thao thành tích cao.
Thực tế tuyển chọn và huấn luyện thể thao các nước trên thế giới có thể sơ lược
như sau:
1. Australia
Chính phủ đã thành lập một quỹ phát triển những VĐV tài năng. Bước đầu của
chương trình này được thực hiện gồm 3 giai đoạn là:
- Giai đoạn 1: Lựa chọn, phát hiện những VĐV tiềm năng ở các trường học: giai
đoạn này thực hiện thông qua 8 bài kiểm tra thể lực cơ bản và được những giáo viên
TDTT. Kết quả này sau đó được chuyển tới những chuyên gia cấp bang để so sánh với
những chỉ tiêu quốc gia, học sinh nào đạt yêu cầu sẽ được tham dự tuyển chọn giai
đoạn 2.
- Giai đoạn 2: Kiểm tra, đánh giá khả năng và trình độ của VĐV qua các bài
kiểm tra thể lực như giai đoạn 1 nhưng yêu cầu kết quả cao hơn. Những học sinh nào
vượt qua bài kiểm tra giai đoạn này sẽ được tham gia vào một “ chương trình đào tạo
tài năng” được tổ chức bởi cấp quốc gia hay cấp bang.
- Giai đoạn 3: Giai phát triển tài năng có khoảng 10% học sinh đạt yêu cầu ở
giai đoạn 2 sẽ được chuyển xang giai đoạn 3. Những học sinh còn lại được khuyến
khích tham gia các câu lạc bộ thể thao để phát triển kỹ năng.
2. Các nước Tây Âu
Theo Riordan(1988) các nước Tây Âu có những đặc điểm chung trong chương
trình tìm kiếm và phát triển tài năng thể thao là quá trình này gồm 3 giai đoạn là:
- Giai đoạn 1: Giai đoạn tuyển chọn cơ bản, giai đoạn này được thực hiện tại các
trường học thông qua chương trình GDTC hoặc tại một số CLB thể thao. Những tiêu
chuẩn cơ bản gồm: Chiều cao, cân nặng, tốc độ, khả năng chịu đựng, khả năng tiếp thu
và những bài kiểm tra ở những môn thể thao cụ thể để đánh giá trình độ và kỹ năng cơ
bản. Những học sinh vượt qua giai đoạn 1 sẽ được tập luyện khoảng 1 đến 1,5 năm.
- Giai đoạn 2: Giai đoạn được gọi là giai đoạn tuyển chọn ban đầu. Đây là giai
đoạn nhằm đánh giá sự tiến bộ của VĐV về thể lực chung và chuyên môn cũng như
những phẩm chất tâm sinh lý cần thiết. VĐV được thử sức trong một môn thể thao cụ
thể hoặc một nội dung thi đấu trong môn thể thao nào đó, giai đoạn này kéo dài
khoảng 2 năm đến 2,5 năm. Trong khoảng thời gian này VĐV sẽ được tham gia nhiều
giải đấu để tích tũy kinh nghiệm và cọ sát nâng cao trình độ.
- Giai đoạn 3: Giai đoạn tuyển chọn cuối cùng, giai đoạn này chú trọng vào
những yếu tố như: sự tiến bộ trong tập luyện, sự ổn định thành tích, phong độ, kết quả
kiểm tra thể lực, tâm sinh lý... Nếu VĐV nào vượt qua giai đoạn 3 sẽ được tuyển chọn
vào trung tâm đào tạo tài năng với những huấn luyện viên giỏi nhất cùng với những cơ
sở vật chất tối ưu và dịch vụ y tế tốt nhất.
3. Cộng hòa liên bang Nga
Cộng hòa Liên bang Nga quá trình tuyển chọn chia là 4 giai đoạn:
- Giai đoạn 1: Bao gồm Tuyển chọn thể thao chủ động và tuyển chọn thể thao
thụ động.
+ Tuyển chọn thể thao chủ động: Đối tượng là tất cả trẻ em có nguyện vọng
đang học tập trong các trường học, tuyển chọn qua các giờ học thể dục, các cuộc thi
7
đấu chính và không chính thức, kiểm tra đại trà một lần trong vòng 1 tuần, giáo viên,
huấn luyện viên, bác sỹ. Mục tiêu tuyển chọn là định hướng cho trẻ tham gia tập
luyện, hình thành nên các nhóm trẻ tham gia tập luyện ban đầu theo 1 môn thể thao.
Nhiệm vụ tuyển chọn là quan sát sư phạm các giờ lên lớp thể dục và các bài tập thi
đấu. Xác định trạng thái sức khỏe và loại bỏ những trường hợp chống chỉ định tuyệt
đối. Phát hiện động cơ ham thích của trẻ có năng lực và sơ bộ bước đầu xác định môn
thể thao. Tuyển chọn sơ bộ được nhóm trẻ tham gia tập luyện ban đầu tại các cơ sở đào
tạo. Phương pháp và kết quả tuyển chọn thông qua các chỉ tiêu y học tổng quát và chỉ
tiêu hình thái cơ bản cũng như kiểm tra một số chỉ tiêu đơn giản đánh giá các tố chất
vận động theo các tiêu chẩn chung. Xây dựng hồ sơ theo dõi sức khỏe và ghi danh vào
danh sách lớp tham gia tập luyện ban đầu
+ Tuyển chọn thể thao thụ động(tự nguyện): Đối tượng là những trẻ em tự tập
luyện và tham gia tuyển chọn tự nguyện, mục tiêu là tuyển chọn lực lượng dự tuyển
vào các nhóm môn thể thao ưa thích. Phương pháp tuyển chọn là trao đổi với các trẻ
ham thích thể thao, những giáo viên, bác sỹ từng theo dõi việc tập luyện khuyên bảo
các cháu tham gia cùng tuyển chọn như tuyển chọn thể thao chủ động.
- Giai đoạn 2: Tuyển chọn chặt chẽ (Tuyển chọn dự báo năng lực thích ứng thể
thao). Đối tượng là tất cả trẻ đã qua lớp tập luyện ban đầu, mục tiêu tuyển chọn giai
đoạn này là: Đánh giá trạng thái sức khỏe và dự báo trong tương lai; Đánh giá được
các chỉ tiêu có độ di truyền cao, có ảnh hưởng hàng đầu đến tập luyện môn định
hướng; Xác định mức độ đạt được và nhịp tăng trưởng của các dấu hiệu phản ánh năng
lực tương ứng với VĐV hàng đầu; Đánh giá mức độ và nhịp tăng trưởng chiều cao,
khả năng thích nghi, khả năng hồi phục, chức năng thần kinh-cơ, tâm lý, năng lực
chuyển hóa năng lượng; Đánh giá mức độ thích ứng với môn thể thao lựa chọn của các
chỉ tiêu sinh cơ; Thiết kế và điều chỉnh kế hoạch huấn luyện. Đánh giá một cách hệ
thống (6 tháng 1 lần) nhịp tăng trưởng các chỉ tiêu hình thái: cao, tỷ lệ các thành phần
cơ thể; Đánh giá một cách hệ thống mức độ phát triển và xác định nhịp tăng trưởng
các chỉ tiêu chức năng sinh lý, sinh hóa, tâm lý; Kiểm tra sinh hóa sâu về các chỉ tiêu
máu, cơ, hệ mao mạch; Đánh giá tổng thể các chỉ tiêu để kết luận về khả năng thích
ứng thể thao trong việc chuyên môn hóa hẹp.
- Giai đoạn 3: Tuyển chọn dự báo cho giai đoạn hoàn thiện tài năng thể thao và
chuyên môn hóa hẹp. Đối tượng là các vận động viên đã qua giai đoạn 2 của quá trình
tuyển chọn. Mục tiêu giai đoạn này là tuyển chọn những VĐV ưu tú trình độ cao để
hình thành các đội tuyển làm nhiệm vụ thi đấu. Tuyển chọn để tham gia huấn luyện
đặc biệt chuẩn bị cho Olympic, các cuộc thi đấu quốc tế lớn. Nhiệm vụ giai đoạn 3 là
đánh giá trạng thái sức khỏe trước và sau khi thi đấu, đánh giá thành tích thể thao,
đánh giá mức quá tải lượng vận động, và nhịp tăng trưởng của năng lực thích nghi và
hồi phục, đánh giá nhân cách, năng lực tâm lý, trạng thái sung sức thể thao.
Phương pháp kiểm tra là: Đánh giá, phân tích hoạt động thể thao và thành tích trong
tập luyện, Kiểm tra y học và tâm lý, Kiểm tra y sinh học với các chỉ tiêu chọn lọc,
Kiểm tra một cách hệ thống (theo nội dung thu hẹp) các chỉ tiêu chức năng, thành phần
cơ thể (hình thái) nhằm so sánh và đưa ra mô hình hình thái và chức năng, Kiểm tra lai
bằng các phương pháp vi tính.
- Giai đoạn 4: Giai đoạn tuyển chọn thành phần tham gia đội tuyển thi đấu
Olympic, các cuộc thi đấu quốc tế lớn. Đối tượng là các VĐV đã vượt qua 3 giai đoạn
trước đó. Các VĐV phải hoàn thành các nhiệm vụ đặt ra trước toàn đội, hội đồng
tuyển chọn, có trạng sức khỏe tốt ở thời điểm thi đấu, có tâm lý ổn định, thích ứng với
8
các phương án chiến thuật có tính đến đặc điểm hành động của đối phương. Đánh giá,
phân tích trạng thái thể thao của các VĐV trước thi đấu theo kết quả thi đấu
4. Trung Quốc: Vận động viên được tuyển chọn theo cách thức sau: HLV sẽ là
người phát hiện ra những VĐV tài năng qua các sự kiện thể thao tại các trường học;
- Giáo viên GDTC sẽ đưa ra nhận xét về học sinh được lựa chọn; Những học
sinh này sẽ phải kiểm tra về thể lực, hình thái, chức năng tâm sinh lý.
- Những học sinh từ 13-17 tuổi có tài và khả năng đặc biệt sẽ được tuyển chọn
vào các trường năng khiếu thể thao, tất cả các chi phí do nhà nước trợ cấp.
- Quá trình tuyển chọn, đào tạo cũng thực hiện theo 4 giai đoạn thông dụng như
các quốc gia có nền thể thao phát triển mạnh như Nga, Tây Âu, Mỹ, Úc trên thế giới.
Từ dẫn chứng trên cho thấy, những quốc gia đang thống trị các thành tích, kỷ
lục thể thao trên các đấu trường Olympic và thế giới, đã ứng dụng rộng rãi khoa học
tuyển chọn và đào tạo tài năng thể thao một cách có hiệu quả từ nhiều năm trước. Quá
trình này được Nhà nước hoặc các tổ chức xã hội đầu tư bài bản, khoa học và hệ thống
tất cả các điều kiện cần thiết cho tài năng thể thao phát triển như : tuyển chọn, đào tạo
huấn luyện, trang thiết bị , cơ sở vật chất, kinh phí, chế độ ưu đãi cho VĐV, HLV…
(Phụ lục 1).
1.1.2. Ở Việt Nam
Ở Việt Nam vào những năm 2000 nghiên cứu về tuyển chọn, đào tạo tài năng thể
thao đã bắt đầu được một số nhà khoa học quan tâm, những kết quả nghiên cứu về
tuyển chọn, đào tạo tài năng thể thao qua các test y học, sư phạm và tâm lý... đã giúp
cho việc tuyển chọn thu được kết quả tương đối tốt. Chúng ta bước đầu đã ứng dụng
khoa học tuyển chọn, đào tạo tài năng thể thao vào thực tế và tuyển chọn được một số
VĐV có năng khiếu đặc biệt đưa vào huấn luyện như: Nguyễn Thị Ánh Viên, Lê Tú
Chinh, Nguyễn Thị Huyền, Dương Thuý Vi, Lê Thanh Tùng, Hoàng Anh Tuấn, Trần
Hiếu Ngân... Đặc biệt là đội tuyển bóng đá U23 của Việt Nam đã chiến thắng vang dội,
làm nên lịch sử trong trận bán kết giải vô địch U23 Châu Á tại Giang Tô Trung Quốc...
Để các vận động viên Việt Nam giành được huy chương vàng, bạc, đồng danh giá tại
đấu trường châu lục và Olympic thì vận động viên phải hội tụ nhiều yếu tố như: Phải
có năng khiếu thể thao xuất chúng; quá trình huấn luyện phải khoa học - hợp lý; các
điều kiện tập luyện phải đáp ứng được yêu cầu của thể thao thành tích cao; xã hội phải
quan tâm đặc biệt; chế độ tiêu chuẩn của vận động viên phải thỏa đáng và hơn nữa vận
động viên phải đam mê và quyết tâm cao để vượt qua khó khăn, gian khổ trong suốt
cuộc đời tập luyện của người vận động viên.
Ở Việt Nam quá trình tuyển chọn cũng theo 4 giai đoạn giống các nước có nền
thể thao tiên tiến trên thế giới, tuy nhiên đầu tư về kinh phí, trang thiết bị tập luyện, cơ
hội giao lưu thi đấu quốc tế của VĐV rất hiếm hoi, chỉ những trường hợp đặc biệt xuất
sắc mới được quan tâm, những trường hợp khác chưa thực sự được chú ý, đây cũng là
những bất cập ảnh hưởng không nhỏ tới sự phát triển của thể thao thành tích cao Việt
Nam.
Chúng ta cùng phân tích một số trường hợp tiêu biểu sau đây để tìm ra mô hình
tìm kiếm và phát triển tài năng thể thao phù hợp với Việt Nam:
1. Nguyễn Thị Ánh Viên
Nguyễn Thị Ánh Viên (sinh ngày 9 tháng 11 năm 1996 tại ấp Ba Cau, xã Giai
Xuân, huyện Phong Điền, thành phố Cần Thơ) là 1 nữ vận động viên thuộc đội tuyển
bơi lội quốc gia Việt Nam. Khi 19 tuổi cô đã giành 8 huy chương vàng, 1 huy chương
bạc, 1 huy chương đồng cho Việt Nam và phá 8 kỷ lục và được công nhận là vận động
viên ngoài Singapore xuất sắc nhất tại Đại hội Thể thao Đông Nam Á
9
2015 ở Singapore, với 8 huy chương vàng giành được, Ánh Viên là người giành nhiều
huy chương vàng thứ 2 sau vận động viên bơi lội nam Joseph Schooling của Singapore
tại Seagame 28. Ánh Viên còn đứng thứ 25 thế giới cự ly 400m tự do của nữ và thứ 9
thế giới nội dung 400m hỗn hợp. Cô cũng là vận động viên duy nhất của Việt Nam, từ
khi hội nhập 1993, được đầu tư trọng điểm. Việc tập huấn dài hạn trong 6 năm
tại Florida, Hoa Kỳ, cường quốc số 1 về bơi lội, của cô có kinh phí lên tới gần 12 tỷ
đồng.
Ban đầu được ông nội dạy bơi, đến khi học lớp 5, Ánh Viên được nhà trường
chọn đi thi đấu tại Hội khỏe Phù Đổng cấp huyện. Với thành tích xuất sắc, Ánh Viên
tiếp tục được chọn đi thi đấu tại Hội khỏe Phù Đổng cấp thành phố. Sau đó Ánh Viên
đã được các huấn luyện viên của Trung tâm TDTT Quốc phòng 4 (Quân khu 9) tuyển
chọn huấn luyện.
Năm 2012 Nguyễn Thị Ánh Viên được đưa sang Mỹ ăn tập dài hạn trong vòng
6 năm với kinh phí 2 tỷ đồng/năm (ngành Thể thao chi 60 nghìn USD còn đơn vị chủ
quản quân đội chi 40 nghìn USD, hơn cả tổng kinh phí môn bơi được cấp mỗi năm).
Được tập luyện tại Mỹ, Ánh Viên khoác áo câu lạc bộ bơi Saint Augustine
(bang Florida), CLB nổi tiếng Ebiscobal và được dẫn dắt bởi chuyên gia Cray Anthony
Teeters, một trong những HLV giỏi nhất của làng bơi lội Mỹ. Tại chặng một FINA
World Cup 2015 tại Moscow, Nga, Ánh Viên đã xuất sắc mang về 2 tấm huy chương
danh giá cho đoàn thể thao Việt Nam: huy chương đồng ở nội dung 200m hỗn hợp và
huy chương bạc ở nội dung 400m hỗn hợp cá nhân. Tại chặng 2 ở Paris, Ánh Viên tiếp
tục giành thêm 1 tấm huy chương Bạc nội dung 400m hỗn hợp cá nhân. 2017, Ánh
Viên đã lập kỉ lục khi có riêng cho mình 8 chiếc HCV ở các nội dung 200m tự do, 50m
ngửa, 400m hỗn hợp, 200m hỗn hợp, 800m tự do, 400m tự do, 200m ngửa, 100m
ngửa; hai HCB ở các nội dung 200m ếch, 100m tự do và phá 3 kỉ lục của Sea Games.
Đến nay sau hơn 5 năm tập huấn tại Mỹ với khoản kinh phí trên 10 tỷ đồng,
kình ngư Nguyễn Thị Ánh Viên đã bước lên đỉnh cao thế giới với hàng loạt kỳ tích, mà
mới nhất là hai tấm huy chương tại Cúp Thế giới.
2. Lê Tú Chinh
VĐV chạy cự ly ngắn Lê Tú Chinh được phát hiện, tuyển chọn tại trường tiểu
học Tuy Lý Vương quận 8 TPHCM. Cô được tập luyện tại Trung tâm Thể thao TP
HCM. Tháng 11/2016, trong khuôn khổ Giải điền kinh VĐQG 2016 tại Hàng Đẫy, Tú
Chinh giành HCV nội dung 100 và 200m, qua đó tái lập được kỳ tích của chính HLV
Thanh Hương. Lê Tú Chinh chính là người đã chấm dứt cơn khát huy chương của
TP.HCM sau 21 năm.. Nhận thấy được vai trò, tầm quan trọng cũng như những điều
kiện cần thiết để ươm mầm tài năng, tạo điều kiện tối ưu cho tài năng tỏa sáng tháng
2/2018, VĐV điền kinh Lê Tú Chinh cùng HLV Nguyễn Thị Thanh Hương đã
lên đường sang Mỹ tập huấn dài hạn. Chuyến tập huấn của Tú Chinh kéo dài
trong 4 năm tại học viện thể thao IMG (bang Floria, Mỹ). Dự kiến, chi phí học
và tập huấn tại Học viện IMG của Lê Tú Chinh vào khoảng 60.000 USD/năm.
Mục tiêu của Tú Chinh là giành huy chương tại ASIAD 2018.
2. Đội tuyển bóng đá U 23 Việt Nam
Đội cầu thủ U23 Việt Nam gồm 23 cầu thủ trong đó có 6 cầu thủ thuộc
(HAGL), 6 (Hà Nội), 3 (SHB Đà Nẵng), 2 (Sài Gòn), 2 (Viettel), 2(FLC Thanh Hóa),
1 (SLNA) và 1 (Gangwon FC). Qua danh sách trên cho thấy, 23 cầu thủ đội tuyển
bóng đá U23 Việt Nam chủ yếu được tuyển chọn, đào tạo tại 7 Trung tâm bóng đá nổi
tiếng trong cả nước. Quá trình tuyển chọn, đào tạo đều bài bản, có sự đầu tư lớn và
được xã hội hóa tối đa.
10
Dẫn chứng quá trình tuyển chọn, đầu tư tài chính và đào tạo VĐV bóng đá tại
Học viện HAGL – JMG (Học viện bóng đá HAGL) như sau: Học viện tổ chức tuyển
sinh hai năm một lần. Năm 2007, trong số 7.000 thí sinh đã có 16 người trúng tuyển.
Năm 2009, từ 9.991 thí sinh chỉ chọn được 10 em đến từ 21 tỉnh thành. Các học viên
thuộc lứa tuổi từ 12 đến 14. Các học viên được đào tạo tại đây trong 7 năm, không
phải đóng bất kỳ khoản chi phí nào. Trúng tuyển, học viên được Học viện lo toàn bộ
chi phí ăn, học văn hoá, tiếng Anh và tiếng Pháp. Chế độ sinh hoạt, ăn uống của các
học viên ở đây với chi phí khoảng 400 triệu đồng/em/năm.
Quá trình huấn luyện nghiêm ngặt tuân theo các quy luật của Huấn luyện thể
thao chuyên nghiệp được các huấn luyện viên tài năng, giàu kinh nghiệm đến từ
Vương Quốc Anh thực hiện.
Tóm lại: Từ những dẫn chứng trên cho ta thấy, thành công của các vận động
viên Việt Nam (Nguyễn Thị Ánh Viên, Lê Tú Chinh, Đội bóng đá U23 Việt Nam) đều
phụ thuộc vào các yếu tố quyết định sau:
1. Phải tuyển chọn được các em có năng khiếu thể thao bẩm sinh đặc biệt trên
cơ sở ứng dụng các phương tiện, phương pháp tuyển chọn khoa học hiện đại.
2. Các điều kiện đảm bảo để tài năng tỏa sáng như: đầu tư tài chính, cơ sở vật
chất, phương tiện tuyển chọn, huấn luyện, chế độ tiêu chuẩn của VĐV, HLV.
3. Vận động viên phải thường xuyên được tham gia các giải đấu trong nước và
quốc tế.
4. Vận động viên phải được đào tạo tại những trung tâm thể thao lớn có uy tín ở
trong nước và quốc tế, đặc biệt là các nước Châu Âu, châu Mỹ…
Từ thực tế công tác tuyển chọn, đào tạo VĐV các môn thể thao ở các tuyến, các
tỉnh thành trên toàn quốc cũng chỉ ra rằng: Việc tuyển chọn, đào tạo (huấn luyện) tài
năng thể thao vẫn còn nhiều bất cập, tuyển chọn, đào tạo theo kinh nghiệm vẫn phổ
biến, một số huấn luyện viên không chủ động học hỏi, vươn lên trong việc tiếp cận với
khoa học tuyển chọn, huấn luyện hiện đại nên tụt hậu, kết quả tuyển chọn, huấn luyện
chưa cao... Kinh phí đầu tư cho tập luyện, tập huấn của VĐV, HLV quá thấp (trung
bình 190 ngàn/1 người/1 ngày cả ăn ở, đi lại) cho VĐV các đội tuyển trẻ của cá tỉnh
thành phố. Đây có thể là những khó khăn cần nhanh chóng tháo gỡ nếu muốn thể thao
Việt Nam nhanh chóng phát triển theo kịp các nước trong khu vực và thế giới.
1.1.2.1. Về đầu tư tài chính, cơ sở vật chất, phương tiện tuyển chọn, huấn
luyện
- Trên cơ sở giao dự toán ngân sách nhà nước cấp cho từng năm các đơn vị
chuyên môn làm nhiệm vụ quản lý, tuyển chọn và đào tạo tài năng thể thao có kế
hoạch giải ngân phục vụ nhiệm vụ chính trị của mình. Bên cạnh đó công tác tuyển
chọn, đào tạo tài năng thể thao đã có những đổi mới tích cực như: xã hội hóa được chú
trọng nhằm huy động mọi nguồn lực trong xã hội đầu tư cho phát triển thể thao thành
tích cao và thể thao chuyên nghiệp.
- Tăng cường phát triển kinh tế thể thao, xác định rõ các lĩnh vực hoạt động
kinh doanh thể dục, thể thao, thúc đẩy hoạt động kinh doanh thể thao chuyên nghiệp;
khuyến khích các hình thức liên doanh, liên kết, hợp tác giữa nhà nước, các tổ chức xã
hội - nghề nghiệp, các doanh nghiệp và các tổ chức, cá nhân trong phát triển kinh
doanh thể dục, thể thao ở trong và ngoài nước, phù hợp với chủ trương, chính sách của
Đảng, pháp luật của Nhà nước.
- Từng bước chuyển giao các hoạt động tác nghiệp trong hoạt động thể dục, thể
thao cho các liên đoàn, hiệp hội thể thao thực hiện.
11
- Công tác tuyển chọn, đào tạo tài năng thể thao đã có những đổi mới về mục
tiêu; đa dạng hoá loại hình đào tạo và các nguồn kinh phí, việc xã hội trong tuyển
chọn, đào tạo tài năng thể thao bước đầu đã có những chuyển biến rõ rệt, nhiều tập
đoàn lớn tham gia tích cực, có hiệu quả như: HAGL, JMG, VinGroup, Viettel… đóng
góp quan trọng cho sự phát triển toàn diện của thể thao thành tích cao, thể thao chuyên
nghiệp Việt Nam.
Đại hội Thể thao Đông Nam Á năm 2003 là SEA Games lần thứ 22 được tổ
chức tại Việt Nam từ 5 đến 13 tháng 12 năm 2003. Đây là lần đầu tiên Việt Nam đăng
cai SEA Games, địa điểm thi đấu được tổ chức tại 10 tỉnh và thành phố trên cả nước là:
Hà Nội, Thành phố Hồ Chí Minh, Bắc Ninh, Hải Phòng, Hải Dương, Nam Định, Ninh
Bình, Phú Thọ, Vĩnh Phúc và Hòa Bình. Có thể nói để Đại hội Thể thao Đông Nam Á
năm 2003 ( SEA Games lần thứ 22) thành công tốt đẹp, Đảng, Nhà nước đã đầu tư xây
dựng mới nhiều sân vận động nhà thi đấu, trang thiết bị dụng cụ tập luyện... đến nay
sau 15 năm khai thác, sử dụng nhiều sân vận động, nhà thi đấu... đã xuống cấp cần
phải tu sửa lại. Tuy nhiên do nguồn kinh phí hạn hẹp dành cho thể dục thể thao nên
gặp nhiều khó khăn. Mặc dù vậy việc khai thác để tập luyện vẫn được tiến hành
thường xuyên.
1.1.2.2. Công tác nghiên cứu, ứng dụng khoa học và công nghệ để nâng cao
chất lượng tuyển chọn, đào tạo.
- Hoạt động nghiên cứu và triển khai ứng dụng các thành tựu khoa học và công
nghệ vào tuyển chọn, đào tạo tài năng thể thao được các trường đại học TDTT, Các
Trung tâm đào tạo VĐV quốc gia quan tâm nghiên cứu. hàng năm có nhiều kết quả
nghiên cứu được ứng dụng vào thực tế trong các lĩnh vực của thể thao thành tích cao
như: Huấn luyện thể thao, tuyển chọn thể thao, quản lý thể thao, kinh tế thể thao, y học
thể thao.
- Việc tháo gỡ nhiều rào cản, tạo mọi điều kiện thuận lợi nhất để huy động động
tối đa các nguồn lực ở trong và ngoài nước đầu tư cho khoa học và công nghệ, ứng
dụng vào hoạt động thể dục, thể thao được thực hiện.
- Tăng cường đầu tư trang thiết bị phục vụ nghiên cứu và ứng dụng khoa học và
công nghệ trong y học thể thao cho các cơ sở y học thể thao và các cơ sở thể thao
khác, đáp ứng yêu cầu nghiên cứu khoa học, kiểm tra y học, đánh giá thể chất, phòng
ngừa, chữa trị, hồi phục chấn thương, nhất là đối với thể thao thành tích cao.
- Phát huy lợi thế của các cơ sở đào tạo, nghiên cứu về thể dục, thể thao trong
đào tạo, bồi dưỡng, nâng cao trình độ cho nhân lực khoa học và công nghệ trong hoạt
động thể dục, thể thao.
1.1.2.3. Công tác hợp tác quốc tế về tuyển chọn, đào tạo
- Các cơ sở đào tạo, các Trung tâm huấn luyện thể thao quốc gia, các Liên đoàn,
Hiệp hội thể thao, Ủy ban Olympic Việt Nam đã chủ động, tích cực triển khai có hiệu
quả các hoạt động hợp tác quốc tế; củng cố và phát triển các hoạt động hợp tác với các
quốc gia, vùng lãnh thổ, khu vực đã và đang có quan hệ hợp tác truyền thống về thể
dục, thể thao, chú trọng khu vực Đông Nam Á, châu Á và một số quốc gia khác; hợp
tác đào tạo, tập huấn VĐV trong các môn thể thao thế mạnh của mỗi quốc gia; nghiên
cứu khoa học, đào tạo cán bộ quản lý, huấn luyện viên.
- Đẩy mạnh hợp tác, liên kết với các quốc gia phát triển về thể dục, thể thao ở
châu Á và thế giới, chú trọng các nội dung hợp tác, liên kết đặc thù đối với mỗi quốc
gia; duy trì hợp tác với Hội đồng thể thao quân sự quốc tế (CISM).
- Khuyến khích các tổ chức, cá nhân nước ngoài tham gia đầu tư, hỗ trợ nguồn
lực phát triển thể dục, thể thao Việt Nam.
12
1.1.2.4. Về cơ chế chính sách trong tuyển chọn, đào tạo tài năng thể thao
Từ năm 1990 đến nay Thủ tướng Chính phủ, các Bộ, ngành có liên quan đã ban
hành 12 văn bản liên quan tới chế độ, chính sách của huấn luyện viên, VĐV thể thao
như sau (bảng 1):
Bảng 1. văn bản liên quan tới chế độ, chính sách
của huấn luyện viên, vận động viên thể thao
ST
Ngày ban
Số hiệu
Nội dung
T
hành
1 TTLB 01/TTLB/BGD10/1/1990 Thông tin về một số chế độ đối với
TCTDTT-BTCgiáo viên, vận động viên, huấn luyện
BLĐTBXH
viên thể dục thể thao
2 TTLB 86/TTLB/24/10/1994 Thông tư về hướng dẫn thực hiện chế
TCTDTT-BTCđộ dinh dưỡng đối với VĐV và HLV
BLĐTBXH
thể thao
3 TTLT 14/1998/TTLT30/12/1998 Thông tư về hướng dẫn thực hiện một
BTCCBCP-BLĐTBXHsố chế độ đối với vận động viên, huấn
BTC-UBTDTT
luyện viên thể thao
4 QĐ 429/1999/QĐ4/5/1999 Quyết định về việc tạm thời mức tiền
UBTDTT
thưởng cho các vận động viên, huấn
luyện viên đạt huy chương ở giải vô
địch trẻ và giải thể thao quần chúng
cấp quốc gia
5 TTLT
16/8/1999 Thông tư về việc hướng dẫn nội dung
98/1999/TTLT/BTCvà mức chi chương trình quốc gia về
UBTDTT
thể thao
6 TTLT
5/11/2004 Thông tư về việc hướng dẫn thực hiện
103/2004/TTLT/BTCchế độ dinh dưỡng đối với vân động
UBTDTT
viên, huấn luyện viên thể thao
7 QĐ 15/2005/QĐ7/1/2005 Quyết định về việc ban hành quy định
UBTDTT
khung về phong đẳng cấp vận động
viên cho các môn thể thao
8 QĐ 44/2005/QĐ13/1/2005 Quyết định về việc ban hành quy chế
UBTDTT
đảm bảo y tế cho vận động viên các
đội tuyển thể thao
9 QĐ số 234/2006/QĐ-TTg 18/10/2006 Quyết định về một số chế độ đối với
Huấn luyện viên, Vận động viên thể
thao
10 32/2011/QĐ-TTG
06/06/2011 Về một số chế độ đối với huấn luyện
viên, vận động viên thể thao được tập
trung tập huấn và thi đấu
11 149/2011/TTLT-BTC07/11/2011 về hướng dẫn thực hiện chế độ dinh
BVHTTDL
dưỡng đặc thù đối với vận động viên,
huấn luyện viên thể thao thành tích cao
12 QĐ số 82/2013/QĐ-TTg
31/12/2013 Về một số chính sách đặc thù đối với
huấn luyện viên, vận động viên thể thao
xuất sắc
13
Đối với huấn luyện viên, vận động viên trực thuộc Bộ công an và Bộ Quốc
phòng quản lý cũng có những chế độ riêng phù hợp để huấn luyện viên, vận động viên
yên tâm tập luyện, thi đấu. Ví dụ, ngày 12 tháng 09 năm 2016, Bộ Quốc phòng đã ban
hành Thông tư số 138/2016/TT-BQP hướng dẫn thực hiện một số chế độ đối với HL
viên, vận động viên thể thao quân đội được tập trung tập huấn và thi đấu (phụ lục 2).
1.2. Yếu tố ảnh hưởng tới tuyển chọn, đào tạo tài năng thể thao
1.2.1. Tính đặc thù trong tuyển chọn, đào tạo tài năng thể thao.
Tài năng thể thao(vận động viên tài năng) là sự kết hợp ổn định của các khả
năng vận động, tâm lý, cũng như các tư chất giải phẫu - sinh lý, tạo thành tiềm năng
tổng hợp để đạt thành tích cao ở môn thể thao đó. Tài năng thể thao không mang tính
chất bẩm sinh, nhưng những tiền đề sinh vật học tự nhiên như: đặc điểm giải phẫu sinh lý, năng lực chuyển hóa sinh học... là những yếu tố cơ bản để phát triển tài năng
thể thao thì lại luôn mang tính di truyền. Khả năng đạt thành tích cao hay thấp trong
hoạt động vận động nào đó tùy thuộc vào mức độ và chất lượng của sự kết hợp ấy. Bản
thân những tư chất sinh học mới chỉ là những tiền đề sinh học, trong đó các dạng năng
khiếu còn đang tiềm ẩn, chưa bộc lộ. Vì vậy, để một tài năng thể thao có được thành
tích thể thao cao trong tương lai, cần phải tập luyện lâu dài nhằm xây dựng vững chắc
được các kỹ năng, kỹ xảo động tác của môn thể thao chuyên sâu và rèn luyện các
phẩm chất tâm lý cần thiết. Một thành tích thể thao nổi bật là kết quả không chỉ của
quá trình khổ luyện, mà còn là kết tinh của các năng lực mang đặc điểm di truyền vốn
có của chính VĐV.
Như vậy, tài năng thể thao là sự tổng hòa những đặc điểm rất đa dạng về hình
thái, chức phận, tâm lý, các tố chất thể lực và những đặc điểm khác của con người kết
hợp với sự tập luyện kiên trì, lâu dài để đạt được những kết quả kỷ lục trong từng môn
thể thao cụ thể. Việc tuyển chọn, đào tạo tài năng thể thao là một quá trình chặt chẽ,
khoa học và lâu dài. Là quá trình tuân thủ những nguyên tắc huấn luyện đặc thù
nghiêm ngặt mang tính đặc thù rất cao.
Huấn luyện viên tài năng chủ yếu đều xuất thân từ vận động viên cấp cao có
trình độ chuyên môn giỏi sau khi không còn khả năng giành huy chương trong các giải
đấu quốc gia, quốc tế. Họ là những người đã có quá trình tập luyện gian khổ, đã được
tôi luyện ý chí, nghị lực, sự quyết tâm vượt qua những khó khăn, những yêu cầu khắt
khe, nghiêm ngặt của thể thao thành tích cao. Họ là những người đã được tích lũy vốn
kinh nghiệm dày dạn, phong phú thông qua quãng đời hoạt động thể thao chuyên
nghiệp, họ có khát vọng vươn lên, có đam mê nghề nghiệp cháy bỏng, có phẩm chất,
nhân cách, đạo đức tốt muốn tiếp tục cống hiến khả năng, sức lực của mình cho sự
phát triển thể thao của nước nhà...
1.2.2. Quy trình tuyển chọn, đào tạo(huấn luyện) tài năng thể thao
Huấn luyện thể thao được xây dựng như một quá trình nhiều năm bao gồm các
thời kỳ lứa tuổi của VĐV. Nội dung và hình thức cấu trúc huấn luyện sẽ thay đổi để
phù hợp với đặc điểm lứa tuổi và Logic quá trình hoàn thiện thể thao. Trên thực tế quá
trình huấn luyện nhiều năm được phân chia tương đối thành 4 giai đoạn lớn, ở mỗi giai
đoạn đó tập luyện mang những đặc điểm cơ bản: giai đoạn chuẩn bị thể thao sơ bộ,
giai đoạn chuyên môn hóa thể thao bước đầu(hoặc chuẩn bị cơ sở), giai đoạn hoàn
thiện sâu và giai “đoạn tuổi thọ thể thao”. Giới hạn tuổi của các giai đoạn đó giao động
khá lớn (tùy thuộc tính chất riêng biệt của các môn thể thao và những đặc điểm cá
nhân của VĐV).
Hiện nay giai đoạn 3 được nghiên cứu đầy đủ hơn cả. Sự chú ý của các nhà
nghiên cứu trước tiên tập chung vào giai đoạn này vì nó có quan hệ đến những nhiệm
14
vụ chuẩn bị các đội tuyển quốc gia tham gia các cuộc thi đấu quốc tế quan trọng. Hiện
nay những hiểu biết khoa học về những gia đoạn khác còn có nhiều hạn chế. Điều đó
cắt nghĩa chủ yếu bằng những khó khăn của việc thu thập những số liệu nghiên cứu về
cả “quãng đường” nhiều năm tiến tới những thành tích cao trong thể thao. Tuy vậy để
quá trình tuyển chọn, đào tạo có hiệu quả tốt cả 4 giai đoạn này đều có vai trò quan
trọng không thể coi nhẹ.
Thực tế việc tuyển chọn, đào tạo tài năng thể thao cho thấy đây là quá trình trải
qua 2 giai đoạn lớn là tuyển chọn, đào tạo tài năng trẻ và tuyển chọn, đào tạo tài năng
cấp cao.
Giai đoạn 1 đào tạo tài năng trẻ: VĐV, huấn luyện viên (HLV) tương lai được
tuyển chọn, đào tạo tại các trường đại học TDTT, trường năng khiếu thể thao, các
trung tâm thể thao các tỉnh, thành phố trên cả nước.
Giai đoạn 2 tuyển chọn, đào tạo tài năng cấp cao: VĐV, HLV được tuyển chọn
huấn luyện tại 04 trung tâm huấn luyện thể thao quốc gia và trung tâm đào tạo VĐV
của Đại học TDTT Bắc Ninh có kết hợp huấn luyện đào tạo tại các TTHLTT ngoài
nước.
1.2.3. Các điều kiện đảm bảo chất lượng tuyển chọn, đào tạo
Thành tích thể thao cao phụ thuộc vào các điều kiện cơ bản sau:
1.2.3.1. Đối với vận động viên
- Phải tuyển chọn được trẻ em có năng khiếu bẩm sinh phù hợp với nội
dung thi đấu ở môn thể thao nhất định nào đó.
- Trẻ em sau khi đã được tuyển chọn phải được đưa vào các trường năng
khiếu thể thao để huấn luyện và tuyển chọn theo các quy trình định sẵn.
- Việc học văn hóa trong chương trình phổ thông từ mẫu giáo tới trung học
phổ thông, đại học… phải được quan tâm thích đáng.
- Chế độ chính sách, chế độ khen thưởng… phải cụ thể, khuyến khích được
các VĐV, gia đình VĐV yên tâm, tin tưởng, để VĐV chuyên tâm, tích cực tập
luyện.
- Chế độ dinh dưỡng, hồi phục…. phải được thực hiện tốt đảm bảo để
VĐV, huấn luyện viên có đủ sức lực, tinh thấn quyết tâm vượt qua những khó khăn
trong tập luyện để vươn tới thành tích mới, đỉnh cao mới.
- Trang thiết bị, sân bãi tập luyện phải đảm bảo đáp ứng được những yêu
cầu tập luyện…
- Trong quá trình tập luyện, nếu VĐV không có khả năng đạt thành tích
cao, không thể tiến xa hơn trên con đường chinh phục kỷ lục thể thao, hoặc họ bị
chấn thương… các cơ quan ngành thể dục thể thao phải có giải pháp kịp thời giúp
họ có hướng phát triển mới trong tương lai.
- Khi VĐV chuyên nghiệp sau thời gian dài cống hiến sức lực, trí tuệ, tài
năng của mình cho thể thao thành tích cao đã hết khả năng đạt huy chương ngành
thể thao phải có giải pháp thích hợp tạo điều kiện học tập nâng cao trình độ, hoặc
tạo công ăn việc làm phù hợp, tương ứng để họ không gặp những khó khăn do
ngành nghề mang lại, ảnh hưởng xấu tới nhu cầu, động cơ của những VĐV khác.
1.2.3.2. Đối với huấn luyện viên
- Huấn luyện viên phải là những người giỏi có nhiều kinh nghiệm trong tập
luyện và thi đấu thể thao, họ đã trải qua thời kỳ là VĐV chuyên nghiệp, huấn luyện
viên phải có đạo đức, phẩm chất nhân cách tốt, có lòng say mê yêu nghề, có trách
nhiệm cao.
15
- Thường xuyên học hỏi nâng cao trình độ chuyên môn, huấn luyện viên phải
được tham gia các lớp tập huấn, bồi dưỡng trong và ngoài nước.
- Chế độ chính sách của huấn luyện viên phải được quan tâm thích đáng để
họ yên tâm làm chuyên môn.
- Để trở thành huấn luyện viên tài năng, những vận động viên này cần được đào
tạo bài bản, khoa học tại các trường Đại học có uy tín về TDTT ở trong và ngoài nước,
trên cơ sở đó giúp họ cập nhật những kiến thức mới tiên tiến, hiện đại về huấn luyện
thể thao của các quốc gia trên thế giới kết hợp với kinh nghiệm bản thân đã tích lũy
cùng với nhiều điều kiện cần thiết đảm bảo khác... họ mới có cơ hội trở thành huấn
luyện viên tài năng.
1.2.3.3. Các điều kiện đảm bảo cho tài năng thể thao phát triển.
-Trang thiết bị, sân bãi dụng cụ, phương tiện tập luyện, thi đấu… phải đầy đủ,
đáp ứng được yêu cầu cao trong tập luyện.
- HLV, VĐV phải được tham gia các giải đấu trong nước, quốc tế thường xuyên.
- Chính sách đãi ngộ, khen thưởng, kỷ luật phải thỏa đáng, công bằng, kịp
thời…
- Vấn đề sử dụng nhân lực sau đào tạo phải phù hợp, nhân văn: Để đạt được
thành tích thể thao VĐV phải trải qua quá trình tập luyện kiên trì, lâu dài 8 đến 10
năm mới có cơ hội đạt huy chương, kỷ lục trong các giải đấu quốc tế. Tuy nhiên
thành tích khó đạt được, trong khi rủi ro luôn dình dập. VĐV luôn đối mặt với căng
thẳng của lượng vận động tập luyện, với sức ép tâm lý của thành tích, của huấn
luyện viên, của đối phương, khán giả, trọng tài, thời tiết, chấn thương,…. trong tập
luyện. Vì vậy, vấn đề sử dụng tài năng thể thao sau khi không còn khả năng đạt
thành tích cao có ý nghĩa rất quan trọng. Thời gian huấn luyện dài, thời gian đạt
thành tích ngắn, thậm chí có VĐV chưa kịp thi đấu để giành thành tích đã phải giải
nghệ vì chấn thương, hoặc nhiều lý do khác… Giải quyết việc làm đối với họ thực
sự là vấn đề phải được quan tâm hàng đầu, có như vậy những VĐV trẻ tài năng
khác, những huấn luyện viên khác mới đam mê đem hết khả năng của mình để cống
hiến cho sự phát triển của thể thao đỉnh cao nước nhà.
- Vấn đề cơ chế chính sách đãi ngộ đối với tài năng thể thao: Cơ chế chính
sách đãi ngộ đối với tài năng thể thao có ý nghĩa quan trọng trong việc tuyển chọn
VĐV trẻ tương lai. Có thể thấy, chế độ ưu đãi trong học tập văn hóa, chế độ bồi
dưỡng tập luyện, chế độ lương, bảo hiểm, cơ chế đãi ngộ đặc biệt, khuyến khích
nhân tài..., góp phần quyết định đến vấn đề thu hút người người có tài, tâm huyết,
cống hiến với nghề nghiệp. Tuy nhiện vấn đề này hiện nay còn nhiều bất cập. VĐV
các trường năng khiếu thể thao gặp rất nhiều khó khăn trong việc đan xen giữa học
văn hóa và tập luyện thể thao.
- Toàn xã hội phải chung tay góp sức người, sức của, đồng lòng tiếp thêm
sức mạnh cho vận động viên, huấn luyện viên có thêm động lực, niềm tin, sự quyết
tâm trong tập luện thi đấu để giành giải cao trong các cuộc thi châu lục thế giới và
Olympic.
1.2.4. Thực trạng tuyển chọn, đào tạo tài năng thể thao giai đoạn
2008 -2017
1.2.4.1.Tuyển chọn, đào tạo vận động viên thể thao tài năng
Hiện nay tham gia tuyển chọn, đào tạo vận động viên thể thao tài năng, có 6 cơ
sở trực thuộc Bộ Văn hóa, Thể thao và Du lịch là: Đại học Thể dục thể thao Bắc Ninh;
Trung tâm huấn luyện thể thao quốc gia Hà Nội; Trung tâm huấn luyện thể thao quốc
gia Thành phố Hồ Chí Minh; Trung tâm huấn luyện thể thao quốc gia Đà Nẵng; Trung
16
tâm huấn luyện thể thao quốc gia Cần Thơ và Viện Khoa học Thể dục thể thao cùng
với 27 Liên đoàn, Hiệp hội thể thao cấp quốc gia và 02 tổ chức xã hội về thể dục, thể
thao là Ủy ban Olympic Việt Nam.
Ngoài ra có các Trung tâm HL thể thao phụ trợ: Trung tâm huấn luyện thể thao
(TTHLTT) thành phố Hà Nội, TTHLTT thành phố Đà Nẵng, TTHLTT thành phố Hồ
Chí Minh, TTHLTT thành phố Hải phòng, TTHLTT thành phố Cần Thơ, Trung tâm
huấn luyện thể thao Quân đội nhân dân, Trung tâm huấn luyện thể thao Công an nhân
dân, 01 Trường Cao đẳng TDTT, 03 Trường Trung cấp TDTT do các tỉnh thành phố
quản lý, khoảng trên 1.100 Trung tâm huấn luyện thể thao, câu lạc bộ thể thao, trường
năng khiếu thể thao, thuộc 63 tỉnh thành trên cả nước tham gia tuyển chọn, đào tạo tài
năng thể thao.
Việc tuyển chọn, đào tạo tài năng thể thao còn được thông qua phong trào
TDTT trong các trường học, sẽ phát hiện được trẻ em có năng khiếu để đưa đi đào tạo.
Việc tuyển chọn, đào tạo vận động viên tài năng được thực hiện theo 3 giai
đoạn sau:
Giai đoạn 1. Chuẩn bị thể thao sơ bộ: Bắt đầu từ tuổi học sinh cấp I (trong một
số môn TT có thể sớm hơn, ví dụ: thể dục thi đấu, trượt băng nghệ thuật có thể tuyển
chọn, huấn luyện từ 4 đến 5 tuổi). Huấn luyện thể thao trong giai đoạn này chỉ mang
tính ước lệ, buổi tập được xây dựng chủ yếu theo hình thức huấn luyện thể lực chung,
với việc sử dụng rộng rãi các phương tiện giáo dục và giáo dưỡng thể chất toàn diện,
vừa sức. Trẻ em được thử sức mình trong nhiều môn thể thao khác nhau và nhờ sự
hướng dẫn của các nhà sư phạm mà chọn cho các em môn tập phù hợp. Giai đoạn này
thường được kéo dài từ 1 - 2 năm. Kết thúc giai đoạn này và chuyển sang giai đoạn
tiếp theo khi lựa chọn được một môn thể thao chuyên sâu.
Giai đoạn 2. Chuyên môn hoá thể thao bước đầu: (hoặc chuẩn bị cơ sở): Giai
đoạn này đặt nền móng cho thành công trong tương lai, chuyên môn hóa bước đầu
thực hiện theo xu hướng huấn luyện chung là chủ yếu. Giai đoạn này VĐV được
chuyên môn hoá đa môn. Trong giai đoạn chuyên môn hóa ban đầu tính thể thao cũng
tăng lên dần. Cuối giai đoạn chuyên môn hóa ban đầu việc huấn luyện được tổ chức
phù hợp với những quy luật thành tích cao trong thể thao. Giai đoạn này kéo dài 3 - 4
năm.
Giai đoạn 3. Hoàn thiện sâu (phát huy khả năng tối đa): Đây là giai đoạn hưng
thịnh nhất cho tập luyện thể thao, cho tiếp cận đỉnh cao của tài nghệ đối với mỗi vận
động viên. Trong giai đoạn này tất cả các quy luật chuyên môn của huấn luyện thể
thao đều bộc lộ rõ rệt, quá trình huấn luyện có đầy đủ đường nét của chuyên môn hoá
sâu, tỷ lệ huấn luyện thể lực, kỹ thuật, chiến thuật, tâm lý chuyên môn tăng đáng kể và
chiếm ưu thế. Tổng khối lượng và cường độ đều tăng với nhịp độ cao và đạt tới mức
tối đa với mỗi cá nhân (thường vào nửa đầu giai đoạn này). Ở giai đoạn này các VĐV
tiếp tục phân hoá: những người có tài năng sẽ được tuyển vào lĩnh vực thể thao thành
tích cao, tiếp tục con đường hoàn thiện tài năng. Còn những người không được vào đội
tuyển họ có thể duy trì xu hướng thành tích tối đa trong chừng mực cụ thể cho phép.
Giai đoạn hoàn thiện sâu được chia làm hai thời kỳ: Thời kỳ “tuổi thành tích cao” tuổi
mà trong đa số các môn thể thao có tuổi từ 18 -22, 22-26... ở một số môn thể thao khác
tuổi có thể cao hơn ở thời kỳ duy trì thành tích.
Giai đoạn 1 và 2 việc tuyển chọn, đào tạo vận động viên thể thao tài năng được
thực hiện tại các Trung tâm huấn luyện thể thao và trường năng khiếu TDTT địa
phương. Hiện nay có khoảng 20.000 VĐV trẻ đang tập luyện và thi đấu tại các trung
tâm thể thao và trường năng khiếu thể thao địa phương. Các cơ sở này có nhiệm vụ
17
tuyển chọn, đào tạo và cung cấp nguồn VĐV trẻ tài năng cho các Trung tâm huấn
luyện thể thao quốc gia.
Giai đoạn 3 khi đã tuyển chọn được các vận động viên trẻ có năng khiếu đặc
biệt và chọn được môn thể thao làm phương tiện thi đấu phù hợp với khả năng của
mình thì được chuyển lên 4 Trung tâm HLTTQG và trường Đại học TDTT Bắc Ninh.
Các cơ sở này có nhiệm vụ huấn luyện cho VĐV thuộc đội tuyển quốc gia phục vụ
trực tiếp cho thi đấu quốc tế.
Qua khảo sát thực tế bằng phiếu hỏi 291(Phụ lục 3) vận động viên đội tuyển
quốc gia đang tập luyện tại Đại học Thể dục thể thao Bắc Ninh; Trung tâm huấn luyện
thể thao quốc gia Hà Nội; Trung tâm huấn luyện thể thao quốc gia Đà Nẵng cho thấy,
vận động viên có năng khiếu đến với tập luyện thể thao là 39,5%; do đam mê thể thao
68,7%; do hoàn cảnh gia đình 2% và thần tượng thể thao 2%; vận động viên tham gia
tập luyện dưới 5 năm 52%; vận động viên tham gia tập luyện trên 5 năm 40 %; VĐV
tham gia tập luyện trên 10 năm 8% (sơ đồ 1).
Sơ đồ 1. Thâm niên tập luyện thể thao chuyên nghiệp
của vận động viên tài năng (n=291)
Thành tích thi đấu đã đạt được qua giải đấu quốc tế huy chương vàng 20,2%;
huy chương bạc 8,2%; huy chương đồng 4,8%.
Mỗi năm vận động viên được tham gia học tập các lớp bồi dưỡng kiến thức 1
lần 33%; 2 lần 23,7%; 3 lần 6,3%; nhiều lần 37%; vận động viên được tham gia thi
đấu trong nước 1 lần 20,3%; 2 lần 19%; 3 lần 26,5%; nhiều lần 34,2% ( sơ đồ 2). Vận
động viên được tham gia thi đấu quốc tế nhiều lần 8,6%; 3 lần 1,7%; 2 lần 6,9%; 1 lần
27,5%; không được thi quốc tế lần nào 55,3% ( sơ đồ 3).
Sơ đồ 2. Số lần tham gia các giải đấu trong nước
của vận động viên(n=291)
18
Sơ đồ 3. Số lần tham gia các giải đấu quốc tế
của vận động viên(n=291)
Sân bãi, dụng cụ đáp ứng yêu cầu tập luyện 63%, Cần trang bị tốt hơn 34,3%,
“Không” đáp ứng được, chiếm tỷ lệ 2,7% (sơ đồ 4).
Sơ đồ 4. Thực trạng sân bãi, dụng cụ phục vụ tập luyện
của vận động viên(n=291)
Việc quản lý, đào tạo VĐV hiện nay là Tốt 61,5%, khá 22,7%, Bình
thường” chiếm tỷ lệ 15,4%, “Kém” chiếm tỷ lệ 0,34% (sơ đồ 5).
Sơ đồ 5. Thực trạng việc quản lý, đào tạo vận động viên
thể thao tài năng(n=291)
Quá trình tập luyện VĐV “Lạc quan” về tương lai của mình 50,5%, Lo lắng” về
tương lai của mình 42%, Không nghĩ gì” về tương lai của mình 7,5% (sơ đồ 6).
19
Sơ đồ 6. Suy nghĩ của các vận động viên thể thao tài năng
về tương lai (n=291)
Chấn thương trong thể thao không làm vận động viên sợ hãi 23,3%, Sợ hãi
70,4%, không nghĩ gì 6,3% (sơ đồ 7).
Sơ đồ 7. Cảm nghĩ của vận động viên thể thao tài năng
về chấn thương trong tập luyện(n=291)
Trong số 291 vận động viên được hỏi có 97,2% muốn được ra nước
ngoài để tập luyện, thi đấu, chỉ có 2,8% không muốn ra nước ngoài, có 82,8%
vận động viên muốn được tập luyện với chuyên gia nước ngoài, 17,1 % thế nào
cũng được hoặc không muốn tập với chuyên gia nước ngoài (sơ đồ 8).
20
Sơ đồ 8. Suy nghĩ của vận động viên về việc tập luyện
với chuyên gia nước ngoài (n=291)
Trong năm 2017, Tổng cục Thể dục thể thao đã triệu tập tập huấn 2.104 lượt
VĐV, (847 lượt VĐV các đội tuyển trẻ) để chuẩn bị tham dự tham dự SEA Games 29,
Đại hội Thể thao trong nhà và Võ thuật châu Á tại Turkmenistan và các đại hội, giải
thể thao quốc tế khác.
VĐV 10 môn thể thao trọng điểm loại I là: điền kinh, bơi, cử tạ, Taekwondo,
vật (hạng cân nhẹ), bắn súng, Karatedo, boxing (nữ), cầu lông, bóng bàn và 22 môn
thể thao trọng điểm loại 2 (bóng đá, bóng chuyền, Judo, Wushu, cầu mây, đấu kiếm,
thể dục dụng cụ, Pencak Silat, bắn cung, xe đạp, cờ vua và cờ tướng, bi sắt, lặn, bóng
ném, Dance Sport, Sport Aerobic, quần vợt, thể hình, Canoe-Kayak, Rowing, BilliardSnooker và Vovinam) thường xuyên được tập huấn, tập trung cả năm.
Ngoài một số những vấn đề cơ bản nêu trên 100% vận động viên thể thao tài
năng đề có mong muốn: Cần nhiều thời gian hơn trong quá trình học văn hóa; có nhiều
phương pháp điều trị chấn thương hơn, quan tâm hơn về việc sinh hoạt của các vận
động viên, tăng tiền công vì hiện tại so với giá cả, chi phí bên ngoài thì tiền công của
VĐV rất thấp, mong được nhận tiền lương đúng hạn, trang bị thêm trang thiết bị, dụng
cụ luyện tập (sửa chữa máy móc, khắc phụ trang thiết bị trong phòng và thêm quạt
vào mùa hè), tạo điều kiện cho đi học trong thời gian có giải đấu, thay đổi về quần áo
đồng phục của vận động viên tại trung tâm, quần áo Thể thao cải tiến về hình thức
thẩm mỹ cũng như chất lượng, cần đạn tập luyện, có chế độ đãi ngộ sau khi các VĐV
hết tuổi hoặc không có khả năng tham gia tập luyện và thi đấu do chấn thương, cần
được quan tâm hơn trong ăn ở, sinh hoạt và tập luyện thi đấu, tăng chế độ ăn uống
(hiện tại vẫn thường xảy ra trường hợp khi đi tập về hết thức ăn), cần thời gian tập
luyện dài hạn, tập 6 tháng hay 1 năm như hiện nay rất khó phát triển, không phù hợp,
cần tổ chức giải đấu nhiều hơn ở trong nước để vận động viên có nhiều cơ hội thi đấu
được đi tập huấn ở nước ngoài đế mở mang tầm mắt, có kế hoạch tập huấn ở trong
nước và nước ngoài lâu dài để nâng cao năng lực và mong muốn được cọ sát với các
đội khác nhiều hơn…
1.2.4.2.Thực trạng tuyển chọn, đào tạo các huấn luyện viên tài năng
Việc đào tạo huấn luyện viên tài năng được thực hiện tại 3 trường: đại học
TDTT Bắc Ninh; đại học TDTT Đà Nẵng và đại học TDTT TP Hồ Chí Minh. Trường
cao đẳng TDTT, 27 Liên đoàn, IFs, Afs, Ủy ban Olympic… các HLV tài năng tương
lai theo học tại khoa huấn luyện thể thao chủ yếu là các VĐV đang vừa tập luyện thi
đấu, vừa theo học đại học.
Bên cạnh huấn luyện chuyên môn, các Trung tâm, các cơ sở đào tạo VĐV, HLV
trên toàn quốc cũng thực hiện công tác giáo dục phẩm chất chính trị, đạo đức lối sống
trang bị những tri thức có liên quan tới quá trình tập luyện cho VĐV, HLV.
Trong năm 2017, Tổng cục Thể dục thể thao đã triệu tập tập huấn 404 huấn
luyện viên, 28 chuyên gia( 32 môn thể thao trọng điểm nhóm 1 và 2) để chuẩn bị tham
dự các đại hội, giải thể thao quốc tế.
Thông thường huấn luyện viên tại các trường năng khiếu thể thao hoặc các
Trung tâm huấn luyện thể thao là những người đã từng là VĐV, nhưng không còn khả
năng thi đấu đạt thành tích cao nữa. Đa số họ đã tốt nghiệp đại học TDTT, là huấn
luyện viên, huấn luyện viên chính, đặc biệt có cả huấn luyện viên cao cấp tham gia
huấn luyện. Các huấn luyện viên nếu có VĐV giỏi, có thành tích xuất sắc sẽ được tập
trung lên đội tuyển quốc gia.
21
Qua khảo sát thực tế bằng phiếu hỏi 106 (Phụ lục 4) huấn luyện viên đội tuyển
quốc gia đang làm công tác huấn luyện tại Đại học Thể dục thể thao Bắc Ninh; Trung
tâm huấn luyện thể thao quốc gia Hà Nội; Trung tâm huấn luyện thể thao quốc gia Đà
Nẵng cho thấy, trước khi tham gia công tác quản lý, huấn luyện có 92.4% huấn luyện
viên từng là “vận động viên”, 6.6% là “giảng viên”, 1.88%chiếm tỷ lệ làm ngành
khác” (sơ đồ 9).
Sơ đồ 9. Thực trạng nghề nghiệp của huấn luyện viên tài năng( n=106)
Thâm niên công tác của các huấn luyện viên đã tham gia quản lý, huấn luyện
dưới 5 năm 24.5%, trên 5 năm 40,5%, trên 10 năm 35% (sơ đồ 10).
Sơ đồ 10. Thâm niên công tác của huấn luyện viên tài năng( n=106)
Thành tích huấn luyện đã đạt được qua giải đấu Trong nước 47,1%, Quốc tế”
70,7%. Những phương pháp tuyển chọn VĐV hiện nay đang áp dụng tại trung tâm
“Tuyển chọn khoa học” chiếm tỷ lệ 63,2%, Tuyển chọn theo kinh nghiệm” 39,6%,
“Tuyển chọn qua các giải đấu” chiếm tỷ lệ 50%.
Qua khảo sát 106 huấn luyện viên, cũng chỉ ra công tác tuyển chọn và đào tạo
hiện nay Tốt 75%, Chưa tốt 11.5%, Cần quan tâm” chiếm tỷ lệ 13,7%( sơ đồ 11).
22
Sơ đồ 11. Thực trạng công tác tuyển chọn và đào tạo
hiện nay qua khảo sát (n=106)
Chế độ chính sách cho huấn luyện viên hiện nay Phù hợp chiếm tỷ lệ
27,3%, Chưa phù hợp 39,6%, Cần quan tâm 33,1% ( Sơ đồ 12).
Sơ đồ 12. Khảo sát về chế độ chính sách cho huấn luyện viên(n=106)
Việc chức các giải thể thao trong nước và quốc tế rất cần thiết 52,8%, cần thiết”
47,1%. Vấn đề đưa huấn luyện viên đi tập huấn, đào tạo ở nước ngoài rất cần thiết
68,8%, cần thiết” chiếm tỷ lệ 31,1%, thường xuyên tổ chức lớp bồi dưỡng nâng cao
trình độ, nhận thức cho huấn luyện viên rất cần thiết, cần thiết 18%, mở các khóa học
nâng cao trình độ ngoại ngữ rất cần thiết 54,7%, cần thiết” 45,2% (sơ đồ 13).
Sơ đồ 13. Vai trò của việc mở các khóa học nâng cao trình độ ngoại ngữ
cho huấn luyện viên(n=106)
Vấn đề thuê chuyên gia có trình độ cao có uy tín của nước ngoài tham gia đào
tạo rất cần thiết 54,7%, cần thiết” chiếm tỷ lệ 43,5%, không cần thiết” chiếm tỷ lệ
1,8% (sơ đồ 14).
Sơ đồ 14. vai trò việc thuê chuyên gia của nước ngoài tham gia huấn luyện
23
Ngoài một số vấn đề cơ bản nêu trên 100% HLV đều có mong muốn: Tăng mức
tiền thưởng cho VĐV khi đạt thành tích, để VĐV có thể tự sống được bằng nghề, khi
đó VĐV sẽ phấn đấu rèn luyện, ý thức, nhiệt tình tốt hơn so với hiện nay, nâng cao chế
độ đặc thù cho HLV, tiền ăn, tiền công, chế độ dinh dưỡng, thuốc, thực phẩm chức
năng; đầu tư nâng cấp cơ sở vật chất, trang thiết bị tập luyện các môn thể thao phục vụ
cho công tác huấn luyện, tuyển chọn VĐV và nghiên cứu khoa học, trang thiết bị
chuyên môn cho VĐV, HLV; bổ sung số lượng, nâng cao chất lượng nhân viên phục vụ
cán bộ quản lý tại các Trung tâm HLTT quốc gia để đảm bảo cho công tác huấn luyện,
đào tạo VĐV chuyên nghiệp; có chế độ đãi ngộ phù hợp đối với nhân viên phục vụ,
cán bộ quản lý ngành thể thao đặc thù tại các Trung tâm HLTT quốc gia; cần có các
lớp nâng cao trình độ cho HLV; cần áp dụng công nghệ thông tin vào công tác đào tạo,
tuyển chọn…
1.3. Kết quả và những tồn tại của thể thao thành tích cao giai đoạn 2008
-2017
1.3.1. Kết quả đã đạt được của thể thao thành tích cao
- Thể thao thành tích cao và thể thao chuyên nghiệp, giai đoạn 2008 - 2017 (10
năm) đã đạt được những thành tựu quan trọng, góp phần nâng cao vị thế của thể thao
Việt Nam trên đấu trường quốc tế và đáp ứng nhu cầu hưởng thụ văn hóa tinh thần của
nhân dân( sơ đồ 1-3)
Sơ đồ 1. Diễn biến thành tích các giải đấu thể thao quốc tế
giai đoạn 2008 - 2017(Huy chương Vàng)
24
Sơ đồ 2. Diễn biến thành tích các giải đấu thể thao quốc tế
giai đoạn 2008 - 2017(Huy chương Bạc)
Sơ đồ 3. Diễn biến thành tích các giải đấu thể thao quốc tế
giai đoạn 2008 - 2017(Huy chương Đồng)
Thể thao thành tích cao, đã có sự kết hợp quản lý giữa các cơ quan nhà nước và
các tổ chức xã hội, trong đó quản lý nhà nước đóng vai trò chủ đạo, tỷ trọng đầu tư của
Nhà nước cho phát triển thể dục, thể thao chiếm phần lớn.
- Quý 1 năm 2018 công tác thể thao thành tích cao được chú trọng đặc biệt,
ngành TDTT đã triển khai các hoạt động và đạt được kết quả sau:
+ Tổng cục Thể dục thể thao đã triệu tập tập huấn 1.443 lượt VĐV 321 huấn
luyện viên (trong đó: 595 VĐV, 140 huấn luyện viên của 38 đội tuyển quốc gia; 848
VĐV, 178 huấn luyện viên của 50 đội trẻ quốc gia); thuê 26 chuyên gia tại các Trung
tâm Huấn luyện thể thao quốc gia và Trường Đại học Thể dục thể thao Bắc Ninh (Phụ
lục 5).
+ Trình Lãnh đạo Bộ Văn hóa, Thể thao và Du lịch ban hành quyết định phê
duyệt danh sách 62 VĐV, 23 huấn luyện viên xuất sắc của 18 môn thể thao, các VĐV,
25