5. Dân chủ cơ sở
DCCS
6. Kinh tế - xã hội
KT – XH
7. Pháp lệnh 34 về thực hiện dân chủ ở xã, phường, thị
trấn
Pháp lệnh 34
8. Trật tự an toàn xã hội
TTATXH
9. Ủy ban nhân dân
UBND
10.Hội đồng nhân dân
HĐND
11.Mặt trận tổ quốc
MTTQ
12.Quy chế dân chủ
QCDC
13.Chỉ thị số 30-CT/TW của Bộ Chính trị (khóa VIII) về
xây dựng và thực hiện Quy chế dân chủ cơ sở
Chỉ thị số 30
14.Pháp lệnh dân chủ
PLDC
15.Giải phóng mặt bằng
GPMB
LỜI MỞ ĐẦU
1. Lý do chọn đề tài
Trong công cuộc đổi mới toàn diện đất nước theo định hướng XHCN, dân
chủ hóa đời sống xã hội đã được Đảng cộng sản Việt Nam nhận định là một
trong những nội dung cốt lõi, trong tâm. Dân chủ XHCN vừa là mục tiêu vừa là
động lực của công cuộc đổi mới, xây dựng và bảo vệ Tổ quốc, thể hiện mối
quan hệ gắn bó giữa Đảng, Nhà nước và Nhân dân. Chính vì vậy, Bộ Chính trị
đã ra chỉ thị số 30 CT/TW về xây dựng QCDC ở cơ sở, Uỷ ban Thường vụ Quốc
hội đã ban hành Pháp lệnh số 34/2007/PL – UBTVQH12 và Chính phủ đã ban
hành nhiều nghị định về xây dựng và thực hiện dân chủ ở cơ sở nhằm phát huy
sức sáng tạo của nhân dân trong phát triển kinh tế, ổn định CT - XH, tăng cường
đoàn kết toàn dân, cải thiện dân sinh, nâng cao dân trí, xây dựng Đảng, chính
quyền, đoàn thể vững mạnh, góp phần thực hiện mục tiêu:“dân giàu, nước
mạnh, dân chủ, công bằng, văn minh”. Qua việc triển khai thực hiện dân chủ ở
cơ sở góp phần củng cố khối đại đoàn kết toàn dân, nhất là việc chú trọng vào
công tác cải cách hành chính và giải quyết khiếu nại tố cáo tại cơ sở.
Tuy nhiên, việc thực hiện dân chủ XHCN còn bộc lộ nhiều thiếu sót, yếu
kém như: quyền làm chủ của nhân dân còn bị vi phạm ở nhiều nơi, trên nhiều
lĩnh vực. Phương châm “dân biết, dân bàn, dân làm, dân kiểm tra” chưa được cụ
thể hóa và thể chế hóa thành luật, còn chậm đi vào cuộc sống. “Việc xây dựng
và thực hiện các quy chế, quy ước, hương ước không ít nơi còn hình thức, chất
lượng chưa cao, chưa thành nền nếp. Một số xã, phường, thị trấn chưa làm tốt
việc công khai, dân chủ về quy hoạch, kế hoạch sử dụng đất, giá cả đền bù khi
chuyển mục đích sử dụng đất, chính sách tái định cư… Một số nơi nội bộ lãnh
đạo cấp ủy, chính quyền mất đoàn kết; tình trạng quan liêu, tham nhũng, lãng
phí, tiêu cực chưa được ngăn chặn kịp thời;… mất dân chủ, thiếu tôn trọng dân
1
còn khá phổ biến…”1. Cùng với đó, Báo cáo chính trị của Ban chấp hành trung
ương khóa VIII tại Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ IX của Đảng đã tiếp tục đề
cập việc: “thực hiện tốt quy chế dân chủ ở cơ sở, tạo điều kiện để dân tham gia
quản lý xã hội, thảo luận và quyết định những vấn đề quan trọng, khắc phục mọi
biểu hiện dân chủ hình thức, xây dựng luật trưng cầu ý dân”. Do đó, việc
nghiên cứu, vận dụng và phát triển các luận điểm khoa học về thực hiện Dân chủ
ở cơ sở đang trở thành một yêu cầu quan trọng và cần thiết trong giai đoạn hiện
nay trọng việc chỉ ra những ưu, khuyết điểm trong quá trình thực hiện, chỉ ra
những nguyên nhân, thành tựu để từ đó rút ra bài học kinh nghiệm đồng thời tìm
ra những biện pháp thiết thực nhằm thực hiện tốt hơn các nội dung của bản Pháp
lệnh cho địa bàn nghiên cứu nói riêng và các phường, xã, thị trấn nói chung.
Chính vì những lý do nêu trên, tôi đã chọn đề tài “Thực trạng và giải pháp
nâng cao hiệu quả thực hiện dân chủ ở UBND xã Lam Điền, huyện Chương
Mỹ, thành phố Hà Nội” làm tiểu luận tốt nghiệp TCLLCT – HC để có điều kiện
nghiên cứu sâu hơn về quá trình thực hiện dân chủ ở cơ sở trên thực tế tại một
địa phương cụ thể, qua đó góp phần vận dụng hiệu quả những kiến thức lý luận
đã học vào thực tiễn.
2. Mục tiêu nghiên cứu của đề tài
Qua quá trình nghiên cứu, điều tra, phân tích việc thực hiện quy chế dân chủ
ở cơ sở trên địa bàn xã Lam Điền để chỉ ra những mặt hạn chế, nguyên nhân và
đồng thời đề xuất những phương hướng, giải pháp cụ thể nhằm tăng cường thực
hiện Pháp lệnh dân chủ ở cơ sở phù hợp với điều kiện trên địa bàn.
3. Đối tượng, phạm vi nghiên cứu của đề tài
- Đối tượng nghiên cứu
Kết luận Số: 65-KL/TW ngày 4 tháng 3 năm 2010 của Ban Bí thư Trung ương về tiếp tục thực hiện
Chỉ thị số 30-CT/TW của Bộ Chính trị (khóa VIII) về xây dựng và thực hiện Quy chế dân chủ cơ sở
(phần hạn chế)
1
2
Đề tài nghiên cứu quá trình thự hiện, thực trạng thực hiện pháp luật về dân chủ ở
cấp xã và giải pháp nhằm nâng cao hiệu quả thực hiện dân chủ ở cơ sở trên địa
bàn xã Lam Điền (huyện Chương Mỹ - thành phố Hà Nội). Do vậy, trong nội
dung tiểu luận, dân chủ ở cơ sở được hiểu là dân chủ ở cấp xã.
- Phạm vi nghiên cứu
Trong phạm vi giới hạn của tiểu luận, tôi tập trung nghiên cứu tình hình thực
hiện dân chủ ở xã Lam Điền, huyện Chương Mỹ, thành phố Hà Nội trong 02
năm (2015 – 2016).
4. Phương pháp nghiên cứu
Phương pháp luận: Tiểu luận được thực hiện dựa trên phương pháp luận chủ
nghĩa duy vật biện chứng và chủ nghĩa duy vật lịch sử; tiếp thu quan điểm của
chủ nghĩa Mác – Lê nin, tư tưởng Hồ Chí Minh, đường lối, quan điểm của Đảng
Cộng sản Việt Nam. Đề tài được nghiên cứu với sự vận dụng và tổng hợp của
nhiều phương pháp cụ thể; từ phương pháp logic và lịch sử, so sánh; phương
pháp nghiên cứu tài liệu và tổng hợp đến phương pháp điều tra xã hội học.
5. Bố cục
Ngoài phần mở đầu và kết luận, danh mục tài liệu tham khảo và phụ lục tiểu
luận gồm ba chương:
Chương 1: Cơ sở lý luận của vấn đề thực hiện dân chủ ở cơ sở.
Chương 2: Thực trạng thực hiện dân chủ ở cơ sở trên địa bàn xã Lam Điền,
huyện Chương Mỹ, thành phố Hà Nội.
Chương 3: Một số giải pháp nhằm nâng cao hiệu quả việc thực hiện dân chủ ở
xã Lam Điền, huyện Chương Mỹ, thành phố Hà Nội.
3
CHƯƠNG 1:
CƠ SỞ LÝ LUẬN CỦA VẤN ĐỀ THỰC HIỆN DÂN CHỦ Ở CƠ SỞ
1.1. Các khái niệm
1.1.1. Dân chủ
Dân chủ là một khái niệm đa nghĩa, phức tạp, thuộc phạm trù chính trị có
nguồn gốc từ tiếng Hy Lạp. Có thể hiểu “dân chủ” ở đây là một từ ghép bao
gồm hai chữ: Demos (có nghĩa là người bình dân, dân chúng) và Kratia (chữ gốc
là Kratos – có nghĩa là quyền cai trị, sức mạnh). Như vậy, từ Demos Kratia có
nghĩa là dân chủ, quyền lực, là sự cai trị của người bình dân. Theo đó, dân chủ
nghĩa là quyền lực của nhân dân, là sự cai trị của nhân dân – điều này được biểu
hiện theo nghĩa đối lập với chế độ độc tài.
Theo quan điểm của chủ nghĩa Mác – Lênin, dân chủ là một xu hướng
khách quan của tiến trình lịch sử. Dân chủ ở đây được hiểu như là một quyền lực
xã hội, một chính quyền nhà nước, một thể chế chính trị, nhờ đó giai cấp vô sản
có thể sử dụng dân chủ như một công cụ, phương tiện để tiến hành cải biến xã
hội theo xu hướng nhân đạo cộng sản chủ nghĩa, xây dựng một xã hội trong đó
“sự phát triển tự do của mỗi người là điền kiện cho sự phát triển của mọi người”.
Lịch sử thể giới đã chứng tỏ sự phát triển của nền dân chủ qua các giai đoạn, thể
hiện nấc thang của sự tiến bộ là: dân chủ chủ nô, dân chủ tư sản và dân chủ
XHCN.
Theo Chủ tịch Hồ Chí Minh: Dân chủ có nghĩa dân là chủ và dân làm chủ.
Là chủ, biểu hiện vị thế xã hội, tính tích cực chính trị và địa vị pháp lý của
người dân. Làm chủ, đó là hành động của dân, biểu hiện năng lực thực hành dân
chủ, thước đo về trình độ phát triển ý thức dân của của dân với tư cách là chủ thể
quyền lực, thực hiện sự ủy quyền chân chính của mình vào thể chế chính trị và
thể chế nhà nước. Bởi Người hiểu sức mạnh của nhân dân: “Trong bầu trời
không gì quý bằng nhân dân. Trong thế giới này không gì mạnh bằng lực lượng
4
đoàn kết của nhân dân”. Như vậy, “dân là chủ” và “dân làm chủ” là cốt lõi
trong khái niệm “dân chủ” của Hồ Chí Minh.
Theo Từ điển Bách khoa Việt Nam, dân chủ là "hình thức tổ chức thiết chế
chính trị xã hội dựa trên việc thừa nhận nhân dân là nguồn gốc của quyền lực,
thừa nhận nguyên tắc bình đẳng và tự do. Dân chủ cũng được vận dụng vào tổ
chức và hoạt động của những tổ chức và thiết chế nhất định..."2.
Tóm lại, dân chủ là chế độ chính trị - xã hội trong đó Nhân dân là chủ thể
của quyền lực Nhà nước. Nhà nước là đại diện cho Nhân dân để thực hiện quyền
lực Nhân dân trao cho nên Nhà nước chịu sự quyết định và giám sát của Nhân
dân. Dân chủ gắn liền với Nhà nước. Nhà nước tiêu vong thì chế độ dân chủ
cũng tiêu vong.
1.1.2. Cơ sở
Cơ sở là thành tố, là đơn vị nhỏ nhất trong cấu trúc của một hệ thống các
sự vật, hiện tượng. Khái niệm này được hiểu theo cả hai nghĩa rộng và hẹp:
Nghĩa rộng: là các đơn vị xã hội nhỏ nhất mà nhân dân tổ chức nên. Hoặc hiểu
theo cách khác: các tổ chức, cơ quan, đơn vị nhất định nào đó có tư cách pháp
nhân đầy đủ thì đều là tổ chức cơ sở. (Ví dụ như cơ sở của xã hội là gia đình – tế
bào; buôn, làng, xóm, ấp, bản, thôn, xã – là tổ chức cơ sở của xã hội).
Nghĩa hẹp: Cơ sở là cấp chính quyền cuối cùng trong hệ thống chính quyền nhà
nước, các pháp nhân công quyền, các pháp nhân kinh tế, bệnh viện, trường học,
viện nghiên cứu…
Hệ thống chính trị nước ta được tổ chức và hoạt động theo nguyên tắc tập trung
dân chủ, được tổ chức thành 4 cấp: trung ương, tỉnh, huyện và cấp xã (xã,
phường, thị trấn) hay còn gọi là cơ sở. Như vậy, cơ sở (xã, phường, thị trấn) là
cấp chính quyền cuối cùng trong hệ thống chính quyền nhà nước. Chính quyền
cơ sở có vị trí đặc biệt trong HTCT ở nước ta. Trong quá trình đổi mới, Đảng ta
2
Hội đồng Quốc gia chỉ đạo biên soạn Từ điển bách khoa Việt Nam, 1995, tr. 653
5
ngày càng nhận thức mới về cơ sở, coi cơ sở là hình ảnh tập trung của chế độ
dân chủ.
1.1.3. Thực hiện dân chủ ở cơ sở
Có thể hiểu dân chủ ở cơ sở là quá trình hoạt động có mục đích của con
người nhằm đưa quy định pháp luật về dân chủ ở xã, phường, thị trấn được thực
hiện trong đời sống xã hội. Hay nói cách khác, DCCS là quá trình hiện thực hóa
các quy định của pháp luật về dân chủ trong đời sống xã hội nhằm đảm bảo cho
các quyền cơ bản của công dân được thực thi trong thực tế.
Dân chủ ở cơ sở không phải là một hình thức dân chủ mà là cấp độ thực hiện
dân chủ thông qua hai hình thức dân chủ đại diện và dân chủ trực tiếp. Nhà nước
là cơ quan đại diện cho quyền làm chủ của nhân dân trong việc thực hiện ba
quyền: lập pháp, hành pháp, tư pháp. Song nhà nước không thể hiểu hết được
tâm tư nguyện vọng của nhân dân ở các vùng, miền địa phương có những đặc
điểm, kiều kiện kinh tế - xã hội, địa lý, tập quán khác nhau. Do đó, phát huy và
mở rộng dân chủ trực tiếp của nhân dân đến tận cơ sở nhằm: đảm bảo quyền
tham gia quản lý nhà nước của công dân, vừa phát huy tính sáng tạo, trí tuệ của
muôn người trong xây dựng đường lối, chủ trương, chính sách pháp luật của
Đảng và Nhà nước. Đồng thời, đây là điều kiện tốt nhất để khắc phục bệnh quan
liêu và chống những hiện tượng và hành vi phản dân chủ phát sinh trong bộ máy
nhà nước.
Như vậy, thực hiện DCCS là việc thừa nhận và thực hiện thường xuyên các
quyền làm chủ của công dân; tăng cường tính cộng đồng trách nhiệm giữa Nhà
nước và công dân nhằm bảo vệ quyền và lợi ích chính đáng của công dân ở cơ
sở.3
DCCS được thực hiện dưới hai hình thức: dân chủ trực tiếp và dân chủ đại diện
trong đó dân chủ trực tiếp có ý nghĩa thiết thực nhất và được diễn ra theo
Nhà nước và pháp luật xã hội chủ nghĩa – giáo trình Trung cấp lý luận Chính trị - Hành chính quốc gia. Nxb.
Chính trị - Hành chính, H. 2011, tr.399.
3
6
phương châm: “dân biết, dân bàn, dân làm, dân kiểm tra” một cách thiết thực.
Thực hiện DCCS phải trên cơ sở của Hiến pháp, pháp luật của nhà nước và giữ
vững đường lối của Đảng, tăng cường khối đoàn kết cộng đồng, phát huy tình
tích cực, sáng tạo của mọi thành viên đóng góp vào sự nghiệp xây dựng quê
hương, đất nước.
1.1.4. Pháp luật thực hiện dân chủ ở cơ sở
Để DCCS được phát huy và đi vào cuộc sống phải được cụ thể và quy
định trong các quy định của pháp luật. Chính pháp luật là điều kiện, là đảm bảo
để có dân chủ. Pháp luật thực hiện DCCS là sự cụ thể hóa các chủ trương, chính
sách của Đảng, Nhà nước về thực thiện DCCS áp dụng trong thực tiễn như: quy
định để thực hiện quyền dân biết, dân bàn, dân làm, dân kiểm tra, các cách thức
và phương pháp để đảm bảo quyền làm chủ của người dân; những việc mà
người dân được quyền tham gia ý kiến và phải có sự tham gia của người dân; và
quy định về trách nhiệm của cơ quan, tổ chức, … trong việc thực hiện DCCS.
Do vậy, PL thực hiện dân chủ ở cơ sở là hệ thống các quy phạm PL do NN quy
định và thừa nhận các hình thức dân chủ đại diện và dân chủ trực tiếp của nhân
dân ở cơ sở. Pháp luật về dân chủ điều chỉnh những quan hệ phát sinh giữa Nhà
nước, các tổ chức chính trị, tổ chức chính trị xã hội, tổ chức kinh tế và công
nhân nhằm đảm bảo cho công nhân thực hiện quyền làm chủ.
1.2. Các quy định của pháp luật về thực hiện dân chủ ở cấp xã
Chỉ thị số 30/CT – TW ngày 18/02/1998 về xây dựng và thực hiện quy chế
dân chủ ở cơ sở đã đặt nền móng cho việc hình thành pháp luật về thực hiện dân
chủ ở cơ sở trên nước ta. Sau khi Chỉ thị 30 ra đời, các cơ quan nhà nước có
thẩm quyền đã ban hành nhiều văn bản pháp luật quy định về thực hiện dân chủ
ở cơ sở, bao gồm những văn bản chủ yếu sau:
- Nghị quyết số 45/1998/NQ – UBTVQH ngày 26 tháng 02 năm 1998 về
việc ban hành quy chế thực hiện dân chủ ở xã, phường, thị trấn;
7
- Chính phủ ban hành NĐ 29/1998/NĐ – CP ngày 11/5/1998 về việc ban
hành quy chế thực hiện dân chủ ở xã;
- Chỉ thị số 22/1998/ CT - TTg ngày 15/5/1998 của Thủ tướng Chính phủ
về việc triển khai Quy chế dân chủ ở xã;
- Ban tổ chức – Cán bộ Chính phủ ban hành Thông tư số 03/1998/TT TCCP về hướng dẫn áp dụng Quy chế thực hiện dân chủ ở xã, phường và thị
trấn;
- Kế hoạch số 145/TCCP - ĐP ngày 6/7/1998 của Ban tổ chức - Cán bộ
Chính phủ về kế hoạch triển khai Quy chế thực hiện dân chủ ở xã, phường, thị
trấn;
- Chỉ thị số 24/1998/CT – TTg về việc xây dựng hương ước, quy ước của
làng, thôn, ấp, cụm dân cư ngày 19/6/1998;
- Thông tư liên tịch số: 03/2000/TTLT – BVHTT – BTTUBTWMTTQVN
– UBQGDS – KHHGĐ ngày 31/3/2000 đã hướng dẫn việc xây dựng và thực
hiện hương ước, quy ước của làng, bản, thôn, ấp, cụm dân cư;
- Thông tư liên tịch số 04/2001/ TTLT – BVHTT – BTTUBTWMTTQVN
– UBQGDS – KHHGĐ hướng dẫn bổ sung thông tư liên tịch số 03/2000/TTLT
– BVHTT – BTTUBTWMTTQVN – UBQGDS – KHHGĐ, bổ sung nội dung
thực hiện chính sách dân số - kế hoạch hóa gia đình vào trong hương ước;
- NĐ79/2003/NĐ - CP ngày 7/7/2003 của Chính phủ ban hành Quy chế dân
thực hiện dân chủ ở xã, thay thế NĐ 29/1998/CP ngày 11/05/1998 của Chính
phủ;
- Thông tư số 12/2004/TT – BNV hướng dẫn thực hiện quy chế dân chủ ở
xã, phường, thị trấn;
- Pháp lệnh 34/2007/PL - UBTVQH11 thực hiện dân chủ ở xã, phường, thị
trấn thay thế cho Nghị định 29/1998/NĐ-CP và Nghị định 79/2003/NĐ-CP.
- Nghị quyết liên tịch số 09/2008/NQLT – CP – UBTWMTTQVN ngày
17/4/2008 về hướng dẫn một số điều của Pháp lệnh thực hiện dân chủ ở xã,
phường, thị trấn.
8
- ….
1.3. Nguyên tắc thực hiện dân chủ cơ sở
Để đảm bảo việc thực hiện các nội dung dân chủ đúng pháp luật, phát huy
quyền làm chủ của nhân dân ở xã, phường, thị trấn, nhất là các quyền dân chủ
trực tiếp, Pháp lệnh thực hiện dân chủ ở xã, phường, thị trấn đã quy định cụ thể
các nguyên tắc thực hiện dân chủ ở cấp xã. Các nguyên tắc này cũng chính là
các tư tưởng chỉ đạo xuyên suốt trong toàn bộ nội dung Pháp lệnh.
Các nguyên tắc bao gồm:
Thứ nhất: Đảm bảo trật tự kỷ cương trong khuôn khổ Hiến pháp và pháp luật.
Thứ hai: Bảo vệ lợi ích của nhà nước, quyền của nhân dân, bảo đảm cho dân
được biết, được bàn, quyết định và kiểm tra; bảo đảm hài hòa lợi ích cho dân,
các tổ chức, cơ quan nhà nước.
Thứ ba: Thực hiện công khai, minh bạch trong quá trình thực hiện dân chủ ở cấp
xã; bảo đảm sự lãnh đạo của Đảng, sự quản lý của Nhà nước.
1.4. Nội dung thực hiện dân chủ ở cơ sở
Nội dung thực hiện dân chủ ở cơ sở là sự cụ thể hóa các quyền, các giá trị
của dân chủ được quy định trong Hiến pháp. Đó là các quyền về chính trị, kinh
tế, văn hóa, xã hội, trong đó có quyền tự do bầu cử và ứng cử (Điều 7, Điều 27),
quyền của nhân dân lao động được tham gia vào quản lý Nhà nước (Điều 28),
quyền tự do ngôn luận, quyền được thông tin (Điều 25), quyền nhân dân được
kiểm tra, giám sát hoạt động của bộ máy và cán bộ công chức nhà nước (Điều
8), quyền bình đẳng nam nữ (Điều 26)4….
Nội dung thực hiện DCCS là những công việc của Nhà nước và của xã
hội, nhân dân phải được biết, được tham gia vào quản lý nhà nước và giám sát
4
Hiến pháp Nhà nước CHXHCNVN 2013
9
hoạt động của chính quyền cơ sở. Từ năm 1998, Đảng ta đã chỉ ra định hướng
về mở rộng nội dung thực hiện DCCS5 như sau:
Thứ nhất, quy định quyền của mọi người dân ở cơ sở được thông tin về pháp
luật, các chủ trương, chính sách của Nhà nước, những vấn đề liên quan trực tiếp
đến đời sống và lợi ích hàng ngày của nhân dân tại cơ sở; có chế độ và hình thức
công khai trước dân những việc dân biết theo quy định.
Thứ hai, có quy chế và các hình thức để nhân dân ở cơ sở được bàn bạc và tham
gia ý kiến công việc của chính quyền..; kết quả ý kiến đóng góp phải được xem
xét, cân nhắc khi chính quyền ra quyết định.
Thứ ba, có quy định về việc để nhân dân bàn và quyết định dân chủ đối với
những loại việc liên quan trực tiếp đến đời sống của nhân dân trên địa bàn; chính
quyền,... tổ chức thực hiện theo ý kiến của đa số nhân dân, có sự giám sát, kiểm
tra của nhân dân.
Thứ tư, hoàn thiện cơ chế để nhân dân ở cơ sở trực tiếp và thông qua Mặt trận,
các đoàn thể, ban thanh tra nhân dân kiểm tra, giám sát hoạt động của chính
quyền,...; kết quả thanh tra, kiểm tra, giám sát của nhân dân phải được chính
quyền,... tiếp thu nghiêm túc.
Thứ năm, mở rộng các hình thức tổ chức tự quản để nhân dân tự bàn bạc và
thực hiện trong khuôn khổ pháp luật những công việc mang tính xã hội hoá, có
sự hỗ trợ của chính quyền.
Thứ sáu, xác định rõ trách nhiệm và tổ chức tốt việc tiếp dân, giải quyết khiếu
nại tố cáo và trả lời thắc mắc của nhân dân, nghiêm cấm mọi hành vi trù dập
người khiếu nại, tố cáo.
Thứ bảy, xác định trách nhiệm của tổ chức, đơn vị cơ sở định kỳ báo cáo công
việc trước dân, phải tự phê bình và để nhân dân góp ý kiến, đánh giá, phê bình;
nghiêm túc tiếp thu những ý kiến đóng góp đó.
5
Xem Chỉ thị 30 CT/TW của Bộ Chính trị ngày 18-2-1998 về “Xây dựng và thực hiện quy chế dân chủ ở cơ sở”
10
Sau quá trình thực hiện quy chế dân chủ ở cơ sở, để nâng cáo giá trị pháp
lý của các quy định về dân chủ ở cơ sở, UBTVQH đã ban hành Pháp lệnh thực
hiện dân chủ ở xã, phường, thị trấn (thay thế nghị định 79/2003/NĐ – CP). Pháp
lệnh này có 6 chương, 28 điều quy định những nội dung cần được giải trình
trước dân, những nội dung cần được dân thảo luận và quyết định; những nội
dung phải được dân giám sát; trách nhiệm của chính quyền và công chức cấp
làng – xã… Cùng với các nội dung dân biết, dân bàn, dân làm, dân kiểm tra,
giám sát thì Pháp lệnh 34/2007 cũng quy định cụ thể, rõ ràng hình thức thực
hiện các nội dung được nêu trên6 .
Xem Ủy ban Thường vụ Quốc hội, Pháp lệnh thực hiện dân chủ ở xã, phường, thị trấn số 34/2007 - UBTVQH
11.
6
11
CHƯƠNG 2
THỰC TRẠNG THỰC HIỆN DÂN CHỦ Ở CƠ SỞ TRÊN ĐỊA BÀN XÃ
LAM ĐIỀN, HUYỆN CHƯƠNG MỸ, THÀNH PHỐ HÀ NỘI
2.1. Đặc điểm tình hình của xã Lam Điền
Lam Điền là xã đồng bằng bên dòng sông Đáy và nằm ở phía đông nam của
huyện Chương Mỹ, thành phố Hà Nội, cách thị trấn Chúc Sơn 5km về phía nam.
Phía đông giáp với sông Đáy (bên kia sông là các xã Cao Viên, Thanh Cao của
huyện Thanh Oai), phía tây giáp xã Đại Yên và xã Hợp Đồng, phía nam giáp xã
Hoàng Diệu, phía bắc giáp xã Thụy Hương.
Địa hình xã mang đặc trưng của khu vực đồng bằng nên tương đối bằng
phẳng. Đường đê sông Đáy chia xã làm hai miền: Miền nội đê có địa hình bằng
phẳng với nghề trồng lúa nước là chính, miền ngoại đê ven sông là đất vàng cao
do phù sa sông bồi đắp, dân cư tập trung đông đúc và trồng hoa màu là chính.
Nguồn tài nguyên chính của xã là đất đai với tổng diện tích đất tự nhiên là
811,09ha. Trong đó, diện tích đất sản xuất nông nghiệp là 547,88ha (chiếm
67,55% tổng diện tích đất tự nhiên), đất phi nông nghiệp là 184,55ha (chiếm
22,75%), đất chưa sử dụng là 19,58ha (chiếm 2,42%), đất khu dân cư nông thôn
là 59,08ha (chiếm 7,28%)7.
Theo số liệu thống kê năm 2015, xã Lam Điền có 2.820 hộ với 12.013 nhân
khẩu được chia làm 28 xóm. Dân số trong tuổi lao động chiếm tỷ lệ lớn trong
tổng dân số toàn xã. Xã Lam Điền cũng là vùng đất của những công trình văn
hóa đình, chùa, được công nhận là tích lịch sử như: Nhà thờ Đặng Tiến Đông,
Đình làng Lam Điền Đình thôn Duyên Ứng …
Theo số liệu “Lịch sử cách mạng của Đảng bộ và nhân dân xã Lam Điền (1930 – 2015)”, Nxb Thông tin và
truyền thông, 2016
7
12
Lam Điền là một cùng đất lịch sử cùng những đặc điểm trên là điều kiện
thuận lợi để nhân dân và chính quyền xã thực hiện thắng lợi các kế hoạch phát
triển kinh tế - xã hội nói chung và triển khai thực hiện tốt DCCS nói riêng.
2.2. Tình hình thực hiện dân chủ ở cơ sở trên địa bàn xã Lam Điền
2.2.1. Quá trình triển khai thực hiện pháp luật dân chủ ở cơ sở
Thực hiện chỉ thị 30 CT/TW ngày 18/2/1998 của Bộ Chính trị; Tài liệu
“Triển khai quy chế dân chủ ở buôn làng” của Ban Dân vận Trung ương, Kế
hoạch thực hiện các Quyết định số 217 và 218 của Bộ chính trị, các văn bản
hướng dẫn của thành phố như Công văn số 901/UBND-VX về việc thực hiện
Kết luận số 120-KL/TW ngày 07/01/2016 của Bộ Chính trị khóa VIII - Ban
Chấp hành Trung ương về tiếp tục đẩy mạnh, nâng cao chất lượng, hiệu quả việc
xây dựng và thực hiện quy chế dân chủ ở cơ sở. Căn cứ vào những nội dung của
Nghị định 29, Nghị định 79 và Pháp lệnh 34, xã Lam Điền đã thực hiện công
khai, báo cáo trước nhân dân theo các hình thức sau:
Thông qua các kỳ họp HĐND, thông qua các Hội nghị tiếp xúc cử tri, thông qua
các Hội nghị đoàn thể, đồng thời công khai thông tin thông báo trên hệ thống
thông tin đại chúng để kịp thời đưa thông tin về các chủ trương, chính sách của
Đảng, pháp luật của Nhà nước, các chương trình, nhiệm vụ trọng tâm của xã,
các dự án phát triển công nghiệp, đô thị, giao thông…Qua hơn 15 năm triển khai
thực hiện Chỉ thị số 30 của Bộ chính trị, quy chế dân chủ đã thực sự đi vào đời
sống. Với phương châm “Dân biết, dân bàn, dân làm, dân kiểm tra”, các lĩnh
vực liên quan đến chính sách an sinh xã hội, công tác thu chi ngân sách, việc
quy hoạch sử dụng đất, phương án bồi thường, GPMB đều được xã Lam Điền
thông tin công khai đến toàn thể nhân dân trên hệ thống đài truyền thanh, thông
qua các cuộc tiếp xúc cử tri, các phiên họp HĐND xã. Nổi bật là việc công khai
giải quyết thủ tục hành chính tại bộ phận “một cửa” đối với nhân dân được triển
khai hiệu quả, minh bạch, đúng pháp luật, nhất là thực hiện niêm yết các quy
định về phí, lệ phí, thời gian thực hiện thủ tục hành chính. Việc thực hiện quy
13
chế dân chủ ở cơ sở đã phát huy quyền làm chủ của nhân dân đồng thời tạo lòng
tin của nhân dân đối với Đảng, chính quyền, góp phần đẩy mạnh các phong trào
thi đua yêu nước và phát triển KT-XH, giữ vững ổn định chính trị - TTATXH
tại địa phương.
Thực hiện có nền nếp, thường xuyên qui định về những việc cần thông
báo để nhân dân biết đã trở thành công việc của chính quyền xã, thị trấn trong
thực hiện pháp luật về dân chủ ở cơ sở, tạo điều kiện cho nhân dân nắm bắt
những vấn đề thiết thực liên quan đến cuộc sống cộng đồng và bản thân mỗi
công dân, từ đó làm cơ sở dân bàn, dân làm, dân kiểm tra.
Về nội dung dân bàn và quyết định
Đảng bộ, UBND xã Lam Điền luôn chú trọng thực hiện tốt những việc
nhân dân bàn, quyết định những nội dung liên quan đến quyền lợi và đời sống
của nhân dân như công tác giải phóng mặt bằng thực hiện các dự án, thi công
các công trình văn hóa, nhà họp dân, xây dựng đường, ngõ, và các hạ tầng kỹ
thuật trong khu dân cư. Các nội dung đều được dân họp bàn thảo luận, đóng góp
dân chủ công khai của nhân dân, do vậy các công trình đưa vào sử dụng đều
đảm bảo được chất lượng, hiệu quả và được sự đồng tình ủng hộ, nhất trí cao.
Các công việc được nhân dân tham gia bàn bạc, đóng góp ý kiến để Đảng bộ và
UBND quyết định cho thấy hiệu quả, chất lượng được nâng cao như cuộc bầu cử
đại biểu quốc hội khóa XIII và bầu cử HĐND các cấp nhiệm kỳ 2016 - 2021 có
trên 100% nhân dân tham gia đi bầu cử, lựa chọn giới thiệu, bầu đại biểu HĐND
có chất lượng tập trung cao, những đồng chí được bầu đều hoàn thành tốt nhiệm
vụ.
Về nội dung nhân dân giám sát, tham gia ý kiến, chính quyền thực hiện
Thông qua hoạt động của Ban thanh tra nhân dân, Ban giám sát đầu tư cộng
đồng, qua các cuộc tiếp xúc với cử tri chuẩn bị cho kỳ họp HĐND, thông qua
các hoạt động MTTQ và các đoàn thể, hoạt động của các cơ quan pháp luật đều
được đảm bảo dân chủ, các chủ trương, chính sách của đảng và nhà nước được
thực hiện tốt, đúng quy định của pháp luật. Hoạt động của tổ an ninh tự quản, tổ
14
hòa giải đều phát huy tốt, số vụ hòa giải thành công đạt trên 80%. Quá trình
triển khai thực hiện Pháp lệnh 34, Đảng bộ luôn gắn việc thực hiện dân chủ vào
công tác xây dựng Đảng. Việc tổ chức lấy phiếu tín nhiệm đối với chức danh
Chủ tịch, Phó chủ tịch HĐND, Chủ tịch, Phó Chủ tịch UBND được tiến hành
công khai, đúng quy định.
2.2.2. Đảng bộ xã đối với việc thực hiện pháp lệnh dân chủ ở cở sở trên địa
bàn xã Lam Điền
Đảng bộ xã trong việc quán triệt thực hiện Pháp lệnh dân chủ cơ sở
Qua khảo sát thực tế, các tổ chức cơ sở đảng ở trên địa bàn xã đã triển khai theo
các bước sau:
- Thành lập Ban chỉ đạo với các thành viên là đại diện đảng, chính quyền,
các đoàn thể, do đồng chí Phó bí thư thường trực đảng bộ xã làm trưởng ban.
- Ban chỉ đạo và tổ chức đảng học tập, nghiên cứu PLDC; phân công trách
nhiệm cho từng đảng viên và các thành viên trong ban chỉ đạo.
- Xây dựng đội ngũ báo cáo viên có khả năng hướng dẫn quần chúng học
tập, thảo luận thực hiện PLDC.
- Cụ thể hóa những nội dung cơ bản trước khi triển khai cho nhân dân học
tập PLDC.
- Phân công các báo cáo viên xuống từng thôn xóm để phổ biến và vận
động nhân thực hiện.
Cùng với công tác quán triệt nhằm làm cho mọi cán bộ, đảng viên và nhân dân
nhận thức sâu sắc về quyền và nghĩa vụ của mình khi thực hiện PLDC, đảng bộ
xã với tư cách là hạt nhân chính trị cơ sở, đã lãnh đạo các chi bộ, các tổ chức
chính quyền, đoàn thể để đưa Pháp lệnh vào cuộc sống. Theo tinh thần của Quy
chế dân chủ nay là Pháp lệnh 34, các tổ chức cơ sở đảng cũng hết sức quan tâm,
hướng dẫn và tạo điều kiện để nhân dân bàn và quyết định trong việc xây dựng
các quy ước, hương ước, nếp sống văm minh theo đúng pháp luật hiện hành.
Hàng năm, Đảng bộ xã đều có nghị quyết lãnh đạo toàn diện nhiệm vụ chính trị
của Đảng bộ, có chương trình hành động và các giải pháp thực hiện, đặc biệt chú
15
trọng kiện toàn Ban chỉ đạo thực hiện quy chế dân chủ, phân công nhiệm vụ cho
các thành viên, xây dựng quy chế hoạt động; chú trọng đẩy mạnh công tác tuyên
truyền trên hệ thống thông tin truyền thanh để cho nhân dân hiểu về nghĩa vụ,
quyền lợi, trách nhiệm của công dân trong thực hiện DCCS.
Hoạt động của Ban chỉ đạo thực hiện PLDC đi vào nền nếp, các thành viên Ban
chỉ đạo đã phát huy được vai trò, trách nhiệm làm tốt nhiệm vụ được giao. Các
chi bộ đảng thường gắn kết nội dung với Pháp lệnh quy ước ở xã với phong trào
toàn dân đoàn kết xây dựng đời sống ở khu dân cư do ủy ban Mặt trận tổ quốc
phát động, đồng thời thực hiện lồng ghép với chương trình xóa đói giảm nghèo,
vận động từ thiện... Chính vì vậy, cho đến thời điểm hiện nay, hầu hết các nội
dung của Pháp lệnh đã được thực hiện trong cuộc sống của nhân dân.
Đảng bộ xã lãnh đạo công tác kiểm tra, giám sát thực hiện Pháp lệnh
thực hiện dân chủ cơ sở
Công tác kiểm tra chính quyền thực hiện nghị quyết của Đảng bộ, chi bộ xã là
một phương thức quan trọng thể hiện sự lãnh đạo của đảng ở cơ sở. Nó không
chỉ góp phần quan trọng trong cuộc đấu trang chống quan liêu, tham những mà
còn đảm bảo hiệu quả lãnh đạo của Đảng. Tổ chức có sở đảng đã thực hiện hóa
PLDC theo diện rộng và dần đi vào chiều sâu bằng việc trong đầu năm 2015,
thực tế nhờ công tác kiểm tra, tổ chức cơ sở đảng đã phát hiện ra thực trạng dân
chỉ biết 5/10 việc cần thông báo và cán bộ xã cũng chưa nắm được hết những
việc cần thông báo cho dân. Như vậy, nếu không thực hiện tốt công tác kiểm tra,
không thể phát hiện ra tình trạng làm qua loa, chiếu lệ.
2.2.3. UBND xã đối với việc thực hiện Pháp lệnh dân chủ cơ sở tại xã Lam
Điền, huyện Chương Mỹ, thành phố Hà Nội
UBND xã, phường, thị trấn là cấp cuối cùng trong hệ thống của hệ thống
bộ máy nhà nước, là nơi có mối quan hệ trực tiếp với nhân dân, gần nhân dân,
sát nhân dân nhất trong quá trình thực hiện các chủ trương, đường lối của đảng
và pháp luật của nhà nước. So với thời kỳ trước đổi mới, hệ thống chính quyền
cấp xã ở nước ta ngày càng được kiện toàn cả về mặt tổ chức, bộ máy, về quyền
16
hạn, nhiệm vụ cũng như năng lực hoạt động. Thời điểm các văn bản thực hiện
dân chủ ở cấp xã được ban hành đã giúp cho mối quan hệ giữa chính quyền với
nhân dân dần khăng khít và thiết thực hơn với người dân thể hiện rõ việc tăng
cường quyền lực cho nhân dân; quy chế dân chủ cũng là bước phát triển mới rất
quan trọng quy định về nghĩa vụ mà chính quyền cấp xã phải thực hiện để đảm
bảo quyền làm chủ của nhân dân.
Dưới sự lãnh đạo của Đảng bộ xã, UBND xã Lam Điền đã thực hiện PLDC trên
những phương diện sau:
Thứ nhất, về việc tổ chức quán triệt Pháp lệnh thực hiện dân chủ
Qua việc tìm hiểu thực tế cho thấy, để tổ chức triển khai thực hiện Pháp lệnh
DCCS, UBND xã Lam Điền đã thành lập Ban chỉ đạo gồm 10 người thực hiện
việc tuyên truyền, phổ biến Pháp lệnh tại các thôn, xóm; báo cáo viên ở các thôn
xóm chủ yếu là trưởng thôn và thành viên ban chỉ đạo phụ trách thôn đó. Với
đặc thù của địa bàn xã có tới 60% người dân làm nghề nông, 25% công nhân tại
các nhà máy, xí nghiệp, dịch vụ không có nhiều điều kiện tham gia cuộc họp hay
sinh hoạt đoàn thể, vì vậy, ủy ban xã thường lồng ghép nội dung Pháp lệnh cùng
việc triển khai nghị quyết của HĐND vào các việc cụ thể thiết thực của nhân
dân. Sử dụng hình thức tuyên truyền phổ biến, phong phú như qua truyền thanh
của xã, phát tờ rơi, pano, khẩu hiệu, bảng tin tại các nhà văn hóa thôn, niêm yết
công khai trên trụ sở ủy ban xã, họp chủ hộ, họp các đoàn thể, và gặp mặt tại
nhà…Một trong những điểm đáng được khen ngợi của xã Lam Điền trong việc
triển khai PLDC cơ sở là việc tổ chức thường xuyên đối thoại với nhân dân của
các đồng chí lãnh đạo chủ chốt của Đảng ủy, HĐND, UBND xã để giúp nhân
dân có cơ hội được bày tỏ tâm tư, nguyện vọng, thắc mắc của mình và được cấp
lãnh đạo trực tiếp trả lời, phúc đáp. Tuy nhiên, đây là hình thức mới được đưa
vào triển khai còn chưa thu hút được đông đảo bà con nông dân tham gia.
Cùng với đó, việc tổ chức cho nhân dân giám sát, kiểm tra dưới nhiều hình thức
đa dạng cũng là điều mà UBND xã Lam Điền đã thực hiện. Theo khảo sát cho
thấy, UBND xã chủ yếu sử dụng hình thức kiểm tra mời đại diện nhân dân họp
17
dự thính các kỳ họp của HĐND xã thông qua ban thanh tra nhân dân, Ban giám
sát đầu tư cộng đồng, tổ chức tiếp dân …
Thứ hai, UBND xã trong việc kiểm tra, sơ kết, tổng kết thực hiện Pháp
lệnh 34
Nhận thức rõ vai trò của công tác kiểm tra, giám sát trong việc triển khai thực
hiện Pháp lệnh thực hiện dân chủ ở cơ sở, UBND xã Lam Điền đã quan tâm, chú
trọng tới việc tổ chức, thực hiện công tác này. Các khâu trong việc kiểm tra
được ủy ban xã tiến hành theo đúng trình tự, thủ tục và giao cho các thành viên
phụ trách kiểm tra theo từng thôn, xóm, cụm dân cư, tiến hành việc kiểm tra
chéo giữa các đơn vị và tổ chức thực hiện thường xuyên để tìm ra những hạn
chế yếu kém chưa thực hiện phù hợp với thực tế.
2.2.4. Hoạt động của MTTQ và các đoàn thể nhân dân trong việc thực hiện
Pháp lệnh dân chủ cơ sở ở xã Lam Điền, huyện Chương Mỹ, thành phố Hà
Nội
Cuộc vận động thực hiện DCCS trên địa bàn xã Lam Điền có sự đóng góp
không nhỏ của MTTQ cùng các đoàn thể nhân nhân trong việc đoàn kết rộng rãi
các tầng lớp nhân dân thực hiện các chương trình KT – XH, xây dựng hương
ước, quy ước làng xã, phát huy vai trò của mọi thành viên trong cộng đồng thực
hiện xây dựng đời sống văn hóa, nếp sống văn minh trong mọi hoạt động trên
địa bàn. Mỗi đoàn thể là đại diện cho tiếng nói, lợi ích, tâm tư nguyện vọng của
nhân dân và thực hiện việc tuyên truyền, phổ biến chính sách của Đảng, pháp
luật của Nhà nước, tạo điều kiện thuận lợi để nhân dân tận dụng tối đa quyền
làm chủ của mình. Thực tế thực hiện cho thấy, hội Nông dân luôn đẩy mạnh
công tác tuyên truyền về dồn điền đổi thửa, chuyển đổi cơ cấu cây trồng, vật
nuôi trong sản xuất nông nghiệp, xây dựng nông thôn mới, triển khai các buổi
tập nghiệp vụ kỹ thuật cho hội viên về trồng trọt và chăn nuôi được coi trọng.
Cùng với đó, hoạt động của Đoàn thanh niên tích cực trong việc thực hiện
18
chương trình “3 xung kích”8 với các hoạt động như tổ chức giữ gìn đường làng
ngõ xóm, duy trì đoạn đường tự quản, nạo vét được 63.000 m2 kênh mương,
khơi thông dòng chảy với tổng kinh phí gần 50 triệu đồng, tổ chức hoạt động:
“Đền ơn đáp nghĩa”, vận động đoàn viên tham gia hiến máu nhân đạo, chiến
dịch mùa hè tình nguyện… Hội phụ nữ cũng tổ chức, duy trì 14 tổ vay vốn với
số dư gần 7 tỷ đồng, động viên nhân dân đăng ký xây dựng “Gia đình văn minh
hạnh phúc”, gia đình “5 không, 3 sạch”, xây dựng “Chi hội phụ nữ văn minh”.
Hội cựu chiến binh cũng thường xuyên chăm lo đời sống vật chất tinh thần, giúp
nhau làm giàu, xóa đói giảm nghèo, bảo vệ quyền và lợi ích hợp pháp của hội
viên, tranh thủ các nguồn vốn địa phương, của huyện để giúp hội viên phát triển
kinh tế. Hội có 30 hộ xây dựng trang trại trong đó có 18 trang trại đạt hiệu quả.
Hội nhiều năm liền đạt hội trong sạch vững mạnh, tỷ lệ chi hội đạt trong sạch
vững mạnh là 80%, tỷ lệ hội viên gương mẫu đạt trên 90%.
Nhận thấy rằng vai trò của MTTQ và các đoàn thể xã Lam Điền luôn thực
hiện tích cực việc nắm bắt tâm tư, nguyện vọng của người dân và luôn đổi mới
về tổ chức, phương thực hoạt động đáp ứng nhu cầu vận động của xã hội và
phục vụ nhân dân.
Bên cạnh đó, MTTQ và các đoàn thể xã Lam Điền còn kết hợp với các cấp ủy
và UBND xã thực hiện triệt để công tác kiểm tra, giám sát, sơ kết, tổng kết. Qua
việc thực hiện tăng cường chỉ đạo hoạt động của Ban thanh tra nhân dân, Ban
giám sát đầu tư cộng đồng ở các nội dụng toàn diện từ thực hiện chính sách,
nhiệm vụ kinh tế - xã hội, chương trình, dự án, kế hoạch của địa phương. Với
hình thức kiểm tra, giám sát được áp dụng phong phú đã mang lại hiệu quả nâng
lên rõ rệt.
2.2.5. Đội ngũ cán bộ, công chức Đảng, chính quyền, đoàn thể trong việc
thực hiện Pháp lệnh dân chủ cơ sở ở xã Lam Điền
Xung kích tham gia xây dựng Nông thôn mới, xung kích đảm nhận công trình phần việc của thanh niên, xung
kích vì đàn em thân yêu.
8
19
Để các chủ trương, chính sách của Đảng và Nhà nước ta đến được với các
tầng lớp nhân dân cần có sự giúp đỡ của các cán bộ, công chức – những người
trực tiếp được học tập và có nhận thức đúng đắn, sâu sắc về mục đích, ý nghĩa
nội dung của pháp lệnh. Hiểu được tầm quan trọng của cán bộ, Đảng ủy, UBND
xã đã lựa chọn và cử cán bộ chủ chốt đi học tập, bồi dưỡng, nâng cao trình độ tại
các trường chính trị để có thể giúp các đảng viên khác và phân công đảng viên
phụ trách quán triệt các nội dung liên quan một cách đúng đắn.
Thực tiễn cho thấy, khi có đường lối đúng đắn, cán bộ nhận thức sâu sắc,
mẫn cán, tâm huyết với công việc, gần dân, nhiệt tình, năng động sáng tạo trong
công việc thì đều được dân tin tưởng và hăng hái ủng hộ, tham gia phong trào
nói chung và thực hiện PLDC nói riêng. Cùng với đó, vai trò của người đứng
đầu, cán bộ chủ chốt xã là vô cùng quan trọng trong việc đôn đốc, kiểm tra, sơ
kết, tổng kết, đánh giá và rút kinh nghiệm, đề xuất giải pháp phù hợp nhất với
địa phương của mình.
Tuy nhiên, để đáp ứng được nhu cầu của xã hội, và yêu cầu của nhân dân, thực
tiễn thực hiện dân chủ cơ sở thì việc không ngừng nâng cao trình độ và nhận
thức của đội ngũ cán bộ xã là nhiệm vụ hàng đầu và cấp bách của chính quyền
xã Lam Điền. Qua khảo sát thực tế, công tác cán bộ được Đảng ủy đặc biệt coi
trọng, trong các nhiệm kỳ, xã chú trọng tiêu chuẩn hóa, trẻ hóa và từng bước
thực hiện nhất thể hóa chức danh cán bộ, quan tâm đến cán bộ nữ, tạo bước
chuyển biến có tính đột phá. Trong năm 2015 – 2016, Đảng ủy đã phối hợp, tạo
điều kiện để cán bộ, Đảng viên học tập, nâng cao trình độ chuyên môn lý luận
chính trị, trong đó, cử 05 đồng chí học lớp Trung cấp lý luận chính trị, 01 đồng
chí học Trung cấp quân sự, 17 đồng chí (đã học xong 10 đồng chí, đang học 11
đồng chí) học đại học. Tỷ lệ cán bộ, công chức được đào tạo, bồi dưỡng, nâng
cao trình độ lý luận chính trị, chuyên môn, nghiệp vụ ngày càng cao; số cán bộ,
công chức có trình độ chuyên môn đại học từ 47,3% (2010) tăng lên 65% (năm
2015); trình độ lý luận chính trị trung cấp từ 57,9% (năm 2010) tăng lên 78,6%
(năm 2015). Thường xuyên nâng cao năng lực lãnh đạo của Ban Chi ủy các chi
20
bộ, quản lý chặt chẽ đội ngũ cán bộ, đảng viên, cử cán bộ tham gia lớp tập huấn
công tác xây dựng Đảng về tổ chức, tuyên giáo, kiểm tra và văn phòng Đảng ủy
do Huyện ủy tổ chức.
2.2.6. Nhân dân trong việc thực hiện Pháp lệnh dân củ cơ sở ở xã Lam Điền
Với mục tiêu của việc thực hiện dân chủ ở xã, phường, thị trấn là mở rộng
và phát huy vai trò làm chủ của công dân đang cư trú, sinh sống trên địa bàn xã.
Pháp lệnh DCCS được thực hiện tốt thì nhân dân càng có cơ hội phát huy quyền
làm chủ của mình.
Qua thực tế tìm hiểu, đại đa số người dân địa phương đều phấn khởi khi
có Pháp lệnh thực hiện DCCS, người dân cũng đã phần nào nhận thức được mục
đích cũng như ý nghĩa, vai trò to lớn của công tác thực hiện DCCS. Tuy nhiên,
còn có một bộ phận không nhỏ người dân vẫn còn có thái độ hoài nghi, không
đồng tình và chỉ coi việc thực hiện dân chủ chỉ ở hình thức. Vì vậy, trong 6
tháng đầu năm 2015, UBND xã đã phối hợp và tổ chức họp dân với 03 cuộc
thảo luận và quyết định xây dựng 90km lộ bê tông với sự đóng góp trên 200
triệu đồng từ nhân dân và 150 triệu đồng xây dựng nhà văn hóa thôn. Với
phương châm “tập thể và nhân dân cùng làm”, xã đã đầu tư gần 1 tỷ đồng xây
dựng cầu cống, mương máng, đường làng ngõ xóm, tu sửa trường trung học cơ
sở, trạm xá cùng với nhân dân đóng góp hàng trăm triệu đồng xây dựng các
công trình phúc lợi làm cho diện mạo thôn xóm thêm khang trang, sạch đẹp. Đời
sống nhân dân được cải thiện rõ rệt, về cơ bản đã thực hiện thành công chủ
trương xóa hộ đói, thu hẹp số hộ nghèo, 90% số hộ đủ ăn và không còn hộ nhà
tranh, vách đất, xây dựng các “mô hình cánh đồng rau an toàn”, “mô hình chăn
nuôi gà đẻ siêu trứng” đạt hiệu quả kinh tế cao. Trong 2 năm (2015 – 2016) xã
đã vận động nhân dân ủng hộ vào quỹ “Ngày vì người nghèo” được 25.360.000
đồng, quỹ “Đền ơn đáp nghĩa được 30.018.000 đồng; tặng hàng chục sổ tiết
kiệm tình nghĩa giá trị mỗi sổ từ 500.000 – 1.500.000 đồng cho thương binh,
bệnh binh, gia đình liệt sỹ có hoàn cảnh khó khăn. Thăm và tặng quà cho 25 hộ
nghèo trong dịp tết Nguyên Đán, các thương binh, bệnh binh, các hộ gia đình
21
đặc biệt khó khăn, hỗ trợ người nghèo sửa nhà dột nát, xuống cấp, người cao
tuổi… với tổng số tiền là 50.450.000 đồng. Do được dân bàn, góp ý và quyết
định trực tiếp nên xã Lam Điền đã huy động được nhanh chóng sức người, sức
của trong dân, hoàn thành được nhiều công trình có giá trị thiết thực, hiệu quả,
được nhân dân đồng tình, ủng hộ, càng thêm tin tưởng vào chính quyền xã.
Được sự quan tâm của Ban Thường vụ Thành ủy, đã phân công Ban Tổ chức
Thành ủy chỉ đạo xã về xây dựng nông thôn mới, để nâng cao công tác xây dựng
nông thôn mới xã đã triển khai tuyên truyền được 12 cuộc có 9.000 lượt người
tham dự, truyển khai tuyên truyền bằng các hình thức hội họp, chuyên đề, họp
tổ…nội dung tuyên truyền về 19 tiêu chí xã nông thôn mới cần đạt. Nhờ sự đồng
lòng phấn đấu của chính quyền và nhân dân địa phương, đến ngày 31/12/2015,
xã Lam Điền đã chính thức được công nhận là xã chuẩn nông thôn mới.
Trong quá trình thực hiện PLDC, nhân dân không chỉ chủ động tích cực ở khâu
bàn, quyết định và trực tiếp thực hiện những quyết định của mình mà còn rất có
ý nghĩa trong hoạt động giám sát, kiểm tra. Cho đến nay, việc thực hiện kiểm tra
dân chủ, giám sát của nhân dân được thực hiện thông qua Ban thanh tra nhân
dân, đoàn thể xã. Để làm tốt công tác này cần sự nâng cao hiệu quả của dân chủ
toàn diện và hạn chế tình trạng vi phạm dân chủ, đẩy lùi tỷ lệ tham nhũng, quan
liêu, góp phần xây dựng bộ máy HTCT xã trong sạch vững mạnh.
2.3. Những ưu diểm, hạn chế của việc thực hiện pháp luật dân chủ ở UBND
xã Lam Điền
2.3.1. Ưu điểm
Qua thực hiện Pháp lệnh thực hiện dân chủ ở cơ sở đã tạo lòng tin của
nhân dân vào sự lãnh đạo của đảng, tăng cường mối quan hệ giữa đảng với nhân
dân, cán bộ đảng viên đã phát huy trách nhiệm trong công việc, quần chúng
nhân dân đã phát huy tốt quyền và nghĩa vụ tham gia xây dựng đảng, xây dựng
chính quyền.
22
Thực hiện niêm yết công khai các thủ tục tại văn phòng UBND xã, các văn
phòng trên địa bàn 5 thôn, bao gồm các nội dung liên quan đến địa chính – nhà
đất, hộ tịch – hộ khẩu, đề án quy hoạch đất đai phát triển làng du lịch sinh thái,
bờ kè chống sạt lở ven sông, danh sách thanh niên nhập ngũ hàng năm, các
khoản đóng góp của người dân như: quỹ vì người nghèo, quỹ cây mùa xuân, quỹ
đền ơn đáp nghĩa, thuế thu nhà đất, công trình xây dựng cơ sở hạ tầng cầu,
đường, trường, trạm, nạo vét kênh mương, thu chi ngân sách, xóa đói giảm
nghèo, tổ chức lấy ý kiến nhân dân đóng góp bản tự kiểm điểm của Chủ tịch,
Phó chủ tịch HĐND, UBND của xã và những văn bản pháp luật liên quan để
mọi người dân biết và giám sát việc thực hiện.
Trong 2 năm 2015 – 2016, xã đã tổ chức gần 100 cuộc họp với đông đảo người
dân tham gia cùng pano, áp phích tuyên truyền các quy định pháp luật liên quan
trực tiếp đến quyền và nghĩa vụ của công dân trên các lĩnh vực hôn nhân gia
đình, đất đai, phòng chống tệ nạn xã hội, an toàn giao thông.
Việc thực hiện dân chủ ở xã tác động tích cực đến việc xây dựng Đảng, củng cố
chính quyền, xây dựng Mặt trận, các đoàn thể từ thôn xã ngày càng vững mạnh.
Qua đó, nhân dân có ý thức tốt hơn trong việc chấp hành pháp luật, phát huy
quyền làm chủ góp phần giữ gìn tốt trật tự an toàn xã hội và tham gia hưởng ứng
tích cực cuộc vận động xây dựng đời sống văn hóa, vai trò giám sát của nhân
dân được phát huy, là động lực thúc đẩy phát triển kinh tế - xã hội, các phong
trào thi đua yêu nước ở địa phương.
Cơ sở hạ tầng phát triển bền vững, tạo cho diện mạo phường từng bước đổi mới.
Nhận thức về xây dựng gia đình văn hóa, cơ quan, đơn vị, doanh nghiệp văn hóa
có chuyển biến tích cực. Đã hoàn thành chương trình phổ cập giáo dục tiểu học
và trung học cơ sở, tỷ lệ phát triển dân số tự nhiên ở mức 1%. Đối tượng chính
sách xã hội được quan tâm đúng mức.
Từ năm 2016, Ủy ban MTTQ xã phối hợp cùng HĐND, UBND xã hoàn thành
kế hoạch bầu cử đại biểu quốc hội và Hội đồng Nhân dân các cấp nhiệm kỳ
2016 – 2021, tổ chức tốt các cuộc tiếp xúc cử tri của đại biểu quốc hội, đại biểu
23
hội đồng nhân dân được 15 cuộc, có gần 1.500 lượt cử tri tham dự với 125 ý
kiến đề nghị về các vấn đề như: Xây dựng chính quyền, sửa chữa nâng cấp cầu,
đường giao thông, vệ sinh môi trường, nạo vét lòng sông Đáy, giữ gìn bản sắc
văn hóa dân tộc thời kỳ hội nhập mở cửa,… Qua phản ánh của cử tri, đại biểu
Quốc hội, HĐND các cấp đã tiếp thu, giải trình và làm rõ các vấn đề thuộc phạm
vi trách nhiệm, đồng thời phản ánh những ý kiến của nhân dân tới cơ quan chức
năng giải quyết và thông báo kết quả đến cử tri.
Công tác xây dựng Đảng, chính quyền, MTTQ và các đoàn thể luôn được
chăm lo củng cố kiện toàn. Việc thực hiện Pháp lệnh DCCS gắn với xây dựng
HTCT đã giúp Đảng ủy, chính quyền, MTTQ và các đoàn thể nâng cao vai trò,
vị trí, trách nhiệm đối với nhiệm vụ được giao và khen thưởng. Chất lượng các
chi bộ đảng được nâng cao.
Tình hình an ninh trật tự an toàn xã hội được giữ vững lực lượng công an,
quân sự liên tục đạt danh hiệu đơn vị vững mạnh.
2.3.2. Những hạn chế, nhược điểm
Tuy có nhiều chuyển biến tiến bộ, và những kết quả tích cực song việc triển khai
Pháp lệnh 34 trên địa bàn xã còn có một số hạn chế, khuyết điểm sau đây:
Một là, Công tác tuyên truyền giáo dục pháp luật chưa được tập trung, đi
vào chiều sâu, chú trọng đúng mức, một số ngành, đoàn thể chưa xác định đúng
tầm quan trọng của việc thực hiện DCCS là nhiệm vụ chính và xuyên suốt.
Hai là, Thực hiện cải cách hành chính, cải cách bộ máy, sắp xếp cán bộ
chưa đồng bộ, còn nhiều bất cập. Chưa tận dụng được thế mạnh của cán bộ,
công chức trong thực hiện quy chế dân chủ dẫn đến hiệu lực, hiệu quả còn thấp
và hạn chế.
Ba là, Việc thực hiện dân chủ gắn với việc cải cách hành chính và thực
hiện cơ chế một cửa đôi lúc còn chưa kịp thời, chưa đáp ứng kịp thời yêu cầu
của người dân.
Bốn là, Chưa có biện pháp xử lý tác động hiệu quả để tạo sự công bằng
trong trách nhiệm đóng góp đối với công trình chung, còn một bộ phận người
24