1
LỜI NÓI ĐẦU
Thập kỉ đầu tiên của thế kỉ XXI đã dần qua, mở đầu cho một kỉ nguyên hoàn
toàn mới trong lịch sử nhân loại. Một kỉ nguyên của các thiết bị công nghệ cao, của trí
tuệ nhân tạo. Nhân loại đang thay đổi chóng mặt, mọi thứ đều phát triển, “thế giới
phẳng” thực sự. Sự giao thoa về kinh tế, văn hoá, chính trị đã làm cho cuộc sông của
mỗi chúng ta thay đổi rất nhiều. Các thiết bị phục vụ cuộc sống hiện nay hầu như
không thể thiếu, bạn có biết nó được sản xuất ở đâu? Bạn có biết làm cách nào mà nó
có thể đến được tay của bạn hay không?
Chúng ta phải thắc mắc, và chúng ta cần được giải đáp các thắc mắc này một
cách khoa học, thoả đáng bằng chính nguồn trí thức đã được tiếp thu.
Có thể thấy rõ kể từ 1986, khi nước ta chấp dứt chế độ bao cấp, mở của hội nhập với
bạn bè quốc tế thì hình ảnh đất nước đã không ngừng thay đổi theo hướng tích cực
hơn. Từ một quốc gia nông nghiệp lạc hậu, tự cung tự cấp trong chính thị trường nội
địa trở thành một quốc gia đang phát triển mạnh mẽ, sản lượng nông nghiệp xuất khẩu
đứng vào top các nước trên thế giới. Cùng với đó là qua trình chuyển mình mạnh mẽ,
phát triển theo hướng công nghiệp hoá- hiện đại hoá.
Hội nhập kinh tế quốc tế của Việt Nam chuyển sang giai đoạn mới, gắn kết
chặt chẽ với nền kinh tế khu vực và toàn cầu, đánh dấu thời điểm nước ta hoàn thành
lộ trình cam kết gia nhập Tổ chức Thương mại Thế giới và cắt giảm thuế quan theo
Hiệp định Thương mại hàng hóa ASEAN, bắt đầu thực thi các cam kết FTA với mức
độ cắt giảm sâu rộng. Việt Nam đã ký kết và chuẩn bị triển khai các FTA thế hệ mới
như Hiệp định Đối tác Toàn diện và Tiến bộ xuyên Thái Bình Dương (CPTPP), Hiệp
định thương mại tự do Việt Nam - EU (EVFTA) với những cam kết sâu rộng, tiêu
chuẩn cao và mở rộng trên nhiều lĩnh vực. Những thỏa thuận FTA này tạo động lực
cho tăng trưởng kinh tế nước ta với độ mở cao của nền kinh tế, đồng thời tăng cường
cơ hội thu hút và tận dụng dòng vốn FDI trong năm 2019 và những năm tiếp theo.
Đây sẽ còn là những hứa hẹn hơn nữa cho nền kinh tế nước ta. (Theo Tổng cục thống
kê).
.
Chính vì là một thể hệ công dân mới của đất nước, nhóm tác giả luôn trăn trở
trong tâm khảm của mình những mong muốn, hoài bảo, là làm sao có thể cống hiến
một phần nào đó cho đất nước, đưa hình ảnh dân tộc Việt Nam đến gần hơn với bạn bè
2
quốc tế. Với vai trò là một sinh viên ngành Kinh doanh- Kinh tế, hơn ai hết nhóm tác
giả ý thức được tầm quan trọng của các vấn đề vĩ mô tác động đến kinh tế đất nước.
Nhưng không phải tất cả các sinh viên, các nhà quản trị, nhà kinh doanh trẻ hiện nay
đều dành sự quan tâm tới kinh tế vĩ mô, tới các vấn đề về kinh tế Việt Nam và hiểu rõ
nó một cách tường tận. Đó chính là động lực giúp nhóm tác giả thực hiện đề tài
nghiên cứu này.
Với hi vọng giúp các bạn sinh viên,nhà quản trị, kinh tế có cái nhìn
rõ hơn về kinh tế nước nhà. Tạo sự hứng thú, say mê trong học tập và tìm hiểu kiến
thức về kinh tế vĩ mô. Cũng là góp một phần nhỏ cho việc nghiên cứu của quốc gia.
3
MỤC LỤC
4
CHƯƠNG 1
CƠ SỞ LÍ THUYẾT
1.1 Xuất khẩu:
Xuất khẩu hàng hóa là việc hàng hoá được đưa ra khỏi lãnh thổ Việt Nam hoặc
đưa vào khu vực đặc biệt nằm trên lãnh thổ Việt Nam được coi là khu vực hải quan
riêng theo quy định của pháp luật.[1]
1.2 Nhập khẩu:
Nhập khẩu hàng hóa là việc hàng hoá được đưa vào lãnh thổ Việt Nam từ nước
ngoài hoặc từ khu vực đặc biệt nằm trên lãnh thổ Việt Nam được coi là khu vực hải
quan riêng theo quy định của pháp luật.[1]
Một cách định nghĩa khác, Xuất nhập khẩu là việc mua bán hàng hoá với nước
ngoài nhằm phát triển sản xuất kinh doanh đời sống. Song mua bán ở đây có những
nét riêng phức tạp hơn trong nước như giao dịch với người có quốc tịch khác nhau, thị
trường rộng lớn khó kiểm soát, mua bán qua trung gian chiếm tỷ trọng lớn, đồng tiền
thanh toán bằng ngoại tệ mạnh, hàng hoá vận chuyển qua biên giới cửa khẩu, cửa
khẩu các quốc gia khác nhau phải tuân theo các tập quán quốc tế cũng như địa
phương.
Hoạt động xuất nhập khẩu được tổ chức thực hiện với nhiều nghiệp vụ, nhiều khâu từ
điều tra thị trường nước ngoài, lựa chọn hàng hoá xuất nhập khẩu, thương nhân giao
dịch, các bước tiến hành giao dịch đàm phán, ký kết hợp đồng tổ chức thực hiện hợp
đồng cho đến khi hàng hoá chuyển đến cảng chuyển giao quyền sở hữu cho người
mua, hoàn thành các thanh toán. Mỗi khâu, mỗi nghiệp vụ này phải được nghiên cứu
đầy đủ,kỹ lưỡng đặt chúng trong mối quan hệ lẫn nhau,tranh thủ nắm bắt những lợi
thế nhằm đảm bảo hiệu quả cao nhất, phục vụ đầy đủ kịp thời cho sản xuất, tiêu dùng
trong nước.
1.3 Vai trò của xuất nhập khẩu
Có thể khẳng định chắc chắn rằng, nhập khẩu hay xuất khẩu có vai trò then
chốt trong nền kinh tế của bất kì một quốc gia, vùng lãnh thổ nào trên thế giới. Quốc
5
gia có phát triển hay không, sức mạnh cạnh tranh trên trường quốc tế, đời sống vật
chất, tinh thần của người dân quốc gia đó có đảm bảo hay không quyết định bằng sự
phát triển và phản ánh của xuất nhập khẩu. Bởi vì bản chất của thương mại chính là
trao đổi mua bán, mà trao đổi mua bán sẽ không thể phát triển nếu chỉ tồn tại trong
một không gian nhất định. Bằng chứng cụ thể và rõ ràng nhất chính là một số quốc gia
giới hạn việc giao thương của mình với thế giới, nền kính tế đóng cửa tự cung tự cấp .
Nó khiến cho nền kinh tế của quốc gia đó kém phát triển, thụ động, gây tác động nặng
nề tới chính trị, văn hoá xã hội. Đơn cử chính là CHDCNN Triều Tiên. Qua đó ta có
thể một lần nữa thấy tầm quan trọng của việc tảo đổi mua bán ở tầm vĩ mô hay chính
là xuất nhập khẩu.
1.3.1 Vai trò của nhập khẩu
Nhập khẩu là một hoạt động quan trọng của thương mại quốc tế, nhập khẩu tác
động một cách trực tiếp và quyết định đến sản xuất và đời sống. Nhập khẩu là để tăng
cường cơ sở vật chất kỹ thuật công nghệ tiên tiến, hiện đại cho sản xuất và các hàng
hoá cho tiêu dùng mà sản xuất trong nước không sản xuất được, hoặc sản xuất không
đáp ứng nhu cầu. Nhập khẩu còn để thay thế, nghĩa là nhập khẩu những thứ mà sản
xuất trong nước sẽ không có lợi bằng xuất khẩu,làm được như vậy sẽ tác động tích
cực đến sự phát triển cân đối và khai thác tiềm năng,thế mạnh của nền kinh tế quốc
dân về sức lao động, vốn, cơ sở vật chất, tài nguyên và khoa học kĩ thuật.
Chính vì vậy mà nhập khẩu có vai trò như sau:
- Nhập khẩu thúc đẩy nhanh quá trình sử dụng cơ sở vật chất kỹ thuật chuyển dịch cơ
cấu kinh tế theo hướng đẩy mạnh công nghiệp hoá , hiện đại hoá đất nước
- Bổ xung kịp thời những mặt mất cân đối của nền kinh tế , đảm bảo một sự phát triển
cân đối ổn định.khai thác đến mức tối đa tiềm năng và khả năng của nền kinh tế vào
vòng quay kinh tế.
- Nhập khẩu đảm bảo đầu vào cho sản xuất tạo việc làm ổn định cho người lao động
góp phần cải thiện và nâng cao mức sống của nhân dân.
Đối với nước ta nói riêng và nền kinh tế thế giới nói chung, hoạt động nhập
khẩu đóng vai trò vô cùng quan trọng thể hiện qua 6 vai trò dưới đây:
- Vai trò quan trọng hàng đầu là đáp ứng nhu cầu tiêu dùng của người dân, tránh tình
trạng khan hiếm bất ổn. Khi mà tự quốc gia đó không thể sản xuất hoặc sản xuất
6
không đủ để cung cấp, cần nhập khẩu từ những nguồn bên ngoài nhằm đảm bảo cân
đối kinh tế, phát triển ổn định bền vững.
- Hàng hóa nhập khẩu kết hợp hàng hóa có sẵn trong nước giúp thị trường tiêu dùng
trở nên đa dạng hóa và nhộn nhịp hơn bao giờ hết. Giờ đây người dân có rất nhiều sự
chọn lựa từ chủng loại hóa, nguồn gốc xuất xứ, giá cả lẫn chất lượng. Khả năng tiêu
dùng và mức sống của người dân vì thế cũng được nâng tầm.
- Khi có nhiều thương hiệu đến từ nhiều quốc gia, tình trạng độc quyền sẽ bị xóa bỏ,
đảm bảo quyền lợi cho người dân. Thời kỳ kinh tế tự cung tự cấp lạc hậu cũng dần
khép lại. Thay vào đó là một thị trường năng động, tiến tới hợp tác rộng rãi giữa các
quốc gia, là cơ hội để phát huy lợi thế so sánh công bằng.
- Nhập khẩu còn đóng vai trò như một “cú hích” giúp các doanh nghiệp trong nước
không ngừng vươn lên. Bởi khi hàng ngoại nhập về nhiều, người dân có thêm nhiều
chọn lựa, sự cạnh tranh mạnh mẽ, thì buộc doanh nghiệp phải không ngừng tìm tòi,
phát triển, cải tiến chất lượng sản phẩm và dịch vụ của mình để giữ chân khách hàng.
- Quá trình chuyển giao công nghệ nhờ nhập khẩu sẽ giúp kinh tế quốc gia không
ngừng cải thiện. Sự học hỏi lẫn nhau tạo nên mức cân bằng về trình độ sản xuất giữa
các quốc gia, đồng thời giúp các đất nước “đến sau” kế thừa nhanh chóng, không phải
mất quá nhiều chi phí và thời gian.
Với hình thức xuất nhập khẩu đối lưu, thì nhập khẩu cũng trở thành xuất khẩu.
Nhập khẩu sẽ góp phần thúc đẩy xuất khẩu, nâng cao giá trị, chất lượng sản phẩm
cũng như uy tín của quốc gia.
Có thể thấy rằng vai trò của nhập khẩu là hết sức quan trọng đặc biệt là đối với
các nước đang phát triển (trong đó có Việt Nam) trong việc cải thiện đời sống kinh
tế,thay đổi một số lĩnh vực ,nhờ có nhập khẩu mà tiếp thu được những kinh nghiệm
quản lí ,công nghệ hiện đại …thúc đẩy nền kinh tế phát triển nhanh chóng.
1.3.2. Vai trò của xuất khẩu
Xuất khẩu là một cơ sở của nhập khẩu và là hoạt động kinh doanh để đem lại
lợi nhuận lớn, là phương tiện thúc đẩy kinh tế. Mở rộng xuất khẩu để tăng thu ngoại
tệ, tạo đIều kiện cho nhập khẩu và phát triển cơ sở hạ tầng, thúc đẩy nền kinh tế
chuyển dịch theo hướng công nghiệp hoá, hiện đại hoá mạnh mẽ hơn. Nhà nước ta
luôn coi trọng và thúc đẩy các ngành kinh tế hướng theo xuất khẩu, khuyến khích các
7
thành phần kinh tế mở rộng xuất khẩu để giải quyết công ăn việc làm và tăng thu
ngoại tệ.
- Xuất khẩu tạo nguồn vốn chủ yếu cho nhập khẩu.
Công nghiệp hoá đất nước đòi hỏi phải có số vốn rất lớn để nhập khẩu máy móc, thiết
bị, kỹ thuật, vật tư và công nghệ tiên tiến. Trong các nguồn vốn như đầu tư nước
ngoài, vay nợ và viện trợ…cũng phải trả bằng cách này hay cách khác. Để nhập khẩu,
nguồn vốn quan trọng nhất là từ xuất khẩu. Xuất khẩu quyết định quy mô và tốc độ
tăng của nhập khẩu.
- Xuất khẩu góp phần chuyển dịch cơ cấu kinh tế sang nền kinh tế hướng ngoại.
- Xuất khẩu tạo điều kiện cho các ngành liên quan có cơ hội phát triển thuận lợi
- Xuất khẩu tạo ra khả năng mở rộng thị trường tiêu thụ, cung cấp đầu vào cho sản
xuất, khai thác tối đa sản xuất trong nước
- Xuất khẩu tạo ra những tiền đề kinh tế kỹ thuật nhằm đổi mới thường xuyên năng
lực sản xuất trong nước. Nói cách khác, xuất khẩu là cơ sở tạo thêm vốn và kỹ thuật,
công nghệ tiên tiến thế giới từ bên ngoài.
- Xuất khẩu tạo thêm công ăn việc làm và cải thiện đời sống nhân dân. Trước hết, sản
xuất hàng xuất khẩu thu hút hàng triệu lao động, tạo ra nguồn vốn để nhập khẩu vật
phẩm tiêu dùng thiết yếu phục vụ đời sống của nhân dân.
- Xuất khẩu là cơ sở để mở rộng và thúc đẩy các quan hệ kinh tế đối ngoại của đất
nước.
Xuất khẩu và các quan hệ kinh tế đối ngoại làm cho nền kinh tế gắn chặt với
phân công lao động quốc tế. Thông thường hoạt động xuất khẩu ra đời sớm hơn các
hoạt động kinh tế đối ngoại khác nên nó thúc đẩy các quan hệ này phát triển.
Chẳng hạn, xuất khẩu và sản xuất hàng xuất khẩu thúc đẩy quan hệ tín dụng,
đầu tư, vận tải quốc tế…
Ở mức độ vĩ mô hơn xuất khẩu còn giúp nền kinh tế toàn cầu phát triển: Khi sự
lưu thông hàng hóa giữa các quốc gia diễn ra xuyên suốt sẽ là động lực để thúc đẩy
sản xuất của từng quốc gia phát triển. Càng nhiều quốc gia đẩy mạnh sản xuất xuất
khẩu, nền kinh tế toàn cầu cũng sẽ tăng trưởng tốt. (“Sec-warehouse, Xuất khẩu là gì
và các vấn đề liên quan đến xuất khẩu, 7/6/2019”)
1.4 Cán cân thương mại
8
Begg (2007) cho rằng Cán cân thương mại là một mục trong tài khoản vãng lai
của cán cân thanh toán quốc tế. Cán cân thương mại còn được gọi là xuất khẩu ròng
hoặc thặng dư thương mại. Cán cân thương mại ghi lại những thay đổi trong xuất khẩu
và nhập khẩu của một quốc gia trong một khoảng thời gian nhất định (quý hoặc năm)
cũng như mức chênh lệch (xuất khẩu trừ đi nhập khẩu) giữa chúng.
Net Export (Cán cân thương mại) = X (Giá trị Xuất khẩu) – G (Giá trị Nhập khẩu)
-
Khi cán cân thương mại có thặng dư, xuất khẩu ròng/thặng dư thương mại
-
mang giá trị dương (mức chênh lệch là lớn hơn 0).
Khi cán cân thương mại có thâm hụt, xuất khẩu ròng/thặng dư thương mại
mang giá trị âm(mức chênh lệch nhỏ hơn 0). Lúc này còn có thể gọi là thâm
-
hụt thương mại.
Khi mức chênh lệch đúng bằng 0, cán cân thương mại ở trạng thái cân bằng.
Tuy nhiên, cần lưu ý là các khái niệm xuất khẩu, nhập khẩu, xuất khẩu ròng, thặng
dư/thâm hụt thương mại trong lý luận thương mại quốc tế rộng hơn các trong cách xây
dựng bảng biểu cán cân thanh toán quốc tế bởi lẽ chúng bao gồm cả hàng hóa lẫn dịch
vụ.
1.5 Các bộ phận cấu thành cán cân thương mại
Theo Wikipedia, 2 bộ phận quan trọng nhất cấu thành nên cán cân thương mại:
đó là xuất khẩu ròng và đầu tư nước ngoài. Đây là cách tiếp cận cán cân thương mại
và sự thâm hụt cán cân thương mại dưới cách đánh giá về tổng sản phẩm trong nước.
Hãy xem xét những khoản chi tiêu về hàng hóa, dịch vụ và nhu cầu đầu tư
trong một nền kinh tế mở:
Y=C+I+G+X–M
=> Y=C+I+G+NX
=> NX=Y–(C+I+G)
Xuất khẩu ròng = sản lượng – chi tiêu trong nước
=> (Y–C–G)-I=NX
=> S–I =NX
– I chính là khoản đầu tư nước ngoài ròng, là phần dôi ra giữa tiết kiệm trong nước và
đầu tư trong nước.
Bên cạnh đó, cán cân thương mại còn được cấu thành từ tỉ giá hối đoái.[6] Vì
nó ảnh hưởng đến giá tương đối giữa hàng hóa sản xuất trong nước với hàng hóa trên
9
thị trường quốc tế. Khi tỷ giá của đồng tiền của một quốc gia tăng lên thì giá cả của
hàng hóa nhập khẩu sẽ trở nên rẻ hơn trong khi giá hàng xuất khẩu lại trở nên đắt đỏ
hơn đối với người nước ngoài. Vì thế việc tỷ giá đồng nội tệ tăng lên sẽ gây bất lợi
cho xuất khẩu và thuận lợi cho nhập khẩu dẫn đến kết quả là xuất khẩu ròng giảm.
Ngược lại, khi tỷ giá đồng nội tệ giảm xuống, xuất khẩu sẽ có lợi thế trong khi nhập
khẩu gặp bất lợi và xuất khẩu ròng tăng lên.
1.6 Vai trò của cán cân thương mại
Đối với một nền kinh tế mở, cán cân thương mại có hai tác động quan trọng:
xuất khẩu ròng bổ sung vào tổng cầu (AD) của nền kinh tế; số nhân đầu tư tư nhân và
số nhân chi tiêu chính phủ khác đi do một phần chi tiêu bị "rò rỉ" qua thương mại quốc
tế.
1.6.1 Xuất khẩu ròng và GDP cân bằng
Bảng 1.1 Cân bằng trong nền kinh tế mở
Bảng dưới đây trình bày một nền kinh tế với các
bộ phận cấu thành ban đầu như một nền kinh tế đóng, sau
đó bổ sung xuất khẩu, nhập khẩu cho nền kinh tế mở. Cột
1 là mức GDP ban đầu trong nền kinh tế đóng. Cột 2 là
cầu trong nước bao gồm tổng tiêu dùng (C), đầu tư (I) và
mua hàng hóa, dịch vụ của chính phủ (G). Cột 3 là xuất
khẩu và vì xuất khẩu phụ thuộc tình hình kinh tế của các
nước bạn hàng nên giả định nó không thay đổi. Cột 4 là
nhập khẩu, nhập khẩu chủ yếu phụ thuộc GDP nên giả
định nó luôn bằng 10% GDP. Giá trị xuất khẩu ròng tại
Hình 1.1 Cân bằng trong nền kinh
cột 5 bằng xuất khẩu trừ đi nhập khẩu, nó mang giá trị dương nếu xuất khẩu lớn hơn
nhập khẩu và ngược lại, sẽ mang giá trị âm. Sau khi cộng giá trị đóng góp của xuất
khẩu ròng vào cầu nội địa để tạo thành tổng chi tiêu và chính là tổng cầu ta được giá
10
trị ghi tại cột 6. Nền kinh tế mở đạt mức cân bằng khi tổng chi tiêu bằng GDP nghĩa là
đường tổng chi tiêu cắt đường phân giác OO'(ứng với mức GDP ban đầu là 35 tỷ
USD). Đó chính là điểm E trên đồ thị bên phải. Ở điểm này cầu nội địa chỉ có 31,5 tỷ
USD nhưng cầu về xuất khẩu ròng (khoảng cách giữa đường C+G+I+X và đường
C+G+I) là 3,5 nên tổng chi tiêu là 35 tỷ USD và đúng bằng GDP. Như vậy nền kinh tế
mở có thể đạt mức sản lượng cân bằng ở mức xuất khẩu ròng khác 0. Tại điểm có mức
xuất khẩu ròng bằng 0 (đường C+G+I cắt đường C+G+I+X), tổng cầu trong nước
bằng với tổng cầu và đều bằng 63 tỷ USD. Về phía bên trái điểm này, cầu xuất khẩu
ròng luôn dương, tổng cầu nội địa nhỏ hơn tổng chi tiêu và ở bên phải, cầu xuất khẩu
ròng luôn âm, tổng cầu nội địa lớn hơn tổng chi tiêu.
1.6.2 Số nhân trong nền kinh tế mở
Trong đồ thị trên, độ dốc của đường tổng chi tiêu C+I+G+X nhỏ hơn độ dốc
của đường cầu nội địa C+G+I, điều đó là do sự "rò rỉ" qua nhập khẩu. Giả sử nền kinh
tế có xu hướng tiêu dùng cận biên MPC là 0,75 thì khi GDP tăng 100 USD, chi cho
tiêu dùng tăng 75 USD. Nhưng cũng theo giả định trong ví dụ này, xu hướng nhập
khẩu biên MPZ là 0,10 (nhập khẩu luôn bằng 10% GDP) nên chi tiêu cho nhập khẩu
cũng tăng 10 USD. Do đó chi tiêu cho hàng hóa sản xuất trong nước chỉ còn tăng 65
USD mà thôi. Chính vì thế độ dốc của đường chi tiêu giảm từ 0,75 xuống còn có 0,65.
Tác động của "rò rỉ" qua nhập khẩu có tác động mạnh đến số nhân của nền kinh tế.
Trong nền kinh tế đóng, số nhân là 1/(1-MPC) còn trong nền kinh tế mở, do sự rò rỉ
qua nhập khẩu, số nhân chỉ còn 1/(1-(MPC-MPZ)). Khi không có ngoại thương, với
MPC bằng 0,75 thì số nhân là 1/(1-0,75) = 4; khi có ngoại thương số nhân chỉ còn 1/
(1-(0,75-0,10)) = 2.857. Những nền kinh tế nhỏ hầu hết đều rất mở, do vậy tác động
của nhập khẩu đến số nhân của nền kinh tế đặc biệt quan trọng. Từ ví dụ trên có thể dễ
dàng suy ra nếu xu hướng nhập khẩu biên là 0,75 thì số nhân là 1 nghĩa là hiệu ứng số
nhân đã bị triệt tiêu hoàn toàn bởi rò rỉ qua nhập khẩu.
1.7 Thị trường tài chính
Thị trường tài chính là thuật ngữ mô tả thị trường của các loại tiền tệ được giao
dịch như một loại hàng hoá, trong đó các chứng từ có giá được xem là mức phát triển
cao của thị trường tài chính và lá sản phẩm đặc trưng của nền kinh tế thị trường. Đó là
11
lí do tại sao khi đề cập đến thị trường tài chính người ta thường hướng sự quan tâm
đến thị trường của các chứng từ có giá.(Lê, 2006)[7]
Cơ cấu của thị trường tài chính là thị trường bao trùm, là thị trường tổng thể
với kết cấu của nó là thị trường tiền tệ và thị trường vốn. Thể hiện qua sơ đồ sau:
Thị trường tài chính
Hình 1.2 Kết cấu thị trường tài
chính
Thị trường nguồn vốn
Thị trường tiền tệ
1.8 Mối quan hệ giữa cán cân thương mại và thị trường tài chính.
Theo Wikipedia, trong tài chính, thị trường tài chính tạo điều kiện:
-
Việc nâng vốn (trong các thị trường vốn)
-
Việc chuyển giao rủi ro (trong các thị trường phái sinh)
-
Phát hiện giá
-
Các nghiệp vụ toàn cầu với hội nhập của các thị trường tài chính
12
-
Việc chuyển giao tính thanh khoản (trong các thị trường tiền tệ)
-
Thương mại quốc tế (trong các thị trường tiền tệ),
Qua đó ta có thể thấy thị trường tài chính là phương tiện để thực hiện các hoạt
động của cán cân thương mại. Mọi giao dịch thương mại đều được đo lường giá trị
bằng tiền, chính vì vậy mà các yếu tố, đặc tính của thị trường tài chính sẽ gây ảnh
hưởng đến qua trình xuất, nhập khẩu hàng hoá của các quốc gia với nhau. Một
cách cụ thể hơn cho mối quan hệ giữa thị trường tài chính và cán cân thương mại
là khi nếu đồng tiền của một quốc gia mạnh lên, hàng hóa xuất khẩu của quốc gia
này ra nước ngoài sẽ đắt đỏ hơn và hàng hóa nhập khẩu sẽ rẻ hơn. Ngược lại, một
đồng tiền yếu sẽ làm cho hàng hóa xuất khẩu của một quốc gia rẻ hơn và nhập
khẩu đắt hơn ở thị trường nước ngoài. Khi tỷ giá hối đoái tăng cao, cán cân thương
mại của một nước thường giảm đi và khi tỷ giá hối đoái thấp hơn, cán cân thương
mại sẽ tăng.
1.9 Tác động của cán cân thương mại đối với thị trường tài chính
1.9.1 Thâm hụt tài khoản vãng lai
Tài khoản vãng lai là cán cân thương mại giữa một quốc gia và các đối tác
thương mại của nó, phản ánh tất cả các khoản thanh toán giữa các nước liên quan đến
hàng hoá, dịch vụ, lãi và cổ tức.
Thâm hụt tài khoản vãng lai cho thấy một quốc gia đang chi tiêu cho ngoại
thương nhiều hơn việc thu nhập từ xuất khẩu, và rằng nước này đang vay vốn từ các
nguồn nước ngoài để bù đắp thâm hụt.
Nói cách khác, đất nước cần nhiều ngoại tệ hơn những gì nhận được thông qua
xuất khẩu, và cung cấp nội tệ cho nước ngoài nhiều hơn những gì họ cần để mua hàng
hóa. Nhu cầu ngoại tệ dư thừa làm giảm tỷ giá hối đoái của nước này cho đến khi giá
của hàng hóa, dịch vụ trong nước đủ rẻ đối với người nước ngoài và các tài sản nước
ngoài quá đắt để tạo ra doanh số bán hàng trong nước.
13
1.9.2 Tỷ lệ trao đổi thương mại
Là tỷ lệ so sánh giá xuất khẩu với giá nhập khẩu. Tỷ lệ trao đổi thương mại có
liên quan đến tài khoản vãng lai và cán cân thanh toán. Nếu tốc độ tăng giá xuất khẩu
của một quốc gia nhanh hơn tốc độ tăng giá nhập khẩu, thì tỷ lệ trao đổi thương mại
đã được cải thiện tích cực.
Tỷ lệ trao đổi thương mại tăng cho thấy nhu cầu về hàng xuất khẩu của nước
đó đang tăng, dẫn đến doanh thu từ xuất khẩu tăng, và nhu cầu cho nội tê tăng lên (và
giá trị của đồng nội tệ tăng). Nếu tốc độ tăng trưởng của giá xuất khẩu chậm hơn so
với nhập khẩu, giá trị của đồng nội tệ sẽ giảm tương đối với các đối tác thương mại.
CHƯƠNG 2
PHÂN TÍCH HOẠT ĐỘNG XUẤT-NHẬP KHẨU VIỆT NAM
GIAI ĐOẠN 2015 – 2019
2.1.
Tổng quan tình hình xuất nhập khẩu của Việt Nam giai đoạn 2015-2019:
Trong giai đoạn 2015-2019 là giai đoạn phát triển của nền kinh tế Việt Nam, có
những bước nhảy vọt đáng kể, cán cân thương mại của Việt Nam có sự tăng trưởng
vượt bật và những kết quả tích cực:
Tổng kim ngạch xuất nhập khẩu hàng hoá đạt 480,17 tỷ USD vào năm 2018 so
với năm 2015 đạt 327,76 tỷ USD do đó tăng trưởng tăng lên 1,46 lần trong vòng 3
năm từ 2015-2018. Tính đến tháng 8/2019 thì tổng kim ngạch xuất khẩu đã đạt 337,22
tỷ USD với kết quả đạt được hiện tại, dự đoán đến hết năm 2019 đưa tổng kim ngạch
lên con số vượt hơn 500 tỷ USD (hình 2.1)
14
Hình 2.1 Tổng kim ngạch xuất nhập khẩu hàng hoá giai đoạn 2015 – 8/2019
Nguồn: Tổng cục Hải quan Việt Nam.
Hiện nay Việt Nam luôn sẳn sàng hợp tác với bạn bè quốc tế để tạo nên các
mối quan hệ thương mại phát triển nên lưu thông, trao đổi hàng hoá trở nên thuận tiện
hơn, nắm bắt được nhu cầu mới do đó tình hình xuất – nhập khẩu trở nên nhộn nhịp
hơn, đạt được những thành tựu lớn. Với điều kiện thuận lợi cho sự phát triển kinh tế ở
Việt Nam như thị trường lao động dồi giàu, nguồn đất đai chưa khai thác nhiều, hệ
thống giao thông thuận tiện có đủ loại hình: đường thuỷ, hàng không, đường bộ, tạo
nên thị trường tiềm năng thu hút các doanh nghiệp nước ngoài đầu tư trực tiếp vào
Việt Nam (FDI) tăng lên cao. Kéo theo tổng kim ngạch xuất nhập khẩu hàng hoá của
khối doanh nghiệp FDI tăng vọt cụ thể từ năm 2015 đạt 207,85 tỷ USD tăng mạnh qua
các năm đến năm 2018 đạt 313,21 tỷ USD, chỉ mới tháng 8/2019 đã đạt con số ấn
tượng 213,16 tỷ USD (hình 2.2). Với sự biến đổi tích cực về tăng tốc độ của khối
doanh nghiệp FDI đầu tư vào Việt Nam như hiện tại dự đoán trong tương lai sẽ tăng
vượt bật đóng góp vào GDP của Việt Nam, nền kinh tế khởi sắc, nhiều văn hoá khác
nhau.
Hình 2.2 Tổng kim ngạch xuất nhập khẩu nhóm doanh nghiệp FDI giai
đoạn 2015 - 8/2019
Nguồn: Tổng cục Hải quan Việt Nam.
2.1.1. Tình hình xuất khẩu:
Về tình hình xuất khẩu, nền kinh tế có quy mô đang trên đà phát triển kèm theo
tốc độ tăng trưởng nhanh, xuất khẩu năm 2015 đạt 162,11 tỷ USD và đạt mức giá trị
243,48 tỷ USD vào năm 2018, với sự phát tiển như vậy thì tốc độ tăng trưởng xuất
khẩu bình quân trong giai đoạn 2015-2018 là 12,55%/năm. Trong giai đoạn 201515
2019 thì nổi bật với tốc độ tăng trưởng 21,17%/năm từ năm 2016 (176,63 tỷ USD) năm 2017 (214,02 tỷ USD). Tính đến tháng 8/2019 con số xuất khẩu đã hơn năm 2015
với 171,3 tỷ USD (hình 2.3). Cho thấy được tốc độ tăng trưởng của nền kinh tế một
phần do sự phát triển của chính sự vận động tích cực của nền kinh tế trong nước, nắm
bắt được xu hướng công nghệ mới, nhu cầu mới, một phần Việt Nam nhận được lợi
trong ngắn hạn trong cuộc “căng thẳng thương mại Mỹ-Trung”, hàng hoá của Việt
Nam xuất khẩu qua Mỹ được tăng lên do các công ty Trung Quốc bị hạn chế xuất
khẩu qua thị trường Mỹ trong giai đoạn căng thẳng.
Hình 2.3 Giá trị xuất khẩu giai đoạn 2015 - 8/2019
Nguồn: Tổng cục Hải quan Việt Nam.
Một số nhóm hàng xuất khẩu chính, trong đó nhóm hàng điện thoại các loại và
linh kiện chiếm tỉ trọng lớn nhất 26% đạt khoảng 192,24 tỷ USD của nhóm hàng xuất
khẩu và luôn đứng đầu nhóm hàng xuất khẩu trong giai đoạn 2015- 8/2019, để có
được kết quả đó là do sự phát triển của tập đoàn Sam Sung – một trong những thương
hiệu công nghệ đắt giá nhất trên thế giới hiện nay, đang có nhà máy sản xuất và kênh
phân phối sản phẩm công nghệ ở Việt Nam. Bên cạnh đó nhóm hàng máy vi tính, sản
phẩm điện tử và liên kiện liên quan và nhóm ngành dệt may cũng chiếm vị trí quan
trọng trong xuất khẩu hàng hoá đạt khoảng 111,97 tỷ USD và khoảng 124,46 tỷ USD,
ngoài ra nông, lâm nghiệp cũng giữ vai trò lớn trong xuất khẩu đem lại nguồn lợi là
sản phẩm nông sản, thuỷ sản, gỗ và gỗ thành phẩm do khai thác thế mạnh về đất đai
và khí hậu thuận lợi, do ngày càng áp dụng khoa học công nghệ trong sản xuất nông,
lâm nghiệp nên sản lượng ngày càng nhiều và chất lượng cũng được đảm bảo nên
được nhu cầu từ phía nước ngoài.
Hình 2.4 Tỉ trọng một số nhóm hàng xuất khẩu giai đoạn 2015 – 8/2019
Nguồn: tính toán từ số liệu của Tổng cục Hải quan.
16
Hình 2.5 Trị giá nhóm hàng xuất khẩu giai đoạn 2015 – 8/2019
Nguồn: tính toán từ số liệu của Tổng cục Hải quan.
Nhìn chung nền kinh tế Việt Nam và ngành xuất khẩu nói riêng thì đều phát
triển toàn diện theo nhiều lĩnh vực khác nhau, có xu hướng phát triển theo hướng công
nghệ, tận dụng tiềm lực kinh tế sản có, tiếp cận với nền kinh tế hiện đại.
2.1.2. Tình hình nhập khẩu
Bên cạnh tình hình xuất khẩu đang sôi động, tăng nhanh qua các năm làm cho
nền kinh tế phát triển nhanh, GDP cả nước tăng lên, thu nhập bình quân người/năm
cao lên do đó kéo theo nhu cầu sử dụng hàng hoá hiện đại, công nghệ mới từ nước
ngoài, cũng như đáp ứng nhu cầu sản xuất và tái sản xuất của doanh nghiệp trong
nước phải nhập các linh kiện, phụ tùng, nguyên liệu sản xuất từ thương mại với các
nước trên thế giới làm tình trạng nhập khẩu hàng hoá tăng theo, không có sự im ắng,
mà nhộn nhịp không kém so với tình hình xuất khẩu cả nước.
Tình hình nhập khẩu có tốc độ tăng cụ thể là đã đạt 165,7 tỷ USD vào năm
2015, so với năm 2015 thì năm 2016 tăng 5,06% đat mức 174,1 tỷ USD, nhưng sự bất
ngờ tăng vọt 21,25% năm 2017 so với năm 2016 đạt khoảng 211,1 tỷ USD, đưa nhập
khẩu Việt Nam vượt mốc 200 tỷ USD, nguyên nhân có sự biến động lớn như vậy là do
một phần do tình hình trong nước là sự cố môi trường biển ở miền trung và hạn hán ở
miền tây, tây nguyên và gặp nhiều biến động lớn của nền kinh tế toàn cầu nổi bật nhất
trong số đó là sự kiện nước Anh quyết định rời khỏi Liên minh châu Âu (EU) và chiến
thắng của ông Donald Trump trong cuộc bầu cử Tổng thống Mỹ hồi tháng 11/2016 là
những nguyên nhân nền kinh tế Việt Nam nữa đầu 2016 bị “tổn thương” hoạt động
trao thương hàng hoá giảm do tác động của nền kinh tế toàn cầu, song nữa cuối năm
17
2016 và năm 2017 nền kinh tế đã ổn định trở lại, lạm phát đã được kiểm soát, nền
nông nghiệp đã phần khởi sắc tạo nên tốc độ tăng trưởng nhanh trong năm 2017.
Hình 2.6 Giá trị nhập khẩu giai đoạn 2015 – 8/2019
Nguồn: Tổng cục Hải quan Việt Nam.
Một số nhóm hàng nhập khẩu chính, do nhu cầu sử dụng các thiết bị điện tử,
công nghệ mới ngoại nhập từ nước ngoài như sản phẩm của Apple, các dòng máy vi
tính của Asus, Dell, Sony, và các dòng máy ngoại nhập khác mang lại tính năng và
cung dụng cao nên được ưa chuộng, tin dùng ở thị trường Việt Nam và trên thế giới
nên nhóm hàng có tỷ trọng lớn nhất trong nhóm hàng được nhập khẩu sang Việt Nam
chiếm 38% tổng giá trị đạt 164,46 tỷ USD trong giai đoạn 2015 – 8/2019, chỉ trong
năm 2018 đã chiếm 42,2 tỷ USD tăng 12% so với năm 2017, chứng tỏ với sự phát
triển của khoa học công nghệ, các thiết bị thông minh luôn được săn đón, giúp nắm
bắt được công nghệ mới mới trong thời đại 4.0 hiện nay, nó còn phản ánh sự phát triển
của nền kinh tế Việt Nam thông qua việc chi tiêu sản phẩm công nghệ mới.
Nhóm hàng máy móc, thiết bị, dụng cụ, phụ tùng chiếm tỷ trọng lớn lên đến
34% trong nhóm hàng nhập khẩu chính, tổng số đạt được là 147,34 tỷ USD trong tổng
số 953,47 tỷ USD tổng giá trị nhập khẩu cả nước trong giai đoạn 2015 – 8/2019.
Nguyên nhân do nhu cầu sản xuất hàng hoá trong nước cao mà thị trường trong nước
không thể đáp ứng nhu cầu về trang thiết bị, máy móc hiện đại để sản xuất hiệu quả
cao do đó cần nhập khẩu từ phía nước ngoài.
Ngoài những nhóm hàng trên, Việt Nam còn nhập khẩu nhiều loại hàng hoá
khác nhau như nhóm hàng điện thoại các loại, linh kiện liên quan, nhóm hàng kim loại
(sắt thép, kim loại khác), các loại xăng dầu, nguyên phụ liệu (hàng dệt may, giày dép
và nguyên liệu khác) cũng chiếm tỷ trong lớn, làm cho nhóm hàng nhập khẩu trở nên
đa dạng, tiếp cận được xu hướng công nghệ mới để phát triển.
18
Hình 2.7 Tỷ trọng một số nhóm hàng nhập khẩu chính giai đoạn 2015 – 8/2019
Nguồn: tính toán từ số liệu của Tổng cục Hải quan.
Hình 2.8 Trị giá nhóm hàng nhập khẩu chính giai đoạn 2015 – 8/2019
Nguồn: tính toán từ số liệu của Tổng cục Hải quan.
2.1.3. Cán cân thương mại và nguyên nhân gây ra thâm hụt thương mại
Cán cân thương mại là sự ghi nhập lại mức chênh lệch giữa xuất khẩu và nhập
khẩu (cụ thể là xuất khẩu trừ đi nhập khẩu) trong khoảng thời gian nhất định và vai trò
đặc biệt quan trọng trong việc cân bằng cán cân thương mại tạo ra thặng dư nhiều nhất
để phán ảnh lên sự phát triển của nền kinh tế Việt Nam nhưng phần đầu chương 1
cũng có đề cập đến. Trong một nền kinh tế thì sẽ không bao giờ thiếu hai hoạt động,
một là sản xuất để đáp ứng nhu cầu trong nước và xuất khẩu hàng hoá, hai là nhu cầu
sử dụng các sản phẩm tiến bộ từ nước ngoài và nhu cầu sử dụng nguyên vật liệu cho
quá trình sản xuất và tái sản xuất gọi là nhâp khẩu, một kinh tế càng phát triển (đặc
biệt là sự phát triển về công nghệ) tạo ra giá trị thặng dư càng nhiều cho nền kinh tế.
Xét trong giai đoạn 2015 – 8/2019, nhìn chung nền kinh tế của nước ta ở giai
đoạn này có bước phát triển nhanh, tạo ra được ra giá trị thặng dư từ thương mại.
Điểm sáng nhất là năm 2018 tạo ra được một khoảng cao góp vào GDP của cả nước là
6,79 tỷ USD tăng 232,53% so với năm 2017, tăng 269,44 % so với năm 2016. Để có
được con số tăng trưởng đáng chú ý như vậy nhờ vào chính sự nổ lực, quyết tâm cao
của cả hệ thống chính trị, cộng đồng doanh nghiệp và nhân dân cả nước. một phần
nắm bắt được cơ hội từ cuộc chiến tranh thương mại Mỹ - Trung, làm thúc đẩy xuất
khẩu ở Việt Nam tăng vọt và đã đạt thành công toàn diện, đạt 12/12 chỉ tiêu phát triển
kinh tế - xã hội đều đạt và vượt mục tiêu đề ra của Quốc hội và có sự mong chờ sự đột
phát của nền kinh tế năm 2019, chỉ tính đến tháng 8/2019 cán cân thương mại đã có
thặng dư một con số cực kì bất ngờ đã đạt 5,38 tỷ USD dự đoán đạt trên mức 7 tỷ
USD vào cuối năm 2019 vượt ngưỡng 2018, và với kết quả như thế Việt Nam đang
tăng chuỗi 4 năm liên tục phát triển bền vững.
19
Bên cạnh những con số ấn tượng trên, nhìn lại thời kì khủng hoảng của nền
kinh tế, cán cân thương mại thâm hụt lên đến 3,54 tỷ USD, nguyên nhân là do tồn tại
nhiều tác động tiêu cực đến sự tăng trưởng và ổn định kinh tế vĩ mô nhât là do thu –
chi ngân sách. Năm 2015, tổng thu cân đối ngân sách nhà nước (NSNN) đạt 989,69
nghìn tỷ đồng, đạt 108,69% dự toán và nguồn thu còn giảm dần do giá dầu thô và việc
tham gia các hiệp định thương mại tự do thế hệ mới như Hiệp định đối tác thương mại
xuyên Thái Bình Dương (TPP), Cộng đồng kinh tế ASEAN (AEC) và Hiệp định
thương mại tự do với Liên minh châu Âu (EVFTA), bởi việc sụt giảm một số nguồn
thu chính buộc Chính phủ tăng cường thu từ các nguồn khác nhằm bổ sung ngân sách,
đồng loạt tăng thuế, phí vượt xa dự toán ban đầu. Do các nguồn thu khó khăn nên
Chính phủ đã thực hiện chính sách cắt giảm chi ngân sách. Quy mô chi ngân sách nhà
nước năm 2015 ước tăng trên 70% so với năm 2010. Tỷ trọng tổng chi ngân sách nhà
nước so GDP giảm dần từ mức trên 30% GDP năm 2010 xuống khoảng 26% GDP
năm 2015. (Ts. Nguyễn Đức Thành, 2016)
Hình 2.9 Cán cân thương mại Việt Nam giai đoạn 2015 – 8/2019
Nguồn: tính toán từ số liệu của Tổng cục Hải quan.
2.1.4. Tác động của cán cân thương mại đến thị trường tài chính
Theo như kinh tế vĩ mô, tiết kiệm quốc gia (S) là tổng của tiết kiệm tư nhân
(Sp) và tiết kiệm Chính phủ (Sg) , do đó nếu phân tích ra được S = Y – G – C (1),
(trong đó Y là tổng chi tiêu, G là chi tiêu của Chính Phủ, C là tiêu dùng). Bên cạnh đó
Y= C+I+G+NX (2), (trong đó I là đầu tư, NX là xuất khẩu ròng). Từ (1) và (2) kết quả
cho ra công thức mới NX = S-I.
“Cán cân thương mại chịu ảnh hưởng của thâm hụt ngân sách nhà nước, tiết
kiệm– đầu tư. Nếu chính phủ tăng chi tiêu G thì làm cho tiết kiệm S sẽ giảm thì đầu tư
I sẽ cần một lượng bổ sung từ vốn đầu tư nước ngoài do đó kéo theo NX sẽ giảm, dẫn
đến cân thương mại bị thâm hụt. Đồng thời, tỷ giá hối đoái sẽ tăng.
20
Và ngược lại, nếu Chính phủ thắt chặt, giảm đầu tư từ nước ngoài, tiết kiệm S
tăng lên làm cho NX tăng lên, cán cân thương mại sẽ có thặng dư. Đồng thời, tỷ giá
hối đoái sẽ giảm.
Như vậy, khi cán cân thương mại cân bằng, sự thay đổi chính sách tài chính
trong nước theo hướng mở rộng (hoặc thắt chặt) sẽ làm giảm tiết kiệm, tăng đầu tư
(giảm thâm hụt ngân sách, giảm đầu tư) và dẫn tới thâm hụt (thặng dư) cán cân
thương mại, và sẽ làm cho tỷ giá hối đoái tăng (giảm).” (Đặng Thu Hà,2019)
2.2
Các đối tác thương mại chính của Việt Nam
Với nền kinh tế đang trên đà phát triển như hiện nay, trong vòng 5 năm trở lại
đây ở giai đoạn từ 2015 đến giữa 2019. Tình hình xuất nhập khẩu của nước Việt Nam
nhìn chung có sự tăng vọt khá nhanh so với các hoạt động sản xuất đang diễn ra trong
nước. Theo thông tin của bộ tài chính Việt Nam: “ Trong thời kỳ 2011-2020, Việt Nam
đặt mục tiêu tốc độ tăng trưởng xuất khẩu hàng hóa bình quân đạt khoảng 1112%/năm, trong đó, giai đoạn 2016 - 2020 phấn đấu tăng trưởng bình quân đạt
11%/năm và duy trì tốc độ tăng trưởng khoảng 10% thời kỳ 2021 - 2030.” Giai đoạn
từ 2015 – 2019, là giai đoạn nước tình hình xuất nhập khẩu của Việt Nam tăng trưởng
vượt bậc. Và việc nhập khẩu hàng hoá vào Việt Nam cũng tăng nhanh để đáp ứng nhu
cầu của cả nước, nhưng đặc biệt trong việc xuất khẩu đạt mức vượt bậc so mới mục
tiêu đề ra, góp phần đẩy mạnh nền kinh tế phát triển và cải thiện vị trí của Việt Nam
về mặt xuất khẩu hàng hoá. Theo thống kê của Tổ chức Thương mại Thế giới (WTO):
“ Nếu như năm 2007, Việt Nam đứng thứ 50 thì đến năm 2017, đã vươn lên vị trí thứ
27 về xuất khẩu. Với kết quả ấn tượng của xuất nhập khẩu trong năm 2018, thứ hạng
xuất khẩu, nhập khẩu của Việt Nam tiếp tục được cải thiện trên bảng xếp hạng, giữ
vững vị trí trong số những quốc gia có tổng kim ngạch xuất nhập khẩu lớn nhất.”. Đặc
biệt năm 2018 là năm đạt vượt mức đề ra khá cao, theo Tổng cục Hải quan cho thấy
tổng trị giá hàng hóa xuất nhập khẩu của cả nước, đạt 480,17 tỷ USD, tăng hơn 52 tỷ
USD so với kết quả thực hiện của năm 2017.
Thị trường xuất khẩu hiện nay Việt Nam trao đổi hàng hoá rất nhiều với các
quốc gia lớn nhỏ, khoảng 200 quốc gia trên thế giới. Các đối tượng thương mại chính
của Việt Nam điển hình như: Trung Quốc, Hoa Kì, Nhật Bản, EU ( 28 nước), Hàn
21
Quốc và Thái Lan. Tổng kim ngạch về xuất khẩu hàng hoá từ 2015 đến tháng 8 năm
2019, phát triển khá nhanh vào năm 2015 đạt 327,76 tỷ USD, năm 2016 đạt 350,74 tỷ
USD, năm 2017 đạt 425,12 tỷ USD, năm 2018 đạt 480,17 tỷ USD, tháng 8 năm 2019
đạt 337,22 tỷ USD. Từ các số liệu đó cho thấy tình hình xuất nhập khẩu của nước ta
đang được đẩy rất mạnh góp phần rất nhiều trong việc phát triển kinh tế đất nước.
Trung Quốc và Thái Lan là một trong những nước làm đối tác lớn của Việt Nam về
việc xuất nhập khẩu. Vào năm 2015, tổng kim ngạch xuất nhập khẩu của cả nước đạt
327,76 tỷ USD, trong đó xuất nhập khẩu ở các thị trường châu Á là đạt 214,9 tỷ USD
và là châu lục chiếm tỷ trọng cao nhất (65,6%) trong tổng kim ngạch xuất nhập khẩu
cả nước. Tiếp theo là xuất nhập khẩu với các nước châu Mỹ đạt 55,42 tỷ USD và là
châu lục đạt mức tăng trưởng xuất nhập khẩu cao nhất, với châu Âu đạt 46,55 tỷ USD;
châu Phi là 5,11 tỷ USD; riêng với thị trường châu Đại Dương chỉ đạt 5,79 tỷ USD.
Qua các số liệu cho thấy Việt Nam trao đổi với các quốc gia châu Á khá mạnh và phát
triển. Tính đến hết 12 tháng/2016 tổng kim ngạch xuất nhập khẩu cả nước đạt hơn
350,74 tỷ USD. Trong đó, xuất khẩu đạt hơn 176,63 tỷ USD; nhập khẩu đạt hơn
174,11 tỷ USD. Năm 2017, Việt Nam có trên 200 đối tác thương mại khắp toàn cầu,
trong đó có 28 thị trường xuất khẩu và 23 thị trường nhập khẩu đạt kim ngạch trên 1
tỷ USD, tổng trị giá xuất nhập khẩu hàng hoá của Việt Nam đạt 425,12 tỷ USD. Tổng
trị giá trao đổi hàng hóa của Việt Nam với châu Á năm 2017 đạt 294,78 tỷ USD, xuất
nhập khẩu giữa các nước châu Mỹ với kim ngạch gần 68 tỷ USD, với châu Âu đạt
57,9 tỷ USD, châu Đại Dương đạt 7,76 tỷ USD và châu Phi là 6,69 tỷ USD. Hết tháng
12 năm 2018, trao đổi thương mại hàng hóa của Việt Nam với các châu lục đều tăng,
trong đó tăng mạnh nhất là Châu Đại dương (tăng 19,1%) tiếp theo là Châu Mỹ (tăng
14,6%) (theo thống kê của Tổng cục Hải quan Việt Nam). Tổng trị giá trao đổi hàng
hóa của Việt Nam với châu Á trong năm 2018 đạt 321,4 tỷ USD; các nước thuộc châu
Mỹ đạt kim ngạch 78,37 tỷ USD; với châu Âu đạt 64,11 tỷ USD; châu Đại Dương đạt
9,31 tỷ USD; châu Phi đạt 6,98 tỷ USD. Trong 8 tháng tính từ đầu năm 2019, xuất
khẩu hàng hoá hàng hóa của Việt Nam với châu Mỹ đạt 62,27 tỷ USD, châu Á tiếp tục
chiếm tỷ trọng cao nhất (70,4%) trong tổng kim ngạch xuất nhập khẩu của cả nước đạt
219,7 tỷ USD, trong đó trị giá xuất khẩu là 86,78 tỷ USD và trị giá nhập khẩu là
22
132,92 tỷ USD, với các châu lục khác lần lượt là: châu Âu: 44,05 tỷ USD, châu Đại
Dương: 6,42 tỷ USD và châu Phi: 4,78 tỷ USD.
2.2.1 Năm thị trường có mối quan hệ xuất khẩu lớn nhất đối với Việt Nam:
2.2.1.1. Tình hình xuất khẩu:
Hình 2.10 Thị trường xuất khẩu chính giai đoạn 2015-8/2019
(Nguồn thống kê của Thống kê Việt Nam)
Xét về cơ cấu của thị trường xuất khẩu từ giai đoạn 2015 – 2019, Việt Nam
đang trao đổi hàng hoá thương mại với hơn 200 quốc gia trên thế giới. Tiêu biểu Hoa
Kỳ là một nước có mối quan hệ xuất khẩu với Việt Nam rẩ mạnh trung bình khoảng
40,098 tỷ USD từ 2015 – 2019, chiếm gần 50% các thị trường xuất khẩu hàng hoá của
đất nước và tốc độ tăng trưởng xuất khẩu trung bình của Việt Nam là 12,55% giai
đoạn 2015 – 2019. Đối với thị thường EU và Trung Hoa cũng có chỗ đúng tương đối
vững chắc, EU là thị trường xuất khẩu đứng thứ 2 của Việt Nam chiếm 32,5 tỷ USD.
Các mặt hàng xuất khẩu chính sang các thị trường này là: máy móc & linh kiện, dệt
may, hàng nông sản, thuỷ sản, giày dép, gỗ,…. Ngoài ra, Việt Nam nhận được lợi
trong ngắn hạn trong cuộc “căng thẳng thương mại Mỹ-Trung”, hàng hoá của Việt
Nam xuất khẩu qua Mỹ được tăng lên do các công ty Trung Quốc bị hạn chế xuất
khẩu qua thị trường Mỹ trong giai đoạn căng thẳng, nên việc xuất khẩu đi Trung Quốc
tăng trưởng khá nhanh từ năm 2018.
Các nhóm hàng xuất khẩu của Việt Nam (đơn vị:tỷ USD)
Một số nhóm hàng xuất khẩu
2015
Hàng điện thoại các loại và linh kiện
30,18
Máy vi tính, sản phẩm điện tử và linh
2017
45,27
2018
49,08
2019
33,39
kiện
15,61 18,96 25,94
Máy móc, thiết bị, dụng cụ, phụ tùng
8,17
10,14 12,77
Dệt may
22,81 23,84 26,04
Giày dép các loại
12,01 13
14,64
Gỗ và sản phẩm gỗ
6,9
6,97
7,66
Hàng nông sản
14,81 15,42 17,4
Hàng thủy sản
6,57
7,05
8,32
Bảng 2.1 Các nhóm hàng xuất khẩu chính
29,32
16,55
30
16,24
8,91
18,66
8,78
22,14
11,41
21,77
11,93
6,61
11,27
5,5
(Nguồn tính theo Tổng cục Hải quan Việt Nam)
23
2016
34,32
Xét theo cơ cấu các mặt hàng hoá xuất khẩu thì các mặt hàng điện tử và linh
kiện máy móc chiếm hơn 50% các mặt hàng xuất khẩu của Việt Nam. Điều này cho
thấy chi phí sản xuất các mặt hàng điện tử và chi phí nhân công khá thấp so với các
nước trong cùng khu vực. Nhìn chung nền kinh tế Việt Nam và ngành xuất khẩu nói
riêng thì đều phát triển toàn diện theo nhiều lĩnh vực khác nhau, có xu hướng phát
triển theo hướng công nghệ, tận dụng tiềm lực kinh tế sản có, tiếp cận với nền kinh tế
hiện đại.
2.2.1.2. Nguyên nhân chuyển biến ảnh hưởng đến tình hình xuất khẩu:
Việc quản lí và cân bằng tình hình xuất khẩu của đất nước khá khó khăn. Các
doanh nghiệp đầu tư trực tiếp từ nước ngoài chịu ảnh hưởng về vấn đề xuất khẩu khá
mạnh, chiếm hơn 50% giá trị tổng kim ngạch hàng hoá xuất khẩu của cả nước. Phần
lớn các mặt hàng về máy móc và linh kiện được xuất khẩu khá nhiều so với các mặt
hàng còn lại. Với độ mở và hội nhập kinh tế quốc tế ngày càng lớn, trong bối cảnh
tình hình quốc tế và khu vực diễn biến hết sức phức tạp, khó đoán định, đặc biệt là
những diễn biến của cuộc chiến tranh thương mại Mỹ - Trung, xu thế bảo hộ mậu dịch
gia tăng… song hoạt động xuất khẩu của Việt Nam vẫn có những chuyển biến tích
cực. Cụ thể là cơ cấu hàng hóa xuất khẩu tiếp tục cải thiện theo hướng tích cực, với
quy mô các mặt hàng xuất khẩu tiếp tục được mở rộng, đưa hàng hoá đến nhiều thị
trường trên thế giới và tích cực nâng cao và cạnh tranh xuất khẩu với các quốc gia
trong cùng khu vực.
Các lí do Việt Nam đang gặp khó khăn về việc xuất khẩu hàng hoá:
Quy mô và sản xuất của doanh nghiệp Việt Nam nhìn chung còn khá nhỏ lẻ
và chưa đủ năng suất để đáp ứng cho nhiều quốc gia. Và chưa có nhiều vốn
đầu tư.
Phần lớn các doanh nghiệp chưa định hướng được chiến lược kinh doanh
quốc tế.
24
Trình độ lao động và KH-KT của Việt Nam nhìn chung còn khá lạc hậu cho
với các đối thủ cạnh tranh.
Chịu ảnh hưởng và khắt khe của các nước phát triển như: Hoa Kỳ, EU,
Nhật Bản và một số thị trường khác.
Vì vậy, để khắc phục được những khó khăn, các doanh nghiệp phải đầu tư và
nâng cao trình độ, mở rộng quy mô sản xuất và học hỏi nhiều kĩ thuật từ các nước
phát triển trên thế giới. Đất nước phải đặt ra những mục tiêu thách thức như: tạo ra
các thị trường xuất khẩu cạnh tranh với các nước cùng khu vực, tác động chi phối đối
với các mặt hàng, nâng cao khả năng thâm nhập các thị trường mới và biết xử lý, xoay
sở các ảnh hưởng hàng hoá trên toàn thế giới. Điều này cho thấy, nếu đạt được các
thách thức như vậy đất nước sẽ phát triển và càng ngày đẩy mạnh việc xuất khẩu hơn,
mở rộng thị trường đối tác hơn đem lợi nhuận về cho đất nước.
2.2.2. Năm thị trường có mối quan hệ nhập khẩu lớn nhất đối với Việt Nam:
2.2.2.1. Tình hình nhập khẩu:
Bên cạnh tình hình xuất khẩu đang sôi động, tăng nhanh qua các năm làm cho
nền kinh tế phát triển nhanh, GDP cả nước tăng lên, thu nhập bình quân người/năm
cao lên do đó kéo theo nhu cầu sử dụng hàng hoá hiện đại, công nghệ mới từ nước
ngoài, cũng như đáp ứng nhu cầu sản xuất và tái sản xuất của doanh nghiệp trong
nước phải nhập các linh kiện, phụ tùng, nguyên liệu sản xuất từ thương mại với các
nước trên thế giới làm tình trạng nhập khẩu hàng hoá tăng theo, không có sự im ắng,
mà nhộn nhịp không kém so với tình hình xuất khẩu cả nước.
Hình 2.11 Thị trường nhập khẩu chính giai đọan 2015-8/2019
(Nguồn theo Tổng cục Hải quan Việt Nam)
Xét theo cơ cấu các của thị trường trao đổi hàng hoá, Việt Nam đang trao đổi
hàng hoá hơn 200 quốc gia trên thế giới. Tiêu biểu nhập khẩu chính từ Trung Quốc
tăng mạnh vào năm 2017 – 2018, chiếm hơn 50% các mặt hàng nhập khẩu từ những
25