TRƯỜNG ĐẠI HỌC NGHIỆP HÀ NỘI
BÁO CÁO THỰC TẬP TỐT NGHIỆP
Tên chuyên đề: Bảo tồn và phát huy không gian lễ hội chùa Hương
gắn với phát triển du lịch
Người hướng dẫn : Nguyễn Hải Đường
Họ và tên sinh viên : Hoàng Thị Hà
Khóa học
: K9
Lớp học
: Việt Nam Học 1
Hà Nội, tháng 8 năm 208
Bảo tồn và phát huy không gian lễ hội tại chùa Hương gắn với phát triển du lịch
Page 2
MỤC LỤC
LỜI CẢM ƠN............................................................................................................1
MỞ ĐẦU.................................................................................................................... 5
Chương 1 : CƠ SỞ LÝ LUẬN VỀ LỄ HỘI VÀ KHÔNG GIAN LỄ HỘI GẮN VỚI
HOẠT ĐỘNG DU LỊCH............................................................................................8
1.1. Tổng quan tình hình nghiên cứu.............................................................8
1.2. Một số khái niệm....................................................................................10
1.3. Vai trò của việc bảo tồn và phát huy không gian lễ hội gắn với hoạt
động du lịch....................................................................................................16
Tiểu kết Chương 1.........................................................................................18
Chương 2 : THỰC TRẠNG VIỆC BẢO TỒN VÀ PHÁT HUY KHÔNG GIAN LỄ HỘI
CHÙA HƯƠNG GẮN VỚI HOẠT ĐỘNG DU LỊCH...............................................19
2.1. Tổng quan khu di tích chùa Hương......................................................19
2.2. Các giá trị nổi bật ở chùa Hương..............................................................21
2.3. Tài nguyên du lịch ở chùa Hương.........................................................25
2.4. Thực trạng việc bảo tồn và phát huy không gian lễ hội chùa Hương gắn
với hoạt động du lịch.....................................................................................37
Tiểu kết Chương 2.........................................................................................48
Chương 3 : GIẢI PHÁP NHẰM BẢO TỒN VÀ PHÁT HUY KHÔNG GIAN LỄ HỘI
CHÙA HƯƠNG GẮN VỚI DU LỊCH......................................................................49
3.1. Một số định hướng phát triển du lịch lễ hội chùa Hương..................49
3.2. Giải pháp.................................................................................................53
3.3. Một số kiến nghị......................................................................................61
Tiểu kết Chương 3.........................................................................................63
KẾT LUẬN......................................................................................................65
TÀI LIỆU THAM KHẢO.....................................................................................62
PHỤ LỤC............................................................................................................... 70
Bảo tồn và phát huy không gian lễ hội tại chùa Hương gắn với phát triển du lịch
Page 3
DANH MỤC ĐỒ THỊ, BẢNG BIỂU
Biểu đồ 1. Biểu đồ đánh giá chất lượng về hệ thống giao thông,vận chuyển ở chùa Hương............37
Biểu đồ 2. Biểu đồ đánh giá chất lượng dịch vụ lưu trú tại khu di tích chùa Hương..........40
Biểu đồ 3. Biểu đồ đánh giá chất lượng dịch vụ ăn uống tại chùa Hương..........41
Biểu đồ 4. Biểu đồ đánh giá chất lượng dịch vụ vui chơi giải trí tại khu di tích
chùa Hương.........................................................................................................42
Biểu đồ 5. Biểu đồ cơ cấu khách tham gia lễ hội chùa Hương...........................43
Biểu đồ 6. Biểu đồ thể hiện mục đích của du khách đến với lễ hội chùa Hương.........44
Bảo tồn và phát huy không gian lễ hội tại chùa Hương gắn với phát triển du lịch
Page 4
DANH MỤC VIẾT TẮT
Chữ viết tắt
TS
Tr.
PGS.TS
Nxb.
UBND
Chữ viết đầy đủ
Tiến sĩ
Trang
Phó giáo sư. Tiến sĩ
Nhà xuất bản
Uỷ ban nhân dân
Bảo tồn và phát huy không gian lễ hội tại chùa Hương gắn với phát triển du lịch
Page 5
MỞ ĐẦU
1. Tính cấp thiết của đề tài nghiên cứu
Danh thắng chùa Hương từ xa xưa đã nức tiếng thiên hạ, được mệnh
danh là “kì sơn thủy tú” của Việt Nam. Những ai đã đến thăm chùa Hương
cũng đều bị cuốn hút bởi vẻ đẹp diễm lệ của phong cảnh và chìm đắm trong
không gian thanh tịnh và thoát tục của bầu không khí nơi đây. Đặc biệt, khi
nhắc đến chùa Hương người ta thường nhớ đến ngay lễ hội truyền thống đậm
màu sắc tín ngưỡng dân gian - lễ hội chùa Hương.
Cứ mỗi độ xuân về đến ngày mồng 6 tháng Giêng âm lịch, chùa Hương
khai hội, hàng triệu Phật tử cùng du khách từ khắp bốn phương về trảy hội
chung vui trong không khí lễ hội. Đỉnh cao của lễ hội là từ rằm tháng Giêng
đến ngày 16 tháng 2 âm lịch - ngày lễ khai sơn (lễ mở cửa rừng). Lễ hội chùa
Hương là nơi hội tụ của các sinh hoạt văn hóa dân tộc. Trẩy hội chùa Hương
là hành động giải tỏa hòa hợp giữa thực và mơ, tiên và tục- thực là nền tảng,
ước mơ là ước vọng của con người.
Trong những năm gần đây, chùa Hương luôn nhận được sự quan tâm,
hỗ trợ từ các ban ngành Trung ương đến địa phương, góp phần làm cho thắng
cảnh Hương Sơn càng thêm hấp dẫn. Theo thống kê, mỗi năm lễ hội chùa
Hương thu hút khoảng 1,5 triệu lượt khách du lịch về chiêm cảnh, bái Phật.
Qua đó tạo nguồn thu cho ngân sách nhà nước cũng như ngân sách địa
phương, bên cạnh đó còn tạo công việc làm cho hàng ngàn người dân và dân
cư lân cận. Tuy nhiên, bên cạnh những kết quả đạt được thì việc bảo tồn và
phát huy không gian và thời gian của khu quần thể. Du khách đến với chùa
Hương từ nhu cầu tâm linh là chủ yếu, nhưng chưa khai thác hết nhu cầu tâm
linh của khách. Việc gắn kết giữa du lịch tâm linh của quần thể thắng cảnh
Hương Sơn và du lịch sinh thái, du lịch làng nghề truyền thống trên địa bàn
Bảo tồn và phát huy không gian lễ hội tại chùa Hương gắn với phát triển du lịch
Page 6
chưa được khai thác hiệu quả, phát huy tối đa. Mặt khác, chưa có sự kết nối
quần thể thắng cảnh chùa Hương với các điểm du lịch khác trên địa bàn thành
phố để tạo thành các điểm, tour du lịch có tính chuyên nghiệp liên kết, liên
hoàn trong và ngoài thành phố. Bên cạnh đó, các hoạt động kinh doanh, dịch
vụ thương mại trong lễ hội như chặt chém, thêm tiền đò, bán thịt giả cầy, mèo
rừng tràn lan... cũng như ý thức của một bộ phận khách du lịch chưa nâng
cao ý thức bảo vệ môi trường cũng như ảnh hưởng ít nhiều đến giá trị văn
hóa trong mùa lễ hội. Vì vậy, vấn đề đặt ra là làm thế nào để bảo tồn không
gian lễ hội chùa Hương cũng như phát huy được các giá trị truyền thống vốn
có của nó.
Vì vậy, nhóm em đã chọn đề tài: “Bảo tồn và phát huy không gian lễ
hội chùa Hương gắn với phát triển du lịch” làm đề tài nghiên cứu cho khóa
luận tốt nghiệp của nhóm.
2. Mục đích nghiên cứu của đề tài nghiên cứu
- Xây dựng cơ sở lý luận về lễ hội và không gian lễ hội;
- Tìm hiểu thực trạng hoạt động du lịch tại chùa Hương;
- Đề xuất một số giải pháp, kiến nghị nhằm bảo tồn và phát huy không
gian lễ hội tại chùa Hương gắn với phát triển du lịch.
3. Đối tượng và khách thể nghiên cứu
3.1. Đối tượng nghiên cứu
Đề tài tập trung nghiên cứu về các điều kiện tự nhiên, lịch sử hình
thành và các giá trị nổi bật của chùa Hương.
3.2. Khách thể nghiên cứu
Đề tài tập trung nghiên cứu về khu du tích chùa Hương (xã Hương Sơn
- huyện Mỹ Đức - Hà Nội).
4. Nhiệm vụ nghiên cứu
- Hệ thống hóa cơ sở lý luận về du lịch, lễ hội, không gian lễ hội trong
hoạt động du lịch.
Bảo tồn và phát huy không gian lễ hội tại chùa Hương gắn với phát triển du lịch
Page 7
- Phân tích, đánh giá thực trạng hoạt động du lịch tại quần thể di tích
chùa Hương tại xã Hương Sơn, huyện Mỹ Đức, thành phố Hà Nội.
- Đưa ra được những giải pháp nhằm bảo vệ nguồn tài nguyên, thu hút
các nhà đầu tư, tập trung đầu tư xây dựng cơ sở hạ tầng và quảng bá hình ảnh
du lịch lễ hội chùa Hương nhằm bảo tồn và phát triển du lịch.
5. Phạm vi nghiên cứu
- Không gian nghiên cứu: khu di tích chùa Hương - Hương Sơn - huyện
Mỹ Đức - Hà Nội.
- Thời gian nghiên cứu : Đề tài nghiên cứu không gian lễ hội tại Chùa
Hương trong giai đoạn từ năm 2000 đến năm 2018.
6. Phương pháp nghiên cứu
Để hoàn thành bài khóa luận tốt nghiệp này, nhóm em đã sử dụng một
số phương pháp như sau:
- Phương pháp phân tích tổng hợp : phân tích, nghiên cứu các tài liệu,
lý luận khác nhau bằng cách phân tích chúng thành từng bộ phận để tìm hiểu
sâu sắc về đối tượng. Sau đó tổng hợp tài liệu tìm kiếm, liên kết từng mặt,
từng bộ phận thông tin đã được phân tích để tạo ra một hệ thống lý thuyết mới
đầy đủ và sâu sắc về đối tượng.
- Phương pháp thu thập và xử lý thông tin: thu thập mọi tài liệu, dẫn
chứng. Kết quả thu thập thông tin từ nghiên cứu tài liệu, số liệu thống kê,
quan sát cần được xử lý để xây dựng luận cứ, phục vụ việc chứng minh, đưa
ra luận điểm.
- Phương pháp nghiên cứu thực địa: là phương pháp quan sát để lấy
được các thông tin phục vụ cho việc trình bày luận cứ, quan sát để phân tích
hệ thống đối tượng nghiên cứu.
7. Cấu trúc khóa luận
Ngoài phần Mở đầu, Kết luận, Tài liệu tham khảo, Phụ lục, nội dung
Khóa luận bao gồm 3 chương:
Bảo tồn và phát huy không gian lễ hội tại chùa Hương gắn với phát triển du lịch
Page 8
Chương 1: Cơ sở lý luận về lễ hội và không gian lễ hội gắn với hoạt
động du lịch
Chương 2: Thực trạng hoạt động du lịch tại chùa Hương
Chương 3: Giải pháp nhằm bảo tồn và phát huy không gian lễ hội chùa
Hương gắn với phát triển du lịch
Bảo tồn và phát huy không gian lễ hội tại chùa Hương gắn với phát triển du lịch
Page 9
Chương 1
CƠ SỞ LÝ LUẬN VỀ LỄ HỘI VÀ KHÔNG GIAN LỄ HỘI
GẮN VỚI HOẠT ĐỘNG DU LỊCH
1.1. Tổng quan tình hình nghiên cứu
1.1.1. Các nghiên cứu liên quan đến lễ hội trong du lịch
Về đề tài lễ hội, có rất nhiều học giả, dịch giả quan tâm nghiên cứu sâu
sắc về lễ hội như : “Bảo tàng di tích lễ hội” (1992) của tác giả Phan Khanh
[13]. “Kho tàng lễ hội cổ truyền Việt Nam”(2000) của Nguyễn Chí Bền, Trần
Lâm Biền, Bùi Khởi Trang [5]. “60 lễ hội truyền thống Việt Nam” (2000) của
tác giả Thạch Phương, Lê Trung Vũ [14]. “Lễ hội cổ truyền của người Việt:
cấu trúc và thành tố” (2000) của Nguyễn Chí Bền [4], “Lễ Hội Truyền Thống
Và Hiện Đại” (2005) của Thu Linh, Đặng Văn Lung [15], “Nhận diện bản
sắc văn hóa qua lễ hội truyền thống của người Việt” (2011), của Nguyễn
Quang Lê [7] hay Nguyễn Trọng Báu với “Phong tục, tập quán và lễ hội của
người Việt” (2012) [10], Viện Văn hóa nghệ thuật Việt Nam với “Bảo tồn và
phát huy lễ hội cổ truyền trong xã hội Việt Nam đương đại” (2015) [21].
Với những nghiên cứu trên các tác giả đã đưa đến cho người đọc một
hệ thống hóa chi tiết về lễ hội Việt Nam. Tuy nhiên, các công trình nghiên cứu
trên lại ít đề cập đến vấn đề lễ hội trong du lịch.
Trong những năm trở lại đây, du lịch được chú trọng phát triển và lễ hội
được đưa vào khai thác sử dụng triệt để trong hoạt động du lịch. Các công
trình nghiên cứu về lễ hội gắn với du lịch ngày càng được quan tâm. Tiêu biểu
phải kể đến như : Dương Văn Sáu với “Lễ hội Việt Nam trong sự phát triển
du lịch” [1], Lê Thị Tuyết Mai với “Du lịch lễ hội Việt Nam”,...
Ngoài ra, còn kể đến một số đề tài nghiên cứu của các bạn sinh viên
Khoa Du lịch Trường Đại học Công nghiệp Hà Nội làm đã nghiên cứu về du
lịch lễ hội phải kể đến như: đề tài của sinh viên Nguyễn Thị Bích – Khóa 5
Bảo tồn và phát huy không gian lễ hội tại chùa Hương gắn với phát triển du lịch
Page 10
“Khai thác giá trị văn hóa của di tích chùa Đọi và lễ hội chùa Đọi trong hoạt
động du lịch” [8], đề tài của Đào Thị Hằng – Khóa 6 “Một số giải pháp nhằm
phát triển du lịch lễ hội tại đền tranh huyện Ninh Giang tỉnh Hải Dương” [2],
đề tài của Phạm Thị Thu Hà – Khóa 8 “Thực trạng khai thác du lịch lễ hội tại
chùa Keo Hành Thiện Nam Định” [11].
1.1.2. Tổng quan nghiên cứu về di tích chùa Hương
Có rất nhiều công trình nghiên cứu liên quan đến chùa Hương như đề
tài của Trần Thị Duệ Anh (2017), “Nghiên cứu thực trạng và đề xuất giải
pháp phát triển du lịch tâm linh ở chùa Hương”, Đại học Công nghiệp Hà
Nội [19]; Nguyễn Thị Oanh (2016), “Giải pháp phát triển du lịch bền vững
tại khu di tích chùa Hương”, Đại học Công nghiệp Hà Nội [9]; đề tài của Trần
Nguyệt Hằng(2015), “Phát triển du lịch ở chùa Hương theo hướng bền
vững”, Đại học Công nghiệp Hà Nội [17].
Hầu hết những đề tài trên đều tập trung đến các mảng du lịch tâm linh,
du lịch bền vững, môi trường… còn các đề tài nghiên cứu khác như đề tài
nghiên cứu của Vũ Hoài Châu (2014), “Nghiên cứu du lịch lễ hội chùa
Hương ở huyện Mỹ Đức, Hà Nội”, trường Đại học Khoa học Xã hội và Nhân
văn chủ yếu tập trung nghiên cứu đưa ra các lý luận về du lịch lễ hội, đưa ra
những thực trạng hoạt động du lịch chùa Hương để có nhữn giải pháp góp
phần phát triển du lịch lễ hội chùa Hương [22].
Trên đây là một số đề tài nghiên cứu tuy nhiên vẫn chưa thực sự đi sâu
vào việc bảo tồn và phát huy những giá trị văn hóa, lịch sử… Chính vì vậy,
nhóm em đã chọn đề tài: “Bảo tồn và phát huy không gian lễ hội chùa Hương
gắn với du lịch” để làm sáng tỏ các luận cứ về du lịch, lễ hội, không gian lễ hội
đồng thời chỉ ra thực trạng hoạt động du lịch tại chùa Hương đang diễn ra như
thế nào có những điểm thuận lợi hay tích cực để có những định hướng giải pháp
bảo tồn và phát huy các giá trị tốt đẹp của không gian lễ hội chùa Hương.
Bảo tồn và phát huy không gian lễ hội tại chùa Hương gắn với phát triển du lịch
Page 11
1.2. Một số khái niệm
1.2.1. Du lịch
Trong những năm gần đây, khi điều kiện kinh tế ngày một phát triển,
nhu cầu du lịch, thư giãn, nghỉ ngơi, tham quan ngày một tăng. Du lịch phát
triển nhanh chóng và trở thành một hoạt động kinh tế xã hội cao, thu hút
hàng tỉ người trên thế giới tham gia. Du lịch không chỉ phát triên trên thế giới
mà còn ở Việt Nam, nó sẽ trở thành một ngành dịch vụ được chú trọng đi đầu
trong tương lai. Tuy nhiên, cho đến nay không chỉ ở nước ta, nhận thức về du
lịch vẫn chưa còn thống nhất. trên thực tế phát triển của ngành du lịch về mặt
lĩnh vực cũng như đào tạo, việc nghiên cứu, thảo luận để đi đến thống nhất
một số khái niệm cơ bản về du lịch là điều cần thiết.
- Thuật ngữ “du lịch” bắt nguồn từ tiếng Hy Lạp: Tornos với ý nghĩa đi
một vòng. Thuật ngữ này được La Tinh hóa thành Tornur sau đó thành Tour.
Tiếng Pháp nghĩa là đi vòng quanh, cuộc dạo chơi, còn Toursite là người đi
dạo chơi [3;tr.8].
Do hoàn cảnh thời gian, khu vực khác nhau, dưới mỗi góc độ khác
nhau, đúng như một chuyên gia nhận định: “đối với du lịch,có bao nhiêu tác
giả nghiên cứu thì có bấy nhiêu định nghĩa…”[3;tr.9].
- Vào năm 1941, ông Hunziker và Kraff (Thụy Sĩ) đã đưa ra định
nghĩa: Du lịch là tổng hợp những hiện tượng và các mối quan hệ nảy sinh từ
việc di chuyển và dừng lại của con người ở nơi không phải là nơi cư trú
thường xuyên của họ ; hơn nữa, họ không ở lại đó vĩnh viễn và không có bất
kì hoạt động thu nhập nào tại nơi đến.
- Theo Guer Freuler: du lịch là một hiện tượng thời đại của chúng ta
dựa trên sự tăng trưởng của nhu cầu khôi phục sức khỏe và sự thay đổi môi
trường xung quanh, dựa vào sự phát sinh, phát triển tình cảm đối với vẻ đẹp
của thiên nhiên.
Bảo tồn và phát huy không gian lễ hội tại chùa Hương gắn với phát triển du lịch
Page 12
- Theo nhà kinh tế Kalfiotis, du lịch là sự di chuyển tạm thời của cá
nhân hay tập thể từ nơi này đến nơi khác nhằm thỏa mãn nhu cầu tinh thần ,
đạo đức , do đó tạo nên các hoạt động kinh tế.
- Theo M.Coltman: du lịch là tổng thể những hiện tượng và những mối
quan hệ phát sinh từ sự tác động qua lại giữa khách du lịch, nhà kinh doanh
du lịch, chính quyền sở tại và cộng đồng dân cư địa phương trong quá trình
thu hút và đón tiếp khách du lịch.
- Theo Liên Hợp Quốc năm 1963 định nghĩa về du lịch như sau: du lịch
là tổng hợp các mối quan hệ hiện tượng và các hoạt động kinh tế bắt nguồn từ
cuộc hành trình và lưu trú của cá nhân hay tập thể ở bên ngoài nơi ở thường
xuyên của họ hay ngoài nước họ với mục đích hòa bình. Nơi họ đến lưu trú
không phải là nơi làm việc của họ.
- Theo Pirogionic (1985) thì: du lịch là một dạng hoạt động của dân cư
trong thời gian rảnh rỗi liên quan tới sự di chuyển và lưu lại tạm thời bên
ngoài nơi cư trú thường xuyên nhằm nghỉ ngơi, chữa bệnh, phát triển thể chất
và tinh thần, nâng cao trình độ nhận thức – văn hóa hoặc thể thao kèm theo
việc tiêu thụ những giá trị về tự nhiên, kinh tế, văn hóa.
- Về đến Việt Nam, khái niệm “du lịch” được Bách khoa toàn thư Việt
Nam được hiểu:
Thứ nhất, du lịch là một dạng nghỉ dưỡng sức, tham quan tích cực
của con người ngoài nơi cư trú với mục đích: nghỉ ngơi, giải trí, xem danh
lam thắng cảnh, di tích lịch sử, công trình văn hóa nghệ thuật.
Thứ hai, du lịch là một ngành kinh doanh tổng hợp có hiệu quả cao
về nhiều mặt: nâng cao hiểu biết về thiên nhiên, truyền thống lịch sử văn
hóa dân tộc, từ đó góp phần làm tăng thêm tình yêu nước; đối với người
nước ngoài là tình hữu nghị với dân tộc mình; về mặt kinh tế du lịch là lĩnh
vực kinh doanh mang lại hiệu quả rất lớn; có thể coi là hình thức xuất khẩu
hàng hóa và dịch vụ tại chỗ.
- Theo Luật du lịch Việt Nam (2005) đã đưa ra khái niệm về du lịch
như sau: du lịch là hoạt động có liên quan đến chuyến đi của con người ngoài
Bảo tồn và phát huy không gian lễ hội tại chùa Hương gắn với phát triển du lịch
Page 13
nơi cư trú thường xuyên của mình nhằm đáp ứng nhu cầu tham quan, tìm
hiểu, giải trí,nghỉ dưỡng trong một khoảng thời gian nhất định.
1.2.2. Lễ hội
Trên thế giới, mỗi một quốc gia lại có một loại hình sinh hoạt văn hóa
riêng, mang đậm bản sắc văn hóa của quốc gia mình, và có lẽ “ lễ hội” là loại
hình tiêu biểu nhất. Đây là một loại hình sinh hoạt văn hóa đặc biệt có tính tập
thể, phản ánh tín ngưỡng và sinh hoạt của người dân trong lao động sản xuất,
hay trong việc hình dung lại các sự kiện lịch sử. Lễ hội nước nào cũng có
những hình thức rước xách, diễu hành, vui chơi, nhưng ở mỗi quốc gia thì lễ
hội lại có những nét độc đáo riêng, mang đậm dấu ấn riêng của quốc gia đó.
Vì thế lễ hội giữ một vai trò quan trọng trong đời sống tinh thần và đời sống
xã hội, nó chứa đựng và phản ánh nhiều mặt của đời sống như: kinh tế - xã
hội, văn hóa, tâm lý và tôn giáo tín ngưỡng tộc người. Vậy “lễ hội” là gì ?
- Mỗi vùng miền, một quốc gia lại có hình thức tổ chức lễ hội khác
nhau. Chính vì thế mà đã có rất nhiều định nghĩa khác nhau về hình thái sinh
hoạt văn hóa này. Sau đây là một số khái niệm điển hình về “Lễ hội” như: Khi
nghiên cứu về đặc tính và ý nghĩa “Lễ hội” ở nước Nga, M.Bachie cho rằng:
“Lễ hội là cuộc sống được tái hiện dưới hình thức tế lễ và trò biểu diễn, đó là
cuộc sống chiến đấu của cộng đồng cư dân. Tuy nhiên bản thân cuộc sống
không thể thành lễ hội được nếu chính nó không được thăng hoa, liên kết và
quy tụ lại thành thế giới tâm linh, tư tưởng của các biểu tượng, vượt lên trên
thế giới của những phương tiện và điều kiện tất yếu. Đó là thế giới, là cuộc
sống thứ hai thoát ly tạm thời thực tại hữu hiện, đạt tới hiện thực lý tưởng mà
ở đó, mọi thứ đều trở nên đẹp đẽ, lung linh, siêu việt và cao cả”.
- Từ điển Bách Khoa Toàn Thư định nghĩa: “Lễ hội là hệ thống các
hành vi, tác động nhằm biểu hiện lòng tôn kính của con người đối với thần
Bảo tồn và phát huy không gian lễ hội tại chùa Hương gắn với phát triển du lịch
Page 14
linh,phản ánh những ước mơ chính đáng của con người trước cuộc sống mà
bản thân họ chưa có khả năng thực hiện” [26].
- Trong cuốn Cơ sở văn hóa Việt Nam, nhóm tác giả đã định nghĩa lễ
hội thông qua việc lý giải nguồn gốc, thời điểm ra đời lễ hội từ nghi lễ nông
nghiệp: “Cư dân Việt và cư dân các dân tộc ít người ở Việt Nam là những cư
dân nông nghiệp sống bằng nghề trồng lúa nước. Vòng quay của thiên nhiên
và mùa vụ tạo ra trong họ những nhu cầu tâm linh. Khoảng thời gian nghỉ
ngơi này là dịp để người dân cảm ơn thần linh đã phù hộ cho mùa vụ đã qua
và cầu mong phù hộ cho một mùa màng sắp tới, dần dà biến thiên thời gian đã
lắng đọng nhiều phù sa văn hóa trong lễ hội. Sinh hoạt văn hóa ấy của cư dân
được gọi là lễ hội” [16;tr.97].
- Theo tác giả Dương Văn Sáu trong cuốn giáo trình “Lễ hội Việt
Nam trong sự phát triển du lịch” thì lễ hội được hiểu là “hình thức sinh
hoạt văn hóa cộng đồng diễn ra trên một địa bàn dân cư trong thời gian và
không gian xác định; nhằm nhắc lại một sự kiện, nhân vật lịch sử hay
huyền thoại; đồng thời là dịp để biểu hiện cách ứng xử văn hóa của con
người với thiên nhiên - thần thánh và con người trong xã hội”[1;tr.35].
- Trong cuốn “Lễ hội cổ truyền” của Phan Đăng Nhật cho rằng: Lễ hội
là 1 pho lịch sử khổng lồ, ở đó tích tụ vô số phong tục, tín ngưỡng, văn
hóa,nghệ thuật và cả các sự kiện xã hội – lịch sử quan trọng của dân tộc… Lễ
hội còn là nơi bảo tồn , tích tụ văn hóa của nhiều thời kì lịch sử trong quá khứ
dồn nén lại cho tương lai [12;tr.131].
Như vậy ta thấy “Lễ hội” là một thể thống nhất không thể tách rời. Lễ
là phần đạo đức tín ngưỡng, phần tâm linh sâu xa trong mỗi con người. Hội là
các trò diễn mang tính nghi thức, gồm các trò chơi dân gian phản ánh cuộc
sống thường nhật của người dân và một phần đời sống cá nhân nhằm kỷ niệm
một sự kiện quan trọng với cả cộng đồng.
Phân loại lễ hội
Bảo tồn và phát huy không gian lễ hội tại chùa Hương gắn với phát triển du lịch
Page 15
Lễ hội Việt Nam được phân loại thành:
- Lễ
hội dân gian là lễ hội được tổ chức nhằm tôn vinh người có công
với nước, với cộng đồng; thờ cúng thần thánh, biểu tượng có tính truyền
thống và các hoạt động tín ngưỡng dân gian khác tiêu biểu cho những giá trị
tốt đẹp về truyền thống lịch sử, văn hóa, đạo đức xã hội.
- Lễ
hội lịch sử, cách mạng là lễ hội được tổ chức nhằm tôn vinh những
danh nhân, sự kiện lịch sử, cách mạng.
- Lễ
hội văn hóa, thể thao, du lịch là lễ hội được tổ chức để quảng bá
về văn hóa, thể thao, du lịch bao gồm các Festival, liên hoan văn hóa, thể
thao, du lịch, tuần văn hóa, thể thao, du lịch, tuần văn hóa- du lịch, tháng
văn hóa - du lịch, năm văn hóa - du lịch.
- Lễ
hội có nguồn gốc từ nước ngoài tổ chức tại Việt Nam là lễ hội do
tổ chức của Việt nam hoặc tổ chức nước ngoài đang hoạt động hợp pháp tại
Việt Nam tổ chức nhằm giới thiệu giá trị văn hóa tốt đẹp của nước ngoài
với công chúng Việt Nam[27].
Cấu trúc của lễ hội
Theo giáo trình “ Địa lí du lịch Việt Nam” của tác giả Nguyễn Minh
Tuệ (chủ biên) đã chia lễ hội thành hai phần: phần nghi lễ và phần hội.
Phần nghi lễ
- Phần nghi lễ là phần mở đầu cho các lễ hội, dù lớn hay nhỏ, dù dài
hay ngắn với những nghi thức nghiêm trang trọng thể.
- Phần nghi lễ mở đầu ngày hội bao giờ cũng mang tính tưởng niệm
lịch sử, hướng về một sự kiện trọng đại, một vị anh hung dân tộc lỗi lạc có sự
ảnh hưởng đến sự phát triển của xã hội.
- Nghi thức tế lễ nhằm bày tỏ lòng tôn kính với các bậc thánh hiền, thần
linh, cầu mong được thiên thời, địa lợi, nhân hòa và sự phồn vinh hạnh phúc.
- Nghi lễ tạo thành nền móng vững chắc với các yếu tố văn hóa linh
thiêng đầy giá trị thẩm mỹ đối với toàn thể cộng đồng người đi hội trước khi
chuyển sang phần hội.
Bảo tồn và phát huy không gian lễ hội tại chùa Hương gắn với phát triển du lịch
Page 16
Phần hội
- Phần hội diễn ra những hoạt động tiêu biểu, điển hình cho tâm lí và
văn hóa cộng đồng, chưa đựng những quan niệm của một dân tộc về thực tế
lịch sử, xã hội và thiên nhiên.
- Trong hội thường có những trò vui, những đêm thi nghề, thi hát,
tượng trưng cho sự nhớ ơn và ghi công người xưa. Tất cả những gì tiêu biểu
cho một vùng đất, cho một làng xã được phô diễn, đem lại niềm vui cho mọi người.
1.2.3. Không gian lễ hội
Không gian lễ hội là không gian ba chiều, bao gồm không gian địa lý
(trời, đất, núi, sông, rừng, biển…), không gian xã hội (cộng đồng dân cư làng,
liên làng, siêu làng cùng những thiết chế văn hóa xã hội), không gian tâm linh
(đình, chùa, miếu, cùng những tình cảm, suy nghĩ, khát vọng, ước muốn của
con người), trong đó không gian tâm linh rất quan trọng.
Lễ hội truyền thống thường diễn ra trong không gian các làng quê
(hội làng hoặc liên làng), hoặc cấp vùng hay cấp quốc gia. Không gian lễ
hội có tính chất phạm vị hẹp hay rộng thì còn phụ thuộc vào lễ hội ấy. Mỗi
một lễ hội gồm có 2 phần là phần lễ và phần hội. trong không gian lễ hội
phần tế lễ thực hiện chủ yếu tại đình, miếu, nhà thờ, chùa chiền; phần
nghênh nước, vui chơi, hoạt động văn nghệ, thể thao… tổ chức tại sân
đình, bãi cát, trên đầm phá, sông biển…
Trong bài viết của tác giả Nguyễn Tri Phương đăng trên Tạp chí di sản,
PGS.TS.Lương Hồng Quang - Phó viện trưởng Viện Văn hóa Nghệ thuật
quốc gia Việt Nam đã đưa ra quan điểm : “Sự mở rộng hay thay đổi tính chất
thời gian, không gian tổ chức: lễ hội xưa chỉ mang một tính chất là một không
gian sinh hoạt tâm linh của cộng đồng dân cư tại chỗ, nay được mở rộng cho
cả những khách hành hương bên ngoài”[25].
Trong không gian lễ hội luôn luôn có sự song song tồn tại và đan xen
giữa những định chế của làng, xã với luật pháp của triều đình Trung Ương,
Bảo tồn và phát huy không gian lễ hội tại chùa Hương gắn với phát triển du lịch
Page 17
đồng thời, chúng ta cũng có thể nhận thấy mối liên hệ và sự tương phản của
những quan niệm, thiết chế khắt khe ở trung tâm linh thiêng (đình, chùa)
với sự sự tự do, phóng khoáng của cá nhân ở khu vực xung quanh đến
mức có thể vượt qua mọi lễ giáo của chế độ phong kiến để vươn tới những
khát vọng của mình ở những trò vui chơi trong lễ hội mà ngày thường họ
không thể vượt qua.
1.1. Vai trò của việc bảo tồn và phát huy không gian lễ hội gắn với
hoạt động du lịch
Bảo tồn và phát huy không gian lễ hội để gắn kết tinh thần cộng đồng
- Theo Giáo sư Ngô Đức Thịnh “lễ hội nào cũng là của và thuộc về một
cộng đồng người nhất định, đó có thể là cộng đồng làng, xã (hội làng), cộng
đồng nghề nghiệp (hội nghề), cộng đồng tôn giáo (hội chùa, hội đền, hội nhà
thờ), cộng đồng dân tộc (hội Đền Hùng), quốc tế đến cộng đồng nhỏ hẹp hơn,
như gia tộc, dòng họ... Chính lễ hội là dịp biểu dương sức mạnh của cộng
đồng và là chất kết dính tạo nên sự cố kết cộng đồng.
- Mỗi cộng đồng hình thành và tồn tại trên cơ sở của những nền tảng
gắn kết, như gắn kết do cùng cư trú trên một lãnh thổ (cộng cư), gắn kết về sở
hữu tài nguyên và lợi ích kinh tế (cộng hữu), gắn kết bởi số mệnh chịu sự chi
phối của một lực lượng siêu nhiên nào đó (cộng mệnh), gắn kết bởi nhu cầu
sự đồng cảm trong các hoạt động sáng tạo và hưởng thụ văn hóa (cộng cảm)...
Lễ hội là môi trường góp phần quan trọng tạo nên niềm cộng mệnh và cộng
cảm của sức mạnh cộng đồng.
Bảo tồn và phát huy không gian lễ hội giúp cho du khách hướng về
cội nguồn dân tộc
- Lễ hội truyền thống là loại hình sinh hoạt văn hoá, sản phẩm tinh thần
của người dân được hình thành và phát triển trong quá trình lịch sử. Người
Việt Nam từ ngàn đời xưa đã có truyền thống “Uống nước nhớ nguồn”. Lễ hội
Bảo tồn và phát huy không gian lễ hội tại chùa Hương gắn với phát triển du lịch
Page 18
là sự kiện thể hiện truyền thống quy báu đó. Không gian lễ hội là một không
gian để du khách là người con Việt Nam sinh sống trên hay ngoài Tổ quốc có
thể trở về với cội nguồn tự nhiên hay cội nguồn của dân tộc.
- Lễ hội đáp ứng một cách thiết thực, hiệu quả đời sống văn hóa tinh
thần, tâm linh của nhân dân trong tổ chức các nghi lễ và hưởng thụ các hoạt
động hội, bảo tồn và phát huy các giá trị văn hóa của các vùng, miền, dân tộc,
tri ân công đức các anh hùng dân tộc, danh nhân văn hóa, các bậc tiền bối đã
có công dựng nước và giữ nước, đấu tranh giải phóng dân tộc.
Bảo tồn và phát huy không gian lễ hội đem lại hiệu quả kinh tế xã hội.
- Không gian lễ hội bao gồm cả không gian địa lí và không gian xã hội
tức là yếu tố về mặt vị trí địa lí của lễ hội và cộng đồng dân cư nơi diễn ra lễ
hội. Lễ hội ra đời từ rất xa xưa và có tính thiêng của nó vì vậy mà rất thu hút
du khách xa gần đến để chiêm bái. Điều này đã làm cho một số dịch vụ được
mở ra để đáp ứng nhu cầu tối đa của khách đi du lịch và càng ngày được mở
rộng bởi cộng đồng dân cư địa phương nơi đó. Lễ hội đã đem lại nguồn thu
nhập đáng kể cho một số bộ phận dân cư địa phương.
- Lễ hội là yếu tố kích thích cho hoạt động du lịch, thu hút du khách
quốc tế, đẩy mạnh du lịch nội địa nếu như được chọn lọc, đầu tư, phát triển
đúng. Việc tổ chức có hiệu quả các hoạt động lễ hội trong không gian lễ hội
đã có tác dụng khai thác tiềm năng du lịch, tạo nguồn thu lớn bổ sung cho
nguồn thu ngân sách quốc gia.
Bảo tồn và phát huy không gian lễ hội sẽ là nguồn lực quan trọng
cho phát triển du lịch.
- Cộng đồng là nền tảng phát triển của mọi xã hội. Lễ hội là một phần
không thể thiếu trong đời sống tinh thần của người dân Việt Nam. Mỗi lễ hội
mang bản sắc văn hóa đặc trưng, gắn liền với những đặc điểm cụ thể về địa
Bảo tồn và phát huy không gian lễ hội tại chùa Hương gắn với phát triển du lịch
Page 19
lý, tập quán, nghi lễ, ẩm thực, tín ngưỡng...Vì vậy, nếu coi mỗi lễ hội là một
màu sắc thì đất nước ta là một bản hòa ca của những sắc màu. Với sự đa dạng
và phong phú ấy, kho tàng lễ hội Việt Nam không chỉ là những di sản phi vật
thể phục vụ đời sống tinh thần của người dân mà còn là tài nguyên du lịch
nhân văn có thể trở thành sản phẩm độc đáo phục vụ du khách. Đây là một
yếu tố làm cho lễ hội trở thành một sản phẩm du lịch. Nó sẽ càng ngày được
khai thác, đưa vào sử dụng tối đa trong du lịch dể đem lại nguồn lợi kinh tế
không chỉ cho chính cộng đồng địa phương, cho chính quyền địa phương mà
còn đem lại nguồn lợi cho kinh tế đất nước.
Tiểu kết Chương 1
Việt Nam được đánh giá là nước có tiềm năng về du lịch, trong đó lễ
hội được xem như một bộ phận cấu thành tiềm năng ấy. Trong di sản văn hoá
của các thế hệ trước để lại, lễ hội dân tộc có tác dụng hữu hiệu với ngành du
lịch không chỉ hôm nay mà cả ngày mai ở cả hai mặt: giới thiệu đất nước, con
người và kinh doanh. Khai thác, giới thiệu những lễ hội dân tộc biến nó thành
người bạn đồng hành trong cuộc sống hôm nay là công việc của ngành du
lịch. Chương 1 đã xây dựng cơ sở lí luận cốt lõi nhất để làm nền tảng nghiên
cứu. Nội dung liên quan chủ yếu đến du lịch, lễ hội, không gian lễ hội, vai trò
của việc bảo tồn và phát huy không gian lễ hội gắn với hoạt động du lịch.
Những cơ sở này sẽ vận dụng linh hoạt trong phần đánh giá thực trạng hoạt
động du lịch tại chùa Hương, những định hướng và giải pháp bảo tồn và phát
huy không gian văn hóa tại chùa Hương Sơn.
Bảo tồn và phát huy không gian lễ hội tại chùa Hương gắn với phát triển du lịch
Page 20
Chương 2
THỰC TRẠNG VIỆC BẢO TỒN VÀ PHÁT HUY KHÔNG GIAN LỄ HỘI
CHÙA HƯƠNG GẮN VỚI HOẠT ĐỘNG DU LỊCH
2.1. Tổng quan khu di tích chùa Hương
2.1.1. Vị trí địa lí, điều kiện tự nhiên
Vị trí địa lý
- Chùa Hương nằm Cách trung tâm thủ đô thành phố Hà Nội 62km về
phía tây nam ,thuộc địa bàn xã Hương Sơn - huyện Mỹ Đức , tỉnh Hà Tây cũ,
nay thuộc địa phận Hà Nội, nằm ven bờ sông Đáy. Do vậy, đây là một vị trí
rất thuận lợi cho việc di chuyển của du khách, du khách có thể đi đường bộ
hoặc đường sông.
Địa hình, địa chất, địa mạo
- Khu du lịch chùa Hương thuộc dãy núi Hương Sơn, dãy núi này ở bên
sườn đông của dãy núi đá vôi chạy từ Phong Thổ, Lai Châu, Sơn La, Mộc
Châu xuống đến Hà Tây, Hòa Bình, Sông Đáy, chạy theo hướng Bắc - Đông.
- Giữa sông núi là cả một hệ khe, nối suối Tuyết và suối Yến , thuận lợi
cho việc dẫn nước qua lại cung cấp nước cho Thung Dâu, Thung Mơ,… phơi
trải nước của các hang động.
- Tuy nhiên, do độ chia cắt ngang dày đặc với hệ thống hố rụt, phễu,
máng trũng; những dẫy chuỗi, các hố nhỏ riêng biệt dạng tháp và tháp cụt
được liên kết với nhau ở mạng phức tạp , các hệ thống khe dòng chảy, những
mảng rừng nhiệt đới gió mùa xen kẽ đã tạo nên ấn tượng mạnh mẽ về một
vùng núi non hùng vĩ, đa dạng cạnh đồng bằng.
- Hiện nay, do quá trình xâm thực, rửa lũ vẫn đang diễn ra trên khối núi
Hương Sơn chính là mẫu tiêu biểu cho quá trình địa chất, đã và đang diễn
Bảo tồn và phát huy không gian lễ hội tại chùa Hương gắn với phát triển du lịch
Page 21
biến. mang đặc trưng rất rõ nét của Karst nhiệt đới ẩm đa dạng về hình thái
trong các thung lũng đã tạo thành những phong cảnh trông giống viện bảo
tàng đá tuyệt đẹp.
- Nhìn chung, về địa hình, địa chất, địa mạo khu vực chùa Hương cho
thấy đây là nơi có địa hình núi thấp xâm thực nhưng nằm ngay cạnh đồng
bằng, có phong cảnh ‘‘sơn thủy hữu tình’’ có lợi thế rất lớn về mức độ hấp
dẫn du khách.
Khí hậu , thời tiết
- Khí hậu, thời tiết luôn là yếu tố ảnh hưởng lớn tới du khách. Chính
khí hậu tạo ra từng loại thời tiết và định ra mùa du lịch.Khu du lịch Chùa
Hương nằm hoàn toàn trong vành đai khí hậu nóng. Đặc biệt với lễ hội chùa
Hương thời tiết mùa xuân là quan trọng vì nó trực tiếp tác động đến các hoạt
động của lễ hội.
Thủy văn
- Nguồn nước có vai trò quan trọng ảnh phục vụ cho môi trường sinh
hoạt của cư dân địa phương và khách du lịch. Mạng lưới thủy văn của huyện
Mỹ Đức rất phong phú gồm lưu lượng nước của 2 con sông lớn: sông Đáy và
sông Thanh Hà và hệ thống suối: suối Yến và suối Long Vân… đều do nguồn
nước ngầm Karst cung cấp tạo ra dòng chảy quanh năm.
2.1.2. Lịch sử hình thành chùa Hương
Chùa Hương gắn liền với tín ngưỡng dân gian thờ bà Chúa Ba. Theo
truyền thuyết thì ở vùng “Linh Sơn phúc địa” này vào thế kỉ đầu tiên đã có
công chúa Diệu Thiện (con vua Diệu Trang) tục gọi là bà Chúa Ba ứng thân
của Bồ Tát Quán Thế Âm đã đi tu hành 9 năm trong động Hương Tích rồi
đắc đạo thành Phật để đi cứu hộ chúng sinh. đây cũng là giữa mùa xuân, mùa
của trăm hoa đua nở cây cối xanh tươi, khí trời mát mẻ.
Bảo tồn và phát huy không gian lễ hội tại chùa Hương gắn với phát triển du lịch
Page 22
Khi câu chuyện này được truyền bá, các Thiền Sư, Tổ Đức đã chống
tích tới đây, nhàn du mây nước. Kết quả ba vị hòa thượng đời vua Lê Thánh
Tông (1442 - 1497) đã tìm thấy động Hương Tích và dựng lên Thảo Am
Thiên Trù gọi là chùa Ngoài, người ta lấy tên chung cả 2 chùa và cả khu vực
là chùa Hương hay “Thiên Hương Sái Bảo”. Hương Tích có ý nghĩa là dấu
vết thơm tho, ý nói đây là nơi tu hành của Bồ Tát Quan Âm, còn Thiên Trù
đọc theo âm hán việt nghĩa là bếp trời, vì chùa nằm trong khu vực ứng với
một ngôi sao chủ về ẩm thực. Do đó, khi đi trẩy hội chùa Hương tức đi chiêm
bái cả khu vực chùa Thiên - Hương của vùng núi Hương Sơn. Hàng năm có
mấy chục vạn lượt người hành hương đến đây dâng nén hương thơm lên đức
Phật cùng một lời cầu nguyện.
Kể từ khi vua Lê Thánh Tông đi tuần phương Nam lần thứ 2 và chư
vị liệt tổ chống tích trượng khai sơn phát hiện đến nay. Trải qua hàng ngàn
năm với chiều sâu lịch sử và bề dày truyền thống văn hóa đã tô bồi cho vùng
thiên nhiên hùng vĩ này một bức tranh “Kì Sơn thủy tú”, dãy núi đã bị sự xâm
lược lâu đời của thiên nhiên nên mạch nước đã khoét núi tạo thành nhiều hang
động với nét đẹp tự nhiên.
Năm 1687, hòa thượng Trần Đạo Viên Quang mới chống thiền trượng hoằng
truyền và xiển dương đạo Phật khiến vùng đất này trở thành thiên sơn phúc địa.
Đến đầu năm 1947, chùa Hương đã trải qua 9 đời tổ sư nối tiếp xây
dựng và luôn nhận được sự ủng hộ của thiện tín muôn phương và nhân dân sở
tại. Ngày 17/2/1947, giặc Pháp đã tàn phá Thiên Trù va Tiên Sơn nhưng sau
hòa bình lặp lại với sự chỉ đạo của ngành văn hóa và chủ trương đúng đắn
của nhà nước, thắng cảnh chùa Hương không những được khôi phục mà ngày
càng mở rộng phát triển đến ngày nay.
Bảo tồn và phát huy không gian lễ hội tại chùa Hương gắn với phát triển du lịch
Page 23
2.2. Các giá trị nổi bật ở chùa Hương
Toàn bộ thắng cảnh chùa Hương là một bức tranh toàn mỹ về cả bố cục
lẫn màu sắc, nội dung và đường nét. Âm hưởng của bức tranh ấy là sự hòa
quyện giữa đạo với đời, của thiên nhiên hoang sơ với bóng dáng con người.
Hằng năm, chùa Hương đón tiếp hàng ngàn lượt khách du lịch đến thăm và
chiêm bái Phật. Trong tâm trí mỗi người dân Việt Nam chùa Hương được coi
như một báu vật quốc gia và là một tài sản vô giá mang trong mình nhiều giá trị.
2.2.1. Giá trị tự nhiên, không gian, cảnh quan, môi trường
- Chùa Hương là một danh thắng nổi tiếng, không chỉ bởi cảnh đẹp mà
nó còn là một nét đẹp văn hóa tín ngưỡng đạo Phật của người dân Việt Nam.
Không giống bất kỳ nơi nào, Chùa Hương là một tập hợp nhiều đền chùa
hang động gắn liền với núi rừng, và trở thành một quần thể thắng cảnh rộng
lớn, với một kiến trúc hài hòa giữa thiên nhiên và nhân tạo. Chính tạo hóa đã
khéo bày đặt cho nơi đây núi non sông nước hiền hòa và rồi con người đã thổi
hồn vào những điều kỳ diệu đó nó trở lên lung linh, sinh động và nhiều màu
sắc mà làm cho nơi đây được mệnh danh là “Kỳ sơn thuỷ tú ”. Theo các nhà
nghiên cứu dãy núi đá vôi Hương Sơn có cách ngày nay khoảng hơn 200 triệu
năm, núi Chùa Hương không hùng vĩ chất ngất nhưng có vẻ đẹp kỳ thú với
những tên gọi mang tính bí ẩn của thuyết phong thuỷ như: Núi Long, Ly, Quy,
Phượng. Mộc mạc dân giã gắn liền với nhân dân lao động như: núi Con Trăn,
núi Mâm Xôi, Núi Con Gà, Núi Con Voi ….làm hấp dẫn, say mê không ít du
khách đi đặt chân đến nơi đây.
- Hương Sơn có những khu rừng nguyên sinh với những thảm động,
thực vật phong phú và quý hiếm, tạo nên môi trường sinh thái độc đáo, đa
dạng sinh học do sự chia cắt ngang dày đặc với hệ thống hố rụt, phễu,mãng
được kết hợp xen kẽ với hệ thống các khe dòng chảy, những mảng nhiệt đới
Bảo tồn và phát huy không gian lễ hội tại chùa Hương gắn với phát triển du lịch
Page 24
gió mùa mà tạo nên ấn tượng mạnh mẽ về một vùng núi non hùng vĩ đa dạng
cạnh cánh đồng bằng như vậy. Tất cả những yếu tố thuận lợi đó đã tạo cho
Hương Sơn một vẻ đẹp không những về “ Tiểu sơn lâm mà có đại kỳ quan
”mà còn hình thành lên những di tích có giá trị lịch sử văn hóa tín ngưỡng lâu
đời , tạo lên một lễ hội văn hoá lớn.
2.2.2. Giá trị lịch sử - huyền thoại
- Chùa Hương ra đời không chỉ nổi tiếng bởi cảnh đẹp thiên nhiên mà
còn có một nét đẹp văn hóa tín ngưỡng đạo Phật của người dân Việt Nam.
Chùa Hương ra đời gắn với truyền thuyết: ở vùng “ Linh Sơn phúc địa” này
thì nơi đây là nơi tu trì và trác tích của đức Phật Quán Thế Âm Bồ Tát đã
được Việt hoá và danh xưng là Phật Bà chùa Hương, nghĩa là “Dấu vết thơm tho”.
- Chùa Hương là nơi in dấu tích Phật gắn liền với truyền thuyết về việc
tu hành đắc đạo của bà Chúa Ba. Theo huyền thoại, Đức Quan Âm Bồ Tát đã
tu hành trong chín năm để rồi đắc đạo thành Phật tại Hương Tích. Được vua
cha rất yêu qúy nhưng bà không chịu nghe lời Cha, không chịu lấy chồng mà
quyết chí tu hành trong chín năm nên bị vua cha sai lính giết.Ngọc Hoàng biết
chuyện sai thần lính hóa hổ đến để cứu và đưa bà đến núi Hương Sơn. Bà
sang một vũng nước trong hang bên cạnh tắm gội, rửa sạch oan ức, bụi trần.
Nơi đó sau này thành chùa Giải Oan, có giếng Thiên Nhiên Thanh Trì còn gọi
là giếng Giải Oan và dòng suối giải oan chảy trước cửa hang. Người xưa
tương truyền ai có điều gì oan ức , khi đên đây hãy thành tâm lễ Phật và uống
nước giếng Giải Oan là sẽ giải được oan ức trong lòng. Sau chín năm tu
hành và đắc đạo, tuy đã trở thành Quan Thế Âm bồ tát nhưng bà không về trời
mà ở lại trần gian để cứu khổ, cứu nạn cho chúng sinh. Bà trở về để chữa
bệnh cho cha và giúp đất nước dẹp loạn, bắt đầu sự nghiệp phổ độ chúng
sinh, lắng nghe những nơi than kêu phiền muộn để cứu giúp.
Bảo tồn và phát huy không gian lễ hội tại chùa Hương gắn với phát triển du lịch
Page 25