TÌNH HÌNH TRIỂN KHAI BASEL II TẠI VIỆT NAM TỪ GIỮA NĂM
2014 ĐẾN NAY: KHÓ KHĂN, THÁCH THỨC VÀ GIẢI PHÁP TRONG
THỜI GIAN TỚI 1
TS. Phan Hữu Việt2
Ngân hàng Nhà nước Việt Nam
Ngày nhận bài: 06/09/2017
Ngày gửi lại bài: 18/09/2017
Ngày duyệt đăng: 20/09/2017
Tóm tắt
Cùng với các quy định về các giới hạn và tỷ lệ đảm bảo an toàn
(trong đó có tỷ lệ an toàn vốn) quy định tại Luật Các TCTD 2010,
nhiệm vụ triển khai Basel II tại các Đề án phát triển và cơ cấu lại
ngành ngân hàng là cơ sở pháp lý quan trọng cho việc triển khai Basel
II tại Việt Nam. Bài viết này sẽ đánh giá thực trạng triển khai Basel II
tại Việt Nam từ giữa năm 2014 đến nay để từ đó thấy được những khó
khăn, thách thức và nguyên nhân để đề xuất các giải pháp triển khai
trong thời gian tới.
Từ khóa: Basel II, tái cơ cấu, Việt Nam.
1. Cơ sở cho việc triển khai Basel II tại Việt Nam
Các chuẩn mực an toàn trong hoạt động ngân hàng của Ủy ban
Basel về giám sát ngân hàng (BCBS) được hầu hết các quốc gia trên
thế giới nghiên cứu, triển khai áp dụng cho hệ thống ngân hàng của
mình. Mục tiêu của Chuẩn mực an toàn vốn Basel II năm 2005, Basel
III năm 2010 thông qua 03 trụ cột là nhằm nâng cao mức độ an toàn,
hiệu quả, lành mạnh và năng lực cạnh tranh của hệ thống ngân hàng
thông qua việc (i) đảm bảo đáp ứng tỷ lệ an toàn vốn (trụ cột I), (ii)
nâng cao năng lực điều hành, quản trị rủi ro, tự đánh giá mức độ đủ
vốn của ngân hàng và trách nhiệm thanh tra, giám sát của cơ quan
quản lý (trụ cột II), (iii) tuân thủ kỷ luật thị trường, tăng cường công
khai, minh bạch thông tin về tình hình hoạt động của ngân hàng (trụ
cột III).
Tại Việt Nam, định hướng triển khai thực hiện Basel II trong hệ
thống ngân hàng đã được Ngân hàng Nhà nước Việt Nam (NHNN) xác
định là một trong những nhiệm vụ trọng tâm của ngành ngân hàng từ
cách đây hơn 10 năm tại Đề án “Phát triển ngành ngân hàng Việt
Nam đến năm 2010 và định hướng đến năm 2020” ban hành theo
Quyết định 112/2006/QĐ-TTg ngày 24/5/2006 của Thủ tướng Chính
phủ. Trên cơ sở định hướng này, NHNN đã có Công văn số 1601/NHNNTTGSNH ngày 17/3/2014 lựa chọn 10 ngân hàng trong nước thí điểm
triển khai Basel II3, tiến tới thực hiện triển khai áp dụng Basel II đối với
tất cả các ngân hàng trong nước. Trong quá trình tái cơ cấu và xử lý
1 Xin chân thành cám ơn Trần Thị Thu Hằng, Đoàn Thị Thương, thành viên Tổ triển khai Basel II của
CQTTGSNH đã hỗ trợ thực hiện bài viết này.
2 Email:
3 Việc lựa chọn 10 ngân hàng thí điểm triển khai Basel II (i) căn cứ vào mức độ quan tâm, sự sẵn sàng của các
ngân hàng, (ii) đảm bảo tính đa dạng về quy mô và loại hình sở hữu, (iii) quy mô của các ngân hàng được lựa
chọn so với quy mô của hệ thống các TCTD.
1
nợ xấu của các TCTD thời gian vừa qua, triển khai Basel II cũng đã
được xác định như một trong những nhiệm vụ trọng tâm nhằm nâng
cao khả năng tài chính, năng lực quản trị, điều hành, kiểm soát của
các ngân hàng, góp phần thực hiện thành công Đề án “Cơ cấu lại hệ
thống các TCTD giai đoạn 2011-2015” và gần đây là Đề án “Cơ cấu lại
hệ thống các TCTD gắn với xử lý nợ xấu giai đoạn 2016-2020” ban
hành kèm theo Quyết định 254/QĐ-TTg ngày 01/3/2013 và Quyết định
1058/QĐ-TTg ngày 19/7/2017 của Thủ tướng Chính phủ.
2. Quá trình triển khai Basel II của NHNN thời gian qua
Để tổ chức triển khai Basel II theo đúng lộ trình tại Công văn
1601, NHNN đã thành lập Ban chỉ đạo triển khai Basel II trong ngành
NH và xây dựng quy định về chức năng, nhiệm vụ, quy chế làm việc
của Ban chỉ đạo. Ban chỉ đạo gồm trưởng Ban là đại diện lãnh đạo
NHNN và các thành viên khác là Chủ tịch HĐQT, thành viên HĐQT
hoặc TGĐ của 10 ngân hàng thí điểm Basel II. Sự tham gia của lãnh
đạo cấp cao của ngân hàng trong Ban chỉ đạo đảm bảo việc triển khai
Basel II được quan tâm, thực hiện thống nhất trên toàn ngân hàng. Để
tham mưu cho Ban chỉ đạo, NHNN cũng thành lập Tổ giúp việc trực
thuộc CQTTGSNH và thành lập 10 Tổ công tác giám sát Basel II cho 10
ngân hàng, mỗi Tổ công tác có 02 thành viên là cán bộ của NHNN
(CQTTGSNH) và 02 thành viên còn lại là cán bộ của ngân hàng thí
điểm Basel II.
Thực hiện theo tinh thần của Công văn 1601, từ tháng 06/2014,
NHNN đã yêu cầu 10 ngân hàng thí điểm Basel II đã thực hiện Báo cáo
phân tích chênh lệch chung (General Gap Analysis) và Báo cáo phân
tích chênh lệch về cơ sở dữ liệu và hạ tầng IT (IT Gap Analysis) so với
yêu cầu của Basel II tại thời điểm cuối năm 2014. Ngoài 10 ngân hàng
thí điểm Basel II, một số ngân hàng khác cũng chủ động báo cáo
NHNN để được hướng dẫn thực hiện đánh giá chênh lệch. Kết quả
phân tích chênh lệch nhằm đánh giá chính xác thực trạng hoạt động,
quản trị, điều hành và bất cập, hạn chế về cơ sở dữ liệu, hạ tầng công
nghệ của các ngân hàng đối với các yêu cầu triển khai Basel II. Dựa
trên kết quả thu được, 10 ngân hàng thí điểm Basel II đưa ra các giải
pháp cụ thể nhằm thu hẹp chênh lệch (đối với 03 trụ cột).
NHNN đã xây dựng, ban hành khung khổ pháp lý cần thiết hướng
dẫn các ngân hàng triển khai đầy đủ 03 trụ cột của Basel II. Đối với
trụ cột I, NHNN đã xây dựng và ban hành Thông tư 41/2016/TT-NHNN
(Thông tư 41) ngày 30/12/2016 quy định tỷ lệ an toàn vốn đối với
ngân hàng, chi nhánh NHNNg theo phương pháp tiêu chuẩn. Trong
quá trình xây dựng Thông tư 41, NHNN đã 02 lần đánh giá tác động
định lượng (QIS) đối với dự thảo Thông tư 41 để từ đó có những điều
chỉnh về trọng số rủi ro tương ứng với các khoản phải đòi và lộ trình
triển khai phù hợp với khả năng thực hiện của các ngân hàng. Đối với
trụ cột II, NHNN đã xây dựng dự thảo Thông tư quy định về hệ thống
kiểm soát nội bộ (trong đó có bao gồm các quy định về kiểm soát nội
bộ quản trị rủi ro đối với các rủi ro trọng yếu, ICAAP và kiểm toán nội
bộ) thay thế Thông tư 44/2011/TT-NHNN ngày 29/12/2011 quy định về
hệ thống kiểm soát nội bộ và kiểm toán nội bộ của TCTD, chi nhánh
NHNNg (dự thảo Thông tư). NHNN đã 02 lần lấy ý kiến của các ngân
2
hàng đối với dự thảo Thông tư quy định về hệ thống kiểm soát nội bộ
và tổ chức 01 buổi Tọa đàm (06/2017) về nội dung dự thảo Thông tư.
Dự thảo Thông tư sẽ được ban hành trong tháng 09/2017 nhằm nâng
cao năng lực quản trị, điều hành, quản lý rủi ro và đặc biệt là các yêu
cầu về đánh giá nội bộ về mức đủ vốn (ICAAP) phù hợp với lộ trình
triển khai Thông tư 41. Đối với trụ cột III, NHNN tăng cường yêu cầu
các ngân hàng thực hiện báo cáo, công bố thông tin đối với kết quả
tính vốn, thực trạng kiểm soát, quản lý rủi ro, việc xác định khẩu vị rủi
ro (bao gồm chỉ tiêu về vốn), kết quả đánh giá nội bộ về mức độ đủ
vốn, kế hoạch vốn và kết quả kiểm toán nội bộ. Các báo cáo này được
ban hành kèm theo Thông tư 41 và dự thảo Thông tư quy định về hệ
thống kiểm soát nội bộ.
NHNN đã phối hợp với Dự án BRASS (do Chính phủ Canada tài
trợ) các tổ chức tư vấn, kiểm toán trong và ngoài nước có uy tín tổ
chức nhiều khóa đào tạo chuyên sâu về Basel II cho cán bộ của
CQTTGSNH và các ngân hàng. Các khóa đào tạo tập trung vào nhiều
chủ đề như: kinh nghiệm quốc tế về triển khai Basel II; tổ chức và
hoạt động của Ban quản lý Dự án Basel II của ngân hàng (PMO);
hướng dẫn tính toán vốn theo phương pháp tiêu chuẩn của Basel II;
hướng dẫn thực hiện ICAAP; quản lý rủi ro tín dụng, rủi ro thị trường
và rủi ro hoạt động…Đồng thời, NHNN cũng đã cử các nhóm cán bộ
trong Tổ giúp việc triển khai Basel II đến các ngân hàng để trực tiếp
trao đổi, chia sẻ kinh nghiệm và giải đáp thắc mắc của các ngân hàng
liên quan tới triển khai Basel II, tính toán vốn theo Thông tư 41 (thực
hiện QIS) và yêu cầu về hệ thống kiểm soát nội bộ đối với trụ cột II.
Có thể nói, thời gian vừa qua, NHNN đã triển khai đồng bộ các
hành động cụ thể (từ việc thành lập Ban chỉ đạo và bộ phận giúp việc,
xây dựng, ban hành cơ sở pháp lý cần thiết đến việc đào tạo nguồn
nhân lực) nhằm hướng dẫn 10 ngân hàng thí điểm Basel II thực hiện
Basel II theo đúng lộ trình tại Đề án 1058, theo đó các ngân hàng
theo phương pháp tiêu chuẩn SA (vào đầu năm 2019), phương pháp
nâng cao (vào đầu năm 2020).
3. Quá trình triển khai Basel II của 10 ngân hàng thí điểm
Basel II thời gian qua
Thời gian qua cùng với quá trình hội quốc tế về kinh tế và tài
chính, hoạt động kinh doanh của các ngân hàng ngày càng phức tạp,
sản phẩm, dịch vụ luôn đổi mới đi kèm với nhiều loại rủi ro khác nhau,
các ngân hàng đã có sự chuyển biến tíc cực về nhận thức đối với vai
trò, tác động của việc triển khai Basel II nhằm phát triển ngân hàng
theo các chuẩn mực, thông lệ quốc tế về an toàn vốn và quản trị rủi
ro. Do đó, mặc dù đang tiếp tục tập trung nguồn lực thực hiện tái cơ
cấu, xử lý nợ xấu theo Đề án 254, Đề án 1058 và Nghị quyết 42 của
Quốc hội về xử lý nợ xấu, 10 ngân hàng thí điểm Basel II (và một số
ngân hàng tự nguyện khác) đã thể hiện rõ sự quyết tâm thực hiện
Basel II thông qua những kế hoạch hành động cụ thể nhằm thay đổi,
kiện toàn cơ cấu tổ chức, nâng cao năng lực quản trị điều hành, quản
lý rủi ro, đáp ứng đầy đủ yêu cầu về vốn theo phương pháp tiêu chuẩn
của Basel II. 10 ngân hàng thí điểm Basel II đã:
3
(i) Thành lập Ban quản lý Dự án triển khai Basel II (PMO) với vai
trò đầu mối điều phối việc triển khai Basel II giữa các đơn vị, bộ phận
trong ngân hàng để thực hiện các dự án liên quan tới Basel II, ban
hành văn bản quy định chức năng, nhiệm vụ và trách nhiệm của PMO
cũng như các bộ phận liên quan;
(ii) Thực hiện phân tích đánh giá chênh lệch thực trạng hiện tại
(về quản trị, dữ liệu, công nghệ thông tin, quy trình quản lý rủi ro,…)
so với yêu cầu của Basel II theo hướng dẫn của NHNN để từ đó xây
dựng kế hoạch tổng thể (Master Plan) nhằm thu hẹp chênh lệch và
đáp ứng được yêu cầu về cơ sở dữ liệu, hạ tầng công nghệ IT;
(iii) Thực hiện QIS (02 lần)4 đối với Thông tư 41 (để các ngân
hàng làm quen với việc tính toán vốn theo phương pháp tiêu chuẩn
của Basel II và xác định mức thay đổi tỷ lệ an toàn vốn (CAR) so với
kết quả tính toán theo Thông tư 36 và 06 về các giới hạn và tỷ lệ đảm
bảo an toàn của các ngân hàng, chi nhánh NHNNg) và tham gia góp ý
đối với dự thảo Thông tư quy định về hệ thống kiểm soát nội bộ;
(iv) Gấp rút triển khai các dự án để thu hẹp khoảng cách và đáp
ứng lộ trình triển khai Basel II theo chỉ đạo của Ban chỉ đạo Basel II
ngành ngân hàng. Theo đó, 10 ngân hàng thí điểm Basel II thực hiện
phương pháp tiêu chuẩn từ năm 01/01/2019, sớm hơn 1 năm so với
thời hạn hiệu lực của Thông tư 41 là 01/01/2020.
4. Khó khăn và thách thức của các ngân hàng trong quá
trình triển khai Basel II
E&Y (2003), KPMG (2004), Gottschalk R và Jones S (2006) cho
rằng khó khăn chính cho các quốc gia khi triển khai Basel II, bao gồm:
chất lượng nguồn dữ liệu; hiệu quả của công tác phân loại tài sản có
rủi ro, đặc biệt trong hoạt động tín dụng; trình độ và năng lực của đội
ngũ cán bộ; tính đầy đủ của nguồn lực (hạ tầng công nghệ, tài chính,
con người); công tác đào tạo; chi phí thực hiện; cơ chế, chính sách của
cơ quan quản lý; đội ngũ chuyên gia và yêu cầu về công bố thông tin.
Trong đó, cơ chế chính sách, các quy định của cơ quan quản lý đóng
vai trò quan trọng trong quá trình hướng dẫn, định hướng thực hiện
Basel II cho các ngân hàng trong hệ thống.
Trong quá trình triển khai thực hiện Basel II thời gian qua, 10
ngân hàng thí điểm Basel II tại Việt Nam cũng đối mặt với một số khó
khăn, thách thức khách quan và chủ quan, cụ thể như sau:
a) Thứ nhất, các quy định trong Hiệp ước Basel rất phức tạp, cần
có sự điều chỉnh để phù hợp với Việt Nam và có tính khuyến khích các
ngân hàng tiến tới phương pháp nâng cao cơ bản.
Các quy định trong Hiệp ước Basel rất phức tạp, được thiết kế và
xây dựng dựa trên kinh nghiệm phát triển và cơ sở hạ tầng của các thị
trường tài chính phát triển. Do đó, để triển khai thành công Basel II tại
Việt Nam cần phải có sự điều chỉnh về nội dung và lộ trình phù hợp.
Theo Entrofine (2014), có 60 đoạn (paragraphs) trong yêu cầu của Ủy
ban Basel về tính vốn theo phương pháp tiêu chuẩn đòi hỏi NHNN
phải có sự điều chỉnh để phù hợp với đặc thù của Việt Nam (ví dụ: hệ
4 NHNN đã thiết kế và cung cấp mẫu biểu (QIS template) dạng excel để hỗ trợ các ngân hàng tính toán, đánh giá
tác động QIS.
4
số rủi ro tín dụng đối với tổ chức tín dụng trong nước, đối với doanh
nghiệp theo doanh thu và tỷ lệ đòn bẩy, quy mô khoản phải đòi bán
lẻ…). Theo FSI (2013), việc áp dụng các quy định tại Hiệp ước vốn
Basel II ở các nước không giống nhau, đòi hỏi cơ quan quản lý phải có
những nghiên cứu cụ thể, cẩn trọng để xây dựng lộ trình phù hợp.
Việc áp dụng hệ số rủi ro đối với các khoản phải đòi ngoài mục đích
phản ánh đúng mức độ rủi ro của khoản cấp tín dụng còn phải nhằm
khuyến khích các ngân hàng sử dụng mô hình đo lường rủi ro nội bộ
(có thể đưa ra hệ số rủi ro thấp hơn) khi tính toán vốn yêu cầu theo
phương pháp nâng cao cơ bản (FIRB) trong thời gian tới.
b) Thứ hai, khó khăn trong việc thay đổi nhận thức của người
quản lý, người điều hành và tập quán quản trị rủi ro, quản lý vốn, tính
toán tỷ lệ CAR của các ngân hàng.
Hiện nay, các ngân hàng Việt Nam mới đang bước đầu xây dựng
một hệ thống quản trị rủi ro theo chuẩn mực quốc tế với mô hình 03
tuyến bảo vệ. Triển khai Basel II đòi hỏi ngân hàng thực hiện quản lý
vốn phù hợp với mức độ rủi ro (bao gồm việc xác định vốn mục tiêu,
vốn kinh tế) và gắn với khẩu vị rủi ro, chiến lược kinh doanh tổng thể
của ngân hàng. Do đó, việc triển khai Basel II có thể làm thay đổi
cách thức xây dựng và triển khai kế hoạch kinh doanh của ngân hàng
khi các quyết định kinh doanh phải dựa trên cơ sở đánh giá rủi ro và
năng lực tài chính để bù đắp rủi ro. Quá trình thay đổi diễn ra ở tất cả
các đơn vị, bộ phận của ngân hàng từ bộ phận kinh doanh, bộ phận
quản trị rủi ro, bộ phận kế toán tài chính (phụ trách số liệu tính toán
các tỷ lệ đảm bảo an toàn), bộ phận IT, nhân sự của ngân hàng đến
sự tham gia của lãnh đạo cấp cao. Trên thực tế, cần có giai đoạn
chuyển đổi để thay đổi nhận thức của ban lãnh đạo, xâ dựng văn hóa
kiểm soát, tập quán quản trị rủi ro của các ngân hàng. FSI (2013) cho
rằng đội ngũ nhân sự tại mỗi quốc gia phải có trình độ, chuyên nghiệp
thông qua quá trình học hỏi, tự đào tạo, rút kinh nghiệm lâu dài vì
không có một sổ tay hay tài liệu đầy đủ nào hướng dẫn triển khai
Basel II cho từng quốc gia cụ thể. Việc đào tạo cho nhân viên của các
phòng, ban, bộ phận trong ngân hàng phải diễn ra thường xuyên gắn
với nhu cầu công việc và đáp ứng yêu cầu đề ra của Ủy ban Basel;
công tác tuyên truyền, phổ biến Basel II trên phạm vi toàn hàng và
việc xây dựng tài liệu hướng dẫn nội bộ để chia sẻ kiến thức cũng cần
được chú trọng.
c) Thứ ba, khoảng cách chênh lệch tổng thể về quản trị, điều
hành và kiểm soát của các ngân hàng đối với các yêu cầu của Basel II
còn tương đối lớn, đòi hỏi các ngân hàng phải nỗ lực để thu hẹp
khoảng cách nhằm triển khai Basel II theo đúng lộ trình đã được phê
duyệt.
Entrofine (2014) cho rằng chênh lệch tổng thể hiện tại trung
bình khoảng từ 60%-70%; có nghĩa là các ngân hàng ở Việt Nam chỉ
mới đáp ứng được từ 30%-40% yêu cầu của Ủy ban Basel. Cụ thể đối
với trụ cột I:
+ Đối với rủi ro tín dụng, các ngân hàng chưa phân loại nợ theo
nhóm khách hàng như quy định của Ủy ban Basel, chưa phân loại và
quản lý tài sản đảm bảo phù hợp và đầy đủ, thiếu hụt các biện pháp
5
giảm thiểu rủi ro tín dụng. Một số ngân hàng đã xây dựng mô hình
xác suất vỡ nợ (PD) cho danh mục khách hàng; tuy nhiên các đều
chưa xây dựng được mô hình rủi ro tín dụng như LGD (tỷ lệ tổn thất
tại thời điểm khách hàng không thực hiện được nghĩa vụ trả nợ), EAD
(dư nợ tại thời điểm khách hàng không thực hiện được nghĩa vụ trả
nợ), và chưa tính M (kỳ hạn thực tế).
+ Đối với rủi ro thị trường, các ngân hàng đã xây dựng hệ thống
quản trị rủi ro thị trường, xác định các loại rủi ro thị trường trên sổ
kinh doanh (trading book), xác định khẩu vị rủi ro thị trường, ban
hành khung hạn mức rủi ro thị trường…Các ngân hàng đã bước đầu
đo lường VaR nhưng chưa thực hiện tính toán vốn cho rủi ro thị
trường, chưa kiểm định hồi tối VaR; chưa tính rủi ro thị trường cụ thể
và rủi ro thị trường chung; việc tính toán giá trị giao dịch theo mô hình
giá (mark to model) còn hạn chế.
+ Đối với rủi ro hoạt động, các ngân hàng chỉ đáp ứng được
phần nhỏ yêu cầu của Basel II về tính vốn yêu cầu và quản lý rủi ro
hoạt động. Về cơ bản, các ngân hàng đã có cơ cấu quản trị, tổ chức
bộ máy để quản lý rủi ro hoạt động. Tuy nhiên, việc phân loại và thu
thập dữ liệu tổn thất theo các nhóm sự kiện tổn thất, phương pháp đo
lường rủi ro hoạt động, lập kế hoạch dự phòng và thực hiện hoạt động
thuê ngoài nhằm giảm thiểu rủi ro hoạt động chưa được xây dựng,
triển khai đồng bộ tại nhiều ngân hàng. Thực trạng quản lý rủi ro hoạt
động trong việc ứng dụng công nghệ, quy trình tự động tại một số
ngân hàng còn nhiều bất cập.
Tương tự trụ cột I, đối với trụ cột II, đa số các ngân hàng mới
đáp ứng được phần nhỏ yêu cầu của Basel II đối với trụ cột II (về quy
trình đánh giá mức độ đủ vốn nội bộ - ICCAP). Các ngân hàng: (i) chưa
thực hiện xác định vốn mục tiêu (bao gồm việc tính toán vốn kinh tế)
dựa trên rủi ro (bao gồm các rủi ro khác trên trụ cột II như rủi ro tập
trung, rủi ro lãi suất trên sổ ngân hàng…); (ii) chưa kiểm tra sức chịu
đựng về vốn theo các kịch bản hoạt động bình thường (business as
usual scenario) và kịch bản có diễn biến bất lợi (stress scenario) để
tính toán vốn bổ sung (buffer) hoặc điều chỉnh vốn mục tiêu, khẩu vị
rủi ro; (iii) chưa lập kế hoạch vốn (xác định nguồn tăng vốn dự kiến và
phân bổ vốn mục tiêu cho hoạt động kinh doanh) và (iv) chưa giám
sát, có báo cáo nội bộ về mức đủ vốn.
Đối với trụ cột III, hiện nay, các ngân hàng đang chấp hành các
quy định về công bố thông tin, chế độ báo cáo thống kê của Ngân
hàng Nước theo Thông tư 35/2015/TT-NHNN ngày 31/12/2015 quy
định chế độ báo cáo thống kê áp dụng đối với các TCTD, chi nhánh
NHNNg và các công văn yêu cầu riêng biệt khác của NHNN
(CQTTGSNH). Do đó, các ngân hàng thí điểm Basel II vẫn còn khoảng
cách rất lớn đối với yêu cầu của Basel II đối với trụ cột III (bao gồm
công bố thông tin định tính, định lượng về mức đủ vốn, công bố mức
độ rủi ro và kỹ thuật đo lường rủi ro, công bố quy trình đánh giá nội bộ
về mức đủ vốn, công bố tiêu chí xác định mức độ trọng yếu…). Chính
vì vậy, các ngân hàng sẽ cần nỗ lực để tuân thủ trụ cột III trong Basel
II khi có quy định mới từ NHNN.
6
d) Thứ tư, sự thiếu hụt cơ sở dữ liệu và thực trạng hạ tầng công
nghệ thông tin là một thách thức không nhỏ trong việc triển khai
Basel II tại các ngân hàng ở Việt Nam.
Để triển khai đầy đủ và thành công dự án Basel II, yêu cầu về
tính hiện đại, phù hợp và tích hợp của công nghệ thông tin là hết sức
cần thiết. Ngân hàng cần phải xây dựng hệ thống thông tin, dữ liệu
đáng tin cậy, chính xác và có chất lượng. Yêu cầu này cần phải được
đáp ứng ngay từ khi ngân hàng bắt đầu đi vào thực hiện dự án nhằm
đáp ứng được các yêu cầu thu thập, làm sạch, làm giàu và phân tích
dữ liệu, thu hẹp khoảng cách, khớp nối và đối chiếu dữ liệu đưa vào
hệ thống, đồng thời phải đáp ứng được việc chuẩn hoá dữ liệu, thiết
kế quy trình, mức độ linh hoạt trong hệ thống để có khả năng chỉnh
sửa, nâng cấp lên Basel III ở thời điểm cần thiết. Tuy nhiên, hầu hết
các ngân hàng Việt Nam hiện nay đều chưa đáp ứng được yêu cầu về
“độ dày” dữ liệu (tối thiểu là 5 năm) và cơ sở hạ tầng công nghệ
thông tin còn yếu. Theo Entrofine (2014), để thực hiện Basel II, các
ngân hàng cần có tối thiểu 635 trường dữ liệu (data fields) về thông
tin khách hàng, các khoản phải đòi theo nhóm khách hàng, kết quả
xếp hạng tín dụng nội bộ đối với khách hàng, giao dịch với đối tác, các
biện pháp giảm thiểu rủi ro (Risk Mitigation Techniques), trích lập dự
phòng, các giao dịch trên sổ kinh doanh. Quan sát của Entrofine
(2014) cũng cho thấy chênh lệch về cơ sở dữ liệu trung bình của các
ngân hàng ở Việt Nam so với yêu cầu của Ủy ban Basel là 65%. Để
đáp ứng yêu cầu này, các ngân hàng cần thời gian (2-3 năm) để làm
giàu cơ sở dữ liệu, thu thập những trường dữ liệu còn thiếu thông qua
việc sửa đổi quy định nội bộ và kết nối với CIC; từ đó xây dựng kho dữ
liệu (Data Warehouse) phục vụ quản trị rủi ro và triển khai Basel II.
đ) Thứ năm, tỷ lệ CAR tính theo phương pháp tiêu chuẩn của
Basel II giảm (25%-30%) so với cách tính của Thông tư 36, tạo áp lực
duy trì tỷ lệ CAR theo quy định của NHNN trong ngắn và trung hạn.
Tình theo phương pháp tiêu chuẩn của Basel II (thực hiện QIS
theo dự thảo Thông tư 41), tổng tài sản có rủi ro (RWA) của 10 ngân
hàng thí điểm Basel II tăng hơn 50,8% so với cách tính của Thông tư
36. Trong khi tổng vốn cấp 1 và cấp 2 của các ngân hàng không có
thay đổi lớn khi tính theo phương pháp mới, việc tài sản có rủi ro tăng
mạnh dẫn đến tỷ lệ CAR của các ngân hàng thí điểm Basel II giảm
khoảng 25%-30% so với tỷ lệ CAR tính theo Thông tư 36. Một số
nguyên nhân dẫn đến RWA của các ngân hàng tăng mạnh khi tính
theo phương pháp mới:
+ Các ngân hàng có thể chưa sử dụng hiệu quả các biện pháp
giảm thiểu rủi ro tín dụng (RMT) để điều chỉnh giảm giá trị khoản phải
đòi trên sổ ngân hàng (tài sản đảm bảo tài chính có tính thanh khoản
cao, bù trừ số dư nội bảng, bảo lãnh của bên thứ ba, sản phẩm phái
sinh phòng ngừa rủi ro tín dụng). Để đủ điều kiện thực hiện các RMT,
ngân hàng phải đáp ứng các nguyên tắc, quy định tương đối chặt chẽ
(đảm bảo tính pháp lý của tài sản đảm bảo, tính hợp pháp của hồ sơ,
thời hạn còn lại của các biện pháp RMT…).
+ Việc trích lập dự phòng rủi ro cụ thể đối với tổng tài sản có rủi
ro không có tác động lớn. Các ngân hàng được trừ khoản trích lập dự
7
phòng rủi ro cụ thể trước khi áp dụng trọng số rủi ro để tính tài sản có
rủi ro tín dụng của khoản phải đòi. Tuy nhiên, RWA của các ngân hàng
cũng không giảm nhiều khi ngân hàng được trừ đi khoản trích lập dự
phòng rủi ro cụ thể. Một trong những lý giải cho việc này có thể là do
ngân hàng hiện chưa thực hiện trích lập dự phòng đầy đủ theo quy
định hoặc/và tỷ trọng RWA cho khoản nợ xấu chiếm tỷ trọng nhỏ
(khoảng 1%-2%) trong tổng số RWA cho rủi ro tín dụng của các ngân
hàng.
+ Các ngân hàng phải tính thêm rủi ro hoạt động, rủi ro thị
trường và rủi ro tín dụng đối tác (phát sinh với các giao dịch diễn ra
trên sổ kinh doanh của ngân hàng) dẫn đến RWA cho rủi ro hoạt động,
rủi ro thị trường và rủi ro tín dụng đối tác chỉ chiếm khoảng từ 7% đến
8% tổng RWA của ngân hàng.
+ Trọng số rủi ro (RW) cho các khoản phải đòi (đặc biệt đối với
rủi ro tín dụng) cao hơn so với Thông tư 36. Trong cơ cấu tổng RWA
của ngân hàng, RWA cho rủi ro tín dụng chiếm tỷ lệ lớn nhất, đạt
trung bình khoảng từ 86%-93%. Do đó, khi RW của các khoản phải đòi
(đối với rủi ro tín dụng) trong phương pháp mới cao hơn so với quy
định tại Thông tư 36, tổng RWA của ngân hàng tăng mạnh. Nhóm
khoản phải đòi chịu rủi ro tín dụng có hệ số rủi ro 50% và 100% theo
Thông tư 36 sẽ được phân loại thành từng nhóm khoản phải đòi có hệ
số rủi ro cao hơn theo phương pháp mới5.
+ Phương pháp tiêu chuẩn của Basel II quy định thêm RW cho
một số trường hợp. Đối với khoản nợ xấu (RW từ 50%-150% tùy thuộc
tỷ lệ trích lập dự phòng), các khoản phải thu từ việc bán nợ xấu (RW
là 200%), trường hợp ngân hàng thiếu thông tin về khách hàng (RW là
200%)…đây là những điểm mới, chặt chẽ hơn Thông tư 36 và do đó
cũng là một trong những nguyên nhân dẫn đến RWA cho rủi ro tín
dụng của ngân hàng tăng lên.
Áp dụng Basel II không những đảm bảo ngân hàng có tỷ lệ CAR
tối thiểu 8% để bù đắp những tổn thất từ những rủi ro (tín dụng, thị
trường, hoạt động) không lường trước được (unexpect losses), mà còn
định hướng ngân hàng trong việc điều chỉnh danh mục cho vay - đầu
tư phù hợp trên cơ sở nguồn lực (vốn) để đảm bảo tính hiệu quả, an
toàn sử dụng vốn, từ đó góp phần nâng cao chất lượng hoạt động của
ngân hàng.
Để có thể đáp ứng tỷ lệ CAR Basel II theo quy định, ngân hàng
phải cân đối hài hòa giữa hai nhân tố: (i) quy mô và khả năng bổ sung
vốn tự có (vốn cấp 1 và cấp 2) và (ii) quy mô và tốc độ tăng tổng tài
sản có rủi ro (phản ánh mức độ rủi ro tăng thêm). Trong trong bối
cảnh (i) nền kinh và khu vực doanh nghiệp còn nhiều khó khăn, (ii)
tăng vốn và huy động vốn (cả cấp 1 và cấp 2) trên thị trường gặp
khó khăn hoặc chi phí cao, (iii) lợi nhuận của các ngân hàng ở mức
thấp, (iv) tốc độ tăng trưởng vốn tự có của các ngân hàng chỉ tăng
5 Ví dụ: khoản phải đòi doanh nghiệp (RW từ 90%-155% tùy doanh thu và tỷ lệ đòn bảy), khoản phải đòi được
bảo đảm bằng bất động sản kinh doanh hoặc bất động sản không kinh doanh (RW từ 30% đến 120% tùy thuộc
LTV), các khoản cho vay chuyên biệt, cho thuê tài chính (RW là 160%), và khoản cấp tín dụng bán lẻ (RW là
75%). Việc áp dụng các RW khác nhau cho từng nhóm khoản phải đòi tương ứng với từng đối tượng khách hàng
vay trong phương pháp tiêu chuẩn của Basel II đảm bảo phản ánh chính xác hơn mức độ rủi ro tín dụng mà ngân
hàng phải đối mặt.
8
khoảng 5% từ 2014 đến 2016, (v) khó khăn trong việc điều chỉnh cơ
cấu tài sản trong thời gian ngắn, các ngân hàng sẽ phải nỗ lực rất lớn
để đáp ứng tỷ lệ CAR theo quy định.
e) Thứ sáu, chi phí tài chính để triển khai Basel II tương đối lớn,
đây là thách thức chủ yếu đối với các ngân hàng quy mô vừa và nhỏ.
Dự án triển khai Chuẩn mực vốn Basel II đòi hỏi nguồn tài chính
rất lớn. Theo báo cáo nghiên cứu thị trường Trung quốc của E&Y, chi
phí thực hiện rất khác nhau giữa các ngân hàng và phụ thuộc rất
nhiều vào tính chất, quy mô và mức độ phức tạp trong hoạt động
ngân hàng, khoảng 10-15 triệu USD để triển khai áp dụng Chuẩn mực
vốn Basel II (bao gồm mô hình PD doanh nghiệp và quản trị, mô hình
PD/LGD/EAD cá nhân và quản trị, mô hình LGD/EAD doanh nghiệp, chi
phí đánh giá độc lập các mô hình, chi phí phát triển hệ thống IT, chi
phí làm giàu cơ sở dữ liệu và chi phí bổ sung nhân sự). Tuy nhiên, mức
chi phí này chưa bao gồm rủi ro hoạt động và rủi ro thị trường. Nếu
tính thêm 2 loại rủi ro này thì tổng chi phí của của top 10 ngân hàng
lớn nhất thế giới là xấp xỉ từ 25-30 triệu USD (theo báo cáo điều tra
của E&Y). Do các ngân hàng Việt Nam hiện tại chủ yếu là các ngân
hàng bán lẻ và quy mô nhỏ, rủi ro chủ yếu tập trung vào rủi ro tín
dụng, chi phí ước tính sẽ thấp hơn, đối với nhóm các ngân hàng hàng
đầu Việt Nam khoảng 7,5 triệu USD. Như vậy, với một ngân hàng với
mức vốn điều lệ cao nhất hiện nay của Việt Nam thì chi phí thực hiện
cho dự án Basel II đã chiếm 0.42% vốn điều lệ, trong khi đối với một
ngân hàng quy mô nhỏ với vốn điều lệ là 3.000 tỷ đồng thì dự án này
đã tiêu tốn tới 5,25% vốn điều lệ. Vì vậy, việc xem xét triển khai dự án
Basel cần phải được Ban lãnh đạo cấp cao, cổ đông và toàn thể cán
bộ nhân viên đồng thuận để có định hướng, kế hoạch kinh doanh phù
hợp và chấp nhận các khó khăn, thách thức trong quá trình triển khai.
g) Thứ bảy, thị trường Việt Nam đang thiếu sự tham gia của các
tổ chức xếp hạng tín nhiệm độc lập.
Quá trình triển khai Basel II đòi hỏi sự tham gia của các tổ chức
xếp hạng độc lập trong việc xác định rủi ro của tài sản tài chính, giao
dịch hoặc đối tác. Tuy nhiên, tại Việt Nam hầu hết các doanh nghiệp
hoặc tài sản tài chính không được xếp hạng. Điều này dẫn tới khó
khăn cho các ngân hàng Việt Nam trong việc đánh giá và định giá
khách hàng. Hiệp ước Basel II cũng giao cho cơ quan quản lý xem xét,
đánh giá việc các ngân hàng có đủ tiêu chuẩn sử dụng hệ thống đánh
giá rủi ro nội bộ để phân loại, đánh giá xác suất vỡ nợ của khách
hàng. Tuy nhiên, Cơ quan Thanh tra, giám sát ngân hàng chưa có đủ
nguồn nhân lực có đủ trình độ và kinh nghiệm để đánh giá, thẩm định
hệ thống đánh giá rủi ro của các ngân hàng.
5. Giải pháp triển khai Basel II trong thời gian tới
a) Về phía NHNN:
+ Tiếp tục xây dựng, ban hành các văn bản hướng dẫn triển
khai Basel II; trong đó sớm ban hành Thông tư quy định về hệ thống
kiểm soát nội bộ của ngân hàng, chi nhánh NHNNg và tiếp tục dự
thảo Thông tư tính toán vốn theo phương pháp nâng cao (FIRB) đảm
bảo đúng lộ trình triển khai Basel II đã nêu tại Đề án 1058;
9
+ Trang bị công cụ Giám sát để đánh giá, theo dõi tiến độ thu
hẹp khoảng cách chênh lệnh (% chênh lệch) của các ngân hàng
(Công cụ giám sát) đối với các trụ cột của Basel II và đối với cơ sở dữ
liệu và IT… của các ngân hàng; từ đó đưa ra các giải pháp phù hợp;
+ Xây dựng, triển khai công cụ Thanh tra việc triển khai tính
toán vốn theo Basel II quy định tại Thông tư 41 (Công cụ thanh tra) để
hỗ trợ việc thanh tra, giám sát quy trình, kết quả tính vốn của các
ngân hàng;
+ Đầu tư, nâng cấp hệ thống data & IT phục vụ công tác thanh
tra, giám sát triển khai Basel II;
+ Nghiên cứu cơ chế khuyến khích các ngân hàng (bao gồm cả
các ngân hàng thí điểm Basel II) thực hiện Basel II khi có nhu cầu và có
đủ điều kiện về tài chính, nhân lực;
+ Phối hợp với các Bộ, ngành có liên quan xây dựng cơ sở hệ
thống tài chính, chuẩn mực kế toán, thị trường...nhằm hướng dẫn hoạt
động nghiệp vụ của các ngân hàng theo chuẩn mực quốc tế;
+ Tiếp tục thúc đẩy công tác đào tạo, tuyên truyền thực hiện
Basel II thông qua hợp tác quốc tế; đề xuất chuyên gia phù hợp với
nhu cầu; tổ chức các khóa đào tạo, tập huấn cho cán bộ triển khai
Basel II (ở các cấp) tại các ngân hàng, phối hợp với các tổ chức tư vấn
để chia sẻ kinh nghiệm về triển khai Basel II.
b) Về phía 10 ngân hàng thí điểm Basel II:
+ Kiện toàn và nâng cao vai trò, hiệu quả hoạt động của Ban
quản lý dự án Basel II (PMO);
+ Quyết liệt thực hiện các dự án trong Master plan nhằm đảm
bảo lộ trình đã đề ra (ví dụ: đầu tư, nâng cấp cơ sở dữ liệu và hạ tầng
IT: chuẩn hóa CSDL, nâng cấp hạ tầng IT, xây dựng hệ thống tính
RWA, phần mềm liên quan, triển khai hệ thống quản lý: hạn mức tín
dụng, tài sản đảm bảo, khởi tạo tín dụng, danh mục tín dụng, xây
dựng hệ thống cảnh báo sớm, nâng cấp, triển khai hệ thống ALM…);
+ Điều chỉnh cơ cấu tổ chức, quản trị và điều hành: (i) chiến lược
tăng trưởng huy động, chiến lược kinh doanh ngoại hối, lãi suất…sẽ
tính đến khẩu vị rủi ro tín dụng, thanh khoản, thị trường, hoạt động…
(ii) hạn mức tín dụng sẽ phụ thuốc vào nhiều yếu tố…thay vì phụ
thuộc vào tài sản đảm bảo (iii) chính sách tín dụng sẽ dựa trên rủi ro
tín dụng thay vì chi phí hoạt động, (iv) thay đổi cách tính hiệu quả
hoạt động (RoRWA, RAROC…), (v) sử dụng chỉ tiêu lợi nhuận kinh tế
để đánh giá mức độ hoàn thành công việc;
+ Điều chỉnh chiến lược, chính sách và quy trình về quản lý rủi
ro: (i) cập nhật, nâng cấp chính sách quản lý rủi ro, khung quản lý rủi
ro, khung, khung kiểm tra sức chịu đựng, khung công bố thông tin
theo Basel II và hoàn thiện sổ tay kiểm toán…(ii) sửa đổi, bổ sung các
quy định nội bộ;
+ Xây dựng công cụ và phương pháp: nâng cấp, xây dựng các
mô hình xếp hạng tín dụng, LGD, EAD, VaR, kiểm định các mô hình,
cải thiện các công cụ quản lý rủi ro hoạt động (LED, RCSA, KRI…);
+ Nâng cao chất lượng kiểm toán nội bộ để đánh giá độc lập
chất lượng quản lý rủi ro và ICAAP;
10
+ Tăng cường nguồn nhân lực triển khai Basel II; trong đó bao
gồm tuyển dụng, đào tạo nhân sự, có cơ chế đãi ngộ phù hợp để giữ
và thu hút cán bộ có kinh nghiệm, trình độ;
+ Tập trung hóa dữ liệu liên quan đến triển khai Basel II tại CIC
nhằm tính toán RWA, nghiên cứu, xây dựng văn bản về quản trị dữ
liệu (data governance) để từng bước nâng cao và làm giàu chất lượng
dữ liệu.
Tài liệu tham khảo:
1. E&Y, 2003. “Addressing the challenges: Survey Results of
the South African Banking Industry”.
2. KPMG, 2004. “The world challenges for the banking
industry”, Financial Service.
3. Gottschalk R và Jones S, 2006. “Review of Basel II
Implementation in Low-Income Countries”, Institute of Development
Studies University of Sussex.
4. Entrofine, 2014. Triển khai thực hiện Basel II tại Việt Nam.
Chương trình Tọa đàm Hướng tới thực hiện Basel II tại Việt Nam, Ngân
hàng Nhà nước, 1-2/07/2014.
5. Financial Stability Institute, 2013. Basel II, 2,5 and III
implementation. FSI survey, Bank for International Settelements,
07/2013.
6. Blackice, 2014. Kinh nghiệm triển khai thực hiện Basel II ở
khu vực và trên thế thới. Chương trình Tọa đàm Hướng tới thực hiện
Basel II tại Việt Nam, Ngân hàng Nhà nước, 1-2/07/2014.
CẤU TRÚC NGÂN HÀNG THEO CHUẨN BASEL II:
PHÂN TÍCH CÁC TIỀN ĐỀ VÀ ĐIỀU KIỆN THỰC HIỆN BASEL II TẠI
NGÂN HÀNG THƯƠNG MẠI VIỆT NAM
PGS.TS Đào Minh Phúc6, TS. Nguyễn Khương
Ngân hàng Nhà nước Việt Nam
Ngày nhận bài: 06/07/2017
Ngày gửi lại bài: 07/09/2017
Ngày duyệt đăng: 16/09/2017
Tóm tắt
Cấu trúc của ngân hàng thương mại (NHTM) là những yếu tố liên quan giữa các
thành phần tạo nên chỉnh thể của một ngân hàng. Thông qua cấu trúc này, các nhà
quản trị có thể thực hiện điều hành quản lý một cách hợp lý, khoa học đảm bảo cho
NHTM vận hành một cách trơn tru, hiệu quả. Thực tế cho thấy rằng tùy thuộc vào đặc
điểm, quy mô, loại hình… của từng ngân hàng mà cấu trúc ngân hàng đó được lựa
6 Email của tác giả chính:
11
chọn cho phù hợp. Với các ngân hàng hoạt động quốc tế, nhằm mục tiêu đáp ứng được
các yêu cầu của Hiệp ước Basel II thì các ngân hàng này cần thiết phải điều chỉnh,
thay đổi cấu trúc để hoạt động kinh doanh, quản lý rủi ro cho phù hợp với quy định
của Basel II. Bài viết này tập trung phân tích về cấu trúc NHTM theo Basel II, các tiền
đề và hạn chế trong quá trình thực hiện Basel II; từ đó đưa ra một số khuyến nghị về
điều kiện thực hiện Basel II tại NHTM Việt Nam. Do Hiệp ước Basel II có nội dung
phức tạp nên việc nghiên cứu cấu trúc NHTM Việt Nam theo Basel II chỉ thực hiện
trên một số cấu phần chính có tính phổ quát nhằm đưa ra một cách thức tiếp cận trên
giác độ khoa học để từ đó có thể vận dụng vào thực tiễn với cấu trúc NHTM theo
Basel II đầy đủ và sâu rộng hơn.
Từ khóa: Điều kiện thực hiện Basel II; Cấu trúc Basel II; tái cấu trúc ngân hàng
theo Basel II.
1. Nhận diện cấu trúc NHTM theo chuẩn mực Basel II
Hiệp ước Basel II (2004) là hiệp ước về an toàn vốn do Ủy ban giám sát ngân
hàng Basel ban hành nhằm giúp các ngân hàng hoạt động quốc tế trích lập dự phòng
rủi ro (rủi ro tín dụng, rủi ro hoạt động, rủi ro thị trường); ban hành các quy định về
thanh tra, giám sát ngân hàng; minh bạch thông tin theo quy tắc thị trường. Về cấu trúc
NHTM theo Basel II, Ủy ban Basel (2004) chỉ ra ngân hàng phải có định nghĩa về vốn
và các quy định giới hạn tỷ lệ vốn cấp 1,2,3 theo yêu cầu của Basel II. Tái thiết lập
công thức xác định tỷ lệ an toàn vốn Car từ công thức tính theo hướng dẫn của Basel I
và một số công thức tính nội bộ khác sang công thức tính theo hướng dẫn của Basel II
trên cơ sở ba loại rủi ro tín dụng, rủi ro hoạt động và rủi ro thị trường. Để áp dụng
được công thức xác định tỷ lệ an toàn vốn Car này theo Basel II thì các ngân hàng phải
xây dựng một cấu trúc khung, các nguyên tắc hướng dẫn, các phương pháp xác định
rủi ro theo các phương pháp của Basel II. Cụ thể, với rủi ro tín dụng có thể áp dụng
một trong ba phương pháp là phương pháp chuẩn (Standardized) – tài sản có rủi ro
RWA được áp dụng các hệ số rủi ro khác nhau do tổ chức xếp hạng quy định, phương
pháp nội bộ cơ bản (F-IRB) – tài sản có rủi ro RWA được tính dựa trên những dữ liệu
nội bộ về xác xuất vỡ nợ (PD), tổn thất ước tính (LGD), tổng dư nợ của khách hàng tại
thời điểm khách hàng không trả được nợ (EAD), kỳ hạn (M) và phương pháp nội bộ
nâng cao (A-IRB) - tài sản có rủi ro RWA được tính dựa trên PD, LGD, EAD, M từ dữ
liệu nội bộ chung nhưng cách tính phức tạp hơn; với rủi ro hoạt động ngân hàng có thể
áp dụng một trong ba phương pháp là phương pháp cơ bản (BIA) – vốn được tính dựa
trên tỷ lệ % cố định (15%) trên bình quân tổng thu nhập dương của các năm trong ba
12
năm trước đó, phương pháp chuẩn (TSA) – vốn được tính tương tự như phương pháp
chuẩn BIA nhưng chia thành 8 nhóm nghiệp vụ với tỷ lệ % tương ứng, phương pháp
nâng cao (AMA) – vốn được tính dựa trên hệ thống nội bộ đánh giá rủi ro hoạt động
cơ bản của ngân hàng; với rủi ro thị trường ngân hàng có thể áp dụng một trong hai
phương pháp là phương pháp chuẩn (Standardized) – vốn được tính với từng yếu tố rủi
ro, rủi ro lãi suất, rủi ro trạng thái vốn, rủi ro tỷ giá, rủi ro hàng hóa và phương pháp
mô hình nội bộ (MBA) – xác định được giá trị Var của mỗi giao dịch, của các danh
mục và của toàn bộ hoạt động ngân hàng. Bên cạnh đó, ngân hàng nên có một bộ
nguyên tắc, quy trình quản trị rủi ro NHTM theo Basel II; cấu trúc lại mô hình quản trị
rủi ro, mô hình kiểm tra giám sát (mô hình kiểm tra giám sát theo 3 tuyến phòng ngự),
hệ thống xếp hạng tín dụng nội bộ, cấu trúc hệ thống thông tin, truyền thông (các
thông tin công bố minh bạch theo 13 bảng hướng dẫn của Basel II), cấu trúc lưu trữ cơ
sở dữ liệu lịch sử của ngân hàng theo chuẩn Basel II. Về việc lựa chọn phương pháp
áp dụng, Basel II khuyến cáo rằng các ngân hàng nên lựa chọn mục tiêu, cách tiếp cận
phù hợp với đặc điểm, quy mô của ngân hàng và một nguyên tắc là các ngân hàng hoạt
động càng phức tạp thì phải áp dụng phương pháp có độ phức tạp cao hơn; đồng thời
không cho phép các ngân hàng chuyển ngược trở lại phương pháp đơn giản một khi đã
được chấp thuận sử dụng các phương pháp nâng cao.
Theo hướng dẫn của Ủy ban giám sát ngân hàng Basel (2004) cùng với các kết
quả nghiên cứu được tiến hành phân tích nhân tố dựa trên số liệu khảo sát nghiên cứu
tại 34 ngân hàng Việt Nam có hội sở chính tại Hà Nội của nhóm tác giả đã cho kết quả
phân tích chỉ ra rằng cấu trúc NHTM theo Basel II được chia thành hai nhóm là: (i)
Cấu trúc chức năng NHTM theo Basel II và (ii) Cấu trúc quản trị NHTM theo Basel II
như trên Biểu đồ 1.
Biểu đồ 1: Cấu trúc NHTM theo Basel II và kết quả khảo sát
Trong Biều đồ 1 này, CT1 là định nghĩa vốn và quy định giới hạn tỷ lệ vốn cấp
1,2,3 theo yêu cầu của Basel II; CT2 là công thức xác định tỷ lệ an toàn vốn (Car) theo
quy định của Basel II; CT3 là phương pháp xác định rủi ro tín dụng theo quy định của
13
Basel II; CT4 là phương pháp xác định rủi ro hoạt động theo quy định của Basel II;
CT5 là phương pháp xác định rủi ro thị trường theo quy định của Basel II; CT6 là mô
hình quản trị rủi ro của NHTM phù hợp với quy định của Basel II; CT7 là hệ thống
xếp hạng tín dụng nội bộ phù hợp với quy định của Basel II; CT8 là mô hình kiểm tra,
giám sát của NHTM phù hợp với Basel II; CT9 là NHTM công bố thông tin đáp ứng
yêu cầu của Basel II; CT10 là cơ sở lưu trữ dữ liệu lịch sử của NHTM theo Basel II.
Mười cấu phần CT1~CT10 trên là các cấu phần chính có tính phổ quát; các cấu
phần chi tiết khác nêu cụ thể trong Hiệp ước Basel II. Các NHTM căn cứ vào điểm
mạnh, điểm yếu, khả năng nội tại của mình để lựa chọn một trong các phương pháp,
mô hình phù hợp quy định trong Hiệp ước Basel II làm mục tiêu để thực hiện quá trình
tái cấu trúc NHTM theo các chuẩn mực Basel II.
2. Các tiền đề để triển khai thực hiện Basel II tại NHTM Việt Nam
2.1. Thực trạng triển khai áp dụng Basel II tại NHTM Việt Nam
Về chủ trương thực hiện Basel II, Ngân hàng Nhà nước Việt Nam ban hành công
văn số 1601/NHNN-TTGSNH ngày 17/3/2014 về việc triển khai thực hiện quy định
an toàn vốn theo Basel II; trong đó yêu cầu các ngân hàng triển khai Basel II ở mức độ
tiêu chuẩn, riêng 10 ngân hàng Vietcombank, Vietinbank, BIDV, VPBank,
Techcombank, VIB, Maritime Bank, MB, Sacombank, ACB thực hiện ở mức độ cao
hơn; lộ trình thực hiện đến năm 2018 được chia thành hai giai đoạn: (i) Giai đoạn 1
đến cuối 2015, các ngân hàng được chọn áp dụng Basel II theo phương pháp tiêu
chuẩn; (ii) giai đoạn 2 đến cuối 2018, các ngân hàng được chọn áp dụng Basel II theo
phương pháp nâng cao. Đây chính là bước đột phá, thể hiện sự quyết tâm của Ngân
hàng Nhà nước trong việc hỗ trợ, thúc đẩy các NHTM thực hiện quản trị rủi ro theo
các chuẩn mực Basel II.
Về cơ sở pháp lý, các cơ quan quản lý thực hiện, Ngân hàng Nhà nước đã ban
hành rất nhiều văn bản nhằm hỗ trợ các ngân hàng trong nước nâng cao năng lực quản
trị rủi ro hướng tới Hiệp ước Basel II như: (i) Hướng tới Trụ cột I bao gồm Thông tư
36/2014/TT-NHNN (TT36) quy định các giới hạn, tỷ lệ bảo đảm an toàn hoạt động của
tổ chức tín dụng, chi nhánh ngân hàng nước ngoài; Thông tư 02/2013/TT-NHNN
(TT02) quy định phân loại tài sản có, mức trích, phương pháp trích lập dự phòng rủi ro
và việc sử dụng dự phòng để xử lý rủi ro trong hoạt động của tổ chức tín dụng, chi
nhánh ngân hàng nước ngoài; Thông tư 12/2013/TT-NHNN, Thông tư 09/2014/TTNHNN sửa đổi một số nội dung của TT02 và gần đây là Thông tư 41/2016/TT-NHNN
ngày 30/12/2016 (TT41) quy định tỷ lệ an toàn vốn đối với ngân hàng, chi nhánh ngân
14
hàng nước ngoài. (ii) Hướng tới Trụ cột II bao gồm Thông tư 44/2011/TT-NHNN ngày
29/12/2011 quy định hệ thống kiểm soát nội bộ, kiểm toán nội bộ của tổ chức tín dụng,
chi nhánh ngân hàng nước ngoài; Thông tư 07/2013/TT-NHNN quy định về kiểm soát
đặc biệt đối với các tổ chức tín dụng; Thông tư 10/2012/TT-NHNN quy định xử lý sau
thanh tra, giám sát đối với các tổ chức tín dụng, chi nhánh ngân hàng nước ngoài; (iii)
Hướng tới Trụ cột III bao gồm Quyết định 51/2007/QĐ-NHNN ngày 31/12/2007 ban
hành quy chế thông tin tín dụng; Thông tư 16/2010/TT-NHNN hướng dẫn thi hành
Nghị định 10/2010/NĐ-CP về hoạt động thông tin tín dụng; TT41 (thông tư có quy
định về nội dung công bố thông tin). Bên cạnh đó một số tổ chức quản lý ngành liên
quan đến việc thực hiện Basel II cũng được hoàn thiện dần về cơ cấu tổ chức, chức
năng nhiệm vụ như NHNNVN, Cơ quan thanh tra giám sát ngân hàng, Trung tâm
thông tin tín dụng ngân hàng – CIC, Công ty VAMC giúp các NHTM xử lý nợ xấu, tái
cấu trúc hệ thống ngân hàng để nâng cao năng lực hoạt động kinh doanh và một số cơ
quan khác có liên quan.
Để giúp các NHTM triển khai áp dụng Basel II, NHNN đã thành lập Ban chỉ đạo
triển khai Basel II tại NHNN và tại Cơ quan Thanh tra giám sát ngân hàng; đến nay
bước đầu đã thực hiện đánh giá thực trạng, khoảng cách về quản trị rủi ro của NHTM
với các quy định của Basel II. Mở rộng, nâng cao vai trò của CIC theo hướng hỗ trợ
NHTM thực hiện Basel II như xây dựng cơ sở dữ liệu quốc gia, cung cấp kịp thời
thông tin cho tổ chức tín dụng, nâng cấp bộ máy xếp hạng tín dụng… Bên cạnh đó,
việc nâng cao năng lực giám sát hệ thống cũng được chú trọng thực hiện; cụ thể như
việc ban hành Quyết định 1976/QĐ-NHNN (2007) để tiến hành cải cách tổ chức hoạt
động của thanh tra; chuyển hướng từ thanh tra tuân thủ sang thanh tra trên cơ sở rủi ro,
xây dựng quy trình, phương pháp thanh tra phù hợp với thông lệ Basel II.
Về việc triển khai thực hiện Basel II tại 10 ngân hàng thí điểm áp dụng, kết quả
tổng hợp cho thấy rằng hầu hết các ngân hàng đã thành lập Ban QLDA Basel II; thuê
đơn vị tư vấn triển khai thực hiện dự án phân tích độ lệch cơ sở dữ liệu (Data Gap),
nghiên cứu thực hiện quy trình đánh giá vốn rủi ro (ICAAP), lập kế hoạch triển khai
thực hiện Basel II; lập báo cáo đánh giá tác động định lượng (QIS) theo hướng dẫn tại
TT41; thực hiện các dự án xây dựng hệ thống khởi tạo các khoản vay (LOS - Loan
Origination System), dự án nâng cấp hệ thống xếp hạng nội bộ (Credit Rating System),
dự án hoàn thiện khung quản lý rủi ro thị trường; dự án tính toán tài sản có rủi ro
(RWA) theo Basel II; dần hoàn thiện mô hình quản lý rủi ro theo 3 tuyến phòng ngự…
15
Riêng ngân hàng Techcombank thực hiện chiến lược đầu tư hệ thống ngân hàng lõi
T24 của Thụy sĩ phù hợp với thông lệ quốc tế. [6;7;8;9]
Những phân tích trên cho thấy rằng các NHTM Việt Nam đã dần đi vào định
hướng, lộ trình thực hiện Basel II của Ngân hàng Nhà nước. Tuy nhiên để đạt được các
yêu cầu quy định của Basel II thì đòi hỏi các NHTM cần nỗ lực nhiều hơn trong thời
gian tới. Đặc biệt cần lưu ý duy trì hệ số Car tối thiểu 8% với công thức xác định theo
TT36 sẽ thay đổi theo TT41 và các quy định của Basel II. Theo đó việc bổ sung vốn
cho rủi ro hoạt động, rủi ro thị trường vào công thức tính Car sẽ gây áp lực cho NHTM
làm việc tăng vốn tại các ngân hàng là yêu cầu bức thiết. Về phía các NHTM tùy theo
khả năng tài chính và các nguồn lực hiện có để lựa chọn mục tiêu tái cấu trúc NHTM
theo Basel II ở mức độ phù hợp, theo định hướng của NHNN.
2.2. Hoạt động thanh tra giám sát ngân hàng theo Basel II
Cơ quan Thanh tra giám sát ngân hàng được thành lập theo Quyết định số
83/QĐ-TTg ngày 27/5/2009 với mục tiêu hình thành nên bộ máy thanh tra giám sát có
chất lượng, đảm bảo an toàn hoạt động ngân hàng, đáp ứng yêu cầu hội nhập quốc tế.
Trên thế giới có hai hình thức thanh tra được các cơ quan thanh tra, giám sát ngân
hàng áp dụng là giám sát tuân thủ và giám sát trên cơ sở rủi ro. Giám sát tuân thủ tập
trung vào xem xét, đánh giá việc tuân thủ các quy định pháp luật của ngân hàng như
việc chấp hành giới hạn/tỷ lệ an toàn hoạt động, các quy định về kiểm toán, kiểm soát
nội bộ, quản trị rủi ro… Giám sát trên cơ sở rủi ro tập trung vào việc đo lường, đánh
giá rủi ro của tổ chức tín dụng; xác định những hoạt động rủi ro yếu kém để lên kế
hoạch thanh tra. Ở Việt Nam, trong bối cảnh ngành ngân hàng thực hiện tái cấu trúc,
chức năng của Cơ quan Thanh tra giám sát ngân hàng được đổi mới theo hướng
chuyển từ thanh tra giám sát tuân thủ sang kết hợp với thanh tra, giám sát trên cơ sở
rủi ro. Hiện nay, báo cáo giám sát của Thanh tra giám sát đã từng bước theo thông lệ
quốc tế; cụ thể như việc đưa khung đánh giá CAMELS vào nội dung báo cáo thanh tra
giám sát hay việc đưa thêm các yêu cầu tuân thủ theo quy định về thanh tra, giám sát
của Basel II (29 nguyên tắc giám sát của Basel II). [1]
Trên thực tế, hoạt động thanh tra vẫn còn nhiều khó khăn thách thức như: Chưa
tuân thủ được hết 29 nguyên tắc thanh tra giám sát của Basel II; phương pháp giám sát
mới đang tiếp cận thanh tra giám sát trên cơ sở rủi ro; việc tiếp cận thông tin phục vụ
công tác thanh tra còn nhiều khó khăn; các mô hình định lượng phụ vụ thanh tra, giám
sát còn thiếu; hạ tầng công nghệ thông tin mới ở mức đơn giản; thiếu và yếu về nhân
lực thực hiện. Mặc dù vậy, trong giai đoạn toàn ngành thực hiện tái cơ cấu, thanh tra
16
giám sát cũng đã thực hiện tốt nhiệm vụ và thu được những kết quả đáng kể như sau:
Giám sát chặt chẽ chất lượng tín dụng, giúp hạn chế nợ xấu; giúp tình hình thanh
khoản của hệ thống ổn định, không bị mất thanh khoản; hỗ trợ tiến trình hội nhập với
quốc tế thông qua việc áp dụng hình thức thanh tra trên cơ sở rủi ro; giám sát chặt chẽ
rủi ro liên quan đến cổ đông, sở hữu và một số kết quả đáng khích lệ khác. [4]
2.3.. Hoạt động công bố thông tin tại NHTM theo Basel II
Nhằm mục tiêu hỗ trợ các NHTM thực hiện Basel II theo đúng lộ trình, NHNN
đã củng cố, chuẩn hóa kiện toàn hoạt động của Trung tâm Thông tin tín dụng (CIC), đa
dạng hóa sản phẩm, dịch vụ thông tin của CIC, tập trung vào định hướng hỗ trợ việc
thực thi các quy định của Basel II đối với các tổ chức tín dụng như việc xây dựng cơ
sở dữ liệu thông tin tín dụng quốc gia đầy đủ, phản ánh được chính xác, kịp thời dữ
liệu từ các đơn vị trong và ngoài ngành, đáp ứng tốt nhu cầu về dữ liệu cho các NHTM
thực hiện Basel II; cung cấp thông tin kịp thời cho NHTM, phục vụ xây dựng mô hình
xếp hạng tín dụng, chấm điểm tín dụng và xây dựng các báo cáo phân tích ngành; cung
cấp thông tin cho cơ quan thanh tra giám sát ngân hàng để tăng cường công tác thanh
tra giám sát NHTM; nâng cấp hệ thống xếp hạng tín dụng của CIC; triển khai hoạt
động đăng ký tín dụng…[3]
Dưới giác độ NHTM, hầu hết các NHTM đều đã triển khai công bố thông tin
minh bạch với cơ sở hạ tầng công nghệ thông tin hiện đại. Tuy nhiên hầu hết các
NHTM đều công bố thông tin chủ yếu phản ánh hoạt động kinh doanh mà chưa chú
trọng đến các nội dung yêu cầu công bố thông tin theo hướng dẫn của TT41 và các quy
định công bố thông tin minh bạch của Basel II. Mặc dù sự ra đời của TT41 đã hướng
việc công bố thông tin của NHTM phù hợp với chuẩn mực quốc tế Basel II nhưng do
TT41 mới ban hành trong thời gian ngắn nên số liệu đánh giá thực trạng công bố thông
tin của NHTM còn hạn chế.
3. Một số khuyến nghị về việc thực hiện Basel II tại NHTM Việt Nam
Với cấu trúc NHTM theo Basel II và những phân tích thực trạng thực hiện Basel
II tại NHTM Việt Nam, chúng tôi cho rằng để NHTM Việt Nam thực hiện Basel II
sớm đạt được kết quả cần:
(i) Có đầy đủ hành lang pháp lý phù hợp với các quy định của Basel II nhằm tạo
môi trường thống nhất cho các NHTM triển khai thực hiện. Thực tế hiện nay cho thấy
môi trường thực hiện Hiệp ước Basel II đã được tạo lập. Tuy nhiên còn thiếu các quy
định có tính định hướng của cơ quan quản lý nhà nước. Cụ thể là mới có một số văn
bản hướng dẫn thực hiện QLRR hướng tới Basel II (TT36, TT02…) và hầu hết mới
17
chỉ tập trung vào nhóm rủi ro tín dụng và cuối năm 2016 vừa qua đã có TT41 hướng
dẫn khá chi tiết, cụ thể về vốn, cách xác định tỷ lệ an toàn vốn theo cả 3 loại rủi ro (rủi
ro tín dụng, rủi ro hoạt động, rủi ro thị trường)… Đây là bước tiến lớn của Ngân hàng
Nhà nước trong việc ban hành các quy định pháp lý làm đòn bẩy cho các NHTM triển
khai thực hiện Basel II. Về quy định pháp lý đối với việc thanh tra, giám sát theo quy
định Basel II còn nhiều hạn chế; Quy định công bố thông tin hướng tới Basel II cũng
được quy định cụ thể tại TT41 trên. Như vậy điều kiện về môi trường thực hiện Basel
II về cơ bản đã có, phù hợp với quan điểm là hướng dẫn định hướng và trao quyền
quyết định lựa chọn thực hiện cho NHTM và NHTM phải báo cáo kết quả triển khai
thực hiện để cơ quan quản lý chuyên ngành quản lý, đánh giá.
(ii) Xác định rõ chức năng, nhiệm vụ của các chủ thể tham gia vào hệ thống
quản lý rủi ro theo Basel II, xây dựng cơ sở hạ tầng tương ứng với chức năng nhiệm vụ
của từng chủ thể. Ví dụ như: NHNN Việt Nam là cơ quan quản lý nhà nước chung về
ngân hàng, tiền tệ, là đầu mối ban hành các quy định, hướng dẫn giúp NHTM hoạt
động lành mạnh, hiệu quả, quản lý tốt rủi ro và đảm bảo ổn định hệ thống ngân hàng,
tiền tệ quốc gia. Thanh tra giám sát ngân hàng (trực thuộc NHNN) là cơ quan quản lý
nhà nước thực hiện thanh tra, giám sát theo quy định tại Trụ cột II của Chuẩn mực
Basel II; làm đầu mối tham mưu giúp NHNN ban hành các quy định, hướng dẫn
NHTM thực hiện quản lý rủi ro theo Basel II. Trung tâm thông tin tín dụng quốc gia CIC (trực thuộc NHNN) là cơ quan quản lý nhà nước phụ trách công bố thông tin,
tham mưu giúp NHNN ban hành các quy định về công bố thông tin minh bạch theo
quy tắc thị trường (Trụ cột 3); xây dựng cơ sở hạ tầng dữ liệu lịch sử cho hệ thống
ngân hàng. Công ty mua bán nợ của các tổ chức tín dụng VAMC làm đầu mối xử lý nợ
xấu của các tổ chức tín dụng, hỗ trợ các tổ chức tín dụng hoạt động nhằm khôi phục lại
hoạt động…. Thành lập tổ chức xếp hạng tín dụng đạt chuẩn Basel II trực thuộc
NHNN; có thể phối hợp với một số tổ chức xếp hạng tín dụng quốc tế có uy tín… Các
NHTM, các tổ chức tín dụng là đối tượng trực tiếp thực hiện quản lý rủi ro theo Basel
II cần tuân thủ thực hiện theo các quy định của cơ quan quản lý nhà nước và những
hướng dẫn thêm cụ thể trong Hiệp ước Basel II trong quá trình thực hiện Basel II tại
NHTM.
18
KN thực hiện BII
0,125*
0,253*
0,142*
0,102*
Ủy ban Basel
NHTM
Nội dung Basel II
Hình 1. Mô hình Trọng tâm, tam giác quan hệ chiến lược ảnh hưởng đến
tra, giám sát
khả năng thực hiện Thanh
Basel
II tại NHTM
Theo mô hình định lượng này: Có 3 chủ thể chính tương tác lẫn nhau trong quá
trình triển khai thực hiện Hiệp ước Basel II là bản thân NHTM, Thanh tra giám sát
NHTM, Ủy ban Basel II; trong đó NHTM giữ vai trò thực hiện Hiệp ước, thanh tra
giám sát ngân hàng giữ vai trò kiểm tra giám sát NHTM thực hiện, Ủy ban Basel giữ
vai trò đánh giá, xếp hạng đạt chuẩn và hỗ trợ kỹ thuật cho NHTM thực hiện Hiệp
ước. Các chỉ số trên mô hình cũng cho thấy yếu tố lớn nhất tác động đến khả năng
thực hiện Basel II tại NHTM phụ thuộc vào chính bản thân NHTM đó (hệ số hồi quy
riêng phần của nhân tố Nội tại NHTM lớn nhất tương ứng giá trị 0,253; hệ số hồi quy
riêng phần của các nhân tố còn lại thấp hơn tương ứng với giá trị 0,142; 0,125; 0,102).
Riêng vấn đề Nội dung Hiệp ước Basel II được đặt vào trọng tâm tam giác cho thấy
vai trò quan trọng của việc nắm rõ nội dung Hiệp ước trong quá trình triển khai thực
hiện; theo mô hình này, cả ba chủ thể tham gia nêu trên đều phải nắm rõ nội dung của
Hiệp ước để thực hiện và có những điều chỉnh chiến lược thực hiện Basel II của mình
cho phù hợp với khả năng, điểm mạnh, điểm yếu của từng NHTM. Về các chủ thể
khác chưa có trên mô hình sẽ được nghiên cứu bổ sung tại các nghiên cứu tiếp sau.
(iii) Thiết lập mối quan hệ với Ủy ban Basel II (được mô tả trên Hình 1) và các tổ
chức tư vấn thực hiện Basel để có được sự hỗ trợ tư vấn thực hiện, tiếp cận được với
các tài liệu hướng dẫn, các tiêu chuẩn đánh giá thực hiện Basel II của Ủy ban Basel.
Thông lệ cho thấy rằng, các tổ chức ban hành hiệp ước, tiêu chuẩn thường có đánh giá
khách quan và xác thực đối với các tổ chức, cá nhân thực hiện hiệp ước, tiêu chuẩn do
tổ chức đó ban hành. Do vậy, không thể phủ nhận vai trò quan trọng của Ủy ban Basel
trong việc đánh giá, xếp hạng NHTM thực hiện Basel II.
19
(iv) Các NHTM xác định rõ cấu trúc ngân hàng để thực hiện theo Basel II (có thể
tham khảo cấu trúc chức năng, cấu trúc quản trị NHTM theo Basel II trên Biểu đồ 1)
tùy thuộc vào quy mô, điểm mạnh, điểm yếu, mục tiêu của từng loại, từng nhóm ngân
hàng. Việc xác định rõ cấu trúc này giúp NHTM, cơ quan quản lý có thể tập trung
nguồn lực và lựa chọn chiến lược thực hiện phù hợp.
(v) Nâng cao năng lực quản lý, hoạt động tác nghiệp của cán bộ nhân viên
NHTM theo các nội dung quy định của Basel II. Theo mô hình tại hình 1, “Nội dung
Basel II” được đặt vào trọng tâm và các chủ thể khác trong mô hình đều phải nắm rõ
nội dung Hiệp ước.
(vi) Đầu tư xây dựng cơ sở hạ tầng kỹ thuật, hệ thống cơ sở dữ liệu lịch sử, hệ
thống công nghệ thông tin, xếp hạng tín dụng, thiết lập các mô hình quản lý rủi ro, xếp
hạng tín dụng nội bộ phù hợp với các quy định của Basel II.
(vii) Ban hành quy định cho NHTM có thể tăng vốn điều lệ cho từng nhóm ngân
hàng cụ thể, thành lập các quỹ hỗ trợ tổ chức tín dụng giúp tổ chức tín dụng có thêm
nguồn lực triển khai thực hiện Basel II. Có thể xem xét nới tỷ lệ sở hữu cho một số đối
tác quốc tế để tận dụng nguồn lực và kinh nghiệm thực hiện Basel II của các tổ chức
tín dụng quốc tế.
(viii) Triển khai thực hiện Basel II tại NHTM cần gắn chặt với đề án tái cấu trúc
NHTM và xử lý nợ xấu nhằm tối ưu hóa nguồn lực, hạn chế những lãng phí từ những
khoản mục đầu tư không cần thiết hoặc trùng lắp trong tiến trình sắp xếp lại cấu trúc
cho phù hợp với các quy định của Basel II.
Như vậy, nghiên cứu trên đã khái lược về cấu trúc NHTM theo Basel II, phân
tích các tiền đề, một số hạn chế và khuyến nghị về điều kiện thực hiện Basel II tại
NHTM Việt Nam. Trên thực tế việc thực hiện Basel II là quá trình khó khăn phức tạp
và cần thực hiện thêm được những điều kiện khắt khe hơn. Do phạm vi nghiên cứu
rộng, nguồn lực thực hiện hạn chế nên các phân tích nghiên cứu có phần định tính,
chưa phản ánh hết được cấu trúc, hoạt động của các tổ chức tham gia đến tiến trình
thực hiện Basel II tại NHTM. Chính vì vậy đây vẫn là chủ đề mở cho nhiều nghiên
cứu tiếp sau./.
TÀI LIỆU THAM KHẢO
1. Nguyễn Thị Thu Hương (2015), “Thanh tra trên cơ sở rủi ro góp phần triển
khai thành công đề án cơ cấu lại và sự phát triển bền vững của hệ thống các
20
tổ chức tín dụng tại Việt Nam”, Tạp chí Ngân hàng - Ngân hàng Nhà nước
Việt Nam, (Số chuyên đề 2015), Tr. 101-107.
2. Nguyễn Khương (2017), “Tái cấu trúc ngân hàng thương mại Việt Nam theo các
chuẩn mực Basel II: Nghiên cứu điển hình tại Ngân hàng Thương mại Cổ phần
Công thương Việt Nam”, Luận án Tiến sĩ kinh tế, Đại học Kinh tế - Đại học Quốc
gia Hà Nội, Việt Nam.
3. Tô Kim Ngọc & Lê Thị Tuấn Nghĩa (2015), “Những kết quả của quá trình tái
cơ cấu hệ thống ngân hàng thương mại Việt Nam giai đoạn 2011~2014”, Tạp
chí Ngân hàng - Ngân hàng Nhà nước Việt Nam, (Số chuyên đề 2015), Tr. 1829.
4. Trần Đăng Phi (2015), “Vai trò của Thanh tra, giám sát ngân hàng trong giám
sát, ngăn ngừa rủi ro hệ thống”, Tạp chí Ngân hàng - Ngân hàng Nhà nước
Việt Nam, (Số chuyên đề 2015), Tr. 108-113.
5. Lê Trung Thành & Nguyễn Khương (2016), “Nghiên cứu mối quan hệ giữa khả
năng thực hiện Hiệp ước Basel II với một số nhân tố chính và hàm ý chính sách”,
Tạp chí Ngân hàng - Ngân hàng Nhà nước Việt Nam, (5), Tr.21-28.
6.
/>
7. />8. />9. />10.
/>
21